Results 1 to 8 of 8

Thread: Bí mật hải quân đàng trong

  1. #1
    Member
    Join Date
    03-06-2011
    Posts
    283

    Bí mật hải quân đàng trong

    Trước hết, nhà Nguyễn, từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng trở đi, khi đưa dân tộc tiến về phương Nam, mỗi bước chân của tiền nhân không chỉ là đi “mở đất” mà đồng thời c̣n thực hiện chủ quyền biển đảo. Muốn vậy, nhà Nguyễn phải có một lực lượng hải quân hùng mạnh. Mà muốn có một lực lượng hải quân hùng mạnh th́ phải có 3 yếu tố vượt trội: kỹ thuật tàu chiến, vũ khí và quân lương.

    Từ một mảnh đất phía sau dăy Hoành Sơn, các Chúa Nguyễn đă không dừng lại ở cái mơ ước “vạn đại dung thân” bé nhỏ cho ḿnh mà c̣n cùng với dân tộc nhân đôi nước non bờ cơi, phía nam mở nước dài đến mũi Cà Mau, phía đông làm chủ một vùng biển rộng lớn với hàng ngàn ḥn đảo lớn nhỏ. Vua Gia Long từng nói: “Thủy chiến là sở trường của ta”.

    Thuyền bọc đồng được chạm trên cao đỉnh


    Thủy chiến vốn là thế mạnh của dân tộc. Nước Đại Việt ta đă dùng thủy chiến để đánh tan những đội quân xâm lược hùng mạnh. Tuy nhiên, những trận đại thắng trên sông Bạch Đằng cùng các trận Chương Dương, Hàm Tử... lừng danh trên thế giới đều là giang chiến. Riêng trận Vân Đồn, nơi Trần Khánh Dư tiêu diệt đội thuyền lương Trương Văn Hổ của quân Nguyên Mông là trận đánh trên biển đầu tiên, nhưng cũng là một trận “duyên chiến”. Đến thời các Chúa Nguyễn, thủy chiến đă được nâng lên một tầm cao mới - hải chiến.

    Trận hải chiến đầu tiên được lịch sử ghi nhận là trận do Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần khi ấy c̣n là thế tử chỉ huy, đánh tan một hạm đội của Hà Lan đến hải phận nước ta “gây hấn” vào năm 1643 (Thanh Niên đă đăng trong bài Tàu to súng lớn vẫn thua, số ra ngày 4.8.2011). Trước đó, vào năm 1585, Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên khi ấy c̣n là một hoàng tử, đă đánh tan một đội tàu chiến 6 chiếc của Nhật Bản (Đại Nam thực lục gọi đây là tàu của “tướng giặc nước Tây dương hiệu là Hiển Quư”, có tài liệu nói đây là tàu Kenki của Nhật Bản) đến cướp bóc vùng ven biển Cửa Việt, nhưng trận này cũng là một trận “duyên chiến”.

    Có thể nói Hải quân Việt Nam được khai sinh từ trận đánh thắng đội tàu chiến Hà Lan, vốn là nước có đội tàu chiến hiện đại nhất phương Tây lúc bấy giờ.

    Không chỉ đánh thắng tàu chiến Hà Lan và Nhật Bản, hải quân nhà Nguyễn c̣n đánh thắng tàu chiến Anh sang gây hấn, quét sạch mọi loại giặc biển đến từ Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan... Hệ thống pḥng thủ bờ biển được thiết lập dọc theo chiều dài đất nước, không chỉ Phú Quốc, Côn Sơn, Hoàng Sa, Trường Sa mà hàng ngàn ḥn đảo lớn nhỏ trên biển đều được tiếp quản, thiết lập chủ quyền và canh pḥng cẩn mật, suốt mấy trăm năm không để mất một tấc đảo, một khoảnh nước nào. Trên cơ sở pḥng thủ vững chắc, nhà Nguyễn đă thiết lập các tuyến hải hành và mở rộng giao thương với nước ngoài. Tàu thuyền nước ngoài đến tấp nập ở Hội An và các thương cảng; tàu thuyền nước ta cũng cập bến ở nhiều nước Á, Âu. Khiêm cung ḥa hiếu nhưng dũng mănh cương cường, không hại ai nhưng nhất quyết không để ai hại ḿnh, đó là thế đứng vững chắc của nước ta một thời giữa thiên hạ.

    Tàu thuyền quân sự và dân sự của nhà Nguyễn gồm 3 loại: tàu thuyền dùng mái chèo, tàu thuyền dùng buồm và tàu bọc đồng chạy hơi nước. Tàu bọc đồng chạy hơi nước có từ thời Vua Gia Long, nói theo ngôn ngữ bây giờ th́ nhà Nguyễn đă sớm hiện đại hóa tàu thuyền ngang với thế giới.

    J.Barrow trong cuốn Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792-1793 đă ghi lại một bảng thống kê thú vị về quân đội nhà Nguyễn thời Vua Gia Long: Tổng quân số 139.800 người, riêng hải quân có 26.800 người. Barrow c̣n ghi thêm về việc “hiện đại hóa” hải quân của Gia Long: “Ông đă cho đóng ít nhất 300 pháo thuyền lớn hoặc loại thuyền dùng chèo, 5 thuyền có cột buồm và một chiến hạm đúng theo kiểu tàu châu Âu. Ông cho đưa vào quân đội một hệ thống các chiến thuật hàng hải, và cho những sĩ quan hải quân học cách sử dụng các tín hiệu”.

    Nh́n vào những tài liệu đă ghi chép, hầu hết các nhà nghiên cứu đều nhầm tưởng sức mạnh hải quân của nhà Nguyễn chính ở sự “hiện đại hóa” đội tàu theo kiểu châu Âu. Nhưng sự thật không phải vậy. Hiện đại theo cách của người ta th́ không bao giờ bằng người ta được, chưa nói đến việc hơn người ta.

    Sức mạnh hải quân Nhà Nguyễn nằm ở 3 yếu tố nổi trội nói ở đầu bài: kỹ thuật tàu chiến, vũ khí và quân lương. Cả ba đều là bí mật, không ghi trong sử sách (nếu ghi th́ c̣n ǵ là bí mật). Chưa ai t́m ra được các tài liệu nói về 3 yếu tố trên, thậm chí cả những h́nh vẽ và ảnh chụp các tàu chiến nhà Nguyễn cũng không thấy để lại, ngoài một cuốn binh pháp là cuốn Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ, trong đó có đề cập đến các trận pháp và kỹ thuật thủy chiến nhưng cũng không đề cập đến 3 yếu tố trên.

    Rất may là các bí mật này vẫn c̣n lưu lại trong ḍng tộc, được ghi khá tường tận trong một cuốn sách bí truyền: Nguyễn Phúc tộc đế phả tường giải đồ, cuốn sách hiện vẫn c̣n được lưu giữ trong gia đ́nh ông Nguyễn Phúc Ưng Viên, một hậu duệ của Vua Minh Mệnh (ông Ưng Viên gọi Vua Minh Mệnh bằng ông cố).


    Đại Nam thực lục tiền biên có ghi rơ lực lượng thủy binh nước ta thời Chúa Nguyễn Phúc Tần có tới 22.740 quân, bao gồm:

    - Cơ Trung hầu 10 thuyền 300 người;
    - Nội bộ 60 đội thuyền, hơn 3.280 người;
    - 2 cơ Tả trung và Hữu trung, mỗi cơ 14 thuyền, đều hơn 700 người;
    - Nội thủy 58 thuyền, 6.410 người;
    - Cơ Tả trung kiên 12 thuyền, 600 người;
    - Cơ Hữu trung kiên 10 thuyền, 500 người;
    - 2 cơ Tả trung bộ và Hữu trung bộ, mỗi cơ 10 thuyền, đều 450 người;
    - Cơ Tiền trung bộ 12 đội, mỗi đội 5 thuyền, cộng 2.700 người;
    - 4 cơ Tả dực, Hữu dực, Tiền dực, Hậu dực, mỗi cơ 5 thuyền, cộng hơn 1.100 người;
    - 4 đội Tiền thủy, Hậu thủy, Tả thủy, Hữu thủy, mỗi đội 5 thuyền, đều hơn 500 người;
    - 8 cơ Tả nội bộ, Hữu nội bộ, Tiền nội bộ, Hậu nội bộ, Tả súng, Hữu súng, Tiền súng, Hậu súng, mỗi cơ 6 thuyền, cộng 2.100 người;
    - Dinh tả bộ 10 thuyền, cộng hơn 450 người;
    - 4 đội Tiền bính, Hậu bính, Tả bính, Hữu bính, mỗi đội 4 thuyền, đều hơn 200 người;
    - Cơ Tả thủy 5 thuyền, hơn 200 người.

  2. #2
    Member
    Join Date
    03-06-2011
    Posts
    283

    Bí mật về cấu tạo tàu chiến

    “Người Hà Lan... qua thử nghiệm với kết quả tai hại đă nhận ra rằng những loại thuyền ấy (những loại thuyền chèo tay của người An Nam) có thể tấn công và giành được lợi thế trước những chiếc tàu to lớn của họ, mà trước đây với những chiếc tàu ấy họ từng là những kẻ làm bá chủ trên mặt biển” - Giám mục De Rhodes.

    Theo tài liệu bí truyền trong hoàng tộc Nguyễn, tàu hơi nước dù rất hiện đại, nhưng cũng chỉ dùng để vận tải, không dùng làm tàu chiến. Ngay cả các thủy sư người Pháp phục vụ cho hải quân nhà Nguyễn, trong trận hải chiến lừng danh là trận Thị Nại, họ cũng chỉ làm nhiệm vụ tải lương, tức là chỉ đóng vai hậu cần. Bởi vậy mà theo Barrow, trong số 26.800 lính hải quân, chỉ có 1.200 người phục vụ trên các tàu đóng kiểu châu Âu.


    Thao diễn thủy binh

    Tàu chiến của nhà Nguyễn toàn bộ làm bằng tre và chỉ dùng mái chèo. Nghe th́ tầm thường, nhưng sự vô song chính là ở đó. Tuy dùng bằng mái chèo nhưng có thể lướt sóng với tốc độ nhanh hơn tàu chạy bằng hơi nước, lại linh hoạt hơn và cơ động thiện chiến hơn nhiều. V́ sao vậy?

    Để khỏi mang tiếng tự đề cao dân tộc ḿnh, xin hăy nghe “Tây” nói về những chiếc thuyền chiến bé nhỏ của ta đánh thắng hạm đội Hà Lan trước đă. Tường thuật lại trận hải chiến năm 1643, trong cuốn Những người châu Âu ở nước An Nam, Charles B. Maybon, một học giả người Pháp viết:

    “Ba tàu dưới sự chỉ huy của Pierre Baeck được phái đi từ Jambee (Sumatra) vào cuối năm 1643. Đến ngang tầm “Bốn mũi” (Quatre Caps), người Hà Lan phải chịu đựng đ̣n tấn công của chừng 60 thuyền chiến Đàng Trong, mà theo Thực lục là dưới quyền chỉ huy của Thế tử, tức Hiền Vương sau này. Tàu đô đốc, là chiếc nặng nhất và chậm nhất trong số 3 tàu đó, bị bốn thuyền chèo tay đuổi kịp, đánh găy mất bánh lái, đánh đổ cột buồm và bám vào hai bên mạn tàu; viên thuyền trưởng Hà Lan không hy vọng chạy thoát được nữa, cho châm lửa vào kho thuốc súng và tự đốt cháy tàu. Hai chiếc tàu kia, theo lời của Jean Gobyn, phải rất chật vật mới t́m được một chỗ trú ở đảo Ngọc (Ile de Perles). Theo cha De Rhode, một trong hai tàu ấy do bị người Đàng Trong đuổi đánh đă va phải đá ngầm vỡ tan, c̣n chiếc kia chạy thoát được...”.

    Maybon dẫn lời nhà truyền giáo De Rhodes kết luận về trận hải chiến này như sau: “Người Hà Lan... qua thử nghiệm với kết quả tai hại đă nhận ra rằng những loại thuyền ấy (những loại thuyền chèo tay của người An Nam) có thể tấn công và giành được lợi thế trước những chiếc tàu to lớn của họ, mà trước đây với những chiếc tàu ấy họ từng là những kẻ làm bá chủ trên mặt biển”.

    Theo tài liệu lưu giữ trong gia đ́nh ông Ưng Viên, tàu chiến (gọi chính xác là thuyền chiến) nhà Nguyễn, loại lớn nhất dài 30m, ngang 12m; loại nhỏ nhất dài 3m, ngang 1,2m. Vỏ tàu có 3 lớp, tất cả làm bằng tre trét bằng dầu rái và vài loại thực vật khác, các khoang tàu cũng có phao làm bằng thao tằm giống như tàu chạy buồm.

    Toàn bộ thủy quân chỉ có một soái hạm, dài 50m, ngang 12m. Người phương Tây rất muốn quan sát được chiếc soái hạm này nhưng chưa bao giờ họ nh́n thấy, v́ nó có cấu tạo đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những t́nh huống cần thiết, trong điều kiện b́nh thường nó được tách ra thành những chiếc tàu chiến nhỏ.

    Tàu chiến lớn có 12 tay chèo, chia thành 3 cụm, mỗi cụm có 4 tay chèo, 1 cụm bố trí ở mũi tàu, 2 cụm bố trí ở khoảng 1/3 thân tàu tính từ phía sau. Điều thú vị là các tay chèo này không phải dùng mái chèo tác động xuống nước để đẩy thuyền đi như thuyền chèo thông thường mà việc “chèo” này là để làm quay một hệ thống ṛng rọc nối liền với các quạt nước, chính những cái quạt nước này vừa nâng tàu lên vừa đẩy tàu đi giống như tàu máy hiện đại nhưng linh hoạt hơn nhiều. Mỗi cụm tuy có 4 tay chèo, nhưng chỉ có 3 quạt nước nối với 3 tay chèo thông qua ṛng rọc, tay chèo c̣n lại có vị trí độc lập, nhiệm vụ của anh ta là điều chỉnh để cân bằng hệ thống, việc của anh ta nhẹ nhàng hơn 3 anh kia, nhưng khi gặp sự cố, một ḿnh anh ta sẽ làm chạy một lúc 3 cái quạt nước, do mái chèo của anh ta gắn với sự chuyển động đồng thời của 3 cái quạt này.


    Thuyền mông đồng 2 đáy khắc trên cương đỉnh

    Khi 3 cụm chèo đồng thời được nâng lên bởi tay chèo điều chỉnh hệ thống, lập tức tàu chạy lướt trên mặt nước, nghệ thuật lướt này nhờ vào 2 tay chèo số 4 phía sau điều chỉnh cho bánh lái không gh́ đuôi tàu xuống, đồng thời giữ thăng bằng khi tàu lướt sóng. V́ vậy mà tàu chiến có thể vượt qua được mọi điều kiện thời tiết, với tốc độ và sự linh hoạt khiến cho đối phương phải kinh ngạc, sợ hăi và tuyệt vọng.

    Điều đặc biệt là toàn bộ chất liệu làm tàu chiến không dùng đến sắt thép, kể cả cánh quạt, đinh, chốt, vít. Các liên kết đều dùng mộng, các chốt liên kết làm bằng một loại gỗ tên là gỗ xây cực kỳ bền chắc. Hy vọng từ những tài liệu nói trên kết hợp với các tài liệu khác có thể t́m được, các nhà nghiên cứu và chế tạo có thể tái tạo những chiếc tàu để xác nhận tính năng của nó........

  3. #3
    Member
    Join Date
    03-06-2011
    Posts
    283

    Vũ khí trên thuyền chiến, lấy linh hoạt làm tối ưu

    Người ta cũng nhầm tưởng hải quân nhà Nguyễn thường dùng vũ khí là đại bác và súng ống phương Tây. Các thủy sư đô đốc nhà Nguyễn hiểu rằng bắn đại bác từ tàu chiến chỉ để thị uy chứ ít chính xác, nên hải quân nhà Nguyễn sử dụng chủ yếu 3 loại vũ khí: súng phun lửa, nỏ liên châu và ống phóng hơi cay. Súng phun lửa có thể sử dụng khi cận chiến cự ly 15m. Nỏ liên châu th́ một phát bắn ra 20 mũi tên có thể trúng chính xác ở cự ly trên 100m. Khi xung trận, đầu tàu có thể biến thành đuôi tàu và ngược lại nên cơ động trong mọi t́nh huống...

  4. #4
    Member
    Join Date
    03-06-2011
    Posts
    283

    Chiến thuyền Tây sơn

    Xứ đàng trong từ thời chúa Nguyễn đă thừa hưởng tinh thần, kinh nghiệm và kỹ thuật đóng thuyền của người Việt ở các thời kỳ trước. Từ năm 938, Ngô Quyền với trận chiến đánh tan quân Nam hán trên sông Bạch đằng, đă chứng tỏ người Nam rất giỏi thủy chiến.

    Nói đến chiến thuyền nhà Nguyễn th́ cũng không thể không nhắc đến thuyền chiến nhà Tây sơn . Cả hai đều thừa hưởng những thành tựu kỹ thuật và kinh nghiệm đóng thuyền trước đó của người Việt. Kế thừa được tư duy sáng tạo, trí thông minh và sự khéo léo của Tổ tiên.

    http://www.stw.fr/dt/display_dt.cfm?dt=3364


    Hoàng đế Quang Trung qua nét vẽ của họa sĩ Măn Thanh

    Trong quá tŕnh phát triển đi lên của nghĩa quân, Nguyễn Huệ đă chú trọng đến việc xây dựng đội thủy binh hùng mạnh. Thủy quân Tây Sơn gồm có thuyền vận tải và thuyền chiến, đông đến cả ngàn chiếc.

    Lúc bấy giờ, công nghệ đóng thuyền ở nước ta đă có những tiến bộ nhất định. Cuối thế kỷ XVIII, John Barraw - hội viên Hội Hoàng gia Anh - đă đến xứ Đàng Trong (miền Trung và miền Nam Việt Nam) và chứng kiến: "Thuyền của họ đóng rất đẹp, thường dài từ 50 đến 80 pied (1pied = 0,30m). Đôi khi một chiếc thuyền như vậy chỉ gồm 5 tấm ván, kéo dài từ đầu nọ đến đầu kia và được ghép vào nhau bằng mộng. Thuyền biển của họ đi không nhanh lắm, nhưng rất an toàn. Bên trong được chia thành từng khoang, loại này rất chắc có thể đâm vào đá ngầm mà không ch́m v́ nước chỉ vào một khoang mà thôi. Hiện tại ở Anh đă bắt chước cách làm này để áp dụng vào việc đóng tàu".

    Một số lớn thuyền chiến của Tây Sơn được trang bị pháo, nhằm tăng cường hỏa lực, tạo nên mũi đột kích có sức công phá và tiêu diệt lớn. Trong một bức thư của Jeaptiste Chaigneau cho biết ở Quy Nhơn, thủy đội Tây Sơn có 54 tàu, 93 chiếc thuyền, 300 pháo hạm, 100 tàu buồm trang bị khá hùng hậu.

    Trận chiến tại cửa biển Rạch gầm- Thủy quân xiêm đại bại

    Khả năng quân Tây Sơn đóng được những chiến hạm kiểu châu Âu là có thật. Nghĩa quân Tây Sơn ở Phú Yên đă góp phần to lớn vào việc chế tạo súng ống, luyện thép, khai thác gỗ, đóng chiến thuyền. Hoàng Lê nhất thống chí có nói đến việc Quang Trung “đóng tàu biển” thật lớn, có thể chở “voi” để dọa đánh nhà Thanh. Chaigneau, Barizy là sĩ quan Pháp từng trực tiếp giáp mặt với quân thủy Tây Sơn đă phải thừa nhận sự tồn tại ngoài trí tưởng tượng của những chiến hạm Tây Sơn trang bị tới 50-60 khẩu đại bác hạng nặng. Chính sử nhà Nguyễn gọi đó là loại thuyền “Đại hiệu”. Sách Hoàng Lê nhất thống chí mô tả thuyền “Đại hiệu” như một pháo đài di động, trên “lập cḥi gát, đặt súng lớn”.


    Thuyền chiến Đại hiệu của hạm đội Tây sơn
    Các xưởng rèn đúc, chế tạo vũ khí của nghĩa quân Tây Sơn ở vùng miền Tây Phú Yên đă chế tạo, bổ sung một nguồn vũ khí lớn cho Tây Sơn, như: gươm, giáo, hỏa hổ, hỏa cầu…


    Tây sơn nghĩa binh


    Hỏa hổ là một loại vũ khí h́nh ống. Sử sách Nguyễn thường gọi hỏa hổ là hỏa phun đồng. Hỏa cầu (lưu hoàng) là loại quả nổ dùng để ném hoặc bắn, có tác dụng như lựu đạn hoặc phóng lựu. Tùy chất nạp mà quả nổ có thể tạo ra khói độc, nhựa cháy, mảnh vụn sát thương…

    Nhờ có thêm hai lại hỏa khí nói trên và pháo trên chiến thuyền nên hỏa lực của quân đội Tây Sơn khá mạnh, tạo ra bước phát triển vượt bậc cho nghĩa quân cả về số lượng lẫn chất lượng.

  5. #5
    Member
    Join Date
    03-06-2011
    Posts
    283
    Trong bức thư đề ngày 11-4-1801, Barridy – một người Pháp, bấy giờ đang ở Gia Định, gởi cho Letondal, viết về trận hải chiến trên vùng biển B́nh Định – Phú Yên xảy ra trước đó hai tháng đă thống kê khá chi tiết về lực lượng quân Tây Sơn do đô đốc Vơ Văn Dũng chỉ huy: “Quân địch do đô đốc thiếu phó chỉ huy gồm:
    - 9 tàu (vaisseaux) loại 66 đại bác (canons) cỡ 24 livres (cân Anh), mỗi tàu 700 thủy binh.
    - 5 tàu loại 50 đại bác, cỡ 24 livres, mỗi tàu 600 thủy binh
    - 40 tàu loại 50 đại bác, cỡ 12 livres, mỗi tàu 200 thủy binh.
    - 93 thuyền chiến (galères), loại 1 đại bác, cỡ 36 livres, mỗi thuyền 150 thủy binh.
    - 300 xuồng gắn pháo (chaloupes canonniéres), loại 50 thủy binh.
    - 100 tàu buồm kiểu Đàng Trong, loại 70 thủy binh”.
    Trong một đoạn khác Barridy c̣n cho biết quân Tây Sơn c̣n 4.800 thuyền vận tải nữa đang đậu ở các cảng ven bờ.

    Từ năm 1789 những chuyển biến sâu sắc trong quân đội Tây Sơn, nhất là việc h́nh thành căn cứ quân thủy lớn ở vùng biển Cù Mông – Thị Nại và hoạt động tuần tra rất có hiệu quả của các đội “du thuyền” và sự xuất hiện những tàu thuyền lớn trang bị nhiều pháo, chuyên hoạt động trên biển đă làm rơ nét một lực lượng hải quân độc lập, hùng hậu.



    Thuyền tuần An nam vào thế kỷ 18

    Một chiếc thuyền tuần Nhựt bổn vào cùng thời kỳ:


  6. #6
    Member
    Join Date
    27-05-2011
    Posts
    187
    Thật ra kỹ thuật và vơ khí của Đông Phương và Tây Phương không khác biệt nhau lắm ngay qua đầu thế kỷ thứ 19. Chỉ từ khi Napoleon hiện đại hoá chiến thuật trên đất liền, và sự tiến triển nhanh chóng của súng trong các thập kỷ sau, cộng với phát minh tàu bọc sắt (ironclad) và explosive shells (tôi không nhớ chữ Việt) và kiến thức dùng súng bắn chính xác hơn trước nhiều th́ Đông Phương mới thua hoàn toàn . Thuyền gỗ của VN bị đạn bắn trúng là cháy liền, trong khi súng của quân Việt th́ quá tầm không bắn tới được tàu Pháp.

  7. #7
    Member
    Join Date
    03-06-2011
    Posts
    283

    Đội hoàng sa

    Ngoài các nhiệm vụ được ghi trong chính sử, đội Hoàng Sa của nhà Nguyễn c̣n có sứ mệnh sang Nhật và Phi Luật Tân (Philippines). Họ ra đảo cùng với bí mật quân lương và mang về những sản vật kỳ diệu…


    Mô h́nh ghe câu (khinh thuyền/lê thuyền) là phương tiện đánh bắt của ngư dân duyên hải Nam Trung Bộ và cũng là phương tiện của đội thủy binh Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa dùng đi làm nhiệm vụ - Ảnh: Hiển Cừ

    Với kỹ thuật tàu chiến như đă đề cập ở phần trước, việc đi tới đi lui giữa đất liền với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và xa hơn nữa không mấy khó khăn. Ba bộ sách Nguyễn Phúc tộc đế phá tường giải đồ, hai bộ sách bí truyền khác trong hoàng tộc là Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính và Bí mật quân lương và khử uế chiến thuyền của hai vương triều Tây Sơn và Nguyễn Phúc tộc c̣n cho ta biết thêm nhiều bí mật thú vị về hải quân nhà Nguyễn.

    Theo đó th́ đội Hoàng Sa c̣n có nhiệm vụ sang Nhật Bản và Phi Luật Tân. Họ sang Nhật Bản để hợp tác huấn luyện thủy quân, v́ quan hệ giữa nước ta với Nhật Bản rất thân thiện sau khi Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái cho một thương gia Nhật. Các nhà nghiên cứu cần t́m hiểu thêm phương cách tác chiến của thủy quân Nhật trong những trận thủy chiến với nước ngoài có tương đồng ǵ không với cách tác chiến của thủy quân ta để làm rơ thêm nhiệm vụ của đội Hoàng Sa.

    C̣n họ sang Phi Luật Tân để làm ǵ? Ngày nay, dọc ven biển nước ta có trồng nhiều dừa. Dừa không phải là cây bản địa, đó là loại thực vật được di thực từ Phi Luật Tân sang từ thời các Chúa Nguyễn. Việc trồng dừa là theo khuyến nghị của người Nhật. Ngày xưa, trên bờ biển nơi nào có dừa chính là nơi tàu bè có thể cập vào an toàn. Chính đội Hoàng Sa đă mang những cây dừa về trồng dọc bờ biển nước ta.

    Về sản vật, chính sử chỉ ghi chung chung là đội này mang về các “hóa vật”. “Hóa vật” đó gồm những ǵ? Đó là xà cừ, ngọc trai lộ thiên, san hô đen, san hô đỏ, tảo, vỏ hàu 9 lỗ (cửu khổng thạch khuyết minh), ốc vú nàng, chất thơm trong đầu cá nhà táng...

    Ốc vú nàng và chất thơm trong đầu cá nhà táng đều là những vị thuốc quư. Ốc vú nàng được cho là có thể chữa được ung thư tụy tạng, cầm máu, chữa sốt không rơ nguyên nhân, các bệnh nhiễm trùng da và rắc rối đường huyết, bệnh phụ khoa... Vỏ ốc phải lấy vỏ từ con ốc tươi mới làm thuốc được. Cá nhà táng là một loại cá voi, chất thơm trong đầu nó được lấy khi cá đă chết hoặc do cá tiết ra trên đảo (Nhà Nguyễn, nhất là từ đời Gia Long về sau, đă cấm triệt để việc săn bắt cá voi). Chất này được ứng dụng rất hữu hiệu trong điều trị bệnh sản phụ và nhi khoa, đặc biệt trong ngừa trị tai biến mạch máu năo...

    Đội Hoàng Sa ra đảo mỗi năm 6 tháng, họ ăn uống như thế nào? Điều này thuộc bí mật quân lương của nhà Nguyễn. Qua sách Nguyễn Phúc tộc đế phá tường giải đồ ta biết trên mạn thuyền của đội Hoàng Sa có trồng 7 thứ rau: rau muống, rau húng, rau lang, hẹ, hành, tỏi, me đất (đến năm Tự Đức thứ 12 có thêm rau sam bay). Đây là 7 loại rau Trung Quốc không có hoặc một số thứ có nhưng chất lượng không bằng của ta. Hẹ, hành, tỏi th́ sách thuốc đă nói nhiều. C̣n rau muống th́ có tác dụng bổ huyết do có nhiều chất sắt, đây là loại rau di thực từ Nhật Bản sang Việt Nam thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Rau húng cân đối lượng đường trong máu, giúp tuần hoàn tim mạch, điều ḥa tiêu hóa, điều ḥa hô hấp, điều ḥa năo, nếu ăn thường xuyên từ nhỏ th́ không bị trĩ... Tất cả các loại rau trên đều có tác dụng bảo vệ sức khỏe của quân dân khi ra đảo. Nhưng v́ sao những thứ đó được trồng trên thuyền mà không đem trồng trên đảo? Đó là bí mật quân lương.

    Họ ăn những loại rau nói trên với cá biển và nước mắm. Tuy nhiên, ăn cá biển thường xuyên sẽ không bảo đảm cho sức khỏe, cho nên lương thực – thực phẩm chính mà đội Hoàng Sa mang theo là thịt thưng và cám gạo (cám gạo, chứ không phải gạo). Các món thịt thưng chính là bí mật quân lương của quân đội nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn, các vua Nguyễn sau này trong các lễ cúng tế tổ tiên bao giờ cũng có món thịt thưng.

    Đó là thịt heo hoặc gà, vịt, dê... được ướp với dầu lạc (dầu ép thủ công) và nước ớt, cho muối hột và nước mắm với độ mặn gấp 3 lần so với kho thịt b́nh thường, cho nước ngập xăm xắp, đun nhỏ lửa cho đến khi khô hết nước. Thịt này cho vào một cái hộp đậy kín, có thể để hàng năm không hỏng. Do để lâu không hỏng nên nó mới dùng làm quân lương.

    Thịt thưng ăn vào cân bằng tiêu hóa, ngăn ngừa các bệnh về đường ruột và giá trị dinh dưỡng đạt đến tối ưu trong điều kiện đi xa trên biển. C̣n cám gạo th́ ngày nay khoa học khẳng định nó là tinh hoa của lúa gạo. Dùng cám gạo thay cho gạo vừa đạt giá trị dinh dưỡng tối đa vừa không chiếm nhiều chỗ chứa khi ra biển đảo. Mỗi thành viên trong đội Hoàng Sa được cấp một cái hộc có nắp ép như cái hộc làm bánh, mỗi bữa ăn cho cám gạo vào hộc, bỏ vài miếng thịt thưng vào giữa, ép lại thành một chiếc bánh. Cộng thêm một ít rau là đủ cho một bữa ăn không thiếu một chất dinh dưỡng nào.

    Do không có nhiều nước ngọt, nên ra Hoàng Sa, Trường Sa, người xưa ăn nước mắm chứ không ăn muối. Ăn nước mắm tốt hơn ăn muối, tăng cường sự dẻo dai của thủy binh.

    Điều đặc biệt là nước mắm cũng có thể dùng để... giải khát. Trên một tảng đá nghiêng, khi trời nắng lấy nước mắm thoa lên đá phía mặt trời chiếu vào, nước mắm khô sẽ bám vào mặt đá. Đêm xuống, lấy đồ hứng những giọt sương rơi trên đá chảy qua chỗ có thoa nước mắm. Khi khát nước, thấm một ít nước này vào miệng, thứ nước đó đủ cho tuyến giáp trạng điều tiết dịch, không gây ra những cơn phiền khát. V́ vậy, uống ít nước vẫn không thấy khát.

    Trên đảo có một thứ rau mà ngày nay không ai nghĩ là ăn được, v́ ăn vào sẽ bị say. Đó là rau muống biển. Nhưng ngày xưa, đội Hoàng Sa của chúng ta vẫn ăn được thứ rau này. Sách Nguyễn Phúc tộc dược minh y kính có chỉ rơ y lư của rau muống biển và cách chế biến với nhiều công đoạn phức tạp nhưng có thể thực hiện được trên đảo. Ăn rau muống biển được chế biến đúng cách, pḥng tránh được nhiều bệnh thông thường, tăng sự dẻo dai cho cơ thể, đặc biệt nó tránh được những cơn say sóng nặng, bởi vậy mà sách này gọi nó là một vị thuốc mang tên “Cứu mệnh thảo”. Người viết bài đă chế biến rau muống biển theo đúng cách hướng dẫn và đă ăn nó trước khi viết loạt bài này.

    HOÀNG SA, TRƯỜNG SA MĂI MĂI LÀ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM!

    http://www.baomoi.com/Home/SucKhoe/w...ng/7024389.epi

  8. #8
    Member
    Join Date
    03-06-2011
    Posts
    283
    Quote Originally Posted by mơtiên View Post
    Thật ra kỹ thuật và vơ khí của Đông Phương và Tây Phương không khác biệt nhau lắm ngay qua đầu thế kỷ thứ 19. Chỉ từ khi Napoleon hiện đại hoá chiến thuật trên đất liền, và sự tiến triển nhanh chóng của súng trong các thập kỷ sau, cộng với phát minh tàu bọc sắt (ironclad) và explosive shells (tôi không nhớ chữ Việt) và kiến thức dùng súng bắn chính xác hơn trước nhiều th́ Đông Phương mới thua hoàn toàn . Thuyền gỗ của VN bị đạn bắn trúng là cháy liền, trong khi súng của quân Việt th́ quá tầm không bắn tới được tàu Pháp.
    Tôi đồng ư với bạn, vào thời đó VN so với các xứ khác , vẫn chưa có sự chênh lệch và tụt hậu nhiều như hiện nay.

    Châu âu nhờ cuộc CM công nhiệp mà họ bứt phá, vọt lên một cách thần kỳ và nhanh chóng.

    Phải chăng nước ta đă từng lỡ nhiều chuyến tàu!?

    Cùng thời, Nhật bản có phong trào canh tân mạnh mẽ với tư tưởng canh tân của Minh Trị thiên hoàng, Fukuzawa Yukichi (Phúc-Trạch Dụ-Cát) , ....

    Nhiều người ở VN vào thời đó cũng thấy cần phải mở mang , canh tân đất nước , giảm sự ảnh hưởng của khổng giáo phong kiến...như hoàng tử Cảnh, Nguyễn Trường Tộ... Nhưng đáng tiếc là họ không thành công v́ nhiều nguyên nhân.

    Nguyên nhân chính theo tôi nghĩ là VN chưa thống nhất được ḷng người , do bởi chiến tranh của các phe phái thời trước đó, cùng với giai tầng quan nho không muốn có sự cởi mở về chính trị , kinh tế , xă hội...

    Như vào thời vua Tự Đức, mặt dù là người hiếu thảo nhưng ông lại muốn duy tŕ chính sách bế quan tỏa cảng ( Chắc là v́ giai tầng quan nho sợ những sự đổi mới sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của ḿnh!?...). Khi người Tây có tàu đồng, tàu sắt, có đèn điện... th́ Ông lại nêu cao đạo đức vào thời vua Nghêu, vua Thuấn bên Tàu...

    Ngày nay cũng vậy, người Việt vẫn chia rẽ ḷng người . Nguyên nhân cũng như vào TK 18, cũng do bởi chiến tranh từ thời trước đó để lại và do thành phần quan CS sợ những thay đổi sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của ḿnh, nên không dám mạnh dạn cải cách.

    Trong khi TG xung quanh tiến bộ vượt bậc về mọi mặt như Đài loan, Nam hàn, Nhật bản, gần đây là Singapor , Campuchia và các nước trong vùng.... Th́ giai tầng quan CS và Triều đ́nh lại nêu cao giáo lư Mác Lê và cái mô h́nh XHCN không có thật...

    VN lại lỡ tiếp chuyến tàu. Sự tụt hậu về mọi mặt không phải là nguy cơ mà là một sự thật ai cũng nh́n thầy rơ.


    Vài năm tới VN phải có một Leader kiệt xuất- nếu không , khát vọng hưng thịnh của nước Đại Việt sẽ kéo dài hàng trăm năm nữa...

    Chỉ e sợ nếu với sự tụt hậu ngày một lớn, t́nh trạng tụt hậu này kéo dài chỉ cần một chục năm nữa , nước Văn Lang với gịng giống Lạc Việt khởi dựng từ thời Vua Hùng khó tránh khỏi họa suy tàn và vong quốc.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 8
    Last Post: 20-08-2011, 11:43 AM
  2. Hậu Duệ VN Trong Hải Quân Hoa Kỳ .
    By Tigon in forum Tin Cộng Đồng
    Replies: 0
    Last Post: 02-07-2011, 10:01 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 11-02-2011, 06:38 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 10-10-2010, 02:53 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 15-08-2010, 05:09 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •