Page 1 of 3 123 LastLast
Results 1 to 10 of 24

Thread: NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH




    L.T.S. Đến 19 tháng 6 này là Ngày Quân Lực lần thứ 42. Nhân dịp này thiết tưởng cũng cần thêm một lần nữa đưa ra những nhận định về QLVNCH anh hùng của chúng ta. Một cái nh́n khách quan phải gồm cả những ưu và khuyết điểm, hay và dở, thành và bại, không phải chỉ gồm những chiến thắng như trong một bài thuyết tŕnh cho quan khách đến dự một buổi lễ. Xin giới thiệu bài Nhận Định Về QLVNCH của Nhóm Đặc Nhiệm thuộc TTCSVNCH/HN.


    QLVNCH là một trong những lực lượng chủ yếu tham chiến trong Chiến Tranh Việt Nam. Với quân số Chủ Lực Quân, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tổng cộng ngót 1.200.000 người, QLVNCH đă chịu tổn thất gần 300.000 người tử trận sau hơn 20 năm chiến đấu từ khi đất nước bị chia đôi. Dù trong điều kiện, hoàn cảnh, thành tích và phẩm chất nào chăng nữa, quân lực này cũng đă la ømột thực thể có vai tṛ quan trọng trong chiến tranh và tạo ra những hậu quả đáng kể về chính trị, quân sư trên thế giới và tác độïng mạnh đến xă hội, văn hóa giáo dục...ở Việt Nam. Những yếu tố trên không thể bị bỏ quên trong bất cứ đề tài thảo luận, nghiên cứu nào về lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới.
    Tàøi liệu này không đi sâu vào những dữ kiện đă được nhiều sách báo đưa ra mà chỉ nhấn mạnh vào một số điểm đáng lưu ư trong tiến tŕnh h́nh thành và chiến đấu của QLVNCH nhất là những ǵ không được nhiều người biết đến và quan tâm.


    I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ

    Muốn hiểu rơ về nguyên nhân và nguồn gốc sự h́nh thành QLVNCH không thể không xét đến bối cảnh lịch sử của Việt Nam từ thập niên 1920.

    1. Tranh chấp Quốc – Cộng.
    Dân tộc Việt Nam rất tự hào về tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Mặc dầu bị Trung hoa đô hộ với mưu đồ đồng hóa hằng ngàn năm, nhưng Việt Nam vẫn tồn tại. Bởi vậy khi Pháp đặt nền đô hộ lên đầu nhân dân Việt Nam



    th́ phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp nổi lên khắp nơi, với cả hai khuynh hướng quốc gia và cộng sản.

    Cuộc tranh chấp giữa các đảng phái quốc gia và đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đă nhen nhúm ngay từ ngày có đảng CSVN hồi cuối thập niên 1920. Nhưng trước năm 1945, những đụng chạm này kể cả những vụ CSVN sát hại người các đảng phái quốc gia chỉ mang tính cách lẻ tẻ không có quy mô đáng kể.

    Cuối tháng Tám năm 1945, lực lượng CSVN núp sau danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh (MTVM) với chiêu bài quốc gia dân tộc đơn phương cướp chính quyền và dành độc quyền lănh đạo đất nước trái với thỏa hiệp trước đó giữa MTVM và các đảng phái không-Cộng-Sản. Ngay sau đó, phe CSVN thẳng tay tiêu diệt tất cả các tổ chức mà họ tin rằng sẽ là những phần tử đối lập đáng e ngại sau này.

    Trong thời gian 1945-1946, các lực lượng quân sự và quần chúng thuộc các đảng phái không-Cộng-Sản đều tham gia chiến đấu chống Pháp cùng với các lực lượng Việt Minh (VM) v́ họ đều nghĩ rằng phe phái nào cũng có mục tiêu chung là chống Pháp dành độc lập, không cần phân biệt.

    Lời kêu gọi "Đại Đoàn Kết" của ông Hồ Chí Minh đưa ra không lâu trước khi phe CSVN bất ngờ tung ra chiến dịch quy mô tiêu diệt phe quốc gia gồm các cá nhân, tổ chức đảng và lực lượng quân sự. Nhiều thanh niên yêu nước không-Công-Sản bị sát hại hàng lọat ngay trước khi nổ ra cuộc Kháng Chiến chống Pháp 19/12/1946.

    Năm 1947, chỉ có một số ít làng mạc chống Cộng được quân đội Pháp trang bị cho các dân quân vũ khí của Thế Chiến I để giúp họ giữ an ninh các vùng Pháp kiểm soát. Quân đội Pháp thành lập một số các đơn vị bán quân sự không có quy chế quân nhân nhưng được trả lương gọi là thân binh (Partisan) người Việt Nam để đóng các đồn bót của quân đội Pháp. Năm 1947 số người Việt chiến đấu bên cạnh lính Pháp tương đối khá ít ỏi. Sau đó để gia tăng quân số, người Pháp tuyển một số người Việt vào các đơn vị chính quy dưới danh nghĩa Liên Hiệp Pháp.

    Từ đầu năm 1947 sang năm 1948 và 1949, đảng CSVN mở nhiều đợt thanh trừng qui mô hàng ngũ quân đội kháng chiến, loại bỏ những phần tư û bị nghi ngờ là đối lập với chế độ CSVN trong đó có nhiều người yêu nước đang phục vụ tích cực và hữu hiệu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Kế đến là thường dân tham gia các đảng phái quốc gia và các phần tử khác bị VM cho là nguy hiểm.



    2. Sự Lớn Mạnh Của Lực Lượng Chống Cộng



    Trong khi nhiều người có khuynh hướng quốc gia v́ ḷng yêu nước theo VM chống Pháp được VM tạm dung thứ, th́ nhiều người quốc gia yêu nước khác biết ḿnh bị VM liệt vào loại đáng nghi ngờ, trước sau cũng có thể bi thanh toán phải t́m đất sống ở vùng kiểm soát của quân đội Pháp. Họ phải chọn vùng của kẻ thù ít nguy hiểm hơn làm chỗ nương náu. Thực Dân Pháp tuy tàn ác, nhưng họ c̣n có thể len lỏi t́m cách sống được trong các vùng này.

    Chinh quyền quốc gia do Cựu Hoàng Bảo Đại lănh đạo ra đời sau Hiệp Định Pháp Việt ngày 8 tháng 3 năm 1948 là chỗ dựa tạm cho những người này mặc dù đây chưa phải là một chính quyền thực sự đôïc lập, ngưới Pháp nắm hầu hết quyêøn lực cai trị. Chính quyền Bảo Đại chỉ có rất ít uy tín trong dân chúng.

    Sang năm 1950-1951 khi đảng CSVN ra công khai dưới danh xưng đảng Lao Động (Worker's Party) và gia tăng thanh trừng, khủng bố th́ những người không chấp nhận chế độ CSVN hoặc không được chế độ này chấp nhận ào ạt rời bỏ vùng kháng chiến trở về vùng do chính quyền Bảo Đại và quân đội Pháp kiểm soát. Số người đông đảo này làm thay đổi hẳn bộ mặt của chính quyền Quốc Gia. Môt phe quốc gia chống cộng gồm nhiều xu hướng và đảng phái không-Cộng-Sản ngày thêm vững mạnh.

    Năm 1953, ông Hồ Chí Minh tung ra phong trào Phát Động Quần Chúng thường được gọi là cuộc "đấu tố" hay "Cải Cách Ruộng Đất" đẫm máu nhằm lọai trừ giai cấp địa chủ và các phần tử bị coi là đối lập. Nhiều người bị hành hạ và hành quyết bằng những cách giết người dă man nhất. Một làn sóng những nạn nhân hay sẽ là nạn nhân của chế độ CSVN bỏ kháng chiến trở về vùng quốc gia đă là nhân tố củng cố thêm cho lực lượng chống CSVN.

    Lực lượng phe chống CSVN đă có vị trí rơ rệt và vũng chắc hơn chút ít khi đất nước bị chia cắt do Hiệp Định Geneva 20/7/1954.



    3. Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.



    Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (QĐQGVN) được thành lập từ tháng 4 năm 1949 thu hút được nhiều thanh niên yêu nước không sống được dưới sự đe dọa của phe Cộng, đang t́m chỗ đứng và đất sống cho ḿnh. Trong lúc ấy, cường độ chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh gia tăng đáng kể, nhất là kể từ khi Việt Minh, được cộng sản Trung Hoa chi viện sau khi Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch vào năm 1949. V́ nhu cầu tăng quân số để ứng phó với t́nh h́nh chiến sựù, chính phủ quốc gia VN và Pháp đẩy mạnh chương tŕnh bành trướng QĐQGVN như là một h́nh thức “Việt Nam hoá” chiến tranh mà sau này Mỹ cũng áp dụng với mục đích đứng đắn hơn.

    Mặc dầu được bành trướng v́ nhu cầu chiến trường, nhưng Quân đội viễn chinh Pháp chỉ huấn luyện và trang bị cho QĐQGVN ở mức giới hạn, chắc hẳn là v́ không mấy tin cậy vào quân lực này. Đến năm 1954, quân số QĐQGVN có khoảng 180,000 người, được tổ chức thành các tiểu đoàn bộ binh, nhẩy dù, một số đơn vị pháo binh, thiết giáp nhẹ, công binh, một số phi cơ trinh sát nhe và những hải đĩnh nhỏ. Với đơn vị cao nhất là Liên Đoàn Lưu Động (Mobile Group) tham chiến trên các chiến trường, QĐQGVN chưa phải là đe dọa đáng ngại cho các lực lượng Việt Minh.



    4.. Những Khó Khăn Của QĐQGVN



    Nh́n toàn cảnh cuộc chiến Đông Dương 1946-1954, lực lượng quân sự phe quốc gia Việt Nam có nhiều thế bất lợi:

    a) Bộ Tư Lệnh quân Viễn Chinh Pháp vẫn nắm giữ toàn quyền điều khiển chiến tranh và các kế hoạch hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN và các BTL Quân Khu chỉ có một số quyền hạn nhỏ hẹp. Thực tế cho thấy người Pháp không thực t́nh muốn xậy dựng một quân đội Việt Nam thực sự độc lập và có nhiệm vụ chiến đấu chính mà chỉ muốn có bên cạnh họ một lực lượng phụ giúp họ trong việc giải quyết chiến tranh nhưng không muốn từ đó tạo ra mối đe dọa cho họ trong tương lai xa.

    b) Các sĩ quan và binh sĩ QĐQG thảy đều không có cảm t́nh với người Pháp. Họ chiến đấu bên cạnh người Pháp như một chọn lựa bất đắc dĩ. Trong hai kẻ thù, họ phải đứng tạm bên cạnh kẻ thù ít nguy hiểm hơn với tin tưởng trào lưu thế giới sẽ giúp cho các nước bi trị được Mỹ và Anh nâng đỡ dành độc lập từ tay Pháp. Một phái bộ quân sự Mỹ cạnh Bộ Tư Lệnh Pháp tại Việt Nam giữ vai tṛ rất khiêm nhường, trong khi viện trợ của Hoa Kỳ cho QĐQGVN đều phải đi qua tay quân đội Pháp lựa lọc và phân phối.

    c) Quân Đội Pháp đă áp dụng chính sách quân sự coi khủng bố là biện pháp chính để chống chiến tranh du kích. Các đơn vị Lê Dương, bộ binh gốc Phi Châu và Bắc Phi (kể cả một số lính người Việt trong các đơn vị Commando Pháp và Thân Binh) được dung túng cho tự do giết chóc, tra tấn, hăm hiếp thường dân mà không bị trừng phạt. Nhà cửa làng mạc bị đốt phá, nhiều xóm thôn bị tàn sát hàng trăm người một lần v́ những lư do rất nhỏ nhặt. Quân đội Pháp đă gây ra hàng trăm vụ như vụ Mỹ Lai (16/3/1968) mà dư luận thế giới biết đến rất ít.

    Nỗi uất ức căm thù lính Pháp của dân chúng lên rất cao khiến họ quay sang ủng hộ phe kháng chiến tạo thành sức mạnh chống Pháp cao độ. Nhiều người tin rằng nếu lính Pháp hồi ấy chỉ cần đối xử ân cần, nhân đạo với dân chúng mà không cần phải ban phát ân huệ hay trợ giúp nào to lớn, họ đă có thể chiến thắng trước năm 1954. Quân Đội Pháp hầu như không có một chương tŕnh nào về dân sự vụ, cứu trợ và thông tin tuyên truyền nhằm tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng như Mỹ và VNCH trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1959-1975.

    Trong lúc ấy, các đơn vị QĐQGVN kể cả các đơn vị bán quân sự và dân quân phe quốc gia đối với dân chúng thân mật và hiền ḥa, giúp đỡ, bảo vệ họ. Nhưng những cố gắng này không đủ để bù lại những tội ác chiến tranh mà các đơn vị thuộc lực lượng viễn chinh Pháp gây ra. Quân lính Pháp là những hung thần, không bao giờ tôn trọng các viên chức chính quyền Bảo Đại chút nào, dù là cấp xă, huyện hay tỉnh như quân sĩ Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam.

    V́ thế nhiều quan sát viên và báo chí quốc tế dễ lầm tưởng rằng QĐQGVN hoàn toàn là một tổ chức tay sai hay một đám lính đánh thuê của Pháp. Cũng chính v́ thế mà nhiều binh sĩ trong QĐQGVN không có quyết tâm chiến đấu cao, mang nặng mặc cảm “không-yêu-nước.” Quân đội không thể tuyển mộ đủ số quân sĩ cần có.



    II. THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HOÀ.



    Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, hiệp định ngưng chiến Genève được kư kết vào ngày 20-07-1954, chia đôi Việt Nam, các lực lượng quân sự quốc gia tập trung về Nam Vĩ Tuyến 17. Năm 1955, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm dành lại toàn bộ chủ quyền chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự từ tay người Pháp, QĐQGVN sau khi dẹp tan các lực lượng B́nh Xuyên và Giáo Phái ly khai, được cải tổ toàn diện và đổi danh hiệu thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà (QĐVNCH).

    Trong 3 năm đầu, QĐVNCH gồm Hải, Lục và Không Quân được tổ chức lại với các đại đơn vị cấp quân đoàn, sư đoàn và hệ thống quân sự lănh thổ từ tỉnh lên đến quân khu. Bộ TổngTham Mưu với các bộ phận trực thuộc mau chóng nhận lănh trọng trách quốc pḥng. QĐVNCH được trang bị vũ khí và quân dụng Mỹ, tổ chức và huấn luyện theo khuôn mẫu và binh thuyết Mỹ. Trong giai đoạn này, QĐVNCH gặp phải một số trở ngại quan trọng như:

    1. Thiếu sĩ quan chỉ huy cấp trung đội lên đến tiểu đoàn có khả năng. Số sĩ quan trẻ có tinh thần yêu nước, có lư tưởng không đủ để lấp chỗ trống này.

    2. Một số không ít sĩ quan nguyên là lính trong quân đội Pháp thời Pháp Thuộc được lưu lại trong QĐVNCH. Những sĩ quan này do người Pháp đào tạo, nhiều người không dễ thích ứng với tổ chức và chính sách quân sư ïmới,ï thiếu căn bản tư tưởng và khả năng lănh đạo một cuộc chiến mà nhiều nỗ lực ngoài phạm vi quân sự thuần túy lại là yếu tố thành bại: Ḷng yêu nước và tư tuởng, ư thức hệ.

    3. Các bộ tư lệnh đại đơn vị cấp Quân đoàn và Sư đoàn chưa có kinh nghiệm tổ chức và chỉ huy các cuộc hành quân có quy mô lớn.



    III. TRƯỞNG THÀNH TRONG CHIẾN TRANH



    - Từ năm 1959 khi CSVN khởi động cuộc chiến tranh khuynh đảo Miền Nam VN, QĐVNCH c̣n đang ở t́nh trạng củng cố tổ chức và huấn luyện. Đến lúc này QĐVNCH chỉ được trang bị vũ khí và quân dụng Mỹ dùng trong Thế Chiến II. Các toán cố vấn quân sự Mỹ làm việc cạnh các bộ chỉ huy từ cấp trung đoàn trở lên mà nhiệm vụ chính là liên lạc, yểm trợ tổ chức, huấn luyện, tiếp vận, kỹ thuật.

    - Năm 1961, CSVN gia tăng cường độ chiến tranh với chiến dịch khủng bố sát hại các viên chức chính quyền hạ tầng cơ sở, phá hoại các cơ sở hành chính, kinh tế, giao thông, xă hội và đột kích tiêu diệt các đơn vị quân sự nhỏ song song với mặt trận tuyên truyền bịp bợm và vu cáo đối phương.

    Trong khoảng thời gian này, đă xẩy ra sự bất đồng về quan niệm chiến lược ứng phó giữa Mỹ và VNCH đối với chiến lược của cộng sản. VNCH đặt nặng nỗ lực chiến tranh tại địa bàn nông thôn, trong lúc Mỹ chủ trương tổ chức và huấn luyện QĐVNCH theo mô thức chiến tranh Triều Tiên.

    T́nh h́nh chiến tranh chỉ chuyển hướng sau khi chương tŕnh Ấp Chiến Lược (ACL) được chính phủ VNCH áp dụng kể từ năm 1962. Tuy rằng chương tŕnh ACL gây ra một số bất măn nhưng đă dành lại được thế chủ động tại nông thôn, tái kiểm soát được nhiều vùng quan trọng. Theo dự định, hệ thống các ấp chiến lược với dân quân và lực lượng địa phương quân sẽ kiểm soát và bảo vệ mọi vùng dân cư, để quân chính quy QĐVNCH có thể lưu động 100% ngoài các vùng dân cư. Dự định này có 70% khả năng thành công nếu t́nh h́nh quân sự diễn tiến như giữa năm 1963. Nhưng cuộc đảo chính 1/11/63 đă thay đổi tất cả.

    - Theo cường độ phát triển chiến tranh, Hoa Kỳ bắt đầu gia tăng viện trợ, nâng số nhân viên cố vấn quân sự, gửi các đơn vị không lực yểm trợ hỏa lực và vận chuyển vào giúp cho QLVNCH. VNCH gia tăng quân số với nguồn nhân lực mới động viên , bành trướng Không Quân, Hải Quân và thành lập thêm các sư đoàn, các đơn vị Lực Lượng ĐăÏc Biệt, Chiến Tranh Tâm Lư, Dân Sự Vụ...

    - T́nh h́nh chính trị hỗn loạn ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1963 đă khuyến khích CSBV đổ quân vào Miền Nam. Năm 1964, QĐVNCH bị nhiều tổn thất nặng, trong đó có trận Đèo Nhông, Phước Thành, B́nh Giả, Đức Cơ tuy có những chiến thắng ở Plei Me, đẩy lui cuộc tấn công dữ dội ở Đồng Xoài, khiến tinh thần binh sĩ và dân chúng sa sút mạnh. CSVN có khả năng cắt đôi Miền Nam và chiếm toàn bộ nước VNCH. Mỹ đă cứu văn t́nh h́nh bằng cách tham chiến trực tiếp với sự tham dự của một số quân đội đồng minh: Nam Triều Tiên, Úc Đại lợi, Thái Lan, Tân Tây Lan.

    - Từ 1965 đến 1969, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (sau khi đổi danh hiệu từ QĐVNCH) chịu trách nhiệm b́nh định các vùng dân cư, yểm trợ xây dựng nông thôn. Các hoạt động bên ngoài do quân lực Mỹ đảm nhiệm. Tại những vùng xung yếu, các sư đoàn Mỹ và đồng minh được trao cho các khu vực hoạt động gọi là Khu Vực Trách Nhiệm Chiến Thuật (Tactical Area of Responsibility). Tuy nhiên các đơn vị cấp trung đoàn và tiểu đoàn QLVNCH vẫn thường xuyên tham dự các cuộc hành quân hỗn hợp quan trọng với các đơn vị Mỹ

    - Biến cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 là một khúc quanh lịch sử trong chiến tranh VN. Vào đêm giao thừa Tết nhằm ngày 29/01/68, Hànội bất ngờ tung quân đánh chiếm hằng trăm thị trấn, tỉnh lỵ, quận lỵ trên khắp lănh thổ VNCH. Mặc dầu bị bất ngờ v́ phần lớn binh sĩ nghỉ hưu Tết, nhưng QLVNCHơ đă nhanh chóng đẩy lui quân CS và chỉ trong ṿng một tháng tất cả các đơn vị CS xâm nhập đă bị quét sạch.

    Trong kế hoạch Tổng Công Kích – Tổng Nổi Dậy, CSVN đă phạm một lỗi lầm quá lớn khi định ngày N (ngày mở đầu các cuộc tấn công). Bộ Chỉ Huy tối cao CSVN đă định ngày N là “đêm Mùng Một sang Mùng Hai Tết” theo âm lịch. Nhưng âm lịch hai miền Nam và Bắc năm ấy khác nhau một ngày. Do đó các đơn vị VC dùng lịch Bắc Việt nổ súng vào đêm giao thừa ở Miền Nam (Đà Nẵng, Quy Nhơn, Kontum, Pleiku, Nha Trang...) trong khi các đơn vị khác dùng lịch VNCH nổ súng vào đêm Mùng Một (Huế, Sài G̣n và các nơi c̣n lại). Nếu quân CSVN nổ súng đồng loạt cùng một ngày giờ, QLVNCH có thể đă chịu tổn thất nhiều hơn tuy vẫn nắm phần thắng lợi.

    Các lănh tụ tối cao CSVN quá chủ quan khi quyết định mục tiêu lớn “Tổng Nội Dậy” và tin rằng 80% quần chúng và binh sĩ Miền Nam sẽ đứng lên tiếp tay các lực lượng Cộng Sản. Trên thực tế không có quần chúng ở bất cứ nơi nào nổi dậy.

    CS bị tổn thất nẵng nề, hầu như toàn bộ hệ thống cán bộ nằm vùng của CS bị tiêu diệt, bị bắt hoặc ra đầu thú. Hànội đă thất bại nặng trong trận TCK Tết Mậu thân, nhưng lại bất ngờ đạt được chiến thắng tại nội địa Mỹ với sự tiếp tay của một số cơ sở truyền thông, phong trào phản chiến Mỹ và mũi tuyên truyền của Côïng Sản quốc tế.

    - Từ năm 1969, Hoa Kỳ áp dụng chính sách Việt Nam Hóa chiến tranh, trang bị cho QLVCH nhiều vũ khí và quân dụng tối tân hiện đại. Quân Mỹ và đồøng minh rút dần để QLVNCH lănh tùoàn bộ trách nhiệm quốc pḥng.

    - 1970-1975. Năm 1970, QLVNCH hành quân tràn qua Cam Bốt triệt hạ các căn cứ của CSBV. Năm 1971, QLVNCH mở cuộc hành quân cấp quân đoàn sang Lào để chứng tỏ khả năng tác chiến của ḿnh nhưng không thành công. Đây là lần đầu tiên QLVNCH mở một cuộc hành quân lớn theo phương thức chiến tranh quy ườc. Bộ Chỉ Huy chiến dịch của VNCH và bộ phận yểm trợ của Hoa Kỳ có những khiếm khuyết trong việc phối hợp và điều động mặc dù tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng của các binh sĩ ở đơn vị cấp nhỏ.

    - Mùa Høè năm 1972, CSVN tung ra các cuộc tấn công mạnh mẽ vào 3 vùng trọng yếu: Quảng Trị, Kontum và An Lộc. CSBV bị tổn thất nặng nhưng cố chiếm giữ vài ba vùng nhỏ hẹp có dân cư để chuẩn bị giải pháp chính trị.

    - Hiệp Đinh Paris 27/1/1973 đặt QLVNCH vào một t́nh thế mới. Toàn bộ các đại. đơn vị bị căng dăn ra rất mỏng để giữ đất v́ địch quân vẫn tiếp tục tấn công ở nhiều nơi. Hai năm sau, CSVN bỏ trống hậu phuơng Bắc Việt đê tập trung lực lượng đánh phá VNCH. Trong lúc ấy, Hoa Kỳ giảm dần viện trợ và những cuộc tranh luận ở Mỹ cho thấy rơ Mỹ sẽ bỏ rơi VNCH.

    Những trận đánh cuối cùng của CSVN đă nhắm đúng vào các nhược điểm của VNCH. Đó là cắt ngang Miền Trung và Cao Nguyên, gây hoảng loạn tại Quân Khu 1 và lan đến Sài G̣n, mở đường cho quân CSVN chiếm đóng toàn thể nước VNCH.

    Sau cùng, QLVNCH đă bại trận trong lúc c̣n có sức chiến đấu sau hơn 20 năm từ lúc xây dựng trên một quân đội quốc gia c̣n thô sơ rời rạc qua giai đoạn vừa trưởng thành vừa chiến đấu.



    IV. NGƯỜI LÍNH VNCH



    a) Đời Sống Vật Chất



    Binh sĩ QLVNCH được trả lương thấp nhất so với quân đội của tất cả các nước đồng minh của Hoa Kỳ. Vào cuối thập niên 1950, lúc lương (không tính tiền ăn) của Binh II Mỹ là US$ 75 th́ lương Binh II VNCH tương đương với khoảng US$ 14 (VN$ 516 hay bằng 60% lương lao động thấp nhất). Số lương tháng của một binh II không đủ để nuôi vợ, nếu có con th́ càng thiếu thốn. Do đó gia đ́nh không thể sống xa họ mà bằng mọi cách sốùng gần hay trong doanh trại, nhiều khi theo đến tạân nơi căn cứ hành quân.

    Đơn vị nào cũng có gánh nặng gia đ́nh binh sĩ gây trở ngại lớn cho việc điều động binh sĩ. Quân đội có nhiêù cố gắng giúp đỡ việc lập các cư xá cho gia đ́nh binh sĩ với tiện nghi y tế, giáo dục của ngành Xă Hội, cửa hàng Quân Tiếp Vụ (Post Exchange)... có kết quả tốt. Từ khi các tướng lănh lên cầm quyêàn năm 1965, lương quân nhân được tăng. Nhưng những lợi điểm này bị giới hạn nhiều khi chiến tranh gia tăng cường độ và kinh tế khó khăn khiến mức sống của binh sĩ thắp hơn nhiều so với người lao động tay chân ngoài quân đội hưởng lương thấp nhất.



    b) Đời Sống Tinh Thần.



    Người lính VNCH không bị khép vào khuôn khổ chặt chẽ đến độ vô nhân đạo và bị nhồi sọ bằng tuyên truyền bịa đặt như quân đội khối Cộng. Họ được hưởng một chế độ kỷ luật tuơng đối dân chủ, ít bi cấp trên áp bức.

    Họ đă chiến đấu gian khổ lâu dài hơn bất cứ quân đội nào khác từ 1959 truớc khi Mỹ tham chiến và tới năm 1975 – hai năm sau khi Mỹ rút lui. Họ không được dư luận Mỹ và thế giới tự do đánh giá đúng mà c̣n gần như bị bỏ quên hoặc xúc phạm.

    Là quân nhân dưới một chế độ tự do, họ được tự do tiếp cận với các nguồn thông tin quốc tế và quốc nội, nhất là một trong mười người lính có máy thu thanh bỏ túi bên ḿnh và được nghe mọi nguồn thông tin quốc tế cũng như trong nước. Do đó họ dễ bị ảnh hưởng tinh thần nặng nề v́ dư luận phản chiến và v́ những tin tức bất lợi mà quân đội không thể che dấu họ.

    Một lời đồn đại vô lư, không có căn cứ nhưng loan truyển đúng lúc đúng chỗ có thể gây nhiều hoang mang tai hại. Đó là một trong những cái giá chung mà VNCH phải trả để có tự do và dân chủ.





    c) Tinh Thần Chiến Đấu.



    Tuy đời sống vật chất eo hẹp và công vụ gian khổ, luôn bị ảnh hưởng bởi nhưng dư luận ác ư, người lính Miền Nam vẫn có một tinh thần chiến đấu đáng kể. QLVNCH không thiếu những gương anh hùng sáng chói không thua kém bất cứ quân đội nào trên thế giới kể cả những người vợ lính cùng tham gia chiến đấu với chồng con hoặc chỉ huy thay chồng điều chỉnh hỏa lực yểm trợ diệt địch cứu đồn trại.

    Trong hoàn cảnh nguy nan nhất họ vẫn chiến đấu can đảm như trong các trận tổng công kích 1968, 1972. Ngay cả khi hoàn toàn tuyệt vọng v́ Hoa Kỳ ngưng viện trợ quân dụng và vũ khí, nhiều đơn vị vẫn chiến đấu đến phút cuối. Hơn 5.000 tân binh quân dịch chưa được huấn luyện ở Trung Tâm Tuyển Mộ và Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung sáng sớm ngày 30/4/1975 c̣n hăng hái chiến đấu hạ được 5 chiến xa CSVN ngay trước khi có lệnh đầu hàng.

    Sau khi có lệnh đầu hàng sáng 30/4/1975, nhiều vụ tự sát của các nhân sĩ, quân nhân, công chức và dân chúng xảy ra ở khắp nơi mà lư do chính là v́ nỗi nhục nhă và tuyệt vọng. Cùng lúc ấy c̣n có khoảng hơn 1000 người xúc động đến độ mất trí vĩnh viễn, tính riêng tại Sài G̣n.

    Một số trường hợp điển h́nh: Ngay buổi trưa hôm ấy, một trung tá QLVNCH tự sát bằng súng lục truớc trụ sở Hạ Viện VNCH, một trung tá QLVNCH khác cùng vợ và 7 con tự sát bằng súng tại nhà riêng và 5 sĩ quan cấp tá tự sát bằng độc dược tại bộ Tổng Tham Mưu. Buổi chiều, 5 trung sĩ cùng tự sát bằøng độc dược tại nhà của một người ở khu Lăng Cha Cả.

    Nổi tiếng nhất là trường hợp các Tướng Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú đă tự sát trong ngày 30/4/75 sau khi binh sĩ buông súng. Các vị này cũng là những tướng lănh trong sạch có tiếng trong QLVNCH.

    Tại tỉnh Chương Thiện, Tỉnh Trưởng là Đạị Tá Hồ Ngọc Cẩn không tuân lệnh đầu hàng, cùng binh sĩ thuộc quyền tiếp tục chiến đấu vô cùng anh dũng. Hơn 24 giờ sau khi đă hết đạn, tỉnh lị mới bị địch tràn ngập và Đại Tá Cẩn sa vào tay địch. Ông cuơng quyết không chịu khuất phục và bị địch hành quyết sau đó.



    Chỉ v́ thiếu ngân sách tuyên truyền và v́ khuynh hướng thiên vị của một số trong giới truyền thông , những gương hy sinh và anh hùng ấy đă không được truyền đi rộng răi trên thế giới.



    V. CÁC CHIẾN TÍCH



    Trong 20 năm chiến đấu, QLVNCH lập được nhiều chiến tích quan trọng cả về mặt an ninh diện địa lẫn chiến tranh quy ước. Nổi bật nhất như:

    - Tổ chức thành công các chiến dịch tiếp thu và b́nh đinh vào năm 1954 những vùng do CS chiếm cứ phía Nam vĩ tuyến 17 phải trả lại cho chính phủ quốc gia.

    - Tảo thanh dẹp phiến loạn B́nh Xuyên và các Giáo Phái ly khai năm 1954 tạo điều kiện thống nhất quân đội quốc gia

    - Hành quân chiến thắng Plei Me Cao Nguyên Trung Phần năm 1965

    - Hành quân phá vỡ hậu cần CSBV tại mật khu Đỗ Xá (ranh giới Kontum- Quảng Ngăi năm 1964ơ

    - Chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 như đă nói ở trên.

    - Hành quân phá vỡ hậu cần của CSBV tại Cam Bốt năm 1971

    - Chặn đứng các cuộc tấn công vũ băo của CSBV tại mặt trận An Lộc. Dưới làn mưa pháo của CSBV có khi đến 8000 trái mỗi ngày, lực ượng QLVNCH pḥng thủ An Lộc vẫn giữ vững thị xă, phản công tiêu diệt nhiều chiến xa và đại pháo của địch.

    - Chặn đứng và giữ vững mặt trận Kontum tháng 5 năm 1972 của Sư đoàn 23 bộ binh trước sức tấn công liên binh của nhiều sư đoàn CSBV

    - Hành quân phản công tái chiếm Quảng Trị tháng 6 năm 1972 của Quân Đoàn I và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến

    - Giữ vững tuyến pḥng thủ Xuân Lộc trong nhiều ngày của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đầu tháng 4 năm 1975 trước mũi dùi tấn công ác liệt của nhiều sư đoàn CS có thiết giáp và pháo binh yểm trợ.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH


    - Tuy nhiên QLVNCH c̣n hàng trăm trận thắng khác ở cấp trung đoàn trở xuống nhưng ít được hoặc không hề được nhắc nhở đến. Ngoài ra, các đơn vị VNCH cũng tham dự cùng lực lượng Mỹ trong các cuộc hành quân lớn từ Cedar Fall, Johnson City, Plei Me đến A Shau, Khe Sanh nhưng không mấy khi được báo chí Mỹ nhắc đến.

    - Về mặt an ninh diện địa, các đơn vị bán quân sự và Cảnh Sát Quốc Gia đă thành công rực rỡ trong chiến dịch Phượng Hoàng phá vỡ hạ tầng cơ sở của địch.

    - Trong các chiến tích, đáng ghi nhớ nhất về mặt lịch sử chống ngoại xâm là trận hải chiến giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa sau Hiệp Định ngưng bắn Paris.

    Trung tuần tháng 1 năm 1974, quân đội Trung Cộng lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH. Hải Quân VNCH ở thế bất lợi với 2 tầu tuần dương, 1 tầu khu trục, 1 tầu hộ tống, 1 đại đội Biệt Hải, 1 trung đội địa phương quân, không được Không Quân yểm trợ, cũng không được Mỹ giúp đỡ. Hải Quân Trung Cộng với 14 tầu đủ loại trong đó có 4 phi tiễn đĩnh (guided-missile frigate) và có Không Quân yểm trợ. Lực lượng Hải Quân VNCH tuy yếu hơn nhưng đă anh dũng chiến đấu suốt ngày 19/1/1974. Kết cục phía Trung Cộng có 1 tầu ch́m, tất cả số c̣n lại bị hư hại từ nặng đến trung b́nh; không rơ thiệt hại nhân mạng. Phía VNCH 1 tầu tuần dương ch́m, 1 hư hại nặng và 2 hư hại trung b́nh, chết trên 50 binh sĩ và một hạm trưởng, khoảng 20 mất tích và 50 bị bắt. Trung Cộng chiếm giữ quần đảo này từ đó.

    Trong khoảng thời gian này, Phái đoàn CSVN trong Ban Liên Hợp Quân Sự Hai Bên khi được yêu cầu minh định lập trường xác nhận Quần Đảo Hoàng Sa thuộc lănh thổ Việt Nam đă tránh né không trả lời.



    VI. HOÀN CẢNH



    1. Hoàn cảnh Khách Quan



    a. Vai Tṛ của Hoa Kỳ. QLVNCH là một quân đội của một nước độc lập, có chủ quyền. Nhưng từ khi chiến tranh mở rộng phạm vi và cường độ, Hoa Kỳ đă dành quyền lănh đạo chiến tranh. Điều đó dễ hiểu v́ Hoa Kỳ cung cấp gần 100% chiến phí cho QLVNCH tất họ phải dành quyền quyết định. Hoàn cảnh này không khác ǵ hai cường quốc Cộng Sản đối với CSVN, chỉ khác nhau về cách thức tŕnh diễn bề ngoài.

    Tuy thế Hoa Kỳ cũng vẫn tôn trọng chủ quyền của QLVNCH ở mức độ khá cao, thí dụ như việc phía VNCH không chấp nhận đề nghị của Mỹ lập Bộ Tư Lệnh hỗn hợp. Tuy nhiên quan niệm chiến lược và chiến thuật của QLVNCH khác hẳn với phía Mỹ ở nhiều mặt. Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác, nhiều người Mỹ vẫn mang tính tự tôn ”American know-how” thích làm theo ư ḿnh. Do đó việc phối hợp giữa hai bên kém chặt chẽ.

    V́ lệ thuộc vào vũ khí và chiến phí, khi Mỹ rút viện trợ th́ QLVNCH phải thất trận. Không một quân đội nào ngoài các cường quốc kể cả quân các nước Cộng Sản nhỏ như CSVN có thể đứng vững khi bị ngưng viện trợ quân sự.

    Một vấn đề quan trọng về liên hệ giữa QLVNCH với quân lực Mỹ là những cố vấn quân sự cạnh các đơn vị VNCH. Trên thực tế, họ chỉ có các nhiệm vu liên lạc, yểâm trợ huấn luyện, hỏa lực và tiếp vận, kỹ thuật. Các cố vấn quân sự Mỹ không có quyền hạn ǵ trong các quyết định về quản trị nhân sự, chọn lựa tối hậu về kế hoạch hành quân. Các sĩ quan cố vấn là lớp nguời Mỹ hiểu biết nhiều về Việt Nam và đă tạo được cảm t́nh tốt từ phía người Việt. Công việc làm và tư cách của họ hoàn toàn khác hẳn người vai tṛ của nguời Pháp đối với QĐQGVN trước năm 1954. Tiếc rằng h́nh ảnh đẹp ấy đă không được giới truyền thông chuyển đến quần chúng Mỹ.

    Cũng liên quan to lớn đến h́nh ảnh của Mỹ ở Việt Nam là vai tṛ của CIA. Từ khi CIA gia tăng hoạt động ở Việt Nam th́ theo sau từ ngữ “CIA” là một chuỗi huyền thoại hay cũng như dở đă gắn sâu vào kư ức của nhiều người Việt Nam và dĩ nhiên đến tinh thần binh sĩ VNCH. Nói đến CIA là nói đến những mưu mô gian trá và tàn nhẫn của người Mỹ, đánh đổ những tin tưởng vào các chính sách hào phóng, trọng công lư và tự do dân chủ của Hoa Kỳ.

    b) Phong trào phản chiến. Trong lúc QLVNCH đang chiến đấu, th́ hoàn cảnh thế giới diễn tiến bất lợi cho chính quyền Mỹ. Phong trào chống Mỹ trên thế giới đồng loạt với phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ mượn Chiến Tranh Việt Nam, chế độ VNCH và QLVNCH làm đề tài cho những luận điệu xuyên tạc, thiên vị vu cáo nhằm công kích chính quyền Hoa Kỳ, biến QLVNCH thành con tốt thí cho những mưu đồ chính trị phe phái ở Mỹ.

    c) Vai tṛ của khối công sản quốc tế. Không nên quên rằng QLVNCH và lực lượng đồøng minh ở Việt Nam không phải chỉ chốùng lại lực lượng CSVN mà phải đối phó với cả khối Cộng Sản quốc tế mà chủ yếu là Liên Xô và Trung Cộng. Hai nước này tích cực ủng hộ cuộc chiến tranh chiếm Miền Nam của CSVN dồi dào và bền bỉ cho đến khi Mỹ chịu thua trước.



    2. Hoàn Cảnh Đất Nước.



    a. Lănh đạo. Một yếu tố nội tại của đất nước Việt Nam gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho QLVNCH và cuộïc chiến đấu bảo vệ Miền Nam là Khủng Hoảng Lănh Đạo. Chiến dịch thủ tiêu có hệ thống và có chọn lựa các nhân sĩ yêu nước không-cộng-sản và những thanh niên có tài đức bị cho là sẽ trở thành các lănh tụ chống Cộng đáng kể sau này do đảng CSVN thực hiện đă có tác dụng rơ rệt trong Chiến Tranh Việt Nam. Lớp tuổi già dặn chỉ c̣n một ít nhân vật có uy tín và tài đức để lănh đạo ở cấp quốc gia, không có nhiều để chọn lựa . Những người trong lớp tuổi trẻ hơn có thể đảm trách các trách vụ cấp cao trong chính quyền và quân đội càng ít hơn.









    b. Riêng trong QLVNCH, số sĩ quan cao cấp giữ các chức vụ chiến lược có đạo đức, uy tín, khả năng, ḷng yêu nước và ư chí tranh đấu không nhiều. Đa số có thể có uy tín, trong sạch nhưng rất ít người có ḷng yêu nước đủ cuồng nhiệt để làm cho quân đội mạnh hơn, đủ ư chí và tài năng để lănh đạo cuộc chiến tranh cam go chống lại cả khối Cộïng Sản.

    Giới lănh đạo ngành hành chánh c̣n ở vào t́nh trạng khó khăn hơn. Một số chống cộng chỉ đơn giản v́ cho rằng CSVN là một tổ chức phiến động, đă gây nguy hại cho bản thân và quyền lợi cá nhân họ mà thiếu hẳn lập trường tư tưởng vững chắc.

    c. Lớp người trẻ có nhiều tài năng sẽ có thể là những nhà lănh đạo xuất sắc trong tương lai không trưởng thành kịp với tốc độ biến chuyển của t́nh thế nên chưa thể đưa họ vào các chức vụ lănh đạo cấp cao.
    d. Trong hoàn cảnh như thế, các chế độ phải cử nhiều quân nhân sang nắm giữ các chức vụ hành chánh. Từ năm 1955, một số ít sĩ quan QLVNCH được chỉ định làm quận trưởng, tỉnh trưởng v́ t́nh h́nh an ninh đặc biệt của các địa phương cần có sĩ quan cầm đầu để chỉ huy các đơn vị quân sự dễ dàng. Sang giai đoạn 1961 và nhất là sau năm 1965 trở đi tất cả số tỉnh quận VNCH đều do các sĩ quan QLVNCH cầm quyền. T́nh h́nh này giống như ở hầu hết các nước đang phát triển.

    Trong chế độ quân nhân cầm quyền từ trên xuống dưới, VNCH đă đạt được những thành quả tốt nhưng nhất thời về an ninh trật tự, về phong cách làm việc. Tuy nhiên trong môït giới hạn nào đó, các quân nhân cầm quyền dễ tạo khe hở cho nạn tham nhũng lan rộng cũng như có thể tạo khuynh hướng quân phiệt.

    Do đó có thể đi đến một nhận định căn bản là t́nh trạng khủng hoảng nhân sự lănh đạo của nước VNCH cũng như của QLVNCH là một trong những nguyên nhân chính tạo ra thất bại sau cùng ngày 30/4/1975.



    3) Hạn Chế Về Tiềm Năng Chiến Tranh.



    Chính nghĩa của của Miền Nam là bảo vệ tự do, dân chủ cho VNCH nên không thể có những chính sách mạnh bạo, cứng rắn đối với dân chúng như chính sách của CSVN đối với dân chúng của họ để yểm trợ quân đội. Thí dụ như VNCH không thể hy sinh mạng sống và hạnh phúc của một số đông đảo dân chúng để huy động hàng triệu dân công và số lượng thực phẩm lớn lao phục vụ quân đội như phe CSVN đă làm.



    4) Hạn Chế về Kỷ Luật Chỉ Huy.



    QLVNCH cũng không thể áp đặt một hệ thống kiểâm soát và kỷ luật tàn bạo và giáo điều của một chủ nghĩa để buộc binh sĩ phải tuân lệnh triệt để như quân đội CSVN v́ quan điểm của quần chúng về dân chủ rất mạnh đ̣i hỏi con em họ được tôn trọng trong quân đội VNCH. Người lính VNCH cũng hiểu biết rơ về dân chủ và quyền hạn của họ nên không thể áp đặt lên đầu họ những biện pháp quá khe khắt.



    5) Nhiệm Vụ Nặng Nề.



    QLVNCH phải đối phó với một cuộc chiến tranh gồm nhiều mặt trận ngoài mặt trận quân sự như tuyên vận, kinh tế, xă hội, văn hóa... từ ấp xă trở lên trong điều kiện nửa du kích, nửa trận địa. Cả 3 thứ quân (chủ lực, địa phương quân, nghĩa quân) phải chiến đấu trên một chiến trường rộng lớn và đa dạng: phải vừa t́m và diệt địch và chống lại các cuộc tấn công của địch mà c̣n phải bảo vệ dân chúng, cơ sở kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, văn hóa, y tế, xă hội, các trục giao thông... Hiếm thấy một quân đội nào trên thế giới phải gánh vác những nhiêïm vụ rộng lớn và nặng nề như thế.



    6. Những Lực Lượng Hỗ Trợ QLVNCH



    Trong chiêán tranh, QLVNCH phối hợp chặt chẽ với nhiều lực lương bán quân sự và t́nh báo khác. Nếu không có sự phối hợp này th́ QLVNCH không thể thành công trong phần nhiều các nhiệm vụ. Hai trong số đó là:

    a) Cảnh Sát Quốc Gia.



    Chiến dịch Phượng Hoàng của Cảnh Sát VNCH với sự yểm trợ của CIA Hoa Kỳ đă thành công tốt đẹp, không phải bằng những cuộc tàn sát dă man như một số người có ác ư vu cáo.

    Chiến dịch này đă phá vỡ đại đa số các cơ sở hạ tầng của đảng CSVN tại Miền Nam vào năm 1971-1972, tạo một hậu phương tuơng đối yên ổn phía sau các chiến tuyến, hoạt động phá hoại quấy rối của du kích đượ c coi là không đáng kể. Nhưng đáng tiếc là QLVNCH không khai thác được tối đa thuận lợi này trên các chiến trường năm 1972.

    b) Xây Dựng Nông Thôn


    Một chương tŕnh quan trọng của chính phủ VNCH là Xây Dựng Nông Thôn mà tiền thân của nó là các chương tŕnh Ấp Chiến Lược (1962-63) và B́nh Định (1964-65).

    Các đoàn XDNT có vơ trang hoạt động khá hữu hiệu với sự yểm trợ của QLVNCH. Ngược lại các đoàn XDNT cũng góp phần giúp QLVNCH về mặt t́nh báo, tuyên vận. Đại đa số các ấp xă được coi là yên ổn vào năm 1972, đặt nền móng chính trị tạm ổn định đối với ít nhất là 60% dân số cho đến khi t́nh h́nh quân sự suy đồi sau Hiệp Định Paris 1973.



    VII. THẾ LỰC THÙ ĐỊCH



    1. Lực Lượng CSVN.



    Lực lượng CSVN từ du kích đến chính quy cấp địa phương và cấp quốc gia đều được đặt dưới quyền sinh sát của Đảng CSVN. Đảng dùng chính sách ngu dân để nhồi sọ binh sĩï về tư tưởng một cách tinh vi và áp dụng những h́nh thức kỷ luật áp chế tâm lư để buộc binh sĩ phải hành động máy móc. Quân sĩ CSVN được ăn no gấp rưỡi nông dân nhưng sức khỏe và tính mạng họ bị coi thường. Tản thương và cứu thương không được hưởng ưu tiên. Quân trang, đồ dùng hầu như rất ít ỏi để bảo đảm tính lưu động cao. Đời sống gia đ́nh của binh sĩ gần như không có. Do đó quân đội CSVN có khả năng tác chiến với lưu động tính cao mặc dù rất đói rách.

    Kẻ địch của VNCH áp dụng một thứ vũ khí lợi hại hơn bất cứ thứ bom đạn nào để kiểm soát và vận động quần chúng: đó là khủng bố kết hợp với tuyên truyền (xem phần nói về CTTL).

    Về biện pháp khủng bố, quân chính quy VNCH không có khả năng ngăn chận v́ đó là công việc an ninh lănh thổ do các viên chức xă ấp, quận huyện chịu trách nhiệm. Nhưng chỉ với một khẩu súng, một tên cán bộ an ninh có thể khống chế chặt chẽ một ấp 500 dân trong vùng chúng kiểm soát ban đêm, buộc họ nộp lương thực, đóng thuế, đi dân công, đi biểu t́nh...

    Lực lượng CSVN có sức mạnh lớn nhất là nguồn nhân lực. Ở Miền Bắc, đảng ủy xă và hệ thống hộ khẩu và lương thực khe khắt đến từng 10 gram gạo là sức mạnh cưỡng bách hàng triệu thanh niên vào Nam chiến đấu, xây dựng các tuyến đường tiếp vận kỳ diệu bằng sinh mạng hàng trăm ngàn thanh thiếu niên, điều mà không chính phủ nào ở Miền Nam dám làm dù có thể làm được.

    Chế độ CSVN không tiếc sinh mạng quân lính của họ để đạt những mục tiêu dù lớn hay nhỏ. Họ thường chấp nhận tổn thất sinh mạng trên 5 lần, có khi đến 10 lần so với phe địch để chiếm cứ mục tiêu. Khó có thể chỉ dùng hỏa lực quy ước mà hy vọng làm tiêu hao nguồn nhân lực của phe CSVN được dùng không thương tiếc và không giới hạn như thế.





    2. Truyền Thông Thù Nghịch.



    QLVNCH phải đối phó với một lực lượng thù địch ở ngay bên cạïnh ḿnh mà không thể phản công được. Đó là một số người trong giới truyền thông có định kiến thù nghịch với Mỹ và VNCH. Họ chỉ thấy và loan tin về sự xấu của phía bên này và luôn luôn ca tụng mọi điều mặc dù họ không thấy và không hề biết nhiều về phía bên kia. Lực lượng thù địch này là lực lượng chính công khai đánh bại QLVNCH mà không bị ngăn chận hoặc tiêu diệt.

    Trong nhiều trận đánh, CSVN tổn thất cực kỳ nặng nề, QLVNCH chiếùn thắng lớn mà tin tức trung thực không được quần chúng biết đến. Nhưng sự thực đă bị bưng bít và dối trá đă được thổi phồng khiến nhân dân Mỹ thất vọng quay sang chủ bại và khuyếùn khích phong trào phản chiến dâng lên cao độ.

    Một trong những lư do gây ra t́nh trạng thông tin không đầy đủ và thiên vị này là v́ đa số các phóng viên không biết tiếng Việt Nam nên chỉ đến với quân đội Mỹ và loan tin về lính Mỹ và người Mỹ chỉ đón xem các phóng sự về lính Mỹ mà thôi. Họ cũng ít biết về nguồn gốc lịch sử cuộc tranh chấp quốc-cộng nên dễ bị đầu độc và lừa dối.



    VIII.NHỮNG KHIẾM KHUYẾT.



    1. Sai Lầm Trong chính Sách Chiến Tranh



    Hoa Kỳ và VNCH phạm phải sai lầm chiến lượïc ở hai mặt trận quan trọng nhất. Phần này bàn về mặt quân sự. Phần về mặt trận tuyên truyền và vận động dư luận sẽ được nói đến tại mục X

    Trong khi phe CSVN coi chính trị là phuơng tiện chính chỉ đạo cho các kế hoạch của quân đội, phe VNCH và Hoa Kỳ lại coi phương tiện quân sự là chủ yếu và dành cho các mặt trận khác ưu tiên rất thấp. Các bộ phận lănh đạo chiến tranh giải quyết chiến trường bằng hỏa lực pháo binh và không quân là chính. Đôi khi việc sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân thiếu cân nhắc đă gây những thiệt hại lớn có thể tránh được cho thường dân, tạo ra bất măn khó hàn gắn.

    Sức mạnh hỏa lực chỉ hữu hiệu tối đa ở các chiến trường quy ước. Ở Việt Nam, kẻ địch của VNCH và Mỹ không hề quan tâm đến số thương vong lớn lao của binh sĩ, miễn là đạt được mục tiêu đă định. Họ cũng không quan tâm đến sự gian khổ của quân sĩ, chỉ trang bị cho binh sĩ thật ít ỏi, nhẹ nhàng để di chuyển mau lẹ. Khả năng phân tán rộng và nhanh khi bị phản công đă làm cho sức mạnh hỏa lực của VNCH và Hoa Kỳ giảm nhiều hiệïu lực.



    2. Phân Nhiệm các Lực Lượng



    Các đơn vị chủ lực QLVNCH được tổ chức nhằm mục đích chiến tranh quy ước, và không thể xé nát để đối phó với chiến tranh du kích. Trận chiến sau cùng bao giờ cũng là các cuộc điều động trân địa chiến. Nhiệm vụ chống du kich đang lẽ là do Địa Phương Quân và Nghiơa Quân đảm nhiệm đă không thực hiện được đầy đủ. Các cấp hữu trách về quân sự có khuynh hướng chính quy hóa các đơn vị ĐPQ. Nhu cầu chống du kích khủng bố đ̣i hỏi đơn vị an ninh diện địa phải phân tán mỏng và lưu động cao nhưng nếu làm như vậy cấp chỉ huy từ đại đội trở xuống sẽ rất vất vả. Các binh sĩ thường ưa đi hành quân với số đông đồng đội v́ họ có cảm giác an toàn hơn.



    3. Sử Dụng Binh Lực.



    Một sai lầm khác là dùng quân phí phạm. Vào lúc chiến tranh chưa lan rộng, nhiều khi chỉ có một tiểu đội du kích xuất hiện ở xa, cả một đại đội hoặc một tiểu đoàn đă được dùng để truy lùng dù biết rằng vô hiêu. Binh sĩ hành quân liên miên, ít được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Vào thời kỳ chiến tranh lên cao, v́ lo lắng giữ lănh thổ nên quân lực được trải ra quá mỏng. Quân sĩ ta dễ bị quấy rối và dễ rơi vào thế bị động. Do đó khả năng lưu động kém nên mức độ an ninh lănh thổ thấp. Trong những năm sau cùng, lực lượng tổng trừ bị cũng bị cầm chân khá nhiều vào nhiệm vụ diện địa. Quân đội không có một lực lượng trừ bị hùng hậu mà bất cứ lực lượng vơ trang nào cũng cần phải có.



    4. Chống Du Kích.



    Ngay từ những ngày đầu cuộc chiến nhất là từ 1959, nhiều cấp chỉ huy QLVNCH vẫn ưa dùng các chiến thuật hành quân trận địa mà quân đội Pháp và nhiều nước có chiến tranh thông thường áp dụng. Để đối phó với các hoạt động du kích các cấp chỉ huy quân sự chỉ phản ứng thụ động bằng các chiến thuật xưa cũ. Nhiều đơn vị và địa phương có sáng kiến phản du kích rất hữu hiệu nhưng chỉ được áp dung cucï bộ, không đuợc phổ biến và đồng nhất hóa một cách có hệ thống trong toàn quân.

    Tuy gặp khó khăn trong giai đoạn đầu của chiến tranh khi phải đối phó với du kích chiến, các đơn vị từ cấp sư đoàn trở xuống của QLVNCH tỏ ra hữu hiệu khi phải giao tranh với kẻ địch trong trận địa chiến. Các cuộc tấn công và pḥng thủ chống lại lực lượng địch đông đảo gấp 4 đến 5 lần (như mùa hè năm 1972 tại Quân Khu I), các đơn vị VNCH đă áp dụng các chiến thuật quy ước với thành quả khá cao. Mức độ phối hợp pháo binh, thiết giáp và bộ binh khá chặt chẽ trong khi địch tỏ ra lúng túng trong việc điều động các đơn vị hỗn hợp thiết giáp với bộ binh như tại mặt trận Đông Hà và An Lộc năm 1972.



    5. T́nh Báo.



    Hệ thống t́nh báo của QLVNCH cũng như của VNCH không có sức mạnh tích cực. Tuy có nhiều thành công chiến thuật nhưng yếu về mang lưới chiến lược, không có dấu hiệu xâm nhập được nhiều vào các bộ phận quân sự trọng yếu của địch.

    Ngành phản t́nh báo cũng tỏ ra hữu hiệu nhưng không đủ để phá tan được các ổ nội tuyến cấp cao. CSVN đă gài được nhiều nội tuyến và gián điệp trong hàng ngũ QLVNCH.



    6. Hoạt Động Đặc Biệt: T́nh Báo Vùng Hậu Tuyến Địch,



    Các trại LLDB Biên Pḥng và các đơn vị Dân Sự Chiến Đấu đă đóng một vai tṛ đáng kể trong việc huấn luyện cho các toán Thanh Niên Chiến Đấu (sau là Nghĩa Quân) ở các ấp xă vùng ven biên nhưng chỉ thành công có giới hạn trong việc phát giác và ngăn chận địch xâm nhập v́ vùng biên giới với Lào và Cam Bốt quá rộng lớn.

    Tuy nhiên các cuộc hành quân xâm nhập hậu tuyến địch của các toán viễn thám và các toán biệt cách thuộc Nha Kỹ Thuật cũng như các toán hỗn hợp Việt-Mỹ Study and Observation Group đă đạt nhiều thắng lợi mà dư luận báo chí ít biết tới. Riêng các toán xâm nhập Bắc Việt trong kế hoạch OPLAN 34-A tỏ ra vô cùng xuất sắc và anh dũng trên đất địch. Nhưng kế hoạch này chỉ thành công giới hạn v́ mục tiêu, phương thức và kỹ thuật do kế hoạch đặt ra không thích hợp mặc dù các chiến sĩ tham dự là những phần tử chọn lọc, ưu tú và can đảm nhất của quân đội. Một số hàng trăm chiến sĩ can trường này bị bỏ rơi, coi như đă chết trong khi họ bị giam trong các trại tù ở Bắc Việt hơn 20 năm trời mà vẫn giữ vững tinh thần cho đến khi chính phủ Mỹ không thể tránh né trách nhiệm nên phải nhận cho họ sang định cư và trả trợ cấp cho họ.



    7. Quản Trị Quân Lực



    QLVNCH không có một hệ thống bổ nhiệm và sử dụng nhân sự hữu hiệu. Hàng ngũ hạ sĩ quan không được quan tâm để củng cố thành cột xương sống của quân đội như trong các quân lực Anh Pháp Mỹ. Việc bổ dụng sĩ quan nhiều chỗ không hợp lư và không có quy luật vững chắc. Việc luân chuyển để đa năng hóa cán bộ không đuợc thực hiện đứng đắn.

    Hệ thống thăng thưởng không hợp lư. Huy chương bị mất giá trị v́ được cấp bừa băi. Điều này khiến cho cấp bậc được dùng để tưởng thưởng công trạng thay cho huy chương. Lẫn lộn tai hại giữa công trạng và khả năng gây ra hậu quả đáng tiếc cho uy tín của cấp bậc và khiến cho cuộc ganh đua để tiến thân của cán bộ trong quân đội không c̣n giữ y nguyên tính chất của một cuộc thi đua công b́nh nữa.

    QLVNCH áp dụng nhiều quy tắc quản trị quân lực của Hoa Kỳ nhưng không chịu mô phỏng theo khung tổ chức và điều hành guồng máy quân pháp của Mỹ như tổ chức các toà quân sự “judge advocate” từ cấp tiểu đoàn (summary court-matial) trở lên. Trái lại các cấp lănh đạo vẫn duy tŕ hệ thống phạt theo quyết định đơn phương của cấp chỉ huy từ “cấm trại” đến “phạt giam” (8 đến 60 ngày tù). Trên mức này mới ra ṭa án quân sự. Hệ thống này là của Quân Đội Pháp để lại, tỏ ra không c̣n thích hợp với QLVNCH.

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH

    IX. NHỮNG ƯU THẾ CỦA QLVNCH



    1. Về tổ chức, QLVNCH có một hệ thống liên kết rất chặt chẽ và khoa học từ trên xuống dưới và có trật tự chỉ huy. QLVNCH lại được trang bị những loại vũ khí tối tân nhất nh́ thế giới và một hệ thống tiếp vận đa dạng và hữu hiệu.

    2. QLVNCH có một hệ thống huấn luyện hiệu quả cao với các trường đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, thiếu sinh quân và nhiều trung tâm huấn luyện binh sĩ và chuyên môn.Tuy nhiên, công cuộc huấn luyện về kỹ thuật các ngành thành công hơn là về những chiến thuật chống du kích đặc biệt cho chiến trường Việt Nam.

    3. Về kỹ thuật quân sự, Pháo Binh QLVNCH có tŕnh độ kỹ thuật tác xạ khá cao. Nhiều đơn vị Mỹ đă chọn pháo binh VNCH yểm trợ thay v́ pháo binh Mỹ trong các cuộc hành quân hỗn hợp. Các ngành Quân Cụ, Công Binh và Truyền Tin có nhiều thành tích cao về mặt yểm trợ kỹ thuật.

    4. QLVNCH có truyền thống kỷ luật trong diễn tập. Các cuộc phi diễn của Không Lực được coi là xuất sắc nhất Á Châu. Trong nhiều cuộc diễn hành lớn, các đơn vị bộ binh đang chiến đấu diễn hành với kỹ luật hàng ngũ và đẹp không thua bất cứ đội quân nào trên thế giới.

    5. Các sĩ quan và hạ sĩ quan trong QLVNCH hầu hết có tŕnh độ học vấn văn hóa cao. Nhờ thế mà các tội phạm do các binh sĩ vô kỷ luật gây ra bị hạn chế rất nhiều. Tuy nhiên đây cũng là một yếu điểm so với phe CSVN. Quân đội CSVN tổ chức hàng ngũ sĩ quan cấp thấp gồm các phần tử ít học nhưng cực kỳ trung thành với đảng nên dễ tuân lệnh một cách máy móc và mù quáng, kiên tŕ chiến đấu và rất cứng rắn đối với thuộc cấp.



    X. MẶT TRẬN TUYÊN TRUYỀN VẬN ĐỘNG



    Cho đến nay, rất ít người đánh giá đúng sức mạnh và tác dụng của mặt trận chiến tranh tâm lư trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam.

    Trong cuộc chiến tranh này, người lính và người dân Việt Nam là mục tiêu chính, là chủ thể chính của mọi hành vi chiến tranh và chính trị. Ngoài những đặc điểm chung của con người, người Việt Nam c̣n có những đặc điểm tâm lư riêng khiến họ phản ứng khác biệt đối với cùng một tác động tâm lư.



    1. Nỗ Lực Chủ Động của CSBV.



    Nỗ lực tuyên truyền và vận động dư luận của lực lượng CSVN nhằm bôi nhọ QLVNCH và Mỹ giữ vai tṛ tích cực và ưu tiên hàng đầu. Không bao giờ họ bỏ lỡ một cơ hội để khoe khoang về quân đội của họ và nói xấu kể cả vu cáo đối phương. HọÏ đă thành công trong nhiều mưu chước lừa dối dư luận.

    CSBV được cả khối Cộng Sản quốc tế yểm trợ mạnh mẽ về mặt tuyên truyền, báo chí không kém yểm trợ về quân sự. Số sách báo ngoại ngữ để tuyên truyền của Hà Nội phát hành tại các nước ngoài nhiều gấp hàng trăm lần của VNCH. Có thể nói chế độ CSBV đă “buộc dân nhịn ăn để đảng nói dóc.”



    2. Sự Thụ Động của VNCH và Hoa Kỳ.



    Trái lại, các cấp lănh đạo chiến tranh ở Hoa Thịnh Đốn và Sài G̣n vốn không coi trọng tác động tâm lư nên thường mắc vào những sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng trong mặt trận tuyên vận. Nhiều người coi các chiến thuật tuyên vận là những biện pháp phụ thuộc sau khi đă hành quân xong, có rảnh th́ làm. Phương cách chủ yếu vẫn chỉ là những việc rải truyền đơn, phóng thanh, những chuyến khám bệnh phát thuốc, tŕnh diễn văn nghệ, xây dựng các trạm y tế, trường học, phát quà bánh tạêng vật... Quan nịệm chủ yếu đáng lẽ phải coi công tác CTTL là nhiệm vụ của mỗi người lính, thực hiện bằng nụ cười, cái bắt tay thân thiện... và vận dụng mọi cơ hội để tranh thủ “con tim và khối óc” của từng người dân, người lính, kẻ thù và dư luận. CTTL đáng lẽ phải được coi là nghệ thuật, không phải chỉ là kỹ thuật.



    3. Khai Thác Thắng Lợi



    Phe VNCH và Mỹ không nói lên được những điều tốt về quân đội của ḿnh trong khi Hoa Kỳ là nơi kỹ nghệ quảng cáo dẫn đầu thế giới. Thí dụ nổi bật là chỉ v́ không quảng bá đầy đủ tin tức mà chiến thắùng vĩ đại nhất, Tết Mâu Thân 1968, bị dư luận cho là QLVNCH và Mỹø đại bại.

    Thắng lợi quan trọng nhất của QLVNCH và đồng minh năm 1968 lại là trên mặt trận TLC, hơn hẳn mặt trận quân sự. Trước 1968, một số đông dân chúng Huế có lập trường phản chiến, chống chính phủ Sài G̣n. Sau Tết Mậu Thân 1968, đại đa số dân chúng khắp nơi nhất là ở Huế, đặc biệt là giới thanh thiếu niên đă quay hẳn sang phía VNCH tạo ưu thế tâm lư cho QLVNCH. Không có quần chúng nổi dậy ở bất cứ nơi nào như các lănh tụ CSVN tin tưởng. Thế mà Mỹ và VNCH đă không thể nói lên cho thế giới bên ngoài biết rơ sự kiện rất quan trọng này.

    Một thí dụ nhỏ cho thấy các chiến lược gia Mỹ không uớc tính được yếu tố tinh thần của binh sĩ VNCH. Có những dấu hiệu cho thấy cấp lănh đạo chiến tranh ở Hoa Kỳ không có dự liệu được những tác động từ kế hoacïh Việt Nam Hóa, thí dụ như trang bị vũ khí cho QLVNCH. Vào năm 1964 và 1965, quân CSVN đă được trang bị súng AK-47 có khả năng áp đảo vũ khí của QLVNCH như súng trường Garand M-1, Carbine và Thompson khiến nhiều binh sĩ VNCH mất tinh thần. Măi đến năm 1969, Mỹ mới trang bị súng M-16A1 cho toàn thể QLVNCH. Chậm chạp, so đo, tiếc của trong “Cách Cho” làm giảm phần nào giá trị cao quư mà “của cho” mang lại.



    4. Nỗ Lực Từ Phía Hoa Kỳ.



    Quân Đội Mỹ đă có những nỗ lực chiến thuật đáng kể về mặt trận CTTL. MACV có nhiều tiểu đoàn Tâm Lư Chiến/Dân Sự Vụ yểm trợ các phi cơ phóng thanh và rải truyền đơn, các toán Quân Y Dân Sự Vụ kết hợp với TLC/DSV của Việt Nam.

    Kết quả ở mứùc trung b́nh. Măi đến sau khi VNCH sụp đổ, tác dụng chậm của những hoạt động này mới ngấm sâu trong tâm tư của nhiều người dân Miền Nam.

    Pḥng Thông Tin Mỹ có những cố gắng và kỹ thuật hữu hiệu trong mặt trận tuyên vận chung nhưng không được dành cho ưu tiên yểm trợ nên khả năng ấy bị giới hạn.

    Phía Mỹ cũng có nỗ lực giúp QLVNCH phản tuyên truyền chống lại chế độ CSVN như xâm nhập vùng biển Bắc Việt làm công tác tuyên vận, lập đài phát thanh mạnh Tiếng Nói Tự Do hướng về dân chúng Miền Bắc (có kết quả tốt) và các đài phát thanh “tuyên truyền xám” khác. Tuy nhiên đây chỉ là những nỗ lực kém ưu tiên với kỹ thuật tuyên truyền không đủ tinh vi. Đáng lẽ phía VNCH và Mỹ phải có nỗ lực thật lớn để dư luận thấùy rơ bản chất của chế độ CSVN tại Bắc Việt và nhất là mặt trái của guồng máy chiến tranh của bộ đội CSBV. Các cấp lănh đạo chiến tranh có lẽ đă không nghĩ rằng trong tuyên truyền cũng như trong quân sự, “tấn công là biện pháp pḥng thủ hữu hiệu nhất.”



    5. Nỗ Lực từ Phía Việt Nam.



    Ngay từ ngày thành lập, chính quyền VNCH và QLVNCH đăơ có nhiều cố gắng cải tiến trận chiến tư tuởng. Từ một cơ quan Chiến Tranh Tâm Lư nhỏ bé trước năm 1954 đến một tổ chức rất lớn là Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị từ năm 1965, hoạt động tuyên vận sâu rộng hơn trước. Ngành này đạt được kết quả tốt trong việc xây dựng tư tưởng cho quân sĩ, vận động dân chúng ủng hộ binh sĩ và cuộc chiến đâú bảo vệ Miền Nam Tự Do, giúp đỡ dân chúng về văn hóa giáo dục, xă hội, y tế...

    Đối với địch, quân đội tiếp tay tích cực với chương tŕnh Chiêu Hồi của chính phủ VNCH, được Hồng Thập Tự quốc tế ca ngợi về thành tích bảo vệ săn sóc tù binh.

    Kết quả là quân đội đă gây được phần nào ḷng tin tuởng của quần chúng, so với thời kỳ trước năm 1954, dân chúng hợp tác với quân đội tích cực hơn nhiều. Số thanh niên t́nh nguyện nhập ngũ luôn luôn cao, đặc biệt tăng vọt trong các thời điểm sôi động như Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè 1972...

    Con số binh sĩ CSVN hưởng ứng chính sách Chiêu Hồi lên rất cao từ năm 1966, tổng cộng trên 160.000 người. Một số đông đảo cựu binh sĩ CSVN nói trên t́nh nguyện nhập ngũ QLVNCH và chiến đấu rất can trường.



    XI. MŨI DÙI CHỈ TRÍCH



    Các cố gắng bôi nhọ QLVNCH và đồng minh được bộ máy tuyên truyền của CS và thái độ ác ư của báo giới phản chiến được tập trung vào các đề tài sau đây:



    1. Tham Nhũng.



    Tham nhũng là căn bẹânh của mọi chính quyền, mọi quốc gia nhưng ở VNCH nó bị khai thác sâu rộng nhất với ác ư chống lại VNCH và QLVNCH.

    Nạn tham nhũng từ trước năm 1954 để lại nhưng dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm các vụ tham nhũng bị hạn chế phần nào. Sau đó đến thời kỳ quân nhân cầm đầu chính quyền các cấp, nạn tham nhũng càng ngày càng trầm trọng. Chiến tranh mở rộng từ năm 1965 lại càng tạo thêm thuận lợi cho các vụ nhận hối lộ mua bán chức vụ, trốn quân dịch, bớùt xén các loại ngân khoản, bán vật dụng của quân đội...

    Nạn tham nhũng bị báo chí Mỹ và nước ngoài phóng đại quá đáng và không chính xác. Thí dụ nạn “lính ma” mà họ thường nói đến. Lối ăn cắp công quỹ kiểu này không được ưa chuộng v́ dễ bị khám phá v́ có nhiều cách ăn cắp khác dễ làm và khó điều tra hơn.

    Một quan niệm được không ít các nhà lănh đạo VNCH chấp nhận và cũng được một số nhân vật Mỹ trong vai tṛ yểm trợ tán đồng. Đó là chấp nhận cho các sĩ quan viên chức tham nhũng có mức độ nếu họ làm việc hăng hái tích cực và hữu hiệu. Kinh nghiệm cho thấy quan điểm này sai lầm nghiêm trọng. Kẻ ăn cắp của công không bao giờ chịu dừng lại ở một giới hạn nào cả.

    So với nạn tham nhũng hiện diễn ra tại Việt Nam, th́ tham nhũng ở VNCH nhất là trong QLVNCH chỉ là các con số bé nhỏ hơn ít nhất hàng chục lần. Tuy nhiên vào thời chiến trước một kẻ thù giỏi tuyên truyền bịa đặt và vu cáo và báo chí bên ngoài thiên vị, có định kiến th́ mức độ tham nhũng ấy tuy nhỏ nhưng cũng đủ gây tai hại nghiêm trọng.



    2. Tội Ác Chiến Tranh.



    Phe Cộng Sản đă thành công khi vẽ ra trước mắt thế giới và đặc biệt là trước nhân dân của họ những h́nh ảnh ghê rợn về Chiến Tranh Việt Nam trong đó lính Mỹ và VNCH thường xuyên giết chóc, hăm hiếp, tra tấn hàng trăm người một lúc một cách tự do không bị trừng phạt.

    Dân chúng dưới quyền cai trị của CSVN chưa hề biết rơ sự thực dễ dàng tin theo những luận điệu vu cáo này v́ họ đă từng chứng kiến quân đội Pháp hành động như thế trước năm 1954. CSVN dựa vào những sự kiện có thật nhưng ít ỏi để làm cho dân chúng nghe tuyên truyền tuởng như đó là tội ác thường xuyên lính VNCH và Mỹ. V́ vậy CSVN dễ gieo căm thù vào đầu óc quần chúng dưới tay họ.

    Bất cứ một quân đội nào cũng có thể có những vụ phạm tội như thế nhất là trong thời chiến. Các đơn vị QLVNCH không thể ngăn chận hoàn toàn các tội phạm chiến tranh. Đă có những vụ vi phạm như cướp bóc tài sản của dân chúng, những vụ tra tấn, giết người nhất là giết tù binh bừa băi và những vụ hăm hiếp phụ nữ trong vùng hành quân. Tất cả là do các hành vi cá nhân lẻ tẻ xảy ra tại những vùng xa xôi và khi các cá nhân này ở ngoài tầm kiểm soát của các đơn vị trưởng cấp thấp. Tuy nhiên con số những vụ phạm pháp này rất thấp so với các cuộc chiến tranh khác trên thế giới. Hầu hết các thủ phạm đều bị truy tố và kết án.

    Một thí dụ khác là công chúng Mỹ biết rất rơ vụ Mỹ Lai với 500 nạn nhân (theo sách báo của CSVN) mà biết rất ít về vụ CSVN tàn sát trên 5,000 người ở Huế tháng 2 năm 1968. Hoặc như các vụ rất hiếm hoi binh sĩ Mỹ và VNCH phạm tội ác chiến tranh được đăng báo nhưng khi ṭa quân sự tuyên án nặng nề th́ ít khi được các báo chí loan tin.

    Nhưng thực tế cho thấy chắc chắn là QLVNCH chưa hề gây ra những vụ tàn sát hàng trăm hàng ngàn nạn nhân như vậy.

    Đối với tù binh, QLVNCH đối xử tương đối khá tử tế, được các bộ phận giám sát của Hồng Thập Tự Quốc Tế công nhận. Ngoài những vụ ngược đăi cá biệt, đời sống tù binh được bảo đảm đúng theo Công Ước Geneva 1949. Vào lúc tiền ăn một ngày của binh sĩ VNCH là 88 đồng th́ tiền ăn của tù binh là 100 đồng (năm 1969).



    3. Tinh Thần Chiến Đấu Thấp.



    Để chứng tỏ rằng lính VNCH không chịu chiến đấu cho tự do của Miền Nam, một số báo chí ngoại quốc có ác ư chỉ khai thác những tin tức va øh́nh ảnh xấu về những hành động cá nhân ươn hèn chạy trốn, bỏ hàng ngũ khi giáp chiến, như bám càng trực thăng để thoát thân khỏi vùng giao tranh. Nhưng hầu như không mấy nhà báo này được - hoặc muốn - sinh hoạt nhiều ngày tháng với các đơn vị VNCH để thấy rơ sức chịu đựng gian khổ, tinh thần hy sinh và các hành vi anh hùng của tuyệt đại đa số binh sĩ VNCH.

    Một trong những lời chỉ trích v́ tin tức không đầy đủ là về nạn đào ngũ trong QLVNCH. Quả thực v́ đời sống quá vất vả gian nguy khiến con số binh sĩ đào ngũ lên khá cao. Theo một vài thống kê tổng số lính VNCH đào ngũ có thể lên tới 700.000 người trong 20 năm chiến tranh.

    Tuy nhiên, đại đa số lính đào ngũ này đều trở lại đơn vị cũ hoặc t́nh nguyện vào đơn vị khác sau một vài tháng lẩn trốn để gần gia đ́nh hoặc nghỉ ngơi. Số binh sĩ thực sự đào ngũ không quay lại chỉ ở một con số rất thấp, có lẽ không cao hơn so với QĐ Mỹ nhiều lắm. Đăïc biệt là số đào ngũ sang phục vụ hàng ngũ địch c̣n hiếm hoi hơn. Các nhà báo và các nhà nghiên cứu ít ai biết hoặc quan tâm đến các sự kiện này.



    XII. TRẬN CUỐI CÙNG.



    Trong mọi cuộc chiến tranh, trận cuối cùng thường là trận quyết định. Trận đánh cuối cùng của Chiến Tranh Việt Nam cho thấy kẻ thắng chỉ hơn kẻ thua ở mức độ kiên nhẫn và chịu đựng của thế lực yểm trợ từ bên ngoài.

    Vào khoảng thời gian từ 1974 đến tháng 3 năm 1975 khi CSVN mở đầu chiến dịch tổng tấn công, viện trợ đạn dược và quân dụng tác chiến thiếu trầm trọng, các máy truyền tin ở cấp đại đội và tiểu đoàn chỉ dùng đuợc 10 ngày mỗi tháng. Cung suất đạn đại bác chỉ c̣n 3 viên/khẩu/ngày. Các đơn vị QLVNCH mỗi ngày thêm mất tinh thần nhưng vẫn chiến đấu bền bỉ.

    Sau khi Phước Long bị CSVN đánh chiếm bất chấp Hiệp Định Paris mà Hoa Kỳ không có phản ứng th́ không c̣n cách ǵ duy tŕ được ḷng tin của binh sĩ nữa. Vậy mà đến phút chót, nhiều đơn vị vẫn c̣n chiến đấu tiếp tục.

    Cùng lúc ấy, lực lượng CSVN cũng đă suy yếu trầm trọng. Trong nỗ lực gần như cuối cùng, các đoàn quân CSVN tiến vào Sài G̣n ngày 30/4/1975 mỗi tiểu đoàn chỉ c̣n trên 100 binh sĩ tuy rằng số lượïng đơn vị tham chiến rất lớn (hàng chục sư đoàn).

    Tại nhiều tỉnh, quận đồng bằng sông Cửu Long hai ngày sau khi Sài G̣n đầu hàng, lực lượng CSVN vẫn chưa có đủ cán bộ và du kích vào tiếp nhận các cơ sở quân sự và dân sự,

    Có thể nói chắc rằng nếu quân lực CSVN bị Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa giảm viện trợ tương tự như Mỹ cắt giảm sự ủng hộ và quân viện cho QLVNCH th́ chế độ CSVN cũng không thể làm ǵ khác hơn là chịu ḥa hay thua.



    XIII. HAI MƯƠI NĂM QLVNCH



    Một câu hỏi không thấy mấy nhà báo hay các nhà nghiên cứu đặt ra về QLVNCH là quân lực này đă ảnh hưởng như thế nào đến xă hội Việt Nam khi c̣n hiện hữu cũng như sau khi bại trận và giải thể.

    QLVNCH là một bộ máy quân sự, nhưng đă đóng góp trực tiếp và gián tiếp khá nhiều cho đời sống của nhân dân Miền Nam Việt Nam.

    a. Về mặt văn hóa, các bộ phận ngành Chiến Tranh Chính Trị, Tâm Lư Chiến với sự đóng góp của nhiều tư nhân đă tiếp tay hữu hiệu vào việc phát triển văn hóa tư tưởng. Hội viên các hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội đă góp phần quan trọng vào lănh vực này với nhiều tác phẩm văn chương, khảo cứu, hội họa, điêu khắc có giá trị lâu dài. Đặc biệt là về sinh hoạt âm nhạc, các nhạc trưởng, nhạc sư, ca nhạc sĩ quân đội đă đóng góp một số lượng lớn các tác phẩm ca nhạc

    bất hủ nhất là các ca khúc thuần túy nghệ thuật ngoài các nhạc khúc phục vụ mục đích cổ vơ tinh thần dân chúng và binh sĩ. Các ban nhạc và ca đoàn ngành CTCT đă đào tạo nhiều ca sĩ có tiếng cho Miền Nam.

    b. Về mặt giáo dục và khoa học kỹ thuật, con số đông đảo các giáo sư nguyên là sĩ quan QLVNCH biệt phái đă đem vào ngành giáo dục phần nào những phong cách tiến bộ và thích hợp khiến nền giáo dục có không khí phóng khoáng hơn. Riêng về khoa học kỹ thuật, các quân binh chủng QLVNCH đă đào tạo nhiều chuyên viên ưu tú các ngành y dược, cơ khí, điện lực, viễn thông, kiến trúc, hàng không, hàng hải...

    Trong hơn 20 năm tồn tại, QLVNCH đă cùng với các cơ sở nghiên cứu và giáo dục khoa học kỹ thuật phiên dịch sang tiếng Việt hầu hết các sách vở, tài liệu, các thuật ngữ khoa học kỹ thuật từ tiêng Anh, khiến công việc

    các cựu quân nhân VNCH đă có gần 400 ngàn là chuyên viên trẻ cao cấp.

    Những thành tựu khoa học kỹ thuật của Miền Nam nói trên đến nay vẫn c̣n co' tác dụng tốt cho nước Việt Nam mà chế độ CSVN đang thừa hưởng với tŕnđộ giáao dục khoa học kỹ thuật cao không thua kém các nước phát triển ở Tây Phương bao nhiêu

    c. Về mặt xă hội, chiến tranh đă khiến một số đông đảo thanh niên phục vụ quân đội trong đó có một phần khá lớn thanh niên trí thức. Ở một mặt, số thanh niên trí thức vào quân đội qua các quân trường trừ bị và hiện dịch đem lại cho quân đội một bộ mặt mới, tác phong mới, ư chí mới.

    Ở một mặt khác, những con người lính trẻ đă làm cho gia đ́nh và bạn bè của ho chịu ảnh hưởng và gần gũi nhiều hơn với quân đội và chiến tranh. Tâm t́nh người lính và những người yêu thương của họ đă là đề tài cho nhiều tác phẩm văn, thơ, nhạc kịch có giá trị c̣n măi trong dân gian.



    XIV. THÊM MỘT LẦN GIAN KHỔ HY SINH



    Sau khi thắng, CSVN đă đối xử với cựu chiến binh QLVNCH một cách hèn hạ, t́m cách trả thù gián tiếp bằng tù đầy, ngăn cản con cái họ lên đại học, đầy đọa đến những nơi rừng thiêng nước độc. Chính v́ thế

    mà ḷng căm phẫn của họ đối với CSVN cao hơn trong chiến tranh gấp nhiều lần. Họ đă hy sinh nhiều trong chiến tranh, nhưng sau chiến tranh họ phải

    chịu hy sinh một lần nữa trong tù đầy cho chính nghĩa của TỰ DO Ngày nay đa số sĩ quan QLVNCH cũ đă được định cư ở nước ngoài. Họ có quyền hănh diện đă đóng góp cho các nước này một khối chất xám của các thế hệ con cháu họ. Được biết trong số hơn 2 triệu người Việt Nam tị nạn trođó một số lớn là thuộc gia đ́nh các cựu quân nhân VNCH đă có gần 400 ngàn là chuyên viên trẻ cao cấp.



    XV. CHÍNH NGHĨA ĐƯỢC CHỨNG MINH.



    Nếu có ai hỏi QLVNCH đă làm ǵ cho tổ quốc của họ, câu trả lời sẽ là “Họ đă làm được nhiều điều cho đất nước và dân tộc họ, tốt nhiều hơn xấu.” Họ đă hy sinh xương máu lớn lao

    để giữ cho một nửa đất nước được sống hơn 20 năm trong tự do dân chủ; dù c̣n hạn chế cùng với một số bất công xă hội, nhưng hơn hẳn Miền Bắc duới chế độ Cộng Sản hàng trăm lần. Đó là một giá

    khá đắt nhưng vinh quang và anh hùng.

    Những hành vi áp bức, bóc lột dân chúng, những thành tích xấu về tự do và nhân quyền, những thất bại to lớn sau khi chiếm Miền Nam và t́nh trạng đạo đức sa đọa cùng các tệ nạn xă hội trầm trọng với cách biệt giầu nghèo quá đáng là những chứng cớ không thể chối căi rằng mặt trận tranh đấu chống CSVN ở Việt Nam và chiến đấu của QLVNCH là vô cùng chính đáng.

    Con số hơn 2 triệu người vượt biển băng rừng tị nạn Cộng Sản bất chấp rủi ro lớn lao làm khoảng 100.000 người chết trên đường đi có lẽ đă quá đủ để chứng minh cho chính nghĩa của VNCH và QLVNCH trong một cuộc chiến mà kẻ xấu và lời nói láo đă thắng, không những thắng một chế độ mà c̣n thắng cả lương tri của nhân loại.

    Nhóm Đặc Nhiệm TTCSVNCHHN

  4. #4
    Member
    Join Date
    28-05-2011
    Posts
    432
    Tôi đă đọc nhiều bài phân tích về cuộc chiến của VN , và hôm nay đọc bài này của Nhóm Đặc Nhiệm TTCSVNCHHN tôi thấy nó đúng đến từng chữ từng nét , tôi cảm phục những người lính QLVNCH và rất ngưỡng mộ họ , với tôi h́nh ảnh những người lính chiến ngày xưa thật oai hùng , thật oanh liệt họ là thần tượng trong quăng đời thơ ấu của tôi , mặc dù lúc ấy tôi c̣n nhỏ , nhưng những ǵ mà người lớn bàn tán lúc ấy tôi cũng hiểu và nhớ rất rơ về những ǵ đă xảy ra chung quanh ḿnh . .

    Trong một chế độ , một xă hội th́ luôn có đủ mọi thành phần , tôi ngưỡng mộ những anh hùng v́ dân v́ nước bao nhiêu th́ tôi lại muốn nguyền rủa những người hại dân hại nước đă đẩy VN đến cớ sự này bấy nhiêu . ‘Thà những kẻ ấy đừng sinh ra th́ hơn “

    Nhiều lúc tôi thắc mắc tự hỏi , tại sao cs lừa lọc , gian ác , xảo trá như thế mà vẫn có người tin theo đến độ say mê bảo vệ đến mù quáng , và tại sao người ta có thể tàn ác với đồng loại của ḿnh đến thế , lư do nào để họ làm ác mà không chùn tay , không bị lương tâm cắn rứt .

    Theo tôi , chẳng phải vô t́nh mà cs tôn thờ chủ nghĩa vô thần , họ đ̣i hỏi , kết nạp đảng viên vô thần là có mục đích .


    Người theo đạo Công Giáo , đạo Phật Giáo hay đạo thờ Ông Bà họ luôn tin tưởng vào kiếp sau họ tin vào quả báo , cuộc đời này không có ǵ là trường tồn và vĩnh cửu , v́ thế những tranh chấp hơn thua , hay làm chuyện ác độc nó bị chặn bởi lương tâm bởi hậu quả , hơn nữa những người có tôn giáo thường g̣ bó ḿnh trong khuôn khổ , luật pháp , và bên trong tinh thần luôn được nhắc nhở “ làm lành lánh ác ” dù họ có làm chuyện ác th́ họ cũng luôn bị lương tâm cắn rứt dày ṿ .

    Đă là con người sinh ra ở trên đời , trong cuộc sống mỗi người ai cũng có mục đích để theo đuổi để làm động lực cho ḿnh vươn tới , mục đích vật chất hay sự nghiệp là do sự chọn lựa của mỗi cá nhân , dù mục đích tầm thường hay cao cả th́ ai cũng có lúc gặp thất bại chán nản , bi quan , v́ thế trong thâm sâu tâm hồn mỗi con người luôn mong muốn t́m thấy một điểm tựa về mặt tinh thần , họ muốn có một lư tưởng nào đó để hướng đến , để quên đi những va chạm đời thường .

    Người vô thần họ như mảnh đất hoang , họ dễ dàng chấp nhận cs , và khi đă được học về lư thuyết cs th́ họ sẽ không chấp nhận tôn giáo khác và họ phục vụ cs một cách tuyệt đối , số người đi theo thuyết cs vô thần một phần v́ họ sống nghiêng theo vật chất , thú tính , họ lăn xả vào đồng loại chỉ v́ danh lợi , họ nhắm mắt làm ngơ với công lư , họ tự do làm tất cả mọi chuyện kể cả cái ác , miễn đạt được mục đích .

    C̣n phía VNCH số người hiểu cs , hết ḿnh v́ lư tưởng VNCH rất ít , số c̣n lại toàn nửa nạc nửa mỡ , họ nghiêng bên này ngả bên kia , họ chùn tay khi phải làm ác , v́ vậy nếu đem so với cs th́ họ đấu không lại cs .

    Người VN vốn có bản tính “ thấy mềm th́ nắn , thấy rắn th́ buông ” họ ác với kẻ yếu hơn nhưng nếu gặp kẻ ác hơn họ , họ nhũn ra như con chi chi , ngày xưa những người biểu t́nh họ làm loạn v́ biết gia đ́nh họ không bị liên lụy , ngày nay nhiều người không dám v́ sợ sự tàn ác thâm hiểm của cs .

    Ngày xưa bị bưng bít thông tin nên có nhiều người bị lừa , cứ ngỡ lư tưởng cs nó cao đẹp như lư thuyết , ngày nay cả người dân và đảng viên cũng đă hiểu ra ít nhiều , v́ vậy mà tôi ủng hộ cách làm kiệt quệ kinh tế , người ta có câu “ mạnh v́ gạo bạo v́ tiền ”nếu không có ngân khố hậu thuẫn cs khó đứng vững v́ cái lư tưởng cs đă sụp đổ từ gốc đạo đức cs giờ đây chỉ c̣n là trừu tượng , lư tưởng cs hiện nay chỉ là tiền , họ không quan tâm đến đời sau , đến luân hồi họ chỉ biết có hiện tại , mà hiện tại th́ có ǵ ngoài tiền bạc , danh lợi và hưởng thụ vật chất , dĩ nhiên phải đánh bằng nhiều mặt , nhưng kinh tế là cốt yếu .



    VNCH thua cs v́ đă không ác bằng cs

  5. #5
    Member
    Join Date
    06-12-2010
    Posts
    555
    Quote Originally Posted by Nói lên sự thật View Post


    Ác như thế nầy th́ làm sao ác bằng CS . Thế nên thua là đúng rồi
    Trong http://www.quehuongngaymai.com/forum...2&postcount=29 ) thành viên haugiang079 đă viết rơ

    "Đây là h́nh lính Cambodia trong chiến dịch Cap Yuon dưới thời Thủ Tướng Lon Nol"

    Nghĩa là h́nh lính Cambodian giết người trong vụ Cap Yuon. Không phải h́nh lính VNCH. Nghĩa là vc vu khống lính VNCH bằng cách dùng h́nh lính Cambodian rồi nói láo đó là lính VNCH.

    Đồng rận "Lói nên sự thật" chính xác đang "Nói lên sự láo toét".

    Việt cộng = nói láo từ đời ông cha đến đời cháu chắt chít, nói láo hoài, nói muôn năm, nói láo vĩnh viễn,

  6. #6
    Diêt VC
    Khách
    Quote Originally Posted by Nói lên sự thật View Post


    Ác như thế nầy th́ làm sao ác bằng CS . Thế nên thua là đúng rồi
    Vẹm Nói Láo Sự Thật cần đi móc mắt chà giấy nhám đi nhé .... chính ḷng thù hận của vẹm đă khiến vẹm quáng gà,khi mang tấm ảnh chụp ở một nước khác ra để bôi nhọ VNCH...

    Đó là tấm h́nh chụp bên Kampuchia...Nếu mắt chú vẹm chưa bể tṛng,th́ vẹm cần phân biệt sự khác biệt giữa người VN và người Cam bốt...Điểm rơ nét để phân biệt,chính là màu da .

    Chả ai tin đâu chú vẹm xuẩn dốt cả...cũng là con người,có cái đầu,nhưng cái đầu của chú vẹm chứa toàn K'.... bởi bợ đ'....VC,nên chú ngoác mồm ra là thiên hạ phải bịt mũi .:mad:

    Đôi hàng với BĐH VL


    Việtland chủ trương là "tôn trọng sự thật",thế nhưng tên nhăi vẹm Nói Láo Sự Thật là đi ngược chủ trương của diễn đàn,mà theo tôi,hành vi bóp méo sự thật của thằng VC này là làm xấu đi hướng tranh đấu của VL.

    Hy vọng là quư vị nên bắt tên vẹm này vào khuôn phép

    DVC

  7. #7
    Member
    Join Date
    06-12-2010
    Posts
    555
    Quote Originally Posted by Nói lên sự thật View Post
    Diễn đàn Quehuongngay mai th́ ai không biết là d d chống cộng điên cuồng . Dựa vào đó để nói h́nh đó của lính Lonnon là không có cơ sở.
    Mà cho là lính Lonnon đi , th́ các h́nh sau là lính nào ?

    http://i1084.photobucket.com/albums/...981/images.jpg
    http://i1084.photobucket.com/albums/...on1981/b37.jpg
    http://i1084.photobucket.com/albums/...-ac-VNCH-3.jpg
    http://i1084.photobucket.com/albums/...1981/war9t.jpg
    http://i1084.photobucket.com/albums/...on1981/b34.jpg

    Liên quân Việt Mỹ trong 1 cuộc hành quân

    Và 2 cái video này nữa
    http://www.youtube.com/watch?v=_6Pjxrbhl6E
    http://www.youtube.com/watch?v=i6CYeVy2Ot0

    Hăy trả lời đi ! Lính nào đây ?
    Facial features của Cambodian khác của người Việt. Lính trong h́nh Cap Yuon rơ ràng là lính Cambodian. Vi` vậy bọn nào bảo đó là lính VNCH th́ bọn đó chính là bọn vu khống láo khoét. Đồng rận vc cặn bă xă hội bị bắt quả tang là đang nói láo dựng chuyện vu khống người khác, nhưng lại vô liêm sỹ nên không nhận là láo.

    Có 1 ông quen bác tôi ngày xưa là 1 teenager con của 1 ông nông dân, ông kể là ông đă từng báo cho cảnh sát VNCH khi thấy thằng đặc công vc lội dưới sông đội lục b́nh và gài ḿn vô chân cầu, v́ lính VNCH đến gở ḿn kịp lúc nên cầu không nổ. Nếu cầu nổ th́ đă giết chết rất nhiều người. Sau 1975, nghĩa là không c̣n chiến tranh, cha mẹ ông bị bọn vc Mặt Trận Phỏng D' Miền Nam kết tội họ là "Việt gian theo Mỹ Nguỵ" . Ông quen bác tôi lúc đó v́ là 1 teenager nên không bị giết. Nên đám đồng rận vc hoặc đám đồng rận Mặt Trận Phỏng D' Miền Nam làm đặc công gài ḿn, gài chất nổ, bắn lén hay chặt đầu nông dân nào không theo VC th́ bị giết là đáng, bọn đặc công mặt áo quần nông dân, giả làm nông dân, khi bị lộ tẩy th́ bị bắt giết là đáng, đừng giả dối to họng kêu la "oan Thị Mầu "

    Tên nào bảo đồng rận vc hoặc đám đồng rận Mặt Trận Phỏng D' Miền Nam không giết người sau 1975, nghĩa là giết người trong thời b́nh sau chiến tranh, th́ tên đó là vc 100% . Bọn đồng rận vc gian tà ác độc giết hàng triệu người, nhưng luôn to họng óng óng vu cáo đổ cho người khác . Đồng rận "Lói Nên Sự Trật" chính xác là vc láo hoài, láo muôn năm, láo vĩnh viễn .

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH
    Việt Nam Cộng Hoà 1975, Nguyên Nhân Sụp Đổ.

    Thursday, May 10, 2007


    Trọng Đạt

    LTS.-Cho đến nay, nguyên nhân sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n là một điều gây nhiều tranh căi, ít ra là trên sách báo và trên những tài liệu dưới h́nh thức những hối ức. Bài viết này của tác giả Trọng Đạt là một trong một số ít những bài viết rất công phu về điểm này. Mục Diễn Đàn xin giới thiệu cùng bạn đọc. Phần dưới cùng của bài viết là danh sách những tài liệu tham khảo.

    Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 30 năm từ nửa đêm 19-12 -1946 khi Việt Minh tấn công quân Pháp tại Hà Nội chấm dứt vào ngày 30-4-1975 khi sài G̣n thất thủ. Theo thống kê năm1973 của Ngũ Giác Đài, người Mỹ tốn kém gần 300 tỉ đô la từ giữa thập niên 60 tới ngày kư Hiệp định Paris, có khoảng 58 ngàn người chết, phía VNCH khoảng hơn 180 ngàn người tử thương, CSBV và VC mất hơn một triệu cán binh, dân chúng hai miền được ước lượng vào khoảng hơn một triệu người chết v́ bom đạn.

    Nói về những nguyên nhân khiến miền nam mất về tay CS đă được biết bao người bàn tán tranh luận từ mấy chục năm qua cho tới nay người ta vẫn c̣n tranh căi. Người Mỹ th́ đổ lỗi cho VNCH như Tổng thống Bush và bộ trưởng quốc pḥng Rumfield cách đây mấy năm đă nói thua tại v́ Quân đội VNCH không chịu đánh ! Họ ư nói ta chỉ chờ Mỹ đánh dùm! Phía Việt Nam nhiều người kết án tại Mỹ tháo chạy bỏ rơi đồng minh.
    Nhà nghiên cứu quân sự Nguyễn Đức Phương cho rằng phía Việt nam có ba nguyên nhân chính đưa tới sụp đổ:

    - Ta thiếu một lănh tụ có đủ khả năng
    - Dân chúng miền Nam không tích cực yểm trợ công cuộc chiến đấu.
    - Quân đội CSBV đă nhanh chóng khai thác thời cơ, lợi dụng các yếu điểm của QLVNCH.

    Những nguyên nhân đưa tới sự mạng vong của VNCH th́ chằng chịt nhiều vô kể, không có nguyên nhân nào là độc quyền chủ chốt, nhiều người quả quyết ta thua v́ hết đạn, người Mỹ cúp quân viện, nhưng sự thực cũng không hẳn như vậy. Ông Nguyễn Đức Phương căn cứ theo tài liệu Mỹ cho biết sau 30-4-1975 CSBV đă tịch thu được của VNCH rất nhiều chiến lợi phẩm trị giá trên 5 tỉ đô la trong đó có 130 ngàn tấn đạn. Năm 1972 ta xử dụng mỗi tháng trên 60 ngàn tấn, sau tháng 7-1975 ta xử dụng tiết kiệm 18 ngàn tấn một tháng như vậy số đạn dược 130 ngàn tấn nếu không bị CS tịch thu ta có thể xử dụng được 5, 6 tháng.

    Ở đây chúng tôi chỉ nêu một số điểm chính đi từ gần đến xa, trước hết xin nói về nguyên nhân gầ, tiếng Pháp gọi cause immédiate.

    -Nguyên nhân quân sự.

    Nguyên nhân gần gũi nhất ai cũng biết là do sự sai lầm của ông Tổng tư lệnh quân đội Nguyễn Văn Thiệu trong kế hoạch triệt thoái hai Quân khu 1 và 2 gây nên sự hỗn loạn dây chuyền sụp đổ hai vùng chiến thuật rồi đưa tới sụp đổ toàn bộ miền Nam. Kể từ sau ngày kư Hiệp định Paris 28-1-1973 trong khi BV mở mang xa lộ Đông Trường Sơn, xử dụng 16 ngàn xe vận tải chuyển vận vũ khí đạn dược vào Nam chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công 1975 , chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không có một kế hoạch nào về chính trị, quân sự để chống lại âm mưu địch cưỡng chiếm miền Nam mà chỉ ngồi chờ giặc tới và hy vọng vào sự can thiệp của không lực Mỹ.

    T́nh báo yếu kém nên ông Thiệu đă khinh địch, đánh giá sai lực lượng địch cho rằng CSBV không đủ khả năng đánh vào các thành phố lớn, không đủ lực lượng để mở những trận tấn công lớn như năm 1972. Trước hết chúng tôi xin so sánh lực lượng hai bên vào năm 1975.

    VNCH tổng cộng có hơn một triệu quân trong đó 40 % là bộ binh chính qui, 50% là địa phương quân, nghĩa quân c̣n lại là cảnh sát và Không quân, Hải quân.. .V́ ta tổ chức theo lối Mỹ, một người lính tác chiến có năm người yểm trợ như tiếp liệu, quân nhu, quân y, hành chánh tài chánh… cho nên trên thực tế lính nhà nghề chưa tới 200 ngàn người, thành phần không tác chiến (non combatant) chiếm khá nhiều, địa phương quân và nghĩa quân chỉ đủ sức cầm cự chờ lính BB của sư đoàn.

    Chủ lực quân VNCH được bố trí tại 4 quân khu như sau.

    Quân khu 1: 3 sư đoàn BB cơ hữu của QK 1, 2, 3, và hai sư đoàn Tổng trừ bị TQLC và Dù, 4 Liên đoàn Biệt động quân, 410 đại bác, khoảng 450 xe tăng thiết giáp, hơn 90 máy bay chiến đấu

    Quân khu 2: 2 sư đoàn BB chủ lực 22 và 23 và 7 liên đoàn BĐQ, 380 đại bác, 477 xe tăng thiết giáp, máy bay chiến đấu 138 chiếc .

    Quân khu 3: 3 sư đoàn BB chủ lực 5, 18, 25 và 4 liên đoàn BĐQ, 376 khẩu pháo, 655 xe tăng, 250 máy bay chiến đấu.

    Quân khu 4: 3 sư đoàn BB 7, 9, 21 gồm 380 đại bác 493 xe tăng, 72 máy bay chiến đấu, 580 tầu xuồng các loại.

    Về pháo binh ta có hơn 1500 khẩu đại bác , hơn một nửa là súng 105 ly, chưa tới 1/4 là 155 ly và khoảng 15% là súng 175 ly. Về xe tăng tổng cộng ta có khoảng 2000 chiếc nhưng hơn một nửa là M-113 và các loại thiết giáp xưa cũ, khoảng gần 40% là xe M-41 và M-48, trong đó chỉ có M-48 là tương đương với T-54 của địch.

    Vũ khí QĐVNCH trông cũng khá hùng hậu nhưng t́nh h́nh 1975 do hậu quả cắt giảm quân viện, nhiều máy bay, xe tăng, tầu chiến… thiếu cơ phận thay thế đă trở thành bất khiển dụng. Hoả lực giảm 60% so với năm 1972, đạn dược chỉ đủ đánh cho tới tháng 6 năm 1975. V́ phải trải quân giữ đất, toàn bộ 13 sư đoàn của ta và 15 liên đoàn BĐQ (tương đương với hơn 2 sư đoàn) phải bảo vệ 44 tỉnh, tính trung b́nh một tỉnh chỉ được hơn một trung đoàn bảo vệ trong khi CSBV có thể tập trung hơn 10 trung đoàn để đánh một tỉnh thí dụ như tại Ban Mê Thuột tháng 3-1975.

    Lực lượng chính qui CSBV năm 1975 gồm có 4 quân đoàn và đoàn 232 (tương đương một quân đoàn).
    Quân đoàn 1 có 3 sư đoàn (308, 312, 320B).
    Quân đoàn 2 có 3 sư đoàn (304, 324, 325).
    Quân đoàn 3 có 3 sư đoàn (10, 316, 320)
    Quân đoàn 4 có 3 sư đoàn (6, 7, 341).
    Đoàn 232 có 3 sư đoàn BB (3, 5, 9) và sư đoàn đặc công 27. Tổng cộng BV có 16 sư đoàn BB và đặc công, ngoài ra BV có khoảng 15 trung đoàn BB độc lập và đặc công tương đương với 4 hoặc 5 sư đoàn. Toàn bộ lực lượng chính qui BV năm 1975 vào khoảng 20 hay 21 sư đoàn BB.

    Người ta ước lượng không chính xác BV đưa vào Nam khoảng trên 500 xe tăng và 500 đại bác. Về vũ khí đạn dược theo báo chí VC năm 1976 tiết lộ cho biết năm 1975 vũ khí đạn dược của chúng gấp 3 lần 1972, hư thực th́ không rơ nhưng có điều chắc chắn năm 1975 BV đă được CS quốc tế viện trợ quân sự tối đa. Về số lượng xe tăng và pháo binh của ta nhiều gấp hai, ba lần đối phương nhưng về mặt phẩm vũ khí địch hơn ta. Xe tăng chỉ có M-48 tương đương với T-54 của BV, súng 155 và 105 ly tầm viễn xạ tối đa chỉ được 15 và 11 cây số trong khi súng 130 ly CSBV bắn xa 30 cây số. Năm 1972 Mỹ có viện trợ cho ta súng 175 ly bắn xa 28 km nhưng số lượng không nhiều lắm.

    Đầu năm 1975 hơn 80% chủ lực quân CSBV đă có mặt tại miền Nam chúng chỉ để lại quân đoàn 1 tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị. Khoảng hơn 70 % chủ lực quân BV được tập trung vào QK1 và QK2 của ta. Tại QK2, BV để 5 sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn độc lập (tương đương một sư đoàn), toàn bộ khoảng 6 sư đoàn, tại QK1 của ta BV để 5 sư đoàn BB và hơn mười trung đoàn độc lập, toàn bộ vào khoảng hơn 8 sư đoàn
    Chiến thuật chiến lược hai bên vẫn y như cũ, không khác ǵ thời chiến tranh Việt Pháp 1947-54 là mấy, ta vẫn theo chính sách đóng đồn cũ rích có từ thời ông Đờ lát 1950, trải quân giữ đất. VC vẫn chiến thuật chiến lược cũ công đồn đả viện, tiền pháo hậu xung, lấy thịt đè người. Cường độ chiến tranh gia tăng nhiều, trận Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968 CS đánh cấp tiểu đoàn trung đoàn, năm 1972 địch đánh cấp sư đoàn nay 1975 chúng tiến lên cấp quân đoàn, VC xả láng toàn bộ lực lượng vào ván bài chót.

    So với năm 1972, t́nh h́nh bi đát hơn gấp bội phần v́ đồng minh phản bội xé bỏ giấy tờ cam kết yểm trợ không quân khi bị VC tấn công, một ḿnh VNCH phải gánh vác chiến trường với sự thiếu thốn trầm trọng về tiếp liệu, đạn dược.

    Như trên ta thấy BV tung vào chiến trường miền Trung tất cả 14 sư đoàn trong khi ta chỉ có 7 sư đoàn và 11 liên đoàn BĐQ (tương đương hơn 2 sư đoàn), toàn bộ chủ lực quân ta (kể cả Biệt động quân) vào khoảng hơn 8 sư đoàn, ta phải trải quân giữ đất, địch tập trung quân nên mũi dùi tấn công rất mạnh. Theo Văn Tiến Dũng (trong Đại Thắng Mùa Xuân) Tướng Thiệu đă bố trí lực lượng sai ở chỗ mạnh hai đầu, có nghĩa ta để 5 sư đoàn tại QK1 và 3 sư đoàn tại QK3, QK3 được tăng cường nhiều máy bay chiến đấu và xe tăng. Như thế ta để yếu ở QK2, đó là nơi CS chủ trương tấn công mở đầu chiến dịch 1975.

    Tại QK2 như trên ta thấy chủ lực quân VNCH là 2 sư đoàn và 7 liên đoàn BĐQ, toàn bộ chỉ vào khoảng 3 sư đoàn trong khi CSBV tập trung tại đây tới 6 sư đoàn, v́ ta bố trí sai lực lượng nên không đủ sức chống lại địch. Ngày 10-3 Cộng quân đem 3 sư đoàn tấn công chớp nhoáng chiếm Ban Mê Thuột, phần v́ sai lầm của Tướng Phú, ông mắc lừa kế nghi binh của địch tưởng chúng đánh Pleiku, phần v́ Bộ TTM và Tướng Thiệu đă bố trí sai lực lượng tại QK2 nên ta không đủ lực lượng chống lại địch. Tại Ban Mê Thuột lực lượng ta chỉ có 2 tiểu đoàn BB và 3 liên đoàn địa phương quân không thể chống lại quân số địch khoảng 12 trung đoàn. Theo bút kư của Nguyễn Định, năm 1975, QĐVNCH Ban Mê Thuột chỉ vào khoảng 2000 kể cả nghĩa quân, cảnh sát..BMT như một thành phố bỏ hoang.

    Ban Mê Thuột thất thủ đưa tới những hậu quả tai hại không thể lường trước được, ngày 11-3 , một ngày sau khi VC vào Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp HĐ An ninh QG gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá an ninh QG. Tướng Thiệu cho biết trước t́nh h́nh khó khăn do cắt giảm quân viện, lănh thổ pḥng thủ quá rộng, áp lực địch nặng, ta chỉ đủ quân giữ QK3 và QK4 và một phần duyên hải QK2, QK1 chỉ cần giữ Huế và Đà Nẵng. Ông sẽ thực hiện tái phối trí lực lượng, rút bỏ các tỉnh Cao Nguyên về giữ đồng bằng. Ngày 13-3 Hạ Viện Mỹ khối đa số Dân chủ bỏ phiếu chống tăng viện cho VNCH 300 triệu Mỹ kim do Tổng thống Ford đệ tŕnh.

    Phần th́ hốt hoảng v́ mất Ban Mê Thuột, lại bị toá hoả tam tinh v́ hạ Viện Mỹ bác bỏ quân viện, Tướng Thiệu bèn ra lệnh triệt thoái Cao Nguyên hôm 14-3-1975 mặc dù Tướng Phú nài nỉ xin ở lại giữ đất. Cuộc triệt thoái bắt đầu từ ngày 16-3, chia làm 4 đoàn, mỗi ngày một đoàn xe, mỗi đoàn 250 chiếc, ngày đầu 16-3 th́ êm xuôi nhờ yếu tố bất ngờ, ngày hôm sau dân chúng chạy ùa theo gây náo noạn cả lên , ngày 16-3 sư đoàn 320 VC được lệnh cấp tốc đuổi theo đến 18-3 th́ bắt kịp. Hỗn loạn bắt đầu xẩy ra tại Phú Bổn, bọn lưu manh côn đồ đốt chợ, VC pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đám người di tản. Tối đến VC pháo thị xă, 70% xe tăng và đại bác dồn đống tại thị xă bị phá hủy gần hết, 40 xe tăng M-41, M-48 bị huỷ, Tướng Phú ra lệnh bỏ Phú Bổn, đoàn quân đi được 20km th́ VC tràn vào Phú túc, BĐQ chiếm lại Phú Túc, ra khỏi Phú Túc người ta tranh dành nhau lên trước hỗn loạn xẩy ra, bắn nhau dành đường đi, VC đưa các lực lượng đă tham chiến tại Ban Mê Thuột để đuổi theo truy kích, tới 26-3 trong số 1200 ciếc xe chỉ có 300 cái mở đường máu về được Tuy hoà. Phạm Huấn gọi đây là một hành lang máu.

    Trong số 60 ngàn chủ lực quân chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, 5 Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ c̣n 900 người, 100 xe tăng chỉ c̣n 13 cái M-113, toàn bộ vũ khí đạn dược trị giá 253 triệu phần lớn lọt vào tay VC, theo Đại tướng Cao Văn Viên ít nhất 75% lực lượng chiếnđấu của Quân đoàn 2 bị tiêu diệt, đây là một cuộc hành quân phá sản kéo theo sự sụp đổ của cả Quân khu.

    Ngày 13-3 ông Thiệu lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân khu 1 đưa sư đoàn Dù về Sài G̣n. Ngày 14-3 Tướng Trưởng về dinh Độc Lập họp Hội Đồng an ninh QG về kế hoạch tái phối trí, hôm sau Tướng Trưởng ra QK1 họp nội bộ thi hành lệnh tái phối trí đưa sư đoàn Dù về Sài G̣n, ngày 17-3 TQLC ra Đà Nẵng thay Dù khiến dân chúng sợ hăi ùn ùn kéo nhau di tản trên Quốc lộ 1 về Đà nẵng .

    Ngày 19-3 Tướng Trưởng về Sài G̣n tŕnh bầy kế hoạch lui binh. Kế hoạch thứ nhất cho các đơn vị theo Quốc Lộ 1 từ Chu Lai về Đà Nẵng, kế hoạch thứ hai các lực lượng tập trung tại Huế và Chu Lai sau đó tầu Hải quân sẽ đưa về Đà Nẵng, trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn là điểm tựa cuối cùng. Từ ngày 19-3 CSBV bắt đầu tấn công mạnh từ Bắc và Nam QK1 theo thế gọng ḱm. Ngày 20-3 đài Huế cho phát thanh hiệu triệu của Tổng thống tử thủ Huế. Chiều hôm ấy Tướng Thiệu đổi ư gửi công điện cho Tướng Trưởng không bó buộc phải giữ Huế, chỉ giữ Đà Nẵng. Ngày 24-3 Quảng Nam, Quảng Tín ở phía Nam QK1 bị VC tấn công mạnh phải rút về Chu lai, t́nh h́nh QK chỉ trong một ngày rối loạn đến mức không thế kiểm soát được . Ngày 23-3 lệnh bỏ Huế được chính thức ban hành v́ áp lực CS và binh sĩ ta ră ngũ, nhiều sĩ quan cao cấp bỏ chạy trước nên các đơn vị VNCH như rắn mất đầu đă tan hàng . Tại Nam QK1 sư đoàn 2 tại Chu lai được tầu đưa ra Cù Lao Ré nhưng chỉ được một nửa quân số. Các đơn vị VNCH từ Huế di tản về cửa Thuận An, Tư Hiền bị thiệt hại rất nặng, các đơn vị tập trung tại hai cửa biển đă làm mồi cho pháo binh địch, dân quân trúng pháo kích chết như rạ. Hỗn loạn diễn ra, tranh nhau lên tầu bắn giết nhau dă man, t́nh trạng hỗn loạn được coi là quá tồi tệ so với QK2.

    Ngày 27-3 Cuộc pḥng thủ Đà Nẵng trở nên vô hiệu v́ hỗn loạn, dân tị nạn quá đông (hơn một triệu người), phố xá chật ních những người, hỗn loạn diễn ra dữ dội tranh nhau lên tầu, lên máy bay bắn giết nhau không c̣n quân kỷ y như xă hội thời thượng cổ. Ngày 28-3 xă ấp quanh Đà Nẵng lọt vào tay CSBV, 4 sư đoàn BV bao vây tấn công Đà Nẵng. Các sư đoàn 1 và 2, các đơn vị thiết giáp, pháo binh VNCH thiệt hại nặng trên đường di tản khiến cho cuộc pḥng thủ Đà Nẵng không c̣n lực lượng nào ngoài sư đoàn 3 . Ngày 29-3 Tướng Trưởng xin lệnh bỏ Đà Nẵng, thành phố lớn thứ nh́ của VNCH coi như mất ngày 29-3. Trong ṿng 10 ngày Quân đoàn 1 gồm 3 sư đoàn BB và sư đoàn TQLC, thiết giáp, pháo binh, Công binh… coi như tan ră, VC chiếm được cả QK 1 mà không phải giao tranh dai dẳng.

    Nguyên do chính của sự thất bại theo Nguyễn Đức Phương như sau: Ông Thiệu cho rút sư đoàn Dù khiến dân chúng hoang mang lo sợ di tản náo loạn cả lên, bỏ Cao Nguyên, QK2 rồi lại bỏ Huế làm cho tin đồn cắt đất loan truyền khiến dân chúng ồ ạt di tản. Binh sĩ ră ngũ t́m thân nhân, nhiều sĩ quan cao cấp bỏ chạy trước, cuộc lui binh hỗn độn không có kế hoạch, không có đơn vị nào đánh tŕ hoăn, đánh chận hậu. Ông Cao Văn Viên cho rằng thất bại do sự lúng túng của ta hơn là v́ áp lực địch, nhiều sĩ quan cao cấp hèn nhát bỏ chạy trước khiến cho các đơn vị của ta ră ngũ dần dần, tinh thần chiến đấu của quân ta không c̣n nữa. Vấn đề tị nạn của dân chúng đă làm đảo lộn mọi kế hoạch của Quân đoàn. Chúng ta cũng để ư thêm một yếu tố nữa: đài BBC tuyên truyền phá hoại đă đóng góp phần lớn vào sự thảm bại của cả 2 QK.

    Qua kinh nghiệm các cuộc Tổng công kích trước đây như năm1968, 1972 địch không đủ khả năng tấn công cả 4 quân khu cùng một lúc v́ mũi dùi sẽ yếu dễ bị bẻ gẫy mà chúng chỉ tấn công vào 2 Quân khu nhất là Vùng 1 và 2. Năm 1975 CSBV tung vào chiến trường miền Trung 14 sư đoàn (6 SĐ tại QK2 và 8 SĐ tại QK1), tính ra khoảng 70% chủ lực quân của chúng, mũi dùi tấn công rất mạnh, ta chỉ có 7 sư đoàn (22, 23, 1, 2, 3, TQLC, Dù) và 11 Liên đoàn BĐQ trải quân giữ đất, đă thế ông Thiệu lại cho rút sư đoàn Dù về Sài G̣n khiến cho t́nh h́nh càng bi đát hơn. Trong khi ấy Vùng 4 đă có trên 200 ngàn Địa Phương quân (40% toàn bộ ĐPQ toàn quốc) lại để thêm 3 Sư đoàn BB giữ đất, tại đây áp lực địch nhẹ chúng chỉ có 6 trung đoàn, không có nhiều xe tăng đại bác có nhiệm vụ đánh cầm chân QĐVNCH, ta có thể rút bớt quân để tăng cường cho chiến trường miền Trung, chắc ông Thiệu cũng biết vậy nhưng ông không muốn đưa thêm quân tăng viện v́ trong thâm tâm ông muốn bỏ miền Trung để giữ hai QK 3 và 4.
    Cuối tháng 3-1975 QK 1 hoàn toàn lọt vào tay Cộng quân, hai ngày sau QK2 cũng mất gần hết lănh thổ chỉ c̣n Phan Rang và Phan Thiết. Ba sư đoàn 1, 3, 23 BB bị tan ră hoàn toàn, sư đoàn 2, 22, TQLC, các sư đoàn không quân, Lữ đoàn Dù, BĐQ.. bị thiệt hại từ 60 tới 70 % quân số , toàn bộ vũ khí đạn dược xe tăng đại bác của miền Trung coi như mất hết, theo Phạm Huấn:

    “Tổng số phi cơ các loại bỏ lại khoảng 200 cùng với 900 đại bác và hơn 1000 chiến xa”
    Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 98.
    Điều nguy hại nhất là phần lớn số vũ khí đạn dược ấy lại lọt vào tay CSBV, giáo vào tay giặc, miền Nam đưa dao cho người ta giết ḿnh.
    Văn Tiến Dũng viết trong Đại Thắng Mùa Xuân.

    “Hậu cần vẫn bảo đảm, không những chỉ mới dùng hết một phần số lượng đạn dược đă dự tính trong kế hoạch mà lại c̣n lấy thêm được khá nhiều của địch” (Trang 117).

    “Ta thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất và hậu cần quân ngụy…..(trang 136-137)
    “…Vũ khí đạn dược tiêu hao không đáng kể. . . . . . . . Ta thu được của địch một khối lượng rất lớn vũ khí và đạn dược” (trang 137)
    Cũng có nhiều người cho rằng ông thiệu tháu cáy giả vờ thua chạy để lôi kéo Mỹ vào yểm trợ nên đă đưa tới sụp đổ nhanh chóng như vậy, ông đă đem đất nước non sông gấm vóc ra đánh bạc th́ thật hết chỗ nói.

    Sau khi hai QK1 và QK2 sụp đổ, giới lănh đạo Sài G̣n chỉ c̣n mong manh hy vọng vào sự cứu trợ của Mỹ. CSBV hối hả chuyển vận vũ khí đại binh vào Nam để tấn công chiếm Sài G̣n trước mùa mưa th́ ta không có một kế hoạch cụ thể nào để ngăn chận địch như phá cầu, oanh kích các đoàn xe, phục kích đánh công voa… mà chỉ ngồi chờ giặc. Vả lại cấp lănh đạo, ông to bà lớn của ta chỉ lo kế hoạch “tẩu vi thượng sách” cho ḿnh hơn là lo cho đất nước, cha chung không ai khóc. Tại Xuân Lộc, từ 9-4 cho tới 20-4- 1975 sư đoàn 18 dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo đă anh dũng đẩy lui các cuộc tấn công vũ băo của VC trong hơn một tuần lễ nhưng cũng không cứu văn nổi t́nh thế.
    CSBC dốc toàn bộ lực lượng vào canh bạc cuối cùng, chúng đưa vào trận địa 20 sư đoàn BB, khoảng 280 ngàn người, cùng với 400 xe tăng, 400 đại bác, QĐVNCH gồm 6 sư đoàn chủ lực và địa phương quân, thiết giáp.. tổng cộng 240 ngàn người nhưng lính nhà nghề chỉ có khoảng 60 ngàn. Nhân lực đă chênh lệch, ta lại lâm vào t́nh trạng hết đạn trong khi VC đầy đủ đạn dược. Năm tuyến pḥng thủ của ta quanh SàiG̣n gồm :Tuyến Củ Chi ở tây bắc, Tuyến B́nh Dương phía bắc, tuyến Biên Hoà phía đông bắc, tuyến Vũng Tầu phía đông, Tuyến Long An phía Nam.


    Ngày 21-4 Ông Thiệu từ chức bàn giao cho ông Hương, ngày 24-3 hai ông Thiệu và Khiêm bỏ nước ra đi, tinh thần quân ta suy sụp. Ngày 26-4 Cộng quân bắt đầu mở chiến dịch tấn công Sài g̣n, ngày 28-4 Đại tướng Dương Văn Minh lên thay thế ông Trần văn Hương, các pḥng tuyến của ta sụp đổ dần dần trước các đợt tấn công pháo kích của địch. Ngày 30-4-1975 Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng kết thúc cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ.

    Nhiều người kết án ông Thiệu cho lệnh rút bỏ Quân khu 2 và 1 đă đưa tới sự sụp đổ toàn bộ VNCH. Ông Thiệu là nguyên nhân gần gây nên sự sụp đổ, nhưng nếu kết án ông ta là nguyên nhân duy nhất th́ không đúng lắm, ở đây không phải để bênh vực cho ông Thiệu nhưng chúng ta không thể nói sai lịch sử. Giả thử ông Thiệu tăng cường lực lượng cho hai quân, đẩy lui được cuộc tổng tấn công của địch năm 1975, nhưng sau đó ta vẫn lâm vào t́nh trạng hết đạn, sẽ phải xin viện trợ khẩn cấp của Hoa Kỳ trong khi đảng Dân chủ nắm đa số tại Quốc Hội. Họ chủ trương cắt hoàn toàn quân viện bỏ rơi miền Nam th́ cũng chỉ có khoảng 30% hy vọng được tiếp viện trở lại.

    V́ thế ngoài nguyên nhân quân sự nêu trên c̣n những nguyên nhân khác đóng góp vào sự sụp đổ miền Nam. Một nguyên nhân gần nữa vô cùng quan trọng ở đây là vấn đề cắt quân viện.

    - Cắt quân viện.

    Theo Nguyễn Đức Phương vấn đề cắt quân viện đă manh nha từ đầu thập niên 1970.
    “Hành quân Kampuchia năm 1970 đă tạo ra phản ứng chống đối dữ dội của Quốc Hội Mỹ v́ họ cảm thấy bị ngành hành pháp che dấu sự thật. Tháng 6.1970, Thượng viện đă biểu quyết với đa số chấm dứt nghị quyết Vịnh Bắc Việt trao toàn quyền hành động cho Tổng thống Mỹ từ năm 1964. Hai Thượng nghị sĩ John S. Cooper (đảng Cộng Hoà, tiểu bang Kentucky) và Frank F. Church (đảng Dân Chủ, tiểu bang Idaho) một thành viên của Ủy ban Ngoại giao Thượng viện đă đề nghị một tu chính án cắt tất cả phí tổn về quân sự của Mỹ tại Miên kể từ ngày 1.7.1970. Sau 7 tuần lễ tranh căi, Thượng viện Mỹ biểu quyết vào cuối tháng 6.1970 với 58 phiếu thuận và 37 phiếu chống. Tuy nhiên Hạ viện đă bác bỏ tu chính án này. Tu chính án do đó được sửa đổi lại và được biểu quyết chấp thuận vào tháng12. Theo đó Mỹ không được đưa quân tác chiến vào Lào và Thái Lan . Lần đầu tiên Tổng thống Mỹ với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội bị giới hạn quyền hành trong t́nh trạng chiến tranh. Một tu chính án khác do hai Thượng nghị sĩ George Mc Gocern (đảng Dân chủ, tiểu bang South Dakota) và Mark O.Hatfield (đảng Cộng hoà, tiểu bang Oregon) đă đề nghị rút tất cả quân đội Mỹ và cắt tất cả quân viện cho VNCH vào cuối năm 1971. Tuy nhiên Thượng viện Mỹ đă bác bỏ hai lần (1970 và 1971) tu chính án này. Năm 1973, quốc hội Mỹ biểu quyết chấp thuận tu chính án do Frank Church và Thượng nghị sĩ Clifford (đảng Cộng Hoà) chấm dứt tất cả quân viện cho các nước Đông Dương.”

    Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 510 .

    Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự tại Đông Dương, ngày 1-7 Nixon miễn cưỡng kư thành luật áp dụng kể từ 15-8. Đến tháng 10-73 Quốc Hội lại thông qua dự luật Quyền Hạn Chiến Tranh (War powers Act) buộc Tổng thống phải tham khảo ư kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Ư định phản bội của người bạn đồng minh đă bắt đầu lộ diện.

    Khi người Mỹ mới đổ quân ồ ạt vào Việt Nam năm 1965 ngân sách năm ấy mới có 646 triệu đô la, năm sau 1966 tăng vọt lên gần 6 tỷ, đến 1967 tăng lên 20 tỷ, năm 1968 tăng lên 26 tỷ năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 1971 xuống c̣n 12 tỷ v́ Mỹ đang rút quân. Năm 1972 họ rút gần hết chỉ c̣n 24,200 người khi ấy miền Nam phải một ḿnh gánh vác chiến trường với tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm. Năm 1973 Quân viện là 2 tỷ 1, sang năm 1974 chỉ c̣n 1 tỷ 4, năm 1975 tụt xuống c̣n 700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương cho nhân viên cơ quân tuỳ viên quân sự DAO của Mỹ. VNCH chỉ nhận được một nửa số quân viện cần thiết.

    Năm 1975 đảng Dân chủ nắm đa số tại Quốc hội Mỹ, họ chủ trương bỏ Đông Dương không cần biết hậu quả cũng như danh dự cho nước Mỹ. Về thế lực cũng như tài chính Dân chủ thua kém Cộng Hoà nên chỉ thừa cơ nước đục thả câu, lợi dụng sơ hở của Cộng Ḥa để thọc gậy bánh xe. Họ thường o bế giới b́nh dân, da đen, Mễ miếc, cu li cu leo khố rách áo ôm, đám trốn lính, chống chiến tranh … để lấy ḷng kiếm phiếu. Họ chớp đúng thời cơ khi phong trào phản chiến lên cao được dân chúng ủng hộ để nắm đa số tại Quốc Hội và thẳng tay bỏ rơi đồng minh không thương tiếc, cái mà ông Nguyễn Tiến Hưng gọi là “nhát gươm đao phủ”.

    “Ngay sau đó, 13 tháng Ba, nhát gươm đao phủ đă hạ xuống: ban lănh đạo Đảng Dân Chủ, cả Hạ Viện lẫn Thượng Viện (họ lại là thành phần quyết định trong Quốc Hội) bỏ phiếu với đại đa số : chống bất cứ viện trợ nào thêm cho Miền nam”

    Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 245.
    Theo Đại Tướng Cao Văn Viên hậu quả của cắt giảm quân viện là không quân phải cho hớn 200 máy bay ngưng bay.. giảm giờ bay, huấn luyện 50%, số giờ bay thám thính 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%.. Hải quân cũng bị cắt giảm hoạt động 50%, 600 tầu xuồng các loại nằm ụ, các chiến cụ, quân dụng hư hỏng không được thay thế, chỉ có khoảng 33% được thay mà thôi. Tổng số đạn trong kho chỉ đủ dùng cho đến tháng 6-1975, thuốc men thiếu thốn, số tử vong lên cao khiến tinh thần binh sĩ xuống thấp.

    Người Mỹ kư hiệp định Ba Lê để rút quân ra khỏi VN và lấy tù binh về không đếm xỉa ǵ tới sự tồn vong của miền Nam nước Việt. Sir R Thompson, chuyên viên về du kích chiến cho rằng miền Nam bị đe doạ chỉ v́ để cứu nước Mỹ khỏi cảnh xâu xé nhau, miền Bắc bị buộc phải ngồi vào bàn hội nghị để cứu nước Mỹ. Ông M.Gauvin nguyên chủ tịch Ủy Hội Kiểm Soát Quốc tế tuyên bố ngày 4-4-1975 cho rằng miền Nam VN thất bại do quyết tâm bỏ rơi đồng minh của Mỹ nhiều hơn là do hết đạn.

    “C̣n về khả năng tồn tại, ông cho là ‘vẫn c̣n tùy thuộc vào số quân viện Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH’. ĐT Viên kết luận “Một sự thật không thể chối căi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975 nếu không nhận được quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu”

    Nguyễn Tiến Hưng, Khi Đồng Minh Tháo Chạy trang 457.
    Khi lập luận như trên người ta sẽ đạt thêm câu hỏi tại sao họ lại bỏ rơi VNCH? ông Nguyễn Tiến Hưng cho biết

    “Tại sao Mỹ lại dứt khoát bỏ rơi Miền nam? Câu trả lời ngắn gọn là v́ quyền lợi của Mỹ ở Việt nam đă không c̣n nữa”

    KĐMTC trang 455.
    Ngoài những nguyên nhân gần nêu trên, lại những động cơ khác đă gây lên hoặc ảnh hưởng trực tiếp mà ta gọi là nguyên nhân xa, người Pháp gọi là cause lointaine.
    - Thuyết Domino không c̣n giá trị.

    Khoảng tháng 3 năm ngoái, cựu bộ trưởng Quốc pḥng Laird dưới thời Tổng thống Nixon cho biết Tổng thống Ford năm 1975 đă bác bỏ thuyết Domino có từ 7-4-1954 dưới thời Tổng thống Eisenhower, thuyết này cho rằng hễ mất một nước th́ mất luôn nhiều quốc gia khác y như trong ván cờ Domino.

  9. #9
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH
    Việt Nam Cộng Hoà 1975, Nguyên Nhân Sụp Đổ.


    Các cấp lănh đạo Hoa Kỳ đă sống qua thập niên 30 với những biến chuyển lịch sử trên thế giới và nhận thấy có những tương đồng với t́nh h́nh Đông Nam Á đương thời: Năm 1931 Nhật chiếm Măn Châu đưa tới lấn chiếm Trung Hoa, Đông Dương, Mă lai..rồi dẫn tới trận Trân Châu Cảng. Đức chiếm Áo, Tiệp rồi Pháp, Bỉ và đưa tới chiến tranh Âu Châu. Nếu xâm lược không bị trừng trị nó sẽ lan rộng hơn lên theo kiểu tầm ăn dâu y như một căn bệnh do vi trùng đục khoét. Những biến chuyển lịch sử trên đây đă h́nh thành học thuyết Domino.

    Tổng thống Eisenhower là người đầu tiên đề xướng học thuyết Domino trong cuộc họp báo ngày 7-4-1954, trả lời phóng viên báo chí ông cho biết nếu mất Đông Dương th́ dần dần sẽ mất Miến Điện, Thái lan, Mă Lai, Nam Dương…và rồi từ từ Đài Loan , Nhật, Phi Luật Tân, Úc , Tân Tây Lan cũng mất theo. Thuyết Dommino đă khiến Mỹ quyết tâm ngăn chận chính sách tầm ăn dâu, sau chiến tranh Triều Tiên, Mỹ thấy không thể hoà hoăn với Cộng Sản được.

    Việt Nam được coi như một thí điểm để ngăn chận làn sóng đỏ, người Mỹ cho rằng nếu làm ngơ cho CS xâm lấn các nước lân bang th́ dần dần năm châu bốn biển sẽ bị nhuộm đỏ, Hoa Kỳ tới lúc đó sẽ bị bao bọc bởi biển đỏ và họ sẽ phải xây một Vạn lư trường thành thứ hai để chống ngoại xâm. Người Mỹ chỉ đổ quân đổ của vào một cuộc chiến nào khi cảm thấy nền an ninh của đất nước họ bị đe dọa.

    Ngay khi Trung Cộng chuyển vũ khí ồ ạt gíup Việt Minh, tháng 10-1950 Mỹ đă đă vội viện trợ quân sự cho Pháp 300 triệu đô la, hàng không mẫu hạm Mỹ chở tới Sài G̣n 40 máy bay Hellcat cho Pháp. Chính phủ và Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, mới đầu quân viện Mỹ cho Pháp mới chỉ là 17% nhưng vài năm sau, chiến tranh bùng nổ dữ dội, quân viện tăng lên tới 74% .

    Năm 1955 Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi Việt Nam để biến nơi đây thành tiền đồn chống Cộng tại Á Châu. Những năm 1963, 1964 CS tăng cường chiến tranh du kích ḥng xâm lược miền Nam bằng bạo lực. Mỹ vội ồ ạt đổ quân vào miền Nam từ giữa năm 1965, tới cuối năm tổng số quân Mỹ tăng lên 184 ngàn người, năm sau 1966 tăng vọt lên 385 ngàn, năm 1967 lên 485 ngàn, năm 1968 lên 536 ngàn, đó là đỉnh cao của cuộc đổ quân. Tướng Wesmoreland cho rằng nếu Mỹ không đưa quân vào VN năm 1965 th́ chỉ trong ṿng 6 tháng là mất v́ áp lực CS rất nặng. Sau Cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, chính phủ Johnson bị dân chúng chỉ trích dữ dội v́ sau mấy năm truy lùng và diệt địch mà vẫn không b́nh định được miền Nam. Giới lănh đạo Mỹ bắt đầu chán ghét cuộc chiến tranh VN v́ phong trào phản chiến từ 1965 đến nay ngày càng dữ dội, và nhất là họ thấy rằng hiểm hoạ CS đe doạ Đông Nam Á không c̣n nặng nề như trước.

    BV trở thành quân tốt lợi hại cho CS Quốc tế, BV cũng bị CSQ thúc dục đánh tới cùng để làm suy yếu tiềm lực kinh tế, chính trị Đế Quốc, tuy nhiên hiểm họa CS tại Á Châu không c̣n trầm trọng như trước nữa v́ nay Nga Tầu chống đối nhau ra mặt như kẻ thù. Đụng phải sức chống trả dữ dội của Thế giới Tự do, CS Quốc tế cũng chùn bước vả lại việc cung cấp vũ khí cho đàn em BV họ cũng tốn kém rất nhiều, có tài liệu cho biết Trung Cộng viện trợ cho BV từ 1950 tới 1975 tốn kém 20 tỉ đô la (Việt Nguyên, Tổng thống Nixon sang Tầu..). Thuyết Domino dần dần không c̣n ư nghĩa như từ 1955 cho tới những năm Mỹ mới đổ quân vào VN.

    Năm 1969 Nixon nhậm chức Tổng Thống hứa hẹn với dân Mỹ sẽ rút quân về nước. Họ thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh từ 1969, 1970.. Quân đội Mỹ sẽ bàn giao trách nhiệm pḥng thủ và bảo vệ miền Nam cho QĐVNCH. Thực hiện VN hoá chiến tranh là họ đă nghĩ đến việc bỏ VN cũng như Đông Dương v́ thuyết Domino không c̣n đứng vững, mất VN cũng sẽ không ảnh hưởng ǵ tới các nước Đông Nam Á. Quyết định bỏ Đông Dương coi như đă bắt đầu thành h́nh, vấn đề c̣n lại là rút lui trong danh dự để khỏi bẽ mặt một siêu cường. Từ năm 1969 họ đă đi đêm với Trung Cộng để t́m cách rút quân ra khỏi VN, bỏ Đông Dương v́ nó không c̣n đúng với ư nghĩa tiền đồn chống Cộng nữa.

    Song song với VN hoá chiến tranh, họ t́m cách hoà hoăn với Trung Cộng, anh khổng lồ nghèo kiết xác này cũng tốn kém rất nhiều với cuộc chiến tranh VN và cũng muốn hoà với Mỹ. Ngày 21-2-1972, cái bắt tay lịch sử giữa Nixon và Mao Trạch Đông tại Bắc Kinh đă thay đổi cả một kỷ nguyên. Điều mà người Mỹ ao ước bấy lâu nay đă thành sự thật, Đông Nam Á không c̣n bị đe doạ bởi chiến lược tầm ăn dâu của Trung Cộng, thuyết Dommino đến lúc lỗi thời, không c̣n giá trị, bỏ Đông Dương coi như điều tất yếu.
    Trận Mùa hè đỏ lửa năm 1972 BV đánh cấp sư đoàn với nhiều xe tăng đại bác rầm rộ. Mỹ muốn ta phải thắng, họ đă yểm trợ oanh tạc B52 tối đa và Hải pháo của hơn 20 tầu chiến để tạo thế mạnh trên bàn hội nghị tại cuộc Hoà đàm Ba Lê. Hiệp định Paris kư kết ngày 28-1-1973 chỉ là mớ giấy lộn để Mỹ rút quân và lấy về 587 tù binh mặc dù họ thừa biết VNCH sẽ lănh đủ.

    Nguyễn Đức Phương trích dẫn lời Tướng Đính trong hồi kư của ông .

    “Cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính đă ghi lại nhận xét của ông Ngô Đ́nh Nhu từ đầu thập niên 60 về chiến lược toàn cầu của Mỹ như sau: ‘Nếu tụi nó (Mỹ) nhảy vô để chiến thắng Cộng Sản như ở Triều Tiên, bất kể một cuộc can thiệp của Tầu hay… đệ tam thế chiến, th́ ḿnh cũng để cho tụi nó thử sức với Cộng sản xem sao, chứ ở đây mục đích của tụi nó là t́m một thế ‘sống chung nào đó’ với Cộng Sản, th́ đánh để làm chi, rốt cuộc cũng chỉ như rứa? Con đường của Hoa Thịnh Đốn muốn đi tới là Bắc Kinh, ḿnh chỉ là vật tế thần ‘cục kê’ của tụi nó’. Để rồi tướng Đính kết luận: ‘Nhận định đó đến thập niên 1970 đă trở thành sự thật và khi Nixon bắt tay được với Mao Trạch Đông, th́ tiền đồn chống Cộng của VNCH đă hết ư nghĩa, và do đó Hoa Thịnh Đốn phải thu xếp để chấm dứt một cuộc chiến tranh không c̣n cần thiết mặc cho nền hoà b́nh này đă làm sỉ nhục tính cách siêu cường của Mỹ và đẩy miền Nam vào địa ngục của Cộng Sản Hà Nội”
    Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 635.

    Nguyễn Đức Phương kết luận.

    “Như vậy cả hai miền Nam, bắc Việt Nam đều không nh́n thấy được chính sách ngoại giao của Mỹ từ đầu thập niên 70 để tiếp tục cuộc chém giết. Mùa hè năm 1972 không cần thiết phải là một mùa hè rực lửa. Những trận đánh đẫm máu tại Cửa Việt, tại Sa Huỳnh đă hầu như vô nghĩa. Hiệp định Ba lê chỉ là một biên lai để khách hành nhận lại tù binh và đoạn chiến. Số phận của VNCH đă được định đoạt từ lâu và cũng không phải tại chiến trường.”

    CTVNTT trang 635, 636.
    Ông Nguyễn Tiến Hưng cũng nói.

    “ Kể từ ngày TT Nixon bắt tay được với Trung Quốc th́ giá trị của Miền Nam để ‘ngăn chặn làn sóng đỏ’ đă không c̣n là bao nhiêu trong những tính toán của Mỹ về hơn thiệt (cost-benefits). Dần dần, Miền Nam đă hết vai tṛ một tiền đồn của thế giới Tự Do. Và như vậy, vấn đề c̣n lại đối với Mỹ th́ chỉ là làm sao rút ra được cho êm thắm, ít bị tổn hại về uy tín là được rồi”

    Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 456, 457.

    Phong trào phản chiến ngày một lên cao cũng đă đóng vai tṛ then chốt đưa tới sụp đổ miền Nam ngoài thuyết Domino. Mặc dù là nguyên nhân xa, nhưng Phong trào có tính cách quyết định v́ nó là động cơ thúc đẩy Quốc Hội bỏ phiếu cắt viện trợ quốc pḥng cho miền Nam đưa tới sụp đổ trong chớp mắt.

    -Phản Chiến.

    Phong trào phát sinh từ năm 1965 ngay sau khi Tổng thống Johnson đổ quân vào Việt Nam giao chiến với Việt Cộng, hồi ấy khoảng 5,000 nhà khoa học phản đối chiến tranh hoá học khai quang. Ngày 15-5-1966 khoảng 12 ngàn người biểu t́nh chống chính sách của Tổng Thống Johson tại Việt nam. Ngày 23-10-1967 có khoảng 30 ngàn người biểu t́nh trước Ngũ Giác Đài, họ trương biểu ngữ nói “Nhân danh nhân loại chúng tôi muốn nói chuyện với bọn người gây chiến”. Ngày 12-4-1969 tại Nữu Ước và 32 thành phố lớn biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam, thời điểm này có 31 ngàn người lính Mỹ chết ở Việt Nam.

    Giữa tháng 10-1969 khoảng 1,000 người biểu t́nh phản chiến tại Chicago, 5,000 người phản chiến tại New Jeersey bị giải tán bằng lựu đạn cay. Ngày 11-11-1969 phe ủng hộ chính phủ Nixon, cựu chiến binh Mỹ.. tổng cộng 10 ngàn người biểu t́nh tại Hoa Thịnh Đốn.

    Ngày 15-11-1969 có tới 300 ngàn người chống chiến tranh tại Hoa Thịnh Đốn và các thành phố khác, Ba Lê có khoảng 20 ngàn người phản chiến. Ngày 4-5-1970 trong một cuộc biểu t́nh tại đại học Kent, Ohio 4 sinh viên phản chiến bị quân đội bắn chết, nhiều người khác bị thương khiến phong trào càng lên cao dữ dội

    Người Mỹ nói, đất nước dân tộc đă bị phân hoá, a people divided. Thật vậy toàn bộ nước Mỹ bị phân hoá v́ chiến tranh VN. Nhiều người cho rằng phản chiến do những cuộc biểu t́nh của sinh viên nhưng có lẽ quan trọng hơn là hai nguồn chống đối khác đó là những người nghèo và dân tộc thiểu số. Họ không được hoăn dịch v́ lư do học vấn, dân da đen bị gọi nhập ngũ v́ chính phủ cần nhân lực cho cuộc chiến tranh của Tổng thống Johnson khiến họ nghi ngờ chính phủ. Suốt thời kỳ chiến tranh VN, có 11 triệu người Mỹ đă phục vụ (luân phiên) cho ngành Quốc pḥng, 2 triệu người đă (luân phiên) ở VN, 600 ngàn đă trốn quân dịch, trong số này 200 ngàn bị buộc tội trốn quân dịch, 300 ngàn t́m cách xin hoăn dịch bị từ chối, 70 ngàn được hoăn dịch, khoảng từ 30 cho tới 50 ngàn người trốn sang Canada và 20 ngàn người trốn tại Mỹ hay ra ngoại quốc. Phong trào chống lệnh trưng binh lên cao.

    Mục sư Martin Luther King lần đầu tiên tuyên bố chống chiến tranh tháng 7-1965, ông ta tránh đề cập tới chiến tranh một thời gian nhưng cuối 1966 ông nản ḷng khi thấy chiến tranh leo thang và phản chiến lan rộng tại Mỹ. Trong khi ấy hai phe phản chiến và ủng hộ chính phủ đánh nhau v́ bất đồng chính kiến. Tháng 3-1967 Luther King dẫn đầu phong trào antiwar tại Chicago. Ngày 4-4-1967 tại nhà thờ Riverside Church New York ông đă lớn tiếng chống đối chính sách chiến tranh của chính phủ, King vừa đ̣i nhân quyền vừa chống chiến tranh, ông bị ám sát năm 1968.

    Ngay trong quân đội cũng có những người chống chiến tranh, năm 1967 có 6 cựu quân nhân thành lập một tổ chức lấy tên Cựu Chiến Binh Việt Nam Chống Chiến Tranh (Vietnam Veterans against The War gọi tắt là VVAW). Họ lư luận rằng những người đă bị gọi nhập ngũ đưa sang Việt Nam tham chiến có quyền phản đối chiến tranh, năm 1970 VVAW có 600 hội viên, mấy năm sau tăng gấp bội. Tháng 1-1971, họ tổ chức thuyết tŕnh tại Detroit, 100 người cựu chiến binh dẫn chứng tội ác chiến tranh, từ 19-4 tới 23-4 -1971 họ biểu t́nh tại Washington D.C rồi cắm dùi tại công viên Potomac Park. Họ diễn hành cùng những bà mẹ có con là lính chết trận ở Việt Nam đến Nghĩa trang Arlington National Cemetery. Những người này đă vận động Quốc Hội để sớm chấm dứt chiến tranh. T́nh trạng đă đi đến chỗ thật bi đát khi những người này t́m cách trả lại huy chương cho Quốc Hội.

    Chính phủ ban hành lệnh cấm cuộc cắm trại, lập hàng rào gỗ quanh điện Capitol, những người cựu chiến binh đă ném trả huy chương, trong số này có John Kerry, ứng cử viên Tổng Thống năm 2004. Họ tố cáo lính Mỹ khi hành quân vào các làmg mạc ở Việt Nam đă hăm hiếp, đốt làng, cắt tai, chặt đầu người dân .. y như quân Mông cổ dưới thời Thành Cát Tư Hăn. Họ nói đất nước ta đă tạo dựng con quái vật hung dữ, đó là đạo quân một triệu người, và những người lính chiến đă được chỉ dậy dùng bạo lực và chết chẳng có mục đích nào cả ( … and who are given the chance to die for the biggest nothing in history), chúng tôi cựu chiến binh trở về trong uất hận v́ bị chính phủ Hoa Kỳ lạm dụng.

    Năm 1970, phó Tổng Thống Agnew tuyên bố tại trường Wespoint rằng chỉ có một thiểu số phóng đại những mặt xấu của bọn lưu manh côn đồ nhưng thực ra đa số chiến sĩ ta đă chiến đấu, chết tại những cánh đồng lúa Á Châu để bảo vệ tự do trong khi một thiểu số lợi dụng làm bay. Bọn phản chiến đă dùng điểm này để công kích nỗ lực của ta ở Việt Nam.

    Những cựu chiến binh này nói người dân Mỹ đă bị chính phủ đánh lừa, ta không thể thắng được cuộc chiến này nếu cứ tiếp tục như vậy và phải rút bỏ Việt Nam, họ nói t́nh h́nh Việt Nam không có ǵ để đe dọa Hoa Kỳ, thuyết môi hở răng lạnh là sai (.. in our opinion and from our experience, there is nothing in South Vietnam which could happen that realistally threatens the United States Of America). Chúng tôi đ̣i hỏi ở Quốc Hội Hoa Kỳ nơi có thẩm quyền tạo dựng và duy tŕ quân đội, chúng tôi đến đây không phải để gặp Tổng Thống mà tin rằng Quốc Hội có thể thoả măn ư nguyện người dân để đưa chúng ra rút khỏi VN (that we should be out of Vietnam now..)

    T́nh h́nh phản chiến ở Hoa Kỳ từ 1965 đến 1971 khiến cho chính phủ ngày một suy yếu, đất nước bị phân hoá, chính phủ vừa phải lo cuộc chiến tranh miền Nam vừa phải đối đầu với phong trào phản chiến.

    Chúng ta có thể kết luận một cách giản dị phong trào phản chiến xuất phát từ tâm lư của anh nhà giầu sợ chết, dù được che đậy dưới h́nh thức nào cũng không thể dấu diếm được cái bản chất hèn nhát của anh nhà giầu. Đầu năm 1969 có vào khoảng 31 ngàn lính Mỹ tử thương tại Việt Nam, theo tin tức Mỹ riêng năm 1968 Cộng quân mất gần 290 ngàn cán binh, cho tới cuối 1968 có vào khoảng từ 500 cho tới 600 ngàn Việt Cộng tử thương. Tính ra số tổn thất nhân mạng của Mỹ chỉ bằng 5% hoặc 10% so với số tử của VC nhưng địch không bao giờ có một lời than văn, như thế ta thấy người Mỹ đă sai lầm khi tham gia cuộc chiến tranh với một kẻ thù nghèo đói, thằng nghèo đói không bao giờ sợ chết. Người Mỹ đă tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.

    Người Mỹ thích làm anh hùng, họ rất thích những đề tài anh hùng hào hiệp, cuốn phim nổi tiếng của Nhật, Bẩy Người Hiệp Sĩ (Seven Samourais) quay năm 1954 đă được giới làm phim Mỹ vô cùng hâm mộ, họ bắt chước quay thành phim cao bồi miền Tây tới 4 lần vào những năm 1960, 1966, 1969, 1998. Nội dung phim ca ngợi tinh thần của bẩy người hiệp sĩ anh hùng giúp dân làng chống lại bọn cướp Người Mỹ rất thích những đề tài anh hùng hào kiệt, diệt gian trừ bạo như vậy, họ thích làm “yên hùng”nhưng thật là khôi hài thay, “yên hùng sợ chết”! Người Mỹ thích làm trùm thế giới nhưng lại sợ chết, thật là diễu hết chỗ nói!

    Phản chiến đă tạo niềm tin cho CSBV, chúng chỉ chờ có thế. Vào những năm 1952, 1953 người dân Pháp lúc ấy quá chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh Đông Dương vừa chết người tốn của, trong suốt cuộc chiến tranh 1947-1954 đă có 19 chính phủ Pháp bị đánh đổ v́ không giải quyết được cuộc chiến. CS chỉ trông chờ vào phong trào phản chiến để đối phương phải chán ghét rồi bỏ cuộc, chiến lược “cố đấm ăn xôi” của VC đă từng thành công từ cuộc chiến tranh Việt Pháp nay chúng lại đem áp dụng vào cuộc chiến tranh chống Mỹ.

    Phong trào phản chiến đă là cơ hội bằng vàng cho đảng Dân Chủ hốt phiếu và rồi nắm đa số tại Quốc Hội. Chính họ đă hạ “Nhát gươm đao phủ” thanh toán miền Nam VN.

    Người Mỹ cũng đổ lỗi cho phía VN, nhiều người cũng cho nguyên nhân cả từ hai phía.

    - Phía Việt Nam.

    Các nhà chính trị, tướng lănh, kư giả, các nhà nghiên cứu… như cựu đại sứ Bùi Diễm, tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Hoàng Lạc, Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương … đều cho rằng ta thiếu nhà lănh đạo có khả năng để lèo lái con thuyền quốc gia, thậm chí có người nói đất nước đă được giao phó cho lănh đạo tồi.

    Thật vậy những năm đầu của chế độ Nguyễn Văn Thiệu, 1967, 1968, guồng máy tương đối c̣n có kỷ cương nhưng dần dần đi tới chỗ tham nhũng thối nát tồi tệ, nó đă phá hoại kinh tế vật chất và làm suy sụp tinh thần quân dân. Tham nhũng hối lộ có từ thời Tây nhưng dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu có thể nói đă tiến tới chỗ tột cùng của thối nát. Các chế độ, chính phủ Quốc Gia từ thời Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Cao Kỳ… cũng ít nhiều có tham nhũng nhưng người dân c̣n chấp nhận được, đến Nguyễn Văn Thiệu th́ thật hết nước nói. Sau khi miền Trung thất thủ lọt vào tay Cộng quân, chúng tôi có nghe một ông công chức than thở “chế độ Thiệu đi theo vết xe đổ của Tưởng Giới thạch, các ông tỉnh trưởng chết gục trên đống vàng”!

    Trong cuốn sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 trang 56, Phạm Huấn có nói.

    “Theo dư luận, cái giá để mua chức Tỉnh trưởng qua đường giây bà Thiệu, bà Khiêm, thường thường từ 10 đến 20 triệu”

    Tệ nạn mua quan bán tước ngày càng lộ liễu, những chức vụ, công việc hái ra tiền đều được mua bán trả giá cả ṣng phẳng, ngoài ra quan chức phải nộp tiền hụi chết cho cấp trên theo hệ thống quân giai, Quận nộp cho Tỉnh, Tỉnh nộp cho Vùng, Vùng nộp cho Trung Ương. Nguyễn Đức Phương nói các h́nh thức tham nhũng tại miền Nam đă được nhóm nghiên cứu thuộc tổ hợp Rand xếp thành bốn loại chính buôn lậu, hối lộ, mua quan bán tước và lính kiểng, lính ma.. Trong phim Vietnam History by television, ông giám đốc CIA khi trả lời phỏng vấn cho biết tham nhũng (corruption) đă phát triển quá độ tại miền Nam VN , chỗ nào cũng có, chính phủ Mỹ biết rơ như vậy và họ đă phải che dấu không cho báo chí biết sợ người ta làm um lên, nếu đến tai Quốc hội viện trợ sẽ bị cắt giảm.

    Tại các tỉnh, viện trợ kinh tế, xă hội, b́nh định phát triển.. bị đục khoét trầm trọng, tiền viện trợ của Mỹ không được dùng vào mục tiêu kinh tế quân sự mà vào túi bọn quan lại tham ô. Tham nhũng bắt nguồn từ ḷng tham vô đáy của con người hơn là v́ thiếu thốn. Các quan chức có được căn nhà, cái xe hơi th́ cũng được rồi, so với đời sống nhân dân như thế cũng là được quáưu đăi. Nhưng kẻ tham ô không dừng chân ở đó, được voi tṛi tiên, họ tậu rừng tậu ruộng, tậu đồn điền, mua dăm bẩy căn nhà nghỉ mát, cái ở Nha Trang, cái Đà Lạt, Vũng Tầu, chuyển ngân ra ngoại quốc… Tham nhũng như đă nói ở trên vừa phá hoại kinh tế quốc gia, vừa làm suy yếu tinh thần người dân cũng như người lính chiến. Sau đây là tham nhũng dười con mắt người ngoại quốc.

    “ Hậu quả của t́nh trạng tham nhũng này đă được một sĩ quan nhận xét.

    ‘ Tham nhũng luôn luôn tạo ra sự bất công trong xă hội. Tại Việt Nam, một nước đang trong thời chiến th́ sự bất công trong xă hội lại càng rơ ràng hơn so với các nước khác. Tham nhũng đă tạo ra một thiểu số nắm giữ tất cả các quyền lực và tài nguyên, phần lớn giai cấp trung lưu và nông dân trở thành nghèo hơn và phải chịu hy sinh.Họ mới chính là người đóng thuế cho chính phủ, hối lộ cho cảnh sát, phải mua phân bón với giá cắt cổ để rồi phải bán gạo với giá rẻ do chính phủ ấn định, và cũng chính họ đă cho con cái đi chiến đấu và hy sinh cho đất nước trong khi các công chức cao cấp của chính phủ và những kẻ giầu có lại gửi con cái ra nước ngoài.Một bác sĩ quân y đă nói với tôi rằng ông đau ḷng khi nh́n thấy những thương binh, các binh sĩ cụt chân tay nằm đầy tại quân y viện đều thuộc giai cấp b́nh dân, thuộc các gia đ́nh nông dân, các thương binh này phải chịu đựng và hy sinh cho thiểu số tham nhũng thống trị. Chính phủ tuyên bố t́m cách chiếm ḷng dân nhưng thực tế chỉ làm lớn hơn khoảng cách giữa giai cấp lănh đạo và quần chúng.”

    Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập, trang 804, 805.
    Hồi ấy trên báo chí đă có người lên án bất công xă hội tại miền Nam ngày càng trở lên ghê tởm, trong khi binh sĩ chết như rạ ngoài mặt trận th́ tại các thành phố lớn, bọn nhà giầu mua xe hơi bóng lộn, xây nhà cao năm bẩy tầng lầu, ai nấy mặt vênh mày vác, khinh người rẻ của. Bọn con buôn hái ra tiền nhờ chiến tranh rồi dùng tiền cho con cái đi du học ngoại quốc trong khi những kẻ sông pha mũi tên ḥn đạn ngoài chiến trường phải chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Thực trạng xă hội đă ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần người chiến sĩ, họ phải hy sinh, chiến đấu cho một chế độ bất công thối nát.

    Phạm Huấn có ư chê các Tướng lănh Việt Nam không có sự ngay thẳng, tư cách như các Tướng lănh ngoại quốc. Năm 1950 De LattreTướng 5 sao, Tư lệnh Đông Dương nhưng vẫn để cho người con một, Bernard De Lattre đóng tại đền Non nước Ninh B́nh. Mặc dù vua Bảo Đại đề nghị đưa Bernard về làm trong văn pḥng Quốc trưởng nhưng ông Tướng vẫn để con chiến đấu tại chiến trường và tử trận tháng 5-1951. Khi Mỹ bắt đầu ném bom Bắc Việt, Đô đốc Sharps, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương đă để con trai ông, Thiếu tá phi công Mac Cain tham gia oanh tạc và đă bị bắn rơi
    “Trong khi đó, suốt cuộc chiến 21 năm sau cùng tại Việt Nam, chắc chắn không thể t́m thấy con một ông tướng nào chiến đấu ngoài mặt trận”

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH

    NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH
    Việt Nam Cộng Hoà 1975, Nguyên Nhân Sụp Đổ.


    Phạm Huấn,Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 133

    “..con những ông Tướng khác th́ cứ gần đến tuổi động viên đă bằng cách này, cách khác, được xuất ngoại du học. Chung qui chỉ có những sinh viên, học sinh con nhà nghèo và không thế lực, sẽ bị thi hành lệnh Tổng động viên một cách rất kỹ lưỡng. Ngoài ra, v́ không có tiền bạc để chạy chọt, chắc chắn không bao giờ họ được phục vụ tại ‘chỗ ngon, chỗ bở’ ở Sài G̣n hay hay các tỉnh”

    Phạm Huấn, Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 134, viết theo lời kể của Thiếu uư Phạm văn Trung, sư đoàn 18 BB.

    Trần Phan Anh trong cuốn Trận Chiến Mùa Hè 1972 trang 155, 156 có nêu ra một vụ tham nhũng hối lộ động trời của các Tướng lănh VNCH, chẳng biết hư thực ra sao.

    “Trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 3-1972, t́nh báo VNCH báo cáo sự hiện diện của công trường 5 Bắc Việt tại căn cứ địa 712, gần thị trấn Snoul, Cam Bốt, khoảng 30 cây số Tây Bắc Quận lỵ Lộc Ninh trên Quốc Lộ 13. Hai công trường 7, 9 được phát hiện tại vùng đồn điền cao su Dambe và Chup trên đất Cam Bốt, nơi đó là hai mục tiêu hành quân của Quân đoàn III thiết kế cho Đệ tam cá nguyệt 1971. Kế hoạch đă bị đ́nh hoăn sau cuộc tử nạn của Trung Tướng Đỗ Cao trí, Tư lệïnh quân đoàn III QLVNCH.

    Trung Tướng Đỗ Cao Trí đă bị thảm sát v́ đă cùng Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang nhận hối lộ 30 triệu đô la do toà Đại sứ Nga tại Paris trao cho Quang để thả Trung Ương Cục và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chạy trối chết qua Cam Bốt sau khi bị liên quân Việt Mỹ bao vây tại vùng rừng Tây Ninh v́ những cánh quân của Quân đoàn III tiến quá nhanh, cục R chậm chân kẹt lại bị CIA phát hiện do việc họ đánh điện cầu cứu Hà Nội. MACV phối hợp Đệ 2 Quân đoàn tiền phương Hoa Kỳ (US II Field Forces) cùng Quân đoàn 3 VNCH được tăng cường một lữ đoàn Dù, Liên đoàn 5, 6 Biệt động quân tung quân bao vây, Cục R chỉ c̣n một trung đoàn bảo vệ, cá nằm trong rọ chờ lên thớt. Khi Liên quân Việt Mỹ siết chặt ṿng vây, Lữ đoàn Dù thọc mũi tấn công khuấy động, một liên đoàn Biệt Động Quân lănh nhiệm vụ án ngữ biên giới Cam Bốt th́ bất ngờ nhận được lệnh Trung Tướng Đỗ Cao trí cho lệnh rút về chi khu Phước Thành, Tây Ninh nghỉ dưỡng quân th́ tối hôm đó bị trung đoàn bảo vệ Cục R đánh úp để che chở cho toàn bộ Trung ương Cục hạy trối chết qua Cam Bốt về hướng đồn điền Snoul.

    Sau đó CIA tức giận nghĩ rằng Đỗ Cao Trí là người của Cộng sản nên ra tay tiêu diệt, những chuyện này do chính Đặc sứ Komer (hàm Đại sứ) kể lại, ông đặc trách B́nh định phát triển MACV.”

    Khởi đầu từ 8 tháng 9 năm 1974, linh mục Trần Hữu Thanh Chủ tịch Phong trào Nhân dân chống tham nhũng cho phổ biến bản cáo trạng số 1 tố cáo ông Thiệu tham nhũng và yêu cầu từ chức. Tướng Thiệu bị tố tham nhũng nhiều vụ như nhà cửa, đất đai, đầu cơ phân bón, gạo miền Trung, buôn bán bạch phiến.. . phong trào lôi cuốn các nhóm khác như sinh viên, kư giả, chính khách.. Đầu tháng 2 năm 1975, phong trào phổ biến cáo trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ bằng vơ lực khiến ông ta phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều nhà chính khách, đảng phái.

    Người dân trong nước đă quá chán ghét chính quyền thối nát, dĩ nhiên người Mỹ phải chán nản hơn thế nữa, tiền của họ đổ vào từ bao lâu nay y như gió lùa vào nhà trống, cựu đại sứ Bùi Diễm nói.

    “Một quốc hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi v́ đă yểm trợ một đồng minh có quá nhiều khuyết điểm và thối nát”
    Nhà bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng, Phạm Huấn, chính khách, kư giả… đều cho rằng đất nước đă được giao phó vào tay lănh đạo tồi. Trần Việt Đại Hưng cũng như nhiều nhà báo khác cho rằng Thiệu, Kỳ không phải là những nhà lănh đạo mà chỉ là những anh cai thầu chiến tranh, hễ có tiền th́ đánh, không tiền th́ chạy. Trong tám, chín năm cầm quyền, ta không thấy chính phủ Thiệu có một kế hoạch ǵ về chính trị, kinh tế cũng như quân sự mà chỉ trông chờ vào Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng ta đă hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ từ quốc pḥng, ăn ở, giao thông, vận chuyển…

    Đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm, công chức quân nhân không được học tập về đường lối, lư tưởng chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng chỉ là h́nh thức. Tổ chức hoạt động tuyên truyền của chính phủ rất yếu kém, không lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân dân trong khi kẻ địch thường xuyên tuyên truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ đội để lái họ theo đường hướng chúng đă vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền của ta không giáo dục, tuyên truyền cho người dân, quân nhân, công chức một lư tưởng Quốc gia, lư tưởng Tự Do Dân chủ để quân dân ta có một tinh thần vững mạnh mà chỉ là chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu th́ đánh đấy.

    Ông Nguyễn Đức Phương cho rằng người dân không tích cực yểm trợ cho công cuộc chiến đấu.
    “Cuộc chiến tranh quá dài đă khiến mọi người mệt mỏi, giao khoán hoàn toàn việc bảo vệ đất nước cho quân đội. Phần lớn thanh niên không thiết tha, đôi khi c̣n trốn tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Tất cả những mục nát của chính quyến, thờ ơ của dân chúng và sự ung thối của xă hội miền nam đă cấu thành yếu tố tự hủy”
    CTVNTT, trang 806

    Một điều không thể chối căi được là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ khiến cho CS đă thừa cơ nước đục thả câu. Ngay từ những năm 1945, 46.. các đảng phái Quốc Gia đă chia rẽ nhau khiến cho CS lợi dụng thời cơ tuyên truyền lôi cuốn quần chúng để rồi cướp được chính quyền. Ông Ngô Đ́nh Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954, so với các Thủ Tướng tiền nhiệm như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn tâm, Bửu Lộc… ông Diệm là người có bản lănh cao nhất, dám chơi bạo hất cẳng Pháp để đi theo Mỹ. Đụng chạmvới Bảo Đại thân Pháp, tháng 4-1955, ông Diệm được triệu hồi sang Pháp để Quốc trưởng cất chức. Các đảng phái Quốc gia, nhân sĩ.. đều nhiệt t́nh ủng hộ Thủ tướng Diệm, đả đảo và truất phế ông vua vong bản Bảo Đại. Năm 1956 ông Diệm Trưng Cầu dân ư lên làm Tổng thống rồi từ từ xung đột với các đảng phái, nhân sĩ Quốc gia. Những người Quốc gia trước đây ủng hộ ông nay quay lại chống ông. Chính phủ cũng chống đối đàn áp những người đối lập ra mặt.

    Sau ngày đảo chính 1-11-1963, miền Nam lại lâm vào t́nh trạng chia rẽ trầm trọng gấp bội lần hơn trước. Các Tôn giáo, Tướng lănh tranh giành quyền hành biến miền Nam thành một đất nước vô chính phủ. Phật Giáo, Công giáo chia rẽ đả kích nhau trên báo chí, rồi lại có phe chủ trương chia rẽ Bắc Nam để ḥng thủ lợi. Năm 1966 chính quyền quân nhân đă tạm ổn định được t́nh h́nh lại bị phong trào Phật Giáo miền Trung chống đối dữ dội, phong trào đă gây t́nh trạng sáo trộn nhiễu nhương khiến cho nhân tâm sao xuyến, kẻ thù thừa cơ len lỏi phá hoại cơ cấu Quốc gia.

    Cuối tháng 3-1966 Phó Tổng Thống Mỹ Humphreys tuyên bố với báo Newsweek, ông bi quan cho rằng chỉ có ông Trời mới lật được thế cờ ở Việt Nam là một xứ có quá nhiều chuyện rắc rối. Mỹ sẵn sàng sét lại đường lối và sẵn sàng thừa nhận một VN không liên kết. Mỹ có thể chấp nhận cuộc tuyển cử tự do dù Cộng Sản có thể thắng trong cuộc bầu cử đó. Như thế những cuộc biểu t́nh, chia rẽ nội bộ của ta đă bắt đầu khiến người Mỹ chán nản, chính chúng ta làm cho họ chán.
    Cho đến gần giờ thứ hai mươi lăm, cuối 1974 và đầu 1975, những cuộc biểu t́nh chống chính phủ của Linh mục Trần Hữu Thanh, đảng phái, chính khách… khiến cho các binh sĩ ngoài tiền tuyến mất tinh thần chán nản và ảnh hưởng tai hại đến sự sống c̣n của đất nước.
    Ngoài ra chúng ta không thể quên một yếu tố ngoại lai vô cùng quan trọng, ta phải đương đầu với một kẻ thù nguy hiểm.

    - Kẻ Thù dai dẳng.

    Năm 1947 bị Pháp truy kích Việt Minh thua chạy rút vào các chiến khu, từ năm 1949, Mao thắng Tưởng nhuộm đỏ Trung Hoa, Viêït Minh được Trung cộng viện trợ vũ khí ồ ạt bắt đầu chuyển bại thành thắng. Những năm 1950, 1951, 1952 được Trung Cộng dậy cho lối đánh biển người, Việt Minh lấy thịt đè người tấn công quân Pháp dữ dội tại trận Vĩnh Yên 1950, sông Đáy, Yên Cư Hạ.. mặc dù các trận đánh thí quân đẩy thanh niên hết lớp này đến lớp khác vào họng súng địch mà không thành công ǵ mấy nhưng nó đă làm cho đối phương phải run sợ trước quyết tâm của một kẻ thù liều mạng. Ngay từ 1952 người dân Pháp đă quá chán ghét cuộc chiến tranh Đông Dương, chết người tốn của, không hy vọng ǵ thắng được kẻ thù. Đến năm 1953, 1954 họ chán ghét, ghê sợ cuộc chiến tranh đến cùng cực, cho dù nếu không thua trận Điện Biên Phủ họ cũng tính chuyện rút quân về nước càng sớm càng tốt. Trong suốt cuộc chiến 1947-1954 đă có 19 chính phủ bị đổ v́ không giải quyết được cuộc chiến tranh Đông Dương.

    Người Mỹ đổ quân vào miền Nam giữa năm 1965 tưởng rằng với hoả lực hùng hậu có thể đè bẹp cuộc xâm lăng rẻ tiền của Việt Cộng trong năm, sáu tháng. Nhưng chiến tranh ngày càng leo thang, VC bị oanh kích, truy nă chết như rạ nhưng lạ thay, không có dấu hiệu ǵ cho thấy địch phải rút lui, từ bỏ ư định xâm lăng. Không những thế, VC vẫn gia tăng xâm nhập hết lớp này đến lớp khác, vẫn cái chiến lược cố đấm ăn xôi đẩy thanh niên vào chỗ chết có từ thời Pháp thuộc. Năm 1967, 68, 69 người Mỹ thống kê cho biết VC bị giết lên tới sáu, bẩy trăm ngh́n, trong khi ấy người Mỹ chỉ mới thiệt hại ba chục ngh́n, VC vẫn gia tăng xâm nhập và rồi người Mỹ thất vọng, họ cho rằêng VC sẵn sàng chiến đấu dù phải hy sinh thêm một triệu nữa và số thiệt hại của Mỹ sẽ c̣n lên tới 100 hay 200 ngàn người…

    Ngày 26-2-1968, khi liên quân Việt Mỹ đă tái chiếm lại Huế trong trận Tết Mậu thân, đài VOA nói
    “Hôm nay ngày 26-2 Huế đă được các lực lượng VNCH và Mỹ hành quân giải toả, chấm dứt một cuộc chiến tranh bẩn thỉu nhất kéo dài từ một tháng qua”
    Người Mỹ gọi cuộc chiến tranh Việt Nam bẩn thỉu v́ các chiến thuật chiến lược của địch tiểu nhân nhơ bẩn chưa từng bao giờ thấy. VC miệng nói hoà b́nh tay ŕnh đánh trộm, lợi dụng ngày hưu chiến, ngày Tết để đánh. Chủ trương lấy cứu cánh biện minh phương tiện, VC dùng tất cả mọi thủ đoạn tiểu nhân bẩn thỉu miễn là thắng trận, lùa đàn bà trẻ em đi trước để làm bia đỡ đạn. Người Mỹ đă từng chiến đấu tại Âu Châu với quân Đức, Á Châu với quân Nhật, Trung Cộng nhưng chưa hề thấy một cuộc chiến tranh nào kỳ quái như tại VN. Họ phải đương đầu với một kẻ thù dai dẳng, cố đấm ăn xôi, thí quân liều mạng, kẻ thù có mặt khắp nơi ẩn hiện như ma, một cuộc chiến tranh không giới tuyến. Tất cả những chiến thuật chiến lược VC đều không đếm xỉa ǵ tới qui ước chiến tranh quốc tế, địch pháo kích vào các khu vực đông dân cư để gây náo loạn, không đếm xỉa ǵ tới sinh mạng đàn bà trẻ nít.

    Ngoài ra thủ đoạn chính trị, ngoại giao VC cũng cố đấm ăn xôi y như tại chiến trường, chúng cũng dai dẳng, bẩn thỉu, ma mănh lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Sau trận Mậu Thân người Mỹ quá chán ghét chiến tranh VN và t́m cách rút chân ra v́ biết không thể thắng được kẻ thù liều mạng trong một cuộc chiến tranh bẩn thỉu như vậy. Trận Mậu Thân VC tuy bị thiệt hại nặng về nhân mạng nhưng chúng lại thắng lợi to lớn về chính trị, địch đă tạo được sự ghê tởm cho kẻ thù để họ phải chán nản bỏ cuộc. Sự ĺ lợm, cố đấm ăn xôi đă đạt được kết quả mong muốn, VC đă thành công trong cuộc chiến tranh Việt Pháp và lại áp dụng “chiến lược cố đấm ăn xôi” đẩy thanh niên vào chỗ chết khiến kẻ thù phải ghê tởm. Sau 1975 những người ở ngoài Bắc vào Sài G̣n nói “ Thằng nghèo đói nó không sợ chết”, đó là nguyên do đưa tới sự sai lầm của người Mỹ, họ đă đưa quân vào tham dự một cuộc chiến tranh không cân xứng giữa một anh nhà giầu sợ chết và một thằng nghèo đói đánh thí mạng cùi.

    Trong phim Viêtnam History By Television, Vơ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn của một kư giả Tây phương

    “Chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu cho tới thắng lợi cuối cùng”
    Nguyên văn “Nous continuerons à combattre jusqu’à la victoire finale..”. Sự thực th́ Giáp không chiến đấu mà chỉ đẩy thanh niên vào chỗ chết.

    Hoa Kỳ đưa quân vào VN đánh CS là đă đi vào vết xe đổ của người Pháp, cuối cùng đă phải đầu hàng chiến lược bẩn thỉu ghê tởm của kẻ địch. Khát máu như bọn thực dân Pháp c̣n phải bỏ chạy huống hồ Mỹ. Trận Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, người Mỹ muốn ta phải thắng, họ yểm trợ B52 trải thảm cho QĐVNCH giành thắng lợi tại chiến trường để có ưu thế trên bàn hội nghị Paris ḥng kư kết hiệp Định rút quân về nước. Cuối cùng kẻ địch lại thắng thêm một trận vĩ đại nữa qua chiến lược cố đấm ăn xôi.

    Ngoài ra chúng ta cũng phải kể thêm những yếu tố phụ thuộc khác, trong khi ta bị địch tấn công tại tuyến đầu, đài BBC Luân Đôn cũng tuyên truyền phá hoại khiến cho quân dân mất tinh thần hốt hoảng tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ địch. Đài BBC xuyên tạc sự thật ở nhiều chỗ, Quảng Đức di tản ngày 22-3, mấy ngày sau VC mới dám vào nhưng BBC cũng nói đă bị tràn ngập…

    Những nguyên nhân chúng tôi đă nêu ở trên chỉ là tương đối, mặc dù những nay nhiều hồ sơ đă được giải mật nhưng cuộc chiến tranh vẫn c̣n nhiều bí ẩn. Trả lời phỏng vấn của Phạm Huấn, Tướng Toàn cho biết sau khi ném 2 quả bom CBU ngày 15-4-1975 tại Long Khánh, CSBV bị thiệt hại khoảng 10 ngàn người, ông xin lệnh cho ném thêm 5 quả nữa nhưng được trả lời người Mỹ chỉ cung cấp ng̣i nổ cho 2 quả, họ chỉ cho ta ném 2 quả mà thôi. Như thế ta mới thấy đă có sự sắp đặt sẵn giữa các thế lực siêu cường v́ nếu họ cho ta ng̣i nổ 10 quả mà không cần viện trợ khẩn cấp, không cần đưa B52 sang trải thảm ta vẫn thừa sức đẩy lui VC ra khỏi miền Nam. Rơ ràng họ đă sắp đặt bỏ miền Nam chứ không phải vấn đề tốn kém, bởi v́ bom đă để sẵn cả nhưng chỉ thiếu ng̣i, cái ng̣i chẳng đáng giá bao nhiêu.

    Ngày 6-4-1969 Wesmoreland cựu Tư Lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam và Đô Đốc Sharps, Cựu Tư lệnh Thái B́nh Dương Mỹ phúc tŕnh dài 347 trang về chiến tranh Việt Nam trong 4 năm qua. Họ cho biết nếu Mỹ không đổ quân vào Miền Nam năm 1965 th́ sẽ mất trong 6 tháng. Hai cựu Tư Lệnh này nhấn mạnh sự bó tay của Quân đội Mỹ trước chính sách hạn chế chiến tranh của Tổng thống Johnson không cho đánh qua Mên Lào. Ngày 27-1969 Đô Đốc Sharps đăng báo công kích Bộ trưởng Quốc pḥng Mc Namara đă không cho oanh tạc phá hủy tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà chỉ cho ngăn xâm nhập nên các cuộc oanh tạc hóa ra vô hiệu.

    Những người hoạch định chiến lược Mỹ không phải là những nhà quân sự mà là các chính trị gia, họ họach định với thái độ do dự và lo sợ nên các kế hoạch công phá địch đă bị vô hiệu. Nhiều người cũng đặt giả thuyết cho rằng họ bị tư bản chi phối cố t́nh kéo dài chiến tranh để bán vũ khí, giả thuyết đó dựa trên sự nghi ngờ người Mỹ giả vờ không đánh thắng được Việt Cộng để cù cưa kéo dài chiến tranh. Sự nghi ngờ này đă đưa tới những cuộc biểu t́nh chống chiến tranh tại Mỹ cũng như tại Việt Nam năm 1966 tại miền Trung mà hậu quả chỉ là có lợi cho CS. Cuối năm 1969, cựu Tư Lệnh Wesmoreland tại Mỹ nói nếu Mỹ tiếp tục oanh tạc th́ đă thắng rồi, BV lợi dụng hoà đàm yêu cầu Mỹ ngưng oanh tạc hơn một năm nay để chuyển quân vào đánh tiếp. Ông Nguyễn Tiến Hưng cho rằng miền Nam sụp đổ v́ đă quá phụ thuộc vào Mỹ từ Quốc pḥng, kinh tế, giao thông, ăn, ở.. Ta cũng quá ỷ lại vào Mỹ, lúc nào cũng tin tưởng vào sự giúp đỡ của người bạn Đồng Minh .

    Sự thực đây không phải là lần đầu tiên người Mỹ phản bội đồng minh , cái tṛ mua bán đổi chác, bỏ rơi đàn em đă có từ Thế Chiến Thứ hai cách đây đă hơn 60 năm. Tháng 4-1945 , Tướng Paton Mỹ đánh Đức Quốc Xă tiến quân đến sát biên thùy Tiệp Khắc sắp vào giải phóng họ th́ được lệnh phải dừng lại ngay lập tức v́ Tiệp đă được nhường cho Nga. Sau này những bí mật đă được tiết lộ, sở dĩ Mỹ nhường Đông Âu cho Nga v́ họ có nhờ Nga phụ giúp một tay đánh quân Nhật tại Á Châu. Họ có cho nghiên cứu làm bom nguyên tử nhưng không hy vọng ǵ lắm.

    Cuối năm 1944, mặt trận Âu châu đă gần kết thúc nhưng tại Á châu, Nhật vẫn c̣n hơn 5 triệu quân đóng rải rác tại các nước Đông Nam Á, họ lại chiến đấu dai dẳng không chịu đầu hàng. Người Mỹ trù tính phải đánh một năm rưỡi hoặc hai năm mới xong, ï sẽ phải tốn nhiều xương máu, sinh mạng của tư bản quí như vàng. Muốn tiết kiệm xương máu nhân dân chỉ c̣n cách đem Đông Âu ra đánh đổi và Staline nhận lời ngay v́ sinh mạng dân Xă hội chủ nghĩa lại rẻ như bèo. Nhà văn Lỗ Ma Ni, Virgil Gheorghui trong cuốn truyện Les Sacrifíés du Danube đă diễn tả nỗi đau đớn uất hận của 150 triệu người Đông Âu tan gia bại sản đă bị Hoa Kỳ bán đứng cho CS để cứu vớt nền văn minh Tây Âu.

    Cuối năm 1948 Tưởng Giới Thạch mất Măn Châu, ngày 7-10-1948 Hồng quân đại thắng ở Hoa Bắc, hai hôm sau Tưởng Giới thạch xin Mỹ viện trợ để cứu nguy t́nh thế quá hiểm nghèo nhưng không được đáp ứng. Đầu tháng 12-1948 Tưởng phu nhân bà Tống Mỹ Linh đích thân sang Mỹ cầu viện nhưng họ lờ đi. Mỹ bỏ rơi Trung Hoa Dân Quốc không thương tiếc v́ trước đây họ giúp Tưởng Giới Thạch chống Nhật, Tưởng đă cầm chân được một số lớn quân Nhật, nay đế quốc Nhật tan tành thành tro bụi, Tưởng không c̣n là đồng minh cần thiết nữa. Hoa Kỳ bỏ rơi Trung Hoa mang lại hậu quả tai hại cho cả Á Châu, Trung Cộng nhuộm đỏ nước Tầu rồi trở thành mối đe dọa cho Hoa Kỳ, cho nền hoà b́nh thế giới và bây giờ vẫn c̣n đe dọa, cái giá mà Hoa kỳ phải trả cho sự bỏ rơi này muôn đời không bao giờ hết.

    Và để rồi gần 30 năm sau, tháng tư 1975 họ lại dở cái tṛ vắt chanh bỏ vỏ ấy tại Việt Nam.

    Người Mỹ có được lợi lộc ǵ trong cuộc chiến tranh Việt Nam hay chỉ toàn là thiệt hại, dĩ nhiên có . Trước mắt họ đă ngăn chận được cuộc chiến tranh theo kiểu tầm ăn dâu của Trung Cộng tại Á Châu, sự phản ứng quyết liệt đă khiến khối Cộng chùn bước. Mỹ đă bắt tay hoà hoăn được với Trung Cộng, ít ra họ cũng yên tâm thoát khỏi sự đe dọa an ninh cho đất nước. Việt Nguyên trong bài “ 32 Năm Lật Trang Sử Cũ” cho biết Trung Cộng đă viện trợ cho Bắc Việt 20 tỷ Mỹ kim trong suốt cuộc chiến tranh từ 1950 -1975, đúng như Trần Phan Anh nói trong Trận Chiến Mùa Hè năm 1972,
    “QVNCH đă cầm chân và tiêu diệt phần lớn năng lực và tài nguyên của khối Cộng Sản vào cuộc chiến tranh. Họ đă tạo thời giờ quí báu cho Khối Tự Do phát triển kinh tế và củng cố hàng ngũ. Kết cuộc họ đă bị trói tay để đưa đến thảm trạng 30 tháng 4 năm 1975”

    Người Mỹ nói họ thiệt hại 300 tỷ Mỹ kim, không phải rằng họ cho VN số tiền khổng lồ ấy mà nó là một chi phí tổng gộp bao gồm cả lương lính, nhân viên quốc pḥng, cố vấn, công nhân chế tạo vũ khí, chi phí di chuyển .. những khoản tiền ấy lưu hành trong phạm vi kinh tế, lănh thổ nước họ hơn là ra ngoại quốc. Nước Mỹ khóc lóc thảm thương cho 58 ngàn người lính của họ đă “ủm củ tỉ” tại VN nhưng họ không hề đoái thương tới hàng mấy triệu người Việt Nam và Đông Dương chết v́ bị các thế lực siêu cường xúi cho người ta giết lẫn nhau. Người Mỹ không hề thương tiếc cho hàng mấy triệu người dân Miên vô tội bị Khmer đỏ tàn sát v́ họ đă bỏ rơi Đồng Minh một cách tàn nhẫn.
    Ông Nguyễn Tiến Hưng nói Hoa Kỳ bỏ Việt Nam v́ quyền lợi của họ tại đây không c̣n nữa.

    Trọng Đạt

    Tài Liệu Tham Khảo.

    Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
    Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam, 2000.
    Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988.
    Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987.
    Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc (Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt nam 1945-1975) Tiếng Quê Hương 2006.
    Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh xuất bản, 2005.
    Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội 2005.
    Đinh Văn Thiên: Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngơ Sài G̣n, nhà xuất bản Quân Đôïi Nhân Dân, Hà Nội 2005.
    Dương Đ́nh Lập, Trần Minh Cao: Cuộc Tổng Tiến Công và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, nhà xuất bản tổng hợp TPHCM 2005.
    Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1991.
    Đoàn Thêm: 1965 Việc Từng Ngày, Xuân Thu 1989.
    Đoàn Thêm: 1966 Việc Từng Ngày, Xuân Thu 1989
    Đoàn Thêm: 1969 Việc Từng Ngày, Xuân Thu 1989.
    Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Vietnam, Sphinx publishing 1986.
    The World Almanac Of The VietNam War: John S.Bowman, General editor, A Bison book.
    Stanley Karnov: Vietnam - A History, Penguin books 1991.
    Marilyn B Young, John J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents, Oxford University press 2002.
    Lâm Lễ Trinh: Tổng Thống Hai Ngày Dương Văn Minh, Người Việt Dallas 30-6-2005.
    Nguyễn Quang Khải: Sau Ba Mươi Năm Giữ Yên Lặng, Cựu Bộ Trưởng Quốc Pḥng Melvin R Laird Nói Ǵ Về Cuộc Chiền Tranh Ở Việt Nam, điện báo Talawas tháng 3-2006.
    Việt Nguyên: 32 Năm Lật Trang Sử Cũ, Người Việt Dallas 25-4-2007.
    Minh Vơ: Tại Sao Thua, Người Việt Dallas 26-4-2006.
    Trần Việt Đại Hưng: Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam 1975, Sài G̣n Nhỏ Dallas 2002.
    Lữ Lan: Cuộc Chiến 30 Năm Nh́n Lại Từ Đầu, Sài G̣n Nhỏ Dallas 28-4-2006.
    Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ Ai C̣n Ai Mất, Người Việt Dallas 7-10-2005.
    NgườiMỹ Và Chiến Tranh Việt Nam, Người Việt Dallas 21-6-2006.
    Lâm Lễ Trinh: Mạn Đàm Với Đại Tướng Cao Văn Viên, Về Nguồn, Thuỷ Hoa Trang 2006.
    Hồ Đinh: Cơn Phẫn Nộ Cuối Cùng Của Một Quân Đội Bị Phản Bội, Người Việt Dallas 23-12-2005.
    Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.
    Cao Văn Viên: Tuyến Đầu Vùng Một Thất Thủ, Thằng Mơ Sacramento, số cuối tháng 4-2006.
    Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (RVNAF 1968-1975, Bill Laurie) , Nguyễn Tiến Việt dịch, Con Ong Việt số 71, tháng 5 -2006.
    Trần Trung Đạo: 30 Năm Nh́n lại, Con Ong Việt số 60, tháng 5-2005.
    Nguyễn Văn Lục: Đi T́m Thời Gian Đánh Mất, 30-4-1975, 30-4-1976, 30-4-2007, Sài G̣n Nhỏ Dallas, 6-4-2007

    ----
    30/4/07 DCVOnline phỏng vấn Bùi Tín

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 24
    Last Post: 07-08-2011, 11:59 AM
  2. SỰ THẬT VỀ THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG
    By Hải âu in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 02-08-2011, 05:11 PM
  3. Replies: 0
    Last Post: 06-07-2011, 07:18 PM
  4. THƯ MỜI THAM DỰ ĐÊM VĂN NGHỆ VINH DANH CHIẾN SĨ QUÂN LỰC VNCH
    By NguyễnQuân in forum Thông Báo Cộng Đồng
    Replies: 0
    Last Post: 12-06-2011, 07:25 AM
  5. Replies: 1
    Last Post: 10-01-2011, 01:35 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •