Page 5 of 5 FirstFirst 12345
Results 41 to 45 of 45

Thread: Tội ác CS Việt nam: Thuyền nhân

  1. #41
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Tội ác CS Việt nam: Thuyền nhân

    Ôn lại một số đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam từ 1975
    27/04/2020
    p2




    Tuy nhiên, tị nạn Việt Nam không chỉ là một chuỗi dài bi kịch trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa và những câu chuyện thương tâm trong những cuộc hành tŕnh gian khổ của người tị nạn. Đây cũng là lịch sử một cuộc ra đi có chính nghĩa của hàng triệu người Việt Nam phải rời bỏ quê hương, tài sản và sự nghiệp chỉ v́ muốn thoát khỏi chế độ hà khắc của độc tài cộng sản. Chính nghĩa của cuộc ra đi không tiền khoáng hậu này đă được chứng tỏ bằng những khoản ngoại tệ (hay kiều hối) được chuyển về nước giúp cho thân nhân, bằng hữu hay đầu tư kinh doanh, những chương tŕnh giúp đỡ nhân đạo và cải thiện xă hội đang thực hiện khắp nước của các tổ chức phi chính phủ, không kể số lượng nhân tài chưa thể trở về giúp cho Việt Nam mau chóng trở thành một quốc gia phát triển hàng đầu trong khu vực.

    Đáng ghi nhớ là chính nghĩa này đă được chính các nhà lănh đạo cộng sản công khai thừa nhận từ giữa thập kỷ 1980 khi họ bừng tỉnh trước t́nh h́nh suy sụp mau chóng của các nước cộng sản Đông Âu, do đó đă quyết định “đổi mới hay là chết”. Nhân dân miền Nam không c̣n bị lên án là “ngụy” hay “phản động” và người tị nạn cũng hết bị nguyền rủa là “ma cô, đĩ điếm”. Một chính sách mới về “Việt kiều” được thiết lập, xoay 180 độ sang ca ngợi cộng đồng người Việt hải ngoại bằng những cụm từ hoa mỹ như “khúc ruột ngàn dặm”, “nguồn nội lực quan trọng” hay “bộ phận không thể tách rời” của dân tộc. Về điểm này, tác giả bài này đă nhấn mạnh trong lời kết bài thuyết tŕnh tại Đại học Columbia, New York, nhân dịp kỷ niệm 20 năm tị nạn Việt Nam: “Hai mươi năm trước, chúng ta là những kẻ thất trận trong thời chiến. Ngày nay, năm 1995, chúng ta đă vươn lên thành những người thắng cuộc trong thời b́nh.” (2) Đặc biệt hơn nữa là gần 20 năm sau, nhà báo Huy Đức nổi tiếng ở trong nước cũng thẳng thắn phát biểu trong lời mở đầu cuốn sách Bên Thắng Cuộc : “Nhiều người thận trọng nh́n lại suốt hơn ba mươi năm, giật ḿnh với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.” (3)

    Buổi ăn trưa tại Bộ Ngoại giao do ông Funseth khoăn đăi phái đoàn Văn Bút VN hải ngoại trước ngày lên đường đi VN kư thỏa hiệp định cư tù cải tạo. Dăy bên phải: nhà thơ Viên Linh, ông Funseth, nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, GS Lê Xuân Khoa. Dăy bên trái: nhà văn Trà Lũ, cố nhà báo Chử Bá Anh (thứ 3). Nhửng người Mỹ c̣n lại là thành viên phái đoàn Funseth. (H́nh: Tác giả cung cấp)
    Buổi ăn trưa tại Bộ Ngoại giao do ông Funseth khoăn đăi phái đoàn Văn Bút VN hải ngoại trước ngày lên đường đi VN kư thỏa hiệp định cư tù cải tạo. Dăy bên phải: nhà thơ Viên Linh, ông Funseth, nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, GS Lê Xuân Khoa. Dăy bên trái: nhà văn Trà Lũ, cố nhà báo Chử Bá Anh (thứ 3). Nhửng người Mỹ c̣n lại là thành viên phái đoàn Funseth. (H́nh: Tác giả cung cấp)
    Chính nghĩa tị nạn 1975 càng sáng tỏ hơn sau khi hai quốc gia Việt, Mỹ thiết lập quan hệ b́nh thường năm 1995. Do sự tan ră của các nước cộng sản Đông Âu và Liên Bang Xô-viết, cộng sản Việt Nam phải quay về núp bóng cộng sản Trung Quốc để duy tŕ chế độ nhưng không khỏi lo sợ nguy cơ đất nước bị Trung Quốc chiếm đoạt. Bởi vậy, Việt Nam cũng quyết định trông cậy vào sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ để có thể tồn tại độc lập và trở thành một quốc gia giàu mạnh và phát triển. Sự chuyển hướng chiến lược này đương nhiên nh́n nhận vai tṛ quan trọng của cộng đồng công dân Mỹ gốc Việt trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Điều này đă được những lănh đạo cao cấp nhất ở Việt Nam long trọng xác nhận trong cả hai cuộc họp thượng đỉnh tại thủ đô Washington, DC, giữa Tổng thống Obama với Chủ tịch Trương Tấn Sang năm 2013 và với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2015.

    Ngày 25.7.2013, trong cuộc họp báo công bố bản Tuyên bố Chung, khi TT Obama khẳng định “nguồn sức mạnh giữa hai quốc gia là những công dân Mỹ gốc Việt sống ở Mỹ nhưng có nhiều ràng buộc chặt chẽ với Việt Nam, và những quan hệ giữa người dân trong và ngoài nước chính là chất keo sơn gắn bó sự hợp tác mạnh mẽ giữa hai nước.” CT Trương Tấn Sang “cám ơn Hoa Kỳ đă giang tay đón nhận người Việt Nam tới định cư và nay họ đă trở thành công dân Mỹ đang đóng góp vào công cuộc phát triển chung của nước Mỹ.”

    Ngày 7.7.2015, sau cuộc họp với TBT Nguyễn Phú Trọng, TT Obama lại cho giới truyền thông hay là khi đề cập đến những hoạt động hợp tác giữa người dân hai bên với nhau, TBT Trọng đă nhận định rằng “nước Mỹ có nhiều công dân gốc Việt và Việt kiều hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới và họ đă đóng góp lớn lao cho xứ sở này. Chúng tôi muốn mở rộng những trao đổi như vậy gồm cả những chương tŕnh thông qua đại học Fulbright đă được chấp thuận và sắp sửa khai mạc.” Tiếp theo, ông Trọng ngỏ lời chào mừng và thăm hỏi thân t́nh cộng đồng người Việt ở Mỹ, hi vọng rằng mối quan hệ giữa hai nước sẽ gia tăng hơn nữa.

    Trong chuyến đi Mỹ lần này, TBT Nguyễn Phú Trọng đă đề cao vai tṛ quan trọng của người Mỹ gốc Việt nhiều hơn CT Trương Tấn Sang hai năm trước. Ngoài phát biểu trong bản Tuyên Bố Chung, lần đầu tiên “nh́n nhận sự thành công của người Việt Nam tại Hoa Kỳ và nhiều đóng góp của họ đối với sự phát triển của Việt Nam và Hoa Kỳ”, TBT Trọng c̣n có bài diễn văn tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), trong đó ông đă dùng những từ “đặc biệt” và “hết sức quan trọng” để nói về “cộng đồng đông đảo người Việt Nam tại Hoa Kỳ” mà ông định nghĩa chính xác và thân thiện là “công dân Hoa Kỳ và cũng là đồng bào của chúng tôi”. Dù lănh đạo cộng sản nổi tiếng về nói dối và lợi dụng cơ hội, những lời phát biểu chính thức này cho thấy họ không phủ nhận được chính nghĩa yêu nước của người tị nạn.

    Cũng cần nói thêm rằng chính nghĩa của người tị nạn không chỉ được chứng tỏ bằng tinh thần yêu chuộng dân chủ và nhân quyền mà các lănh đạo cộng sản đă phải nh́n nhận, dù miễn cưỡng, như một sự khác biệt cần được tôn trọng. Chính nghĩa đó c̣n được thể hiện như một thông điệp của người tị nạn nhắc nhở Hoa Kỳ về trách nhiệm đối với Việt Nam Cộng Ḥa, một cựu đồng minh đă phải hy sinh quá lớn về tài sản và nhân mạng trong vai tṛ “tiền đồn của thế giới tự do” trong khu vực Châu Á-Thái B́nh Dương. Thông điệp này được gửi đi trong bản điều trần của IRAC trước Thượng Viện Mỹ ngày 22.9.1981. Khi đó, tác giả bài này đang là Phó Giám đốc Trung tâm Tác vụ về Tị nạn Đông Dương (Indochina Refugee Action Center, IRAC) (4) lần đầu tiên ra điều trần trước Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ. Đó cũng là lúc đang có một luồng dư luận trong giới chính trị gia bảo thủ cho rằng tị nạn Việt Nam chỉ là di dân kinh tế và nước Mỹ đă mệt mỏi t́nh thương (compassion fatigue). Bản điều trần của IRAC kịch liệt phản bác luận điệu sai lầm này, nhấn mạnh rằng trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đất nước Việt Nam đă trải qua nhiều thời kỳ đói kém hay loạn lạc, nhưng chưa bao giờ nhân dân Việt Nam rời bỏ quê hương ra sinh sống tại nước ngoài cho đến khi bị cai trị bởi chế độ độc tài cộng sản. Sau khi chứng minh chính nghĩa của tị nạn Việt Nam và triển vọng đóng góp cho xă hội Hoa Kỳ, tác giả kết luận bài điều trần bằng một sự kiện đau thương nhằm thức tỉnh lương tâm các nhà lănh đạo Mỹ: “Xin đừng để các dân tộc trên thế giới phải đồng t́nh với cố thủ tướng Cam-bốt Sirik Matak khi ổng viết những ḍng chữ cuối cùng cho Đại sứ Mỹ, từ chối sang Mỹ tị nạn và chấp nhận bị Khmer Đỏ sát hại. Ông viết: ‘Lỗi lầm duy nhất của chúng tôi là đă đặt niềm tin vào nước Mỹ’. Xin hăy tiếp tục duy tŕ truyền thống bày tỏ t́nh đoàn kết và ḷng quảng đại của nước Mỹ đối với những nạn nhân của chế độ bạo tàn. Là một quốc gia và một nền kinh tế thịnh vượng, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ không bao giờ phải hối tiếc về sự mở ṿng tay đón nhận “những người đang khao khát được hít thở không khí tự do.” (5)

    Chủ tọa buổi điều trần là Thượng nghị sĩ Alan K. Simpson (R-Wyoming) lập tức nhận định rằng đây là “một bài thuyết tŕnh đầy sức mạnh” (a very powerful presentation) (6). Từ đó, ông có thái độ cởi mở hơn đối với người tị nạn từ ba nước Đông Dương.

    TIẾNG NÓI VÀ VAI TR̉ CỦA NGƯỜI TỊ NẠN

    Ngoài việc thể hiện chính nghĩa yêu nước theo lư tưởng quốc gia, chống lại chủ nghĩa và chế độ độc tài cộng sản, những người tị nạn may mắn định cư ở những nước dân chủ đă sớm góp phần đáng kể vào các nỗ lực quốc tế cứu vớt người vượt biển, chống nạn hải tặc, giúp đỡ tị nạn c̣n kẹt trong các trại tạm trú. Khi thuyền tị nạn bị đẩy ra khơi, họ đă lên tiếng vận động các nước giải quyết những cuộc khủng hoảng về t́nh trạng tị nạn tạm trú và được chấp thuận định cư. V́ không đủ thông tin và dữ kiện về t́nh h́nh tị nạn ở các nước, tác giả sẽ chỉ viết về lịch sử người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ với giả định là vấn đề tị nạn Việt Nam trên thế giới về cơ bản có nhiều điểm giống nhau mà Hoa Kỳ là điển h́nh về mọi mặt. Ngoài ra, do những điều kiện thuận lợi của cá nhân và tổ chức do ḿnh chịu trách nhiệm, đă đến lúc người viết phải nhắc đến những kinh nghiệm bản thân trong các nỗ lực chung của nhiều cá nhân và tổ chức trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Nhờ được đào tạo về sư phạm và nghiên cứu, người viết luôn cố gắng giữ thái độ khách quan, khoa học, tường thuật và nhận định trong tinh thần tôn trọng sự kiện có thật hay có nguồn dẫn chứng cụ thể. Lịch sử tị nạn là một phần của lịch sử Việt Nam, của Hoa Kỳ và các nước định cư, do đó cần phải được ghi chép chính xác và đầy đủ hầu tránh được những thiếu sót hay ngộ nhận, nhất là những sự kiện quan trọng đă bị vô t́nh hay cố ư tŕnh bày sai sự thật về các hoạt động bảo vệ người tị nạn đă diễn ra mấy chục năm về trước.

    Cuộc tị nạn bi thảm nhất thế kỷ 20 của thuyền nhân Việt Nam đă gây chấn động thế giới và Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc đă hai lần phải triệu tập hội nghị quốc tế tại Geneva, lần đầu để giải quyết cuộc khủng hoảng về tị nạn tạm trú khi thuyền nhân Việt Nam bị các nước ĐNÁ xua đuổi (1979), và lần thứ hai để t́m kiếm giải pháp tốt nhất có thể chấm dứt những cuộc ra đi cực kỳ nguy hiểm (1989). Như trên đă nói, người tị nạn và công dân Mỹ gốc Việt đă có tiếng nói và vai tṛ đáng kể trong cuộc vận động Hoa Kỳ và quốc tế ngay từ sau hội nghị Geneva lần đầu, sôi nổi nhất là những hoạt động trong thập kỷ 1980 dẫn tới hội nghị Geneva lần thứ hai, và cuối cùng đă giúp quốc tế khai thông được t́nh trạng bế tắc của Kế hoạch Hành động Toàn diện (CPA). Điều này cũng cho thấy giải pháp thật sự cho vấn đề tị nạn Việt Nam là giải pháp chính trị, tức là thỏa hiệp b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam năm 1995. Sau đó, cộng đồng Mỹ gốc Việt vẫn không ngừng vận động định cư cho những người tị nạn c̣n sót lại ở Hong Kong và Phi-líp-pin, và những người đối kháng chế độ bỏ chạy sang Thái Lan.

  2. #42
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Tội ác CS Việt nam: Thuyền nhân

    Ôn lại một số đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam từ 1975
    27/04/2020
    p3




    Vinh Danh QLVNCH và Bảo Vệ CỜ VÀNG - WordPress.com
    Người Việt tị nạn cs và bệnh “Stockholm” (Trần Văn Giang) | Vinh ...

    Những hoạt động của người Mỹ gốc Việt tị nạn, từ công tác cứu giúp và bảo vệ thuyền nhân, cung cấp các dịch vụ định cư đến những cuộc vận động chính phủ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và các quốc gia tạm dung trong mấy chục năm qua rất đa dạng và đem lại nhiều kinh nghiệm thực tế cho những nhà làm chính sách trước những đợt di dân và tị nạn càng ngày càng gia tăng trên thế giới. Rất nhiều đóng góp của người gốc tị nạn trước và sau 1995, như Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển (BPSOS) của GS Nguyễn Hữu Xương ở San Diego (7) hợp tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu vớt và giúp định cư được trên 3,000 thuyền nhân, cuộc vận động định cư tù cải tạo rất thành công của Hội Gia đ́nh Tù nhân Chính trị và các Hội Cựu Tù nhân Chính trị, Hội nghị 14 quốc gia về Khủng hoảng Tị nạn Tạm trú do IRAC tổ chức tại Washington DC năm 1988 dọn đường cho Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ hai, cuộc vận động của VOICE giúp cho 2,000 người tị nạn c̣n sót lại ở Phi-líp-pin trong t́nh trạng không hoàn toàn hợp pháp được định cư Mỹ, 300 tại Canada (phối hợp với Liên Hội người Việt Canada), và 200 người tại Na Uy. Tất cả những đóng góp này cùng nhiều hoạt động đáng kể khác là những dấu mốc lịch sử trên chặng đường dài cứu trợ, bảo vệ và t́m kiếm giải pháp nhân đạo cho thảm kịch tị nạn Việt Nam (1979-1995). Trong khung cảnh giới hạn của một bài báo, tác giả chỉ có thể chú trọng vào một số trường hợp điển h́nh trong đó có những thông tin ít được biết đến hoặc đương thời không thể đưa ra công khai, do đó có sự kiện đă gây dư luận nghi ngờ hay chống đối v́ ngộ nhận. Trong giới hạn đó, tác giả rút ra một phần nội dung của bản thảo cuốn sách chưa hoàn tất, thu gọn thành một bài viết có chủ đề riêng để làm sáng tỏ những sự kiện lịch sử mà đáng lẽ phải viết ra từ lâu. Dưới đây là bốn dấu mốc điển h́nh cho sự tham gia đắc lực của người tị nạn vào việc giải quyết các vấn đề tị nạn:

    Phái đoàn tị nạn đi thăm các trại tạm trú
    Tại hội nghị Geneva lần đầu năm 1979, nhờ Hoa Kỳ và các nước định cư quyết định gia tăng số tị nạn Việt Nam được chấp thuận định cư, các nước tạm dung ở Đông Nam Á đồng ư ngưng các biện pháp xua đuổi thuyền nhân và tiếp tục cho phép họ cập bến và nhập trại tạm trú. Tuy nhiên, sang thập kỷ 1980, số người tị nạn đường biển và đường bộ tới các trại tị nạn tăng lên gấp bội so với số người được đưa đi các nước định cư, do đó cuộc khủng hoảng tạm trú (first asylum crisis) lại bùng phát trầm trọng hơn lần trước, nhất là tại Hong Kong là nơi có nhiều người tị nạn từ Bắc Việt. Các nước cho tị nạn tạm trú ra tuyên bố chung chống thuyền nhân tị nạn. Nhiều con thuyền mong manh chở đầy người tị nạn bị đẩy ra khơi làm nhiều người chết ch́m trong khi những người ở các trại tạm trú bị đối xử cực kỳ vô nhân đạo để làm nản ḷng những người muốn ra đi.

    Trước t́nh h́nh nguy hiểm ấy, Trung tâm IRAC lập một phái đoàn cựu tị nạn đi thăm tận nơi các trại tị nạn tạm trú ở Hong Kong và Đông Nam Á để t́m cách giúp giải quyết cuộc khủng hoảng. Chuyến đi này là bước đầu cần thiết để các đại diện tị nạn có cơ hội trực tiếp vận động những nhà làm chính sách ở các nước tạm dung, gây được sự nể trọng và tin cậy của họ. Được sự can thiệp của Bộ Ngoại giao và Quốc hội Mỹ, lần đầu tiên một phái đoàn tị nạn được đại diện các quốc gia tạm dung chính thức tiếp đón, cho phép đi thăm các trại và phỏng vấn người tị nạn, sau hết là trao đổi ư kiến về những điều mà các bên liên quan, kể cả cộng đồng người Việt hải ngoại, có thể thực hiện để cải thiện đời sống trong các trại tạm trú, giảm bớt gánh nặng cho các nước tạm dung và góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn. Khi trở về Washington DC, phái đoàn IRAC đă mở một cuộc họp báo tại Thượng viện Hoa Kỳ do hai Thượng nghị sĩ Mark Hatfield (CH, Oregon) và Claiborne Pell (DC, Rhode Island) đồng bảo trợ. Ngoài việc báo cáo t́nh h́nh khổ cực và thiếu an ninh của người tị nạn, và đề nghị các biện pháp cải thiện cuộc sống trong các trại, phái đoàn kêu gọi LHQ triệu tập khẩn cấp hội nghị quốc tế lần thứ hai để giải quyết toàn diện các vấn đề trước mắt và lâu dài. Đại diện báo giới quốc tế, nhất là các nước cho tị nạn tạm trú, đều có mặt vả gừi bài về trong nước của họ. Có lẽ bài tường thuật rành mạch và đầy đủ nhất là bài của nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”

    Chỉ vài tháng sau, TNS Hatfield (CH, Oregon) tŕnh dự luật S.814 tại Thượng viện mang tên “Luật 1987 về Giúp đỡ và Bảo vệ Tị nạn Đông Dương” và DB Chet Atkins (DC, Massachussets) đưa dự luật tương tự H.R. 1940 ra Hạ viện. Một chiến dịch đại vận động các nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội do IRAC cùng với các hội đoàn tị nạn thực hiện đồng loạt trên khắp các tiểu bang. Kết quả là Dự luật Hatfield-Atkins được lưỡng viện quốc hội thông qua và Tổng thống Reagan hoàn toàn đồng ư và kư lệnh ban hành ngày 22.11.1987. Trong một lá thư gửi Giám đốc IRAC, TNS Hatfield cám ơn cuộc vận động thành công của người Mỹ gốc Việt và xác nhận chuyến đi thăm các trại tị nạn của phái đoàn IRAC hồi đầu năm đă gây ấn tượng tốt và tạo được đồng thuận giữa Chính phủ và Quốc Hội.

    ​2, Tham dự Hội nghị Quốc tế Geneva 1989

    Đáp lời kêu gọi của phái đoàn tị nạn sau chuyến đi thăm các trại tạm trú năm 1987 và được dọn đường bởi hội nghị 14 quốc gia do IRAC tổ chức tại Washington DC năm 1988, Tổng Thư Kư LHQ chỉ thị cho UNHCR xúc tiến chuẩn bị Hội nghị Quốc tế về Tị nạn Đông Dương lần II tại Geneva vào tháng Sáu 1989. Một Nhóm Công tác Liên Chính phủ (Intergovernmental Working Group) được thành lập để soạn thảo Kế hoạch Hành động Toàn diện (Comprehensive Plan of Action, CPA) nhằm giải quyết trọn vẹn vấn đề tị nạn Việt Nam trong ṿng ba năm. Dù không phải là thành viên của Nhóm Công tác, IRAC được UNHCR chia sẻ các tài liệu làm việc của Nhóm để tham khảo ư kiến trong suốt thời gian chuẩn bị hội nghị. Những nhận định và đề nghị của IRAC được Sergio Vieira de Mello, Giám đốc Phối trí Nhóm Công tác Liên Chính phủ đánh giá rất cao trong thư gửi cho Chủ tịch IRAC ngày 11 tháng 4, 1988, v́ đă “chú trọng vảo nhiều lănh vực then chốt được UNHCR đặc biệt quan tâm và nỗ lực làm cho Kế hoạch Hành động Toàn diện thể hiện mọi quyền của người xin tạm trú và tị nạn.” Tháng Chín 1988, IRAC cử luật sư cố vấn Janelle Diller sang Hong Kong t́m hiểu t́nh h́nh các trại tị nạn và hoàn tất bản báo cáo 150 trang về t́nh trạng thanh lọc, điều kiện sinh sống của người tị nạn và đưa ra những đề nghị cải thiện thích hợp (8). IRAC đúc kết các ư kiến thành một bản nhận định và đề nghị toàn diện về chế đô thanh lọc, ra đi trật tự, hồi hương t́nh nguyện và định cư tị nạn. Bản nhận định 25 trang này, sau khi hoàn chỉnh với sự góp ư của nhiều hội đoàn, được in thành tài liệu chính thức mang tên “Tiến đến những Giải pháp Nhân đạo và Lâu bền cho vấn đề Tị nạn Đông Dương” (Towards Humane and Durable Solutions to the Indochinese Refugee Problem) gửi cho Ủy ban Phối hợp Hôi nghị Quốc tế tại Geneva xem xét trong những phiên họp chuẩn bị cuối cùng 22-26 tháng Năm, 1988. Tài liệu này có chữ kư của trên 200 hội đoàn tị nạn Đông Dương từ Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc.

    Hội nghị Geneva diễn ra trong hai ngày 13-14 tháng Sáu 1988 với sự tham dự của đại diện 76 quốc gia. Chủ tịch IRAC được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mời tham gia phái đoàn chính phủ Mỹ nhưng quyết định dự hội nghị với tư cách một NGO để có thể tự do nói lên quan điểm của người tị nạn. Tuy nhiên, Hội đồng quản trị của IRAC vẫn có một đại diện người Hmong trong phái đoàn Hoa Kỳ.

    Ngay trong ngày đầu hội nghị, phái viên đài truyền h́nh BBC đă phỏng vấn chủ tịch IRAC trong khuôn viên trụ sở LHQ. IRAC cũng phối hợp với một số đại diện hội đoàn người Việt ở Thụy Sĩ và Pháp để phân phát cho các tham dự viên quốc tế bàn Tuyên bố 1 trang của IRAC nhan đề “Tiếng nói của Tị nạn tại Hội nghị Quốc tế” kèm theo bản nhận định 25 trang đă gửi tới Geneva từ tháng trước. Bản Tuyên bố bày tỏ sự quan tâm đặc biệt về hai vấn đề thanh lọc và hồi hương và nhấn mạnh vào nhu cầu giải quyết tận gốc vấn đề bỏ nước ra đi của người tị nạn.

    Trước khi chấp thuận và công bố “Kế hoạch Hành động Toàn diện” (CPA), Đại hội đă nghe bài phát biểu của 37 trưởng phái đoàn trong số 76 quốc gia tham dự. Hầu hết đều xác nhận Việt Nam là nguyên nhân gây khủng hoảng tị nạn. Lớn tiếng nhất là đại diện Trung Quốc, tố cáo “Việt Nam không chỉ gây ra thảm họa tị nạn của nhân dân Việt Nam mà luôn cả nhân dân Cam-bốt và Lào.” Ngoại trưởng Anh yêu cầu Việt Nam ngưng “xuất cảng dân chúng sang các nước khác” và phải “đồng ư--mau chóng đồng ư--nhận hồi hương tất cả những người không được nh́n nhận là tị nạn qua chương tŕnh thanh lọc của các nước cho tị nạn tạm trú.” Trưởng đoàn Hoa Kỳ Jonathan Moore cùng chung với quan điểm của IRAC là “chừng nào Việt Nam c̣n duy tŕ những điều kiện khiến nhân dân phải bỏ nước ra đi, và cho đến khi nào trong nước có những cải thiện căn bản về kinh tế, xă hội và chính trị, Hoa Kỳ vẫn cương quyết chông lại việc cưỡng bách người tị nạn tam trú phải hồi hương.” Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch th́ tuyên bố dứt khoát “Chúng tôi kiên quyết bác bỏ mọi h́nh thức áp đặt v́ áp đặt là vi phạm bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường.” Như đă dự liệu, Kế hoạch CPA gặp nhiều trở ngại trong việc thưc hiện do vấn đề thanh lọc bất công và biện pháp cưỡng bách hồi hương của các nước tạm dung, nhất là tại Hong Kong. Ngày 16/10/1989, IRAC gửi cho Ủy ban Điều hành CPA bản “Xét lại Kế hoạch CPA và Đề nghị Thi hành có Hiệu quả”. Ngày 17/11/1989, IRAC gửi thư cho Thủ tướng Anh Margaret Thatcher trước cuộc họp của Bà với Tổng thống George W.H. Bush tại Camp David ngày 24, thỉnh cầu tŕ hoăn quyết định hồi hương cưỡng bách tị nạn để cho UNHCR, các NGO quốc tế và cộng đồng người Việt hải ngoại cùng hoạch định chương tŕnh hồi hương t́nh nguyện. Bà Thatcher không chấp thuận và ngày 11/12/1989, Hong Kong dùng bạo lực tống xuất 51 người về Việt Nam. Lập tức, cộng đồng Mỹ gốc Việt phan ứng bằng một chuỗi hoạt động tập trung vào việc chống cưỡng bách hồi hương:

    13/12/1989, IRAC phối hợp với Nghị hội Người Việt ở Hoa Kỳ, Ủy ban Liên Tôn Bảo vệ Tị nạn và BPSOS huy động một cuộc biểu t́nh khổng lồ trước Đại sứ quán Anh phản đối chính sách phi nhân đạo của chính phủ Hoàng gia Anh quốc. Trong buổi sáng cùng ngày, phóng viên James Naughtie của đài BBC đă phỏng vấn chủ tịch IRAC về vấn đề tị nạn ở Hong Kong.
    14/12/1989, chương tŕnh Nightline của đài truyền h́nh ABC tổ chức một buổi tranh luận trưc tuyến qua vệ tinh giữa chủ tịch IRAC Lê Xuân Khoa và Thống đốc Hong Kong Sir David Wilson về chính sách cưỡng bách hồi hương. Trước đó, GS Khoa đă có dịp gặp Thống đốc Wilson do sự giới thiệu của Bà Tuyết Nguyệt Markbreiter, công dân Anh và chủ nhiệm tạp chí Arts of Asia. Cuộc tranh luận do nhà điều khiển chương tŕnh Forrest Sawyer làm điều hợp viên. Thống đốc Wilson gọi tị nạn Việt Nam là di dân kinh tế giống như dân nghèo Nam Mỹ t́m cách vượt qua biên giới để kiếm cơ hội sinh sống tốt hơn, bị GS Khoa bác bỏ khi ông chứng minh lập luận đó sai lầm v́ thiếu hiểu biết. Thống Đốc Wilson đồng ư với giải thích của GS Khoa và quay sang chỉ trích chính phủ Mỹ hành động thiếu trách nhiệm trong việc thu nhận người tị nạn Việt Nam.
    16/12/1989, nhật báo The Washington Post đăng bài “Forcible Repatriation: No Remedy” (Cưỡng bách hồi hương không phải là giải pháp) của Chủ tịch IRAC, với câu mở đầu mạnh mẽ: “Shame on British Prime Minister Margaret Thatcher!”
    Trước những phản ứng quyết liệt của cộng đồng người Việt và dư luận chỉ trích của thế giới, Bà Thatcher phải hoăn cưỡng bách hồi hương một tháng cho tới phiên họp sau của Ủy ban Điều hành CPA vào tháng Giêng 1990. Trong khi đó, Hà nội đồng ư với quyết định của Hong Kong và Anh quốc trả US$620 chi phí hồi hương trên mỗi đầu người cộng với US$360 của UNHCR trợ cấp cho mỗi người hồi hương trong một chương tŕnh mới được đặt tên là “Hồi Hương Trật Tự” (Orderly Return Program, ORP). Hoa Kỳ không phản dối chương tŕnh này v́ nó tương tự như sáng kiến “hồi hương không chống đối” (non-objection) của ngoại trưởng Mỹ James Baker. Việc hồi hương, cưỡng bách hay không chống đối, chỉ c̣n là vấn đề thời gian trước mắt, và việc thi hành kế hoạch CPA vẫn c̣n là một thử thách lớn cho tất cả các bên liên quan.

  3. #43
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Tội ác CS Việt nam: Thuyền nhân

    Ôn lại một số đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam từ 1975
    27/04/2020
    p4



    Chương tŕnh định cư tù cải tạo (H.O)
    Năm 1977, một cựu nhân viên Sứ quán Việt Nam Cộng Ḥa tại Phi-líp-pin là Khúc Minh Thơ có chồng đi trại cải tạo và hai con c̣n kẹt ở Việt Nam sang Mỹ định cư. Bà Thơ cùng với một số bạn đồng cảnh ngộ thành lập Hội Gia đ́nh Tù nhân Chính trị Việt Nam (HGĐTNCT) để vận động chính phủ Mỹ can thiệp cho chồng con được thả và cho phép sang Mỹ đoàn tụ gia đ́nh. Những nỗ lực vận động ấy được sự giúp đỡ của ông bà Shep và Hiệp Lowman, một cựu viên chức ngoại giao Mỹ tại Việt Nam, sau có thêm sự ủng hộ của hai Thượng nghị sĩ John McCain và Edward Kennedy, nhưng những cuộc thăm ḍ từ phía Mỹ không được Việt Nam quan tâm. Năm 1978, chồng bà Thơ được thả nhưng bệnh tật, hai năm sau thi mất. Bà Thơ vẫn tiếp tục vận động cho việc định cư cựu tù nhân chính trị.

    Năm 1982, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố Việt Nam sẵn sàng thả hết tù nhân cải tạo nếu Hoa Kỳ chấp thuận cho họ sang Mỹ định cư. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ chỉ định ông Robert L. Funseth, Phụ tá Thứ trưởng, khởi sự các cuộc thương thuyết ở hậu trường. Đây là lúc bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT liên lạc với ông Funseth và chuẩn bi lập danh sách và hồ sơ tù cải tạo. Sau hai năm không có tiến bộ, Ngoại trưởng Mỹ George Schultz thông báo công khai vào tháng Chín 1984 là Hoa Kỳ sẵn sàng đáp ứng đề nghị của Việt Nam bắt đầu bằng việc chấp thuận 10,000 tù nhân cải tạo và gia đ́nh của họ. Dù mong muốn xây dựng quan hệ kinh tế và ngoại giao với Mỹ, Hà Nội vẫn gây nhiều khó dễ cho vấn đề định cư tù cải tạo. Năm 1985, một phái đoàn do cựu thống đốc tiểu bang Iowa cầm đầu sang Việt Nam dể thăm ḍ khả năng quan hệ song phương, khi nhắc đến đề nghị của ngoại trưởng Schultz th́ ngoại trưởng Thạch dứt khoát từ chối. Ông Thạch cho phía Mỹ biết rằng Việt Nam chỉ muốn tiếp tục thảo luận về vấn đề t́m kiếm tù nhân chiến tranh và ngươi Mỹ mất tích (POW-MIA) v́ đây mới là quan tâm chính của chính phủ Mỹ cần ưu tiên giải quyết để đôi bên có thể đạt được mục tiêu toàn diện là chấm dứt vĩnh viễn cuộc khủng hoảng tị nạn Đông Dương, băi bỏ cấm vận và b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Một năm sau, Việt Nam công bố chủ trương “đổi mới” và hai bên gặp nhau nhiều hơn và có triển vọng tiến hành khả quan hơn.

    Năm 1987, để hậu thuẫn cho những cuộc thương thuyết toàn diện với Việt Nam sớm có hiệu quả, Tổng Thống Reagan chỉ định Đại Tướng hồi hưu John W. Vessey, nguyên Chủ tịch các Chỉ huy trưởng Liên quân, làm Đặc Sứ (special emissary) của Tổng thống phụ trách đối thoại với Việt Nam. Bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT cũng liên lạc với Đai Tướng Vessey để vận động thêm cho tù nhân cải tạo, Vào thời điểm này, một số cựu tù cải tạo sau khi được thả đă vượt biển tới các trại tị nạn và được Mỹ chấp thuận cho vào Mỹ định cư, một số khác đi theo diện đoàn tụ gia đ́nh. Họ t́m đến nhau và thành lập các hội cựu tù nhân cải tạo để giúp đỡ và vận động định cư cho những người bạn tù c̣n ở lại Việt Nam hay c̣n kẹt trong các trại tị nạn tạm trú.

    IRAC bắt đầu quan tâm đến vấn đề vận động định cư tù cải tạo năm 1982 khi Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố sẵn sàng thả hết tù cải tạo nếu Mỹ chấp nhận cho tất cả được sang Mỹ định cư. IRAC ủng hộ cuộc vận động của Hội GĐTNCT và các hội khác. Mỗi khi nhận được danh sách và hồ sơ từ các hội cựu tù cải tạo hay từ các trại tị nạn, IRAC đều chuyển đến Hội GĐTNCT ở Virginia là nơi gần Bộ Ngoại giao và có nhiều hội viên tới giúp lập hồ sơ vận động. Chủ tịch IRAC chỉ chính thức quan hệ với ông Funseth từ 1984 để theo dơi tin tức sau khi Ngoại trưởng Schultz công bố chấp thuận đề nghị của Ngoại trưởng Thạch. Đồng thời, IRAC cũng liên lạc chặt chẽ với văn pḥng TNS John McCain, lập hồ sơ của một số nhà văn, nhà báo tên tuổi bị cầm tù để nhờ ông can thiệp với chính phủ Việt Nam. Năm 1986, sau khi tham dự Hội nghị Toàn quốc Lănh đạo Cộng đồng Đông Dương do IRAC triệu tập tại Đại học Georgetown, Washington DC, ông Funseth mới thật sự có những cuộc tham khảo với chủ tịch IRAC về vấn đề tù cải tạo và triển vọng thương thuyết với Việt Nam. Trước mỗi lần gặp, IRAC đều có soạn talking points và tài liệu liên quan để ông Funseth tùy nghi sử dụng. Khi ong Funseth chuẩn bị ṿng đàm phán chung kết vào tháng Bảy 1989, chủ tịch IRAC đă thu xếp một cuộc gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao giữa ông Funseth và phái đoàn đại diện Trung tâm Văn Bút Việt Nam Hải ngoại khi đó do nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn làm chủ tịch và nhà thơ Viên Linh, tổng thư kư. Ngoài ông Ngạn đến từ Canada và Viên Linh từ California c̣n có hai hội viên là nhà văn Trà Lũ (Canada) và nhà báo Chử Bá Anh (Virginia). Trước đó, IRAC đă yêu cầu hội Văn Bút tổng hợp một danh sách đầy đủ các nhà văn, nhà báo đă và chưa được thả để ông Funseth trao cho nhà câm quyền Việt Nam trong ngày kư kết bản thỏa thuận định cư tù cải tạo. Sau 30 phút trao đổi tin tức và ư kiến, cuộc đàm đạo được tiếp tục trong bữa ăn trưa được ông Funseth khoản đăi tại pḥng ăn riêng của Bộ Ngoại giao.

    Một trong những bức thư tướng Vessey gởi ông Lê Xuân Khoa. (H́nh: tác giả cung cấp)
    Một trong những bức thư tướng Vessey gởi ông Lê Xuân Khoa. (H́nh: tác giả cung cấp)
    Khi được tin Tổng thống Reagan chỉ định Đại Tướng John Vessey làm Đặc Sứ đối thoại với Việt Nam, chủ tịch IRAC đă viết thư cho Đại Tướng trước ngày ông lên đường qua Việt Nam, thông báo về cuộc vận động của IRAC về các vấn đề tị nạn liên quan tới việc giải quyết vấn đề POW-MIA và thả tù nhân chính trị như những điều kiện tiến đến quan hệ b́nh thường giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chủ tịch IRAC thỉnh cầu Đại Tướng đưa những vấn đề này vào nghị tŕnh thảo luận với các lănh đạo Việt Nam.

    Khi trở về Mỹ, trong thư gửi chủ tịch IRAC ngày 12/8/1987, Tướng Vessey cám ơn ông đă cung cấp những thông tin và tài liệu cơ bản giúp cho phái đoàn Mỹ có thể nêu lên các vấn đề tù nhân chính trị, trẻ em lai Mỹ và chương tŕnh ODP với Việt Nam. Ông cho hay “chúng tôi đă nêu lên những vấn đề này, một cách riêng tư, trong cuộc thảo luận.” Kết quả là “Việt Nam tái xác nhận ư định của họ là xúc tiến chương tŕnh Ra đi Trật tự (ODP) và tin tưởng sẽ có tiến bộ về vấn đề trẻ em lai, nhưng họ không tỏ ra tích cực về những vấn đề tù nhân chính trị. Các nhà thương thuyết của họ duy tŕ quan điểm là vấn đề này không phải là một vấn đề nhân đạo.” Vị Đặc Sứ của Tổng thống Mỹ thông báo cho phía đối thoại biết rằng chính phủ và quốc hội Mỹ đều quan tâm đến vấn đề định cư tù chính trị và vấn đề này vẫn sẽ được nêu ra trong những lần gặp gỡ sau.

    Chủ tịch IRAC tiếp tục góp ư với Tướng Vessey, trực tiếp hay qua văn thư, và được vị Phụ tá của Đại Tướng Vessey là Thiếu Tướng Stephen B. Crocker cập nhật tin tức đối thoại với Việt Nam. Như ta đă thấy, cuộc thương thuyết chính thức về vấn đề định cư tù nhân cải tạo do ông Robert Funseth đảm trách, được sự hỗ trợ của Tổng thống Reagan qua những cuộc đối thoại của Đặc sứ John Vessey, rốt cuộc đă thay đổi được thái độ cứng rắn của cộng sản Việt Nam, dẫn đến việc kư kết thỏa hiệp định cư tù cải tạo Funseth-Vũ Khoan ngảy 30/7/1989. Đại tướng Vessey tiếp tục thúc đẩy Việt Nam hợp tác nhiều hơn về vấn đề POW-MIA và chính phủ Mỹ đă tỏ ra hài ḷng về những tiến bộ đạt được trong chuyến thăm Washington DC vào tháng 10, 1990 của ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch sau phiên họp Đại Hội đồng LHQ tại New York. Mặc dù do áp lực của Trung Quốc, ngoại trưởng Thạch phải từ chức năm 1991 và các cuộc hội đàm Mỹ-Việt bị chậm lại, vấn đề POW-MIA vẫn tiến hành khả quan. Mỹ quyết định băi bỏ cấm vận năm 1994 và b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995.

    Một trong những bức thư tướng Vessey gởi ông Lê Xuân Khoa. (H́nh: tác giả cung cấp)
    Một trong những bức thư tướng Vessey gởi ông Lê Xuân Khoa. (H́nh: tác giả cung cấp)
    Cũng trong dịp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tham dự Đại Hội đồng LHQ, Thượng Nghị sĩ Mark Hatfield đă thu xếp một buổi gặp không chính thức giữa ngoại trưởng Thạch và chủ tịch IRAC “để thảo luận về những chương tŕnh nhân đạo. (9)” Thật ra, các vấn đề được đề cập trong cuộc gặp là tiếng nói của công dân Mỹ gốc Việt đối với các nhà làm chính sách của Mỹ về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, vấn đề POW-MIA và bang giao Mỹ-Việt, và triển vọng đóng góp chất xám của nhân tài hải ngoại có thể giúp Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển ở Á châu. Ông Thạch bắt đầu hâm nóng không khí buổi họp bằng việc bày tỏ sự vui mừng có cơ hội đàm đạo với anh em trí thức người Việt Nam ở nước ngoài về những vấn đề quan tâm chung của đất nước. Ông nói ngay đến sự sai lầm của chính sách “học tập cải tạo” khiến bộ máy chính quyền thiếu nhân sự chuyên môn đủ mọi ngành. Nhiều người tài giỏi bị giam giữ, nhiều nhà khoa học và chuyên gia bỏ nước ra đi gây hậu quả là nhân dân bị nghèo đói và đất nước trở thành tụt hậu. Đáng chú ư là lời ông tự phê b́nh: “Chúng tôi đánh nhau th́ giỏi nhưng quản trị th́ quá tồi, không có khả năng phát triển đất nước.” Ông kêu gọi trí thức, chuyên gia ở nước ngoài hăy bỏ qua hận thù quá khứ, “let bygones be bygones” (sic) và trở về giúp nước v́ “chúng tôi đă quyết định đổi mới, không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị”. Ông nhấn mạnh rằng đây là nguyên văn câu tuyên bố của ông trước Đại hội đồng LHQ vài tuần trước.

    Chủ tịch IRAC trả lời rằng đa số trí thức hải ngoại sẵn sàng đóng góp khả năng vào những dự án phát triển đất nước nhưng chỉ làm được việc này khi thấy trong nước thật sự thực hiện một lộ tŕnh dân chủ hóa cụ thể, bắt đầu bằng việc trả tự do cho những ngưởi yêu nước bất bạo động c̣n bị giam giữ. Nhưng mục đích của IRAC gặp Ngoại trưởng Thạch không chỉ để nói lên quan điểm về ḥa giải dân tộc mà c̣n để góp ư về triển vọng b́nh thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Vấn đề POW-MIA không phải là vấn đề riêng của chính phủ Mỹ mà là mối quan tâm chính của nhân dân Mỹ có thân nhân xa gần, bằng hữu hay đồng bào đă hi sinh hay mất tích trong cuộc chiến. V́ vậy, nhân dân Mỹ, qua các đại diện của họ trong lưỡng viện Quốc hội, sẽ chấp thuận hay ngăn chặn việc chính phủ thiết lập quan hệ b́nh thường với Việt Nam tùy theo thái độ cư xử của Việt Nam. IRAC khuyến cáo Việt Nam không nên dùng POW-MIA như một lá bài chính trị để mặc cả trong những cuộc thương thuyết mà nên chứng tỏ cho nhân dân Mỹ thấy rằng Việt Nam coi POW-MIA là một vấn đề nhân đạo và thật ḷng hợp tác.

    Cuộc trao đổi IRAC-Nguyễn Cơ Thạch bao gồm một số chuyện bên lề với những chi tiết riêng tư như khi ông Thạch, người có tŕnh độ học vấn cao nhất trong Bộ Chính trị, kể chuyện trước khi sang Ấn độ nhận chức Tổng lănh sự, ông đă phải học các nghi thức văn minh như chào hỏi xă giao hay cả đến cách sử dụng dao, nỉa trên bàn ăn. Luật sư Trần Danh San, trong đoàn IRAC, kể chuyện bị bắt đi cải tạo sau khi đứng trước nhà thờ Đức Bà ở Saigon đọc bản tuyên ngôn nhân quyền giống như Hiến chương 77 của Vaclav Havel bên Tiệp Khắc. Có một lúc ông San kéo ống quần lên để ông Thạch thấy vết sẹo lớn ở cổ chân kỷ niệm những ngày bị cùm biệt giam. Khi được thả, ông vượt biển, được tàu buôn Nhật cứu, sau được ông Funseth giúp cho sang Mỹ định cư qua sự vận động của IRAC.

    Trở lại chương tŕnh định cư tù chính trị được Việt Nam gọi là chương tŕnh nhân đạo (humanitarian operation), do đó tên tắt H.O trở thành thông dụng. Ngày 31/01/1990, cơ quan định cư tị nạn liên bang ORR tổ chức một buổi hội thảo về chương tŕnh định cư cựu tù nhân chính trị. Trong bài phát biểu của chủ tịch IRAC, ông nói đến tính chất đặc biệt của chương tŕnh này đối với chính phủ, các tổ chức định cư tị nạn và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ, phân tích những trở ngại tinh thần và thể chất của những người đă bị hành hạ nhiều năm trong các trại tập trung của cộng sản, do đó họ có những nhu cầu đặc biệt cần được đáp ứng thích hợp. Tất cả cựu tù nhân chính trị phải được coi là tị nạn chứ không phải di dân. Chủ tịch IRAC cũng nhấn mạnh rằng các cựu tù cải tạo từng vượt qua được mọi cực h́nh và thử thách lớn nhất trong nhà tù cộng sản, nhất là những người trong lớp tuổi tử ngoài 30 đến ngoài 50, chắc chắn sẽ trở thành những phần tử đóng góp cho xă hội Mỹ. Họ chính là “tích sản” (assets) chứ không phải là “tiêu sản” (liabilities) của xứ sở định cư. Ông yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ phải c̣ ngân sách dành riêng cho chương tŕnh định cư tù chính trị v́ đây là thành phần thuộc trách nhiệm lớn nhất của chính phủ và là đối tượng quan trọng đươc thêm vào chương tŕnh ODP hiện hữu.

    Từ Sáng kiến”Khu vực Xám” đến Chương tŕnh ROVR
    V́ chính sách thanh lọc (screening) tại các nước tạm dung, nhất là ở Hong Kong, bị nhân viên di trú thi hành khắc nghiệt và có nhiều sai phạm trầm trọng gây hậu quả là những cuộc bạo động và xung đột đổ máu giữa những người tị nạn và lực lượng an ninh của chính phủ. Tiếp theo là một chương tŕnh hồi hương mới có tên là “Hồi hương Trật tự” (Orderly Repatriation Program, ORP) được kư kết giữa Việt Nam-Anh quốc/Hong Kong và Việt Nam-Nam Dương. Chương tŕnh này được Hoa Kỳ đồng ư và UNHCR lặng lẽ thực hiện. Điều đó có nghĩa là một phần quan trọng của Kế hoạch Hành động Toàn diện quốc tế (CPA) thất bại v́ tất cả các nước tạm dung đều cương quyết không chịu kéo dài thời gian cho tị nạn tạm trú và tất cả những người bị rớt thanh lọc (screened-out) phải hồi hương bằng cách này hay cách khác nếu không muốn bị trục xuất bằng vũ lực. Việt Nam không c̣n chống đối cưỡng bách hồi hương v́ họ thừa biết rằng những người trở về không phải là lực lượng đe dọa sự tồn tại của chế độ, và họ thấy đă đến lúc cần phải hợp tác với Hoa Kỳ và quốc tế để đón nhận các dự án viện trợ, đẩu tư kinh doanh và phát triển công nghệ. Hoa Kỳ cũng muốn b́nh thường hóa quan hệ với Việt Nam v́ không thể để cho Việt Nam bị lọt vào quỹ đạo Trung Quốc (khi đó mật ước Thành Đô vừa được kư kết). Trong t́nh thế chờ đợi ấy, Kế hoạch CPA chỉ có thể tránh khỏi sụp đổ nếu t́m được giải pháp thỏa đáng cho vấn đề hồi hương tất cả người tị nạn từ các trại tạm trú.

    Để có thể góp phần tích cực vào giải pháp cho vấn đề tị nạn như đă tuyên bố sau chuyến đi thăm các trại tạm trú năm 1987, IRAC nhận rơ vấn đề then chốt phải giải quyết là sự chống đối quyết liệt của những người đủ diều kiện tị nạn nhưng bị loại bỏ trong cuộc thanh lọc. Họ phẫn uất đến độ sẵn sàng đổ máu chống lại những biện pháp cưỡng bách hồi hương của lực lượng an ninh như đă từng xảy ra ở một số trại tại Hong Kong. Như vậy, giải pháp hợp lư, công bằng và khả thi nhất là tập trung việc cứu xét định cư cho thành phần tị nạn bị thanh lọc bất công này. IRAC mệnh danh thành phần này là “khu vực xám” (grey area) và bắt đầu chuyển hướng vận động cho đối tượng này được định cư. Mặt khác, cần có chương tŕnh theo dơi và giúp đỡ những người đă hồi hương có thể trở lại cuộc sống b́nh thường ở Việt Nam. Chương tŕnh này sẽ giúp cho những người tự biết ḿnh không đủ điều kiện tị nạn có thể được yên tâm và sẵn sàng tham gia chương tŕnh hồi hương t́nh nguyện hay không chống đối.

    Cuộc vận động cho Khu vực Xám bắt đầu từ 1990 qua một chuỗi hoạt động kéo dài tới cuối năm 1995 sau khi được khai triển thành một dự án quy mô có tên là Lộ tŕnh II vào giữa năm 1993 và cuối cùng được cả hai chính phủ Mỹ và Việt Nam chấp thuận thành một chương tŕnh đặc biệt với danh xưng chính thức là “Cơ hội Định cư cho người Việt hồi hương” (Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees, ROVR). Quá tŕnh vận động diễn ra như sau:

  4. #44
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Tội ác CS Việt nam: Thuyền nhân

    Ôn lại một số đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam từ 1975
    27/04/2020
    p5



    (1) Ngày 14/9/1990, Chủ tịch IRAC được sinh viên Việt Nam Đại học Stanford mời thuyết tŕnh về t́nh trạng thi hành Kế hoạch quốc tế CPA và giải pháp lâu dài cho vấn đề tị nạn Việt Nam. Đề tài thuyết tŕnh là “Giải pháp Chính trị cho Vấn đề Tị nạn và Triển vọng B́nh thường hóa Quan hệ Mỹ-Việt” Trong dịp này, sáng kiến Khu vực Xám mới chỉ được đề cập sơ lược như một phương cách hữu hiệu để tránh khỏi nạn cưỡng bách hồi hương đang thực hiện ở Hong Kong và các nước ĐNÁ.
    (2) Sáng kiến Khu vực Xám được khai triển và tŕnh bày tại Hội nghị khu vực về thuyền nhân Việt Nam do Đại học Ateneo de Manila, Quezon City, Phi-líp-pin, tổ chức tháng 11 năm 1992. Chủ tịch IRAC báo động nguy cơ bạo loạn do chính sách cưỡng hách hồi hương gây ra và nhấn mạnh sự cần thiết tái cứu xét trường hợp những người tị nạn chân chính đă bị loại bỏ trong cuộc thanh lọc.
    (3) Cơ hội vận động tốt hơn cả là “Hội nghị Bàn tṛn về Vấn đề Tị Nạn” do Phái bộ Quan sát Thường trực của Ṭa Thánh Vatican triêu tập tại trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc, thành phố New York, ngày 9-10 tháng Ba 1993. Chủ tịch IRAC tŕnh bày trước các đại diện quốc tế dự án 4 điểm về Định cư Khu vực Xám (10), đúng vào thời điểm Hoa Kỳ và Việt Nam đang tiến gần đến b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao. Cần phải khai thông Kế hoạch CPA bằng cách giải quyết ḥa b́nh vấn đề tạm trú và hồi hương của mấy chục ngàn người đang bị kẹt trong các trại tị nạn.
    (4) Đề nghị của IRAC lập tức được tổ chức InerAction, một liên minh của gần 200 NGOs Mỹ hoạt động toàn cầu, nhiệt t́nh ủng hộ. Một Ban Đặc nhiệm về CPA (CPA Task Force) của InterAction được thành lập với nhiệm vụ vận động Bộ Ngoại giao định cư thành phần Khu vực Xám. Hai hội viên InterAction được bầu làm đồng chủ tịch Ban Đặc nhiệm là Lê Xuân Khoa (IRAC) và Lionel Rosenblatt (Refugees International). Ngoài một số hội viên khác của InterAction, hai đại diện tổ chức bên ngoài cũng được mời tham gia CPA Task Force là Nguyễn Đ́nh Thắng (BPSOS) và Lê Thị Mỹ Nga (LAVAS).
    (5) Trong giai đoạn đầu, Văn Pḥng Đặc trách Chương tŕnh Tị nạn (Bureau for Refugee Programs, BRP) tại Bộ Ngoại giao chỉ đồng ư xem xét những trường hợp quá hiển nhiên (egregious cases) căn cứ vào những thông tin và bằng chứng do các nhân viên NGO quốc tế làm việc trong các trại tị nạn cung cấp. Những trường hợp được Bộ Ngoại giao chấp thuận sẽ được chuyển tới UNHCR làm thủ tục xuất trại sang Mỹ định cư. Chỉ sau vài tháng, BPSOS rút ra khỏi CPA Task Force v́ TS Nguyễn Đ́nh Thắng không đồng ư với chủ trương định cư Khu Vực Xám.
    (6) Đông thời với việc lập hồ sơ “egregious cases”, ban Đặc nhiệm CPA yêu cầu ba thành viên nổi tiếng bảo vệ tị nạn là Shep Lowman, Lionel Rosenblatt và Dan Wolf khai triển sáng kiến định cư Khu Vực Xám thành một dự án quy mô đặt tên là Lộ tŕnh II (Track II, hàm ư Lộ tŕnh I là thanh lọc) để chuyển sang cho Bộ Ngoại giao xem xét chấp thuận.
    (7) Dự án Track II được Bộ Ngoại giao và Hội dồng An ninh Quốc gia quan tâm xem xét và sau nhiều phiên họp với CPA Task Force để hoàn chỉnh nôi dung, dự án được Hoa Kỳ chuyển sang cho Việt Nam đề nghị chấp thuận. Sau những phản ứng chống đối ban đầu, nhất là việc cho phép các nhân viên di trú (INS) của Mỹ phỏng vấn các ứng viên ROVR tại Việt Nam sau khi hồi hương, Việt Nam hoàn toàn chấp thuận chương tŕnh ROVR vào đầu năm 1996. Khi đó hai bên đă có Đại sứ quán, có nhiều chuyện quan trọng hơn cần được giải quyết.
    (8) Chương tŕnh ROVR thành công ngoài dự liệu. Tỉ lệ chấp thuận trung b́nh lên tới 85 phần trăm v́ các nhân viên sở di trú Mỹ đều đồng ư đây là chuyến tàu vét cần có thái độ rộng răi trong việc phỏng vấn các ứng viên xin tị nạn. Theo các con số do Văn pḥng đặc trách Tị nạn (BRP) của Bộ Ngoại giao cung cấp, từ giữa năm 1996 đến 19/01/1999, có 14,448 ứng viên ROVR được chấp thuận định cư tại Mỹ. Tổng số chấp thuận vào cuối năm 2000 sẽ tăng thêm mấy ngàn nữa.

    Tóm lại, chương tŕnh ROVR, bắt đầu từ sáng kiến “Khu vực Xám”, đă khai thông được t́nh trạng bế tắc của Kế hoạch CPA và giúp quốc tế giải quyết vấn đề tị nạn được thật sự công bằng và nhân đạo. Nếu không bị chống đối ngay từ đầu bởi một số người tranh đấu thiếu hiểu biết và tinh thần trách nhiệm trong cộng đồng người Việt hải ngoại, số ứng viên nộp đơn vào chương tŕnh ROVR và được chấp thuận cho định cư chắc chắn sẽ đông hơn. Những thông tin gửi vào các trại tị nạn gây ảo tưởng được định cư cho tất cả những người bị rớt thanh lọc đă là nguyên nhân của những vụ bạo loạn trong các trại tạm trú giữa người tị nạn với lực lượng an ninh, gây thương vong cho nhiều người ở cả đôi bên, Chỉ đến khi chính phủ Mỹ thông báo về chương tŕnh ROVR và điều kiện nộp đơn th́ những người tự biết ḿnh không đủ điều kiện mới tham gia chương tŕnh hồi hương t́nh nguyện hay không chống đối. Nhiều thiệt hại vô ích đă xảy ra cho các chính phủ và người tị nạn. UNHCR giảm bớt tiền trợ cấp hồi hương từ $360 xuống $240 cho mỗi người làm cho nhiều gia đ́nh hồi hương trễ bị thiệt tḥi.

    ***

    Chọn dịp kỷ niệm 30 tháng Tư năm nay để ôn lại vài đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam là việc làm thích hợp v́ vừa làm sáng tỏ chính nghĩa của phe bại trận vừa cho thấy người tị nạn đă thực hiện được quyết tâm góp phần đáng kể vào giải pháp công bằng và bền vững cho vấn đề tị nạn, đúng như lời tuyên bố của chủ tịch IRAC trong buổi họp báo tại Thượng viện ngày 1 tháng Ba 1987. Giải pháp công bằng và lâu dài đó cũng chính là giải pháp chính trị, tức là thỏa hiệp b́nh thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Giải pháp chính trị này cũng đă được chủ tịch IRAC nêu lên làm chủ đề của bài nói chuyện ở Đại học Stanford ngày14/9/1990 trong đó manh nha sáng kiến “khu vực xám” như một bước đầu h́nh thành chương tŕnh ROVR. Hai mươi lăm năm sau, cuộc khủng hoảng tị nạn đă lui vào quá khứ, nhưng quan hệ b́nh thường giũa hai nước vẫn tồn tại như một thử thách lớn cho Việt Nam khi Hà Nội càng ngày càng lún sâu vào ṿng lệ thuộc Bắc Kinh v́ đặt lợi ích của Đảng trên lợi ích quốc gia.

    Trong thời gian gần đây, khi có những dấu hiệu cho thấy Việt Nam dường như muốn cưỡng lại những hành động lấn chiếm ngang ngược của Trung Cộng tại Biển Đông, thử thách lớn ấy lại hiện ra như một cơ hội không chỉ riêng cho lănh đạo Đảng CSVN mà cũng cho tất cả mọi người Việt Nam yêu nước ở trong và ngoài nước. Đây cũng là cơ hội thuận lợi nhất cho Việt Nam thoát Trung, ǵn giữ được độc lập và toàn vẹn giang sơn của tổ tiên, đồng thời bảo vệ được ḍng giống Việt trước nguy cơ Hán hóa. Đại dịch Virus Vũ Hán đă thức tỉnh toàn thể thế giới về mưu đồ hiểm độc của Trung Cộng giành ngôi bá chủ toàn cầu và sẽ hợp lực đánh tan “Giấc Mơ Trung Quốc” của Tâp Cận B́nh. Lănh đạo Việt Nam sẽ phạm trọng tội nếu bỏ lỡ cơ hội lịch sử này. Những người viết sử cầu mong sẽ được chứng kiến những hành động có phối hợp, hoặc riêng biệt nhưng đồng quy, từ cả ba phía: chính quyền, trí thức và nhân dân trong nước, và cộng đồng gốc Việt ở nước ngoài. Không ai muốn sẽ phải đánh giá thái độ tiêu cực hay hành động sai lầm của những người có trách nhiệm.

    (28/4/2020)

    Kỷ niệm đúng ngày này 45 năm trước, tác giả và vợ con lên một trong những chuyến bay cá hộp cuối cùng của quân đội Mỹ cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất sang Guam, Philippines.

    Ghi chú:

    (1) Con số 2,164,000 trừ đi 300,000 mất tích, c̣n lại 1,864,000 gồm những người tị nạn tới Mỹ và các nước khác tính đến 1995. Theo Wikipedia: Người Mỹ gốc Việt, tổng số người Việt ở Mỹ được ước tính hơn 2,200,000 trong năm 2017. Tổng số này gồm tị nạn, di dân và người sinh tại Mỹ.

    (2) Lê Xuân Khoa, “Cộng đồng người Việt hải ngoại và Việt Nam ngày nay” tại cuộc hội thảo ngày 2 tháng Ba 1995 kỷ niệm 20 năm chấm dứt chiến tranh do Đại học Columbia và US-Vietnam Forum đồng bảo trợ. Bản gốc tiếng Anh: “The Overseas Vietnamese and Vietnam Today”, in The Bridge, a quarterly publication by IRAC, vol. 11, No. 4 , Winter 1994-1995, pp. 1, 11, 28.

    (3) Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, tập I: “Giải Phóng”, OSINBook, California 2012, trang xiii.

    (4) IRAC do một nhóm trí thức thiện chí người Mỹ thành lập tại Washington, D.C. năm 1979 nhằm giúp chính phủ hoàn thiện chính sách, chương tŕnh định cư tị nạn và hệ thống điều hành sau khi Mỹ quyết định gia tăng số tị nạn được thâu nhận từ các trại tạm trú ĐNÁ tại Hội nghị quốc tế Geneva tháng Sáu 1979. Năm 1993, tổ chức IRAC đổi tên là Southeast Asia Resource Action Center (SEARAC) để tránh mang dấu vết thời thuộc địa trong danh xưng French Indochina (tiếng Pháp là Indochine Francaise) tức Đông Dương thuộc Pháp. Tên SEARAC đến nay vẫn được giữ nguyên dù các lănh đạo mới có sửa đổi mục tiêu của tổ chức, hướng về xây dựng sức mạnh của những cộng đồng người Mỹ gốc Việt, Cam-bốt và Lào tại Hoa Kỳ.

    (5) Trích từ bài thơ của Emma Lazarus ghi trên bệ bức tượng Nữ Thần Tự Do ở cửa biển thành phố New York: “Give me your tired, your poor, Your huddled masses yearning to breathe free..." (Hăy đem đến cho ta những con người mệt mỏi, nghèo khổ, những đám người co ro đang khao khát được hít thở không khí tự do…)

    (6) Hearing before the Committee on the Judiciary, U.S. Senate, 97th Congress, September 22, 1981, chaired by Senator Alan K. Simpson, Chairman, Subcommittee on Immigration and Refugee Policy. U.S. Government Printing Office, 90-542 O, Washington 1982. Testimony by Le Xuan Khoa, pp. 249-276.

    (7) Cần phân biệt hai tổ chức BPSOS khác nhau: BPSOS (Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển) thành lập năm 1980 do GS Nguyễn Hữu Xương làm Chủ tịch và nhà văn Phan Lạc Tiếp là Giám đốc điều hành, kêu gọi các nước cứu giúp thuyền nhân tị nạn, và từ 1985 hợp tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu người vượt biển. Năm 1990, BPSOS San Diego ngưng hoạt động v́ không c̣n nước nào cho phép tàu cứu người tị nạn được cặp bến. BPSOS được chuyển sang chi nhánh ở Virginia do nhà văn Trương Anh Thụy làm Chủ tịch và TS Nguyễn Đ́nh Thắng làm Giám đốc. BPSOS Virginia tiếp tục vận động định cư tị nạn tới 1995 th́ chủ yếu tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam, bắt đầu có những hoạt động gây tranh căi về ảnh hưởng và quản trị, thậm chí bị kiện cáo trong cộng đồng.

    (8) Janelle M. Diller: In Search of Asylum: Vietnamese Boat People in Hong Kong, published by IRAC, Washington DC, November 1988.

    (9) Trên đường đi Geneva dự hội nghị tị nạn 1989, chủ tịch IRAC ghé Paris gặp GS Vũ Quốc Thúc, được ông đưa tới gặp cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam tại Hội nghị Geneva 1954. Ngoại trưởng Đỗ khuyên GS Khoa nên gặp trưởng đoàn CSVN để nói chuyện về giải pháp Việt Nam cho vấn đề tị nạn. Tại Geneva, GS Khoa nhờ phái đoàn Mỹ thu xếp cuộc gặp nhưng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch từ chối với lư do là ông không muốn gặp đại diện tị nạn “v́ họ là những kẻ phản động”. Khi trở về Mỹ, GS Khoa kể lại chuyện này cho TNS Hatfield và cho hay IRAC sẽ mở chiến dịch vận động chống lại việc bang giao Mỹ-Việt. TNS Hatfield viết thư cho ngoại trưởng Thạch, do đó có buổi gặp gỡ giữa ông Thạch và các đai diện IRAC ở New York ngày 16/10/1990. Chuyện này đă được tác giả Lê Xuân Khoa tường thuật trong mấy bài viết trước đây.

    (10) Statement by Le Xuan Khoa, in Refugees: A Challenge to Solidarity, Proceedings of the International Round Table on the Question of Refugees sponsored by the Permanent Observer Mission of the Holy See to the United Nations, published by Center for Migration Studies, , New York 1994, pp. 265-267.

  5. #45
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Tội ác CS Việt nam: Thuyền nhân

    Sau 30/4 – Góc gói ḿ tôm ba người xong bữa tối
    04/05/2020



    (H́nh: Trích xuất từ YouTube)


    Những ngày này 45 năm về trước, địa ngục dần thay thế thiên đường đối với hàng triệu người Việt Nam trong đó có cô Hoàng Thị Oanh Oanh, khi đó mới 12. Cha cô bị đưa đi ‘cải tạo’ mà không hề có bất kỳ bản án nào. Phải tới 14 năm sau ông mới được tự do bán phần. Ông lăo già yếu và gày đét c̣n tiếp tục bị quản thúc tại gia thêm nhiều năm nữa. Trong lúc ông ở tù, năm trong số sáu người con đă vượt biên bằng thuyền. Hai người đầu đi năm 1978 và may mắn tới Philadelphia, Hoa Kỳ từ Malaysia, nơi thuyền họ cập bến. Cô Oanh Oanh rời đi năm 1979 khi cô 16 và được mẹ giao mang theo hai em nữa, một em 12 và một em 10 tuổi, trong khi bà ở lại cùng cô con gái duy nhất c̣n lại để đợi ngày chồng ra tù.

    Câu chuyện hăi hùng của bà Oanh Oanh, nay là Tiến sỹ Carina Hoàng và là một trong 100 phụ nữ tiêu biểu tại Úc, đất nước bà theo chồng tới từ năm 2007, được phát hôm 3/5/2020 trong chương tŕnh Outlook của BBC World Service.

    Bà Oanh Oanh nói trong câu chuyện mang tên ‘Ba trẻ nhỏ trên đảo hoang’ rằng con thuyền mang theo gần 400 người vượt biên đă gặp băo sau vài tiếng ra khơi. Băo lớn tới mức các con sóng tưởng như có thể nuốt chửng chiếc thuyền dài 25 mét, rộng 4,5 mét và chật cứng người.

    Bà Oanh Oanh nói: “Con thuyền bắt đầu lắc và mọi người bị say sóng. Rồi mọi chuyện c̣n tệ nữa. Mỗi lần sóng đánh vào thuyền mọi người lại hét lên và khóc. Tất cả chúng tôi đều cầu nguyện với âm giọng từ các vùng khác nhau, cầu Thượng đế, Đức Mẹ Maria, Đức Chúa Giê-su, Đức Phật, Tổ Tiên… Mọi người đều cầu Người cứu giúp. Những âm thanh đậm sự hỗn loạn và tuyệt vọng. Chúng tôi ngồi trên đống hỗn độn những thứ người ta nôn ra, phân, nước tiểu pha với nước biển.”

    Thuyền c̣n bị cướp biển Thái Lan rượt đuổi và mọi người đối mặt với khả năng bị cướp và hăm hiếp trong ba ngày trước khi họ tới Malaysia. Hàng trăm người trên thuyền không hề biết rằng Malaysia đă thay đổi chính sách và xua đuổi tất cả các thuyền mang theo người tị nạn cộng sản từ Việt Nam. Hải quân Malaysia đă lên thuyền cướp những ǵ quư báu mà thuyền nhân mang theo, thậm chí lấy cả la bàn định hướng trước khi kéo thuyền ra giữa biển và đuổi đi.

    Thêm vài ngày nữa các thuyền nhân tới một ḥn đảo ở Indonesia và gần 400 người lên đảo nơi chỉ có chừng 100 người bản xứ. Chẳng bao lâu sau chính quyền Indonesia đưa tàu tới đón thuyền nhân và ai cũng nghĩ rằng họ sẽ được đưa tới trại tị nạn. Thay vào đó họ được đưa tới đảo hoang không người ở.

    “Trưởng tàu không thể nào vào sát bờ nên ông ấy dừng lại, kư giấy cho mọi người xuống, hàng trăm người chúng tôi,” bà Oanh Oanh kể lại với BBC.

    “Mọi người xuống tàu, mang theo đồ vật cá nhân và bơi vào bờ. [Chúng tôi] ngồi trên băi cát, mọi thứ đều ướt hết, rối tung và hỗn loạn.”

    Trong ba tháng sau đó, mọi người sống trên băi biển Kuku của Indonesia với những ǵ mang theo cùng với bắt cá biển và bất cứ thứ ǵ có thể ăn được. T́nh trạng ăn và vệ sinh tại chỗ khiến ḥn đảo bị ruồi bu kín. Bà Oanh Oanh nói khi người ta ngủ ruồi có thể bu đen từ đầu tới chân. Thế rồi dịch bệnh kéo tới trong đó có sốt rét và tiêu chảy. Một trong những người đi cùng ba chị em bà Oanh Oanh có bé gái mới tám tháng tuổi và bà Oanh Oanh nói chính tay bà đă mặc quần áo cho cháu sau khi cháu chết v́ tiêu chảy: “Lúc đầu cháu c̣n ấm, sau lạnh dần và cứng như búp bê.” Cháu bé nằm trong số khoảng 200 người chết trong mấy tháng sau đó trước khi thế giới biết tới sự tồn tại của thuyền nhân Việt Nam trên đảo hoang.

    Bà Oanh Oanh nói bà rất lo sợ khi hai đứa em đổ bệnh, sốt cao và c̣n sợ hơn khi nghĩ tới chuyện nếu không may bà ốm không qua khỏi th́ hai em sẽ ra sao. Bà kể ba chị em c̣n ḿ tôm mang theo và phải bẻ gói ḿ tôm ra làm bốn, mỗi bữa ba chị em chỉ dám ăn một miếng. Ba tháng sau trực thăng của Hội Chữ Thập Đỏ và Cao uỷ Tị nạn Liên Hiệp Quốc mới tới giúp những người trên đảo mà lúc đó đă lên tới cả ngàn v́ Indonesia tiếp tục đổ thuyền nhân lên đảo hoang.

    Bà Oanh Oanh và hai người em cuối cùng cũng may mắn thoát nạn và đoàn tụ với hai người anh chị ở Philadelphia Hoa Kỳ trong năm 1980. Bà nói do quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ c̣n xấu trong thời gian đó, họ không thể gọi về nhà. Vài năm sau họ mới biết có thể gọi về Việt Nam từ Canada. Lần đầu họ bay sang Montreal để gọi th́ điện thoại ở nhà bị hỏng. Vài năm sau họ lại tới Vancouver và may mắn nói chuyện được với gia đ́nh trong đó có cả người cha lúc đó vừa ra tù. Bà Oanh Oanh nhớ lại khi đó gọi về Việt Nam mất 10 đô la một phút trong khi lương tối tiểu khi đó là bốn đô la mỗi giờ và nói:

    “Chúa ôi, khó mà có thể tin nổi [khi được nói chuyện với gia đ́nh]. Chúng tôi cứ khóc. Mẹ tôi khóc và tôi khóc mất vài phút. Tôi không nhớ khi đó là bố tôi hay người họ hàng tôi đang ở cùng nói ‘Đừng khóc, đừng khóc, đắt lắm đó’.

    Nhớ lại t́nh trạng thê thảm của người cha sau khi ra tù, bà nói: “Tôi thấy đau đớn và tức giận. Tôi cứ nghĩ mọi chuyện thật bất công và sai trái.”

    Sau lần đó bà về lại Hoa Kỳ và tới thăm bà cô họ, người có con trai mất trên đảo ở Indonesia trên đường t́m tự do. Bà Oanh Oanh kể bữa ăn chỉ có hai người nhưng cô bày ba miếng lót bàn, ba chiếc bát và ba đôi đũa. Rồi bà cô nói: “Cháu thân với anh th́ sang ngồi gần anh đi.” Ít lâu sau bà Oanh Oanh mới hiểu đă 18 năm nay người cô vẫn không thể quên người con trai nằm lại trên đảo. Hàng trăm ngàn người thiệt mạng khi rời Việt Nam bằng thuyền trong giai đoạn 1975-1996, nhiều người chết mất xác hoặc chết trên thuyền và xác bị vứt xuống biển.

    Nhiều năm sau bà Oanh Oanh nói trong video trên YouTube về t́nh trạng của những người tị nạn như bà và cả triệu người Việt khác: “Là người tị nạn, bạn mất tất cả. Bạn mất người thân, mất văn hoá, mất bản sắc, mất những ǵ thân thuộc. Bạn sống với nỗi sợ thường trực, luôn cảm thấy tuyệt vọng và bạn ước ǵ ḿnh không phải là người tị nạn.” Bà cũng nói khi đó bà không biết rằng cơ hội sống của bà và hai người em trong chuyến đi đó chỉ chừng 10%.

    Cho tới nay chính quyền Việt Nam coi như chưa bao giờ có vấn nạn thuyền nhân với số lượng người Việt bỏ nước ra đi lớn chưa từng có trong lịch sử. Hà Nội thậm chí c̣n muốn xoá mọi dấu vết nhắc nhở tới giai đoạn 20 năm sau cuộc chiến và từng nhiều lần phản đối khi thuyền nhân muốn xây đài tưởng niệm trên các đảo từng cưu mang họ, nơi nhiều người đă mất vợ, mất chồng, mất cha, mất mẹ, mất con, mất anh chị em và người thân. Bà Oanh Oanh đă nhiều lần quay lại đảo ở Indonesia để giúp các cựu thuyền nhân t́m mộ tạm của người thân bắt đầu bằng chuyến đi t́m mộ người anh họ con bà cô như VOA từng đưa tin.

    45 năm đă qua đi kể từ ngày cuộc chiến huynh đệ tương tàn kết thúc, bên thắng trận làm cuộc giải phóng ngược kéo lùi đất nước hiện vẫn đang chờ ngày thực sự được khai phóng và giải phóng xuôi khỏi nạn dịch cộng sản. Trong quá tŕnh t́m tư liệu viết blog này, tôi t́m được bài viết trên BBC về một người phụ nữ tị nạn Latvia phải bỏ nước ra đi trong Thế Chiến II hồi năm 1944 và hơn 50 năm sau trở lại để tranh cử tổng thống thành công khi đă 60 tuổi. Vậy mới thấy Việt Nam thay đổi chậm chừng nào về mặt chính trị.

    Trong kỳ tới, chương tŕnh Outlook của BBC sẽ nghe về những chuyến đi của bà Oanh Oanh về lại ḥn đảo nơi có mộ phần của nhiều thuyền nhân. Mong sẽ có ngày một trong những thuyền nhân trở lại lănh đạo đất nước và thực sự mang tới thay đổi chính trị và hoà giải. Thay đổi và hoà giải cũng sẽ giúp Việt Nam mạnh lên trong cuộc đương đầu với bành trướng Trung Quốc. Chưa tới 50 năm trước Việt Nam chưa mất một phần Trường Sa, toàn đảo Hoàng Sa, và Bolsa cũng chưa tồn tại. Lấy lại những ǵ đă mất ở Trường Sa và Hoàng Sa có lẽ c̣n mất nhiều thời gian nếu có thể lấy lại được. Nhưng chính quyền nên sớm hành xử như người lớn và không chỉ nhận nhiều tỷ đô la kiều hối mỗi năm từ Bolsa mà c̣n nên nh́n nhận những đau thương và mất mát trong hàng chục năm để ngày nay làm ra nhiều tỷ đô la gửi về quê hương đau thương.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Thuyền nhân Việt Nam, một chương sử bi thương - Vượt Biên
    By TuyetNhiNguyen in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 0
    Last Post: 27-05-2012, 03:19 AM
  2. Tội ác Cộng Sản Việt Nam: Thuyền Nhân
    By Tigon in forum Tin Việt Nam
    Replies: 21
    Last Post: 10-11-2011, 09:24 PM
  3. Replies: 1
    Last Post: 08-09-2011, 02:24 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 27-04-2011, 04:57 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 11-12-2010, 05:59 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •