Page 1 of 7 12345 ... LastLast
Results 1 to 10 of 65

Thread: Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

  1. #1
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P1




    Nha Kỹ Thuật là cơ quan t́nh báo chiến lược của Quân đội Sài G̣n, là một đơn vị đặc trách tổ chức, hoạt động thu thập tin tức t́nh báo, phản gián chiến lược từ trong ḷng đối phương, cũng như trong hậu tuyến Quân đội Bắc Việt; hoặc những địa bàn có cơ sở, đơn vị đối phương trong và ngoài lănh thổ Việt Nam.

    Tiền thân là Pḥng 6, Bộ Tổng Tham mưu, do Trung tá Lung phụ trách. Dưới thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, Pḥng 6 có tên là Sở Liên lạc Phủ Tổng thống và Lực lượng đặc biệt, do Đại tá Lê Quang Tung làm Tư lệnh. Từ sau cuộc đảo chính 11/1963 cho đến tháng 4/1975, Nha Kỹ thuật lần lượt do các tướng Nghiêm, Quảng, Lam Sơn, Phú; các sĩ quan như Trung tá Lan, Đại tá Hổ và cuối cùng là Đại tá Nu chỉ huy. Riêng tên gọi, được đổi từ Pḥng 6 đến Sở Liên lạc Phủ Tổng thống; Lực lượng đặc biệt; Sở Khai thác địa h́nh và cuối cùng là Nha Kỹ thuật.


    Bia Budweiser quá tệ

    Dưới chính thể của Ngô Đ́nh Diệm, mọi hoạt động của biệt kích đều do Đại tá Tung trực tiếp nhận chỉ thị cũng như phúc tŕnh với Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm và cố vấn Ngô Đ́nh Nhu. Cùng thời điểm này, mọi hoat động của Nha Kỹ thuật đều do cơ quan Trung ương t́nh báo CIA Mỹ tư vấn, chỉ đạo và yểm trợ. Sau cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đ́nh Diệm vào tháng 11/1963, mọi hoạt động đều do Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên trực tiếp chỉ huy, được Bộ Tham mưu cơ quan t́nh báo quân sự Mỹ SOG (Study and Observation Group) làm cố vấn và yểm trợ.

    Về tổ chức, Nha Kỹ thuật gồm: Sở công tác; Sở Liên lạc; Sở Pḥng vệ duyên hải; Sở tâm lư chiến; Sở yểm trợ không quân và Trung tâm Huấn luyện Quyết Thắng. Sở Công tác đóng tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Hai Đoàn 11 và 72 đóng tại Đà Nẵng, Đoàn 75 đóng tại Pleiku. Đoàn 68 đóng tại Sài G̣n. Các toán trong đoàn công tác được huấn luyện xâm nhập bằng đường không hay đường bộ vào lănh thổ Bắc Việt Nam, dọc theo biên giới Việt-Lào-Campuchia hoặc Thái Lan. Sở Liên lạc đóng tại Sài G̣n; Chiến đoàn 1 đóng tại Đà Nẵng, Chiến đoàn 2 đóng tại Kontum và Chiến đoàn 3 đóng tại Buôn Mê Thuột.

    Các toán biệt kích thuộc Sở Liên lạc xâm nhập vào hậu tuyến của đối phương từ vĩ tuyến 17 trở vào cho đến mũi Cà Mau. Sở Pḥng vệ Duyên hải đóng tại Tiên Sa, Đà Nẵng gồm lực lượng tuần tra Hải quân Việt Nam, chuyên sử dụng thuyền máy PCF, PT có tốc độ khá nhanh, hỏa lực mạnh để hoạt động tại bắc vĩ tuyến 17. Lực lượng biệt kích biển được huấn luyện thành các toán người nhái để xâm nhập vào lănh thổ Bắc Việt bằng đường biển.

    Sở Tâm lư chiến đóng tại số 7, đường Hồng Thập Tự, Sài G̣n; chuyên tổ chức và điều hành 2 đài phát thanh: “Tiếng nói tự do” và “Gươm thiêng ái quốc”. Ngoài ra, Sở Tâm lư chiến c̣n có nhiệm vụ gửi người ra Bắc hoạt động trong lĩnh vực tâm lư chiến. Sở Yểm trợ đường không đóng tại Sài G̣n để phối hợp với Phi đoàn trực thăng 219, Phi đoàn quan sát 110 tại Đà Nẵng trong việc xâm nhập, liên lạc, hướng dẫn và rút các toán biệt kích hoạt động trong ḷng đối phương. Trung tâm Huấn luyện Quyết thắng đóng tại Long Thành, Biên Ḥa, huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ cho các toán, cũng như các phương pháp xâm nhập vào lănh thổ đối phương, hoạt đông ở hậu phương, du kích chiến, ám sát, bắt cóc, phá hoại, chiến tranh tâm lư...


    V́ lư do bảo mật, tuy cùng đơn vị nhưng nhiều biệt kích quân của Nha Kỹ thuật không được phép tiếp xúc hay t́m hiểu về nhiệm vụ của những đồng sự khác. Các cơ quan, đơn vị của Nha Kỹ thuật đồn trú trên khắp 4 vùng chiến thuật, hạn chế tối đa sự liên lạc với các cơ quan quân, dân, chính quyền địa phương. V́ vậy ít người biết về Nha Kỹ thuật hoặc chỉ biết mà không hiểu rơ về những hoạt động của nó. Quân nhân hoặc dân sự được tuyển chọn về Nha Kỹ thuật đều phải trải qua một cuộc điều tra tỉ mỉ về quá khứ và các mối quan hệ. Tất cả đều thuộc thành phần t́nh nguyện và khi nhận nhiệm vụ, họ đều phải hiểu rằng đó là công tác gian nan, nguy hiểm; một khi ra đi th́ ít hy vọng trở về an toàn. Trong thực tế đă có biết bao nhiêu biệt kích quân đă bỏ mạng trên khắp vùng rừng núi Bắc Việt, ngoại biên hoặc sâu trong lănh thổ miền Nam Việt Nam.

    Những kẻ biến họ thành công cụ chiến tranh, có thể huyễn hoặc họ, gọi đó là sự hy sinh. Nhưng đối với đất nước và dân tộc th́ cái chết của họ lại là nỗi đau và sự mất mát không thể bù đắp. Trải qua 20 năm tồn tại, dưới áp lực của bao diễn biến chính trị quốc tế về Việt Nam, Nha Kỹ thuật đă nhiều lần thay đổi về cơ cấu, tổ chức, phương thức cũng như quy mô hoạt động, nhưng bản chất bất biến của nó là mọi hoạt động đều nhắm vào mục đích phá hoại. Lẽ ra sự phá hoại đó phải dành cho kẻ thù dân tộc. Nhưng đáng tiếc, lại phục vụ cho mục đích chiến tranh. Bao nhiêu sinh mạng bỏ lại nơi rừng thẳm, non cao liệu có nghĩa lư ǵ không?


    KẾ HOẠCH 34A - TÂM LƯ CHIẾN

    Chiến tranh tâm lư, với mật danh là Forae được phê duyệt ngày 14/3/1968. Tướng Westmoreland ra lệnh không bằng văn bản. Điều đó không có ǵ đáng ngạc nhiên, bởi đó là nguyên tắc hoạt động của SOG cùng những kế hoạch bí mật trong ḷng hậu phương của đối phương.
    Forae khởi đầu với 6 kế hoạch. Ba trong số 6 bản kế hoạch đó được giao cho Đoàn Nghiên cứu, quan sát (SOG) để áp dụng trong chương tŕnh chiến tranh tâm lư. Ba bản kế hoạch c̣n lại đều nằm trong “Kế hoạch 34A”, là xương sống của chương tŕnh “Trở mặt”.

    Mục đích của chương tŕnh này là làm cho đối phương bối rối về mặt tâm lư. Bob Kingston quyết định: “Đặt máy phát thanh trên lănh thổ miền Bắc Việt Nam”. Một số máy do các toán biệt kích đem theo gài, số khác thả bằng dù. Những máy phát thanh đó đă được điều chỉnh trước để phát đi chương tŕnh phát thanh của 2 đài phát thanh “đen” là đài “Gươm thiêng ái quốc” và đài “Cờ đỏ”. Với kế hoạch này, Bob Kingston hy vọng sẽ làm cho đối phương phải sử dụng lực lượng an ninh biên pḥng lùng sục những toán biệt kích mà thực ra chỉ là những máy thu thanh. Ngoài ra, những đài phát thanh đen này c̣n gửi những mật điện cho các toán biệt kích đang hoạt động trên lănh thổ miền Bắc hoặc những mật điện giả, khiến cho đối phương phải bối rối.

    Năm 1968, Bob Kingston giao cương vị đảm trách “Kế hoạch 34A” cho Bob Mc Knight, ông ta điều hành một bộ phận gồm những sĩ quan lo việc điều nghiên, t́m hiểu hệ thống an ninh nội bộ trong hành ngũ đối phương. Họ cấu tạo một hệ thống “Trở mặt tay ba” rất phức tạp. Kế hoạch này gồm 3 chương tŕnh:

    + Chương tŕnh Borden:

    Do Đại úy Bert Spivy đảm nhiệm, chuyên tuyển mộ tù binh Bắc Việt làm gián điệp cho SOG. Họ đến những trại giam tù binh Bắc Việt do quân đội Mỹ bắt được, chiêu dụ những tù binh “biết điều” hợp tác (họ không dùng những tù binh do Quân đội Sài G̣n bắt được). Có điều, các tù binh được chọn không biết được là có theo người Mỹ thật ḷng hay không? Thậc ra, trong hồ sơ của chương tŕnh Borden, họ hy vọng phần lớn những tù binh này sẽ ra tŕnh diện và báo cáo cho cấp chỉ huy của Quân đội Bắc Việt về nhiệm vụ của họ. Những nhiệm vụ này đều là giả, cũng như những tin tức t́nh báo mà người Mỹ đă giao cho những điệp viên “đi hàng ba” này.
    Khi được thả dù trở ra ngoài Bắc, những cựu tù binh sẽ hoạt động cho kế hoạch 34A một cách mù quáng mà họ không biết.



    Trùm MACV-SOG, Đại tá Steve Cavanaugh, thay thế Jack Singlaub vào tháng 9/1968, giải thích: “Trong thời gian huấn luyện, chúng tôi cho điệp viên biết về nhiệm vụ liên lạc với các toán biệt kích đang hoạt động ngoài Bắc và trao cho họ những tin tức giả... Lẽ dĩ nhiên là không có toán biệt kích nào ở tọa độ đó cả. Tất cả đều là giả tạo, chúng tôi mong họ ra tŕnh diện hoặc bị bắt để họ báo cáo cho các sĩ quan trong quân đội Bắc Việt về những toán “biệt kích ma” đang hoạt động trong ḷng hậu phương của họ”.

    Trong chương tŕnh huấn luyện, những biệt kích quân thuộc Nha Kỹ thuật của Quân đội Sài G̣n được gài vào các trại tù binh, để thỉnh thoảng “rỉ tai” cho tù binh Bắc Việt về những toán biệt kích đă ra hoạt động ngoài miền Bắc rằng: “Phe ta đang làm ăn khấm khá”, cùng những tin đồn về các tổ chức “kháng chiến” đang được xây dựng ở miền Bắc. Họ cũng cung cấp cho tù binh những tin tức sai lệch hoặc báo cáo giả do điệp viên hay những toán biệt kích gửi về. Khi thả dù xuống miền Bắc, tù binh “hàng ba” cũng được trao cho “vinh dự nhảy ra trước v́ đậu thủ khoa trong khóa huấn luyện”. Những người trong toán sẽ nhảy theo anh ta. Điều người cựu tù binh không được viết là khi anh ta đă rơi vào màn đêm, toán biệt kích thật sẽ tháo dây móc dù ra và ngồi xuống ghế. Mọi chuyện đều được sắp đặt trước, đến khi quân Bắc Việt t́m thấy dù vướng trên ngọn cây, toán biệt kích đă biến mất... Thật ra, đó là những tảng nước đá đă tan ra nước.

    Cũng theo Spivy, lúc bắt đầu chương tŕnh Borden dự định thả xuống miền Bắc hàng trăm điệp viên tù binh hàng năm. Trong năm 1968, khi chương tŕnh bắt đầu xúc tiến, th́ hồ sơ của SOG có ghi rơ là 98 tù binh được tuyển mộ, th́ có tới 50 người bị loại, c̣n 44 người được thả xuống những khu vực do Quân đội Bắc Việt hoặc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát. Bốn người khác sẽ được thả dù xuống vào tháng 1/1969. Năm 1968 được đánh giá là năm thành công. Đến cuối năm 1969, Washington ra lệnh chấm dứt tất cả mọi kế hoạch vượt biên xâm nhập lănh thổ miền Bắc.

    + Chương tŕnh Urgency:

    T́m tù binh trong những trại giam tù binh hoặc bị bắt cóc trong chương tŕnh Plowman ( tổ chức các cuộc hành quân bằng đường biển nhằm bắt cóc dân sống ngoài miền Bắc như SOG lập kế hoạch). Những người này sẽ đem ra đảo Paradise hay Cù Lao Chàm ngoài khơi Đà Nẵng. Họ bị nhồi sọ về những tổ chức kháng chiến ngoài Bắc và đài phát thanh “Gươm thiêng ái quốc” do khối Chiến tranh tâm lư do SOG điều hành. Sau đó chia thành 2 nhóm:

    Một, đối với lính Bắc Việt là Đảng viên Đảng cộng sản không chịu hợp tác, thành phần tin tưởng vào Hồ Chủ Tịch và Đảng cộng sản, theo Bob Mc Knight, những tù binh cứng đầu này sẽ bị dàn cảnh chụp mũ làm điệp viên cho người Mỹ, rồi thả trở lại miền Bắc. CIA hy vọng rằng họ sẽ bị bắt, bị tra tấn và bị giết bởi chính bàn tay của cộng sản, kế hoạch này quả thật rất hiểm độc.


    Trại huấn luyện tại Cù Lao Chàm với những ngôi nhà có kiểu giống với miền Bắc

    Hai, dành cho những tù binh ngoài Cù Lao Chàm muốn hợp tác. Họ được huấn luyện để trở thành điệp viên, được gửi ra miền Bắc nằm chờ lệnh, sẽ liên lạc sau.

    Thật ra Kế hoạch 34A đă bắt đầu chương tŕnh từ năm 1967, hai điệp viên mang mật danh Goldfish và Pergola đă trở ra ngoài Bắc vào tháng 9/1967. Nhưng cả hai đều biệt tăm.

    + Chương tŕnh Oodles:

    Sử dụng hệ thống phát thanh, truyền tin đánh lạc hướng Quân đội Bắc Việt. Trong hồ sơ SOG, chương tŕnh Oodles sẽ ngụy tạo ra một màng lưới điệp viên đang hoạt động rất hữu hiệu trong một số vùng được xác định rất kỹ ngoài Bắc. Cho đến khi chương tŕnh chấm dứt, có tất cả 14 toán biệt kích ma hoạt động trong ḷng đối phương. Để làm như thật, nhiều điện văn giả được gửi đi cho những toán biệt kích ma. Những điện văn giả bao gồm lệnh hành quân lấy tin t́nh báo cho những mục tiêu, báo cáo về những hoạt động của các toán biệt kích khác, những chuyến thả dù tiếp tế và tăng cường thêm nhân lực sắp tới. Họ cũng tổ chức những chuyến thả dù tiếp tế ma, nhưng khi công an biên pḥng Bắc Việt đến sẽ chỉ thấy những kiện hàng trống rỗng, c̣n đồ tiếp tế th́ đă biến mất. Điều đó có thể khiến cho đối phương càng tin là những toán quân biệt kích ma là có thật. nhưng cũng giống như số phận của Borden và Urgency, tất cả đều chấm dứt vào cuối năm 1968.

    + Chương tŕnh Strata:

    Là các toán biệt kích hoạt động ngắn hạn. Những toán Strata cũng được thả ra ngoài Bắc với nhiệm vụ do thám đường giao thông và t́m mục tiêu chiến lược. Chương tŕnh này bắt đầu từ tháng 5/1967. Hai toán Strata đầu tiên xâm nhập miền Bắc vào cuối năm 1967. Khu vực hoạt động của những toán biệt kích Strata nằm dưới vĩ tuyến 20, khoảng 150 dặm về phía bắc khu phi quân sự. Toán biệt kích thứ nhất có nhiệm vụ xâm nhập để thu thập tin tức về hệ thống đường ṃn, dẫn đến 3 ngọn đèo để cuối cùng sẽ nhập vào đường ṃn Hồ Chí Minh trên đất Lào. Những toán biệt kích Strata chỉ hoạt động trong thời gian rất ngắn, do đó họ có cơ hội sống sót nhiều hơn những toán biệt kích thả sâu vào lănh thổ Bắc Việt trước đó.

    Những toán Strata thường gồm từ 5-15 biệt kích quân Sài G̣n hoặc người dân tộc thiểu số, xâm nhập miền Bắc bằng trực thăng Mỹ hay của quân đội Sài G̣n...Thời gian hoạt động của các toán biệt kích trong ḷng đối phương khoảng 15-30 ngày.


    Toán Idaho

    Trong năm 1968, đă có 24 toán biệt kích Strata xâm nhập miền Bắc. Ngoài nhiệm vụ do thám hệ thống đường giao thông, các toán Strata c̣n có thêm nhiệm vụ gài ḿn, bắt cóc và rải truyền đơn trên những lộ tŕnh có dân, hoặc quân đội Bắc Việt di chuyển qua.

    Đến năm 1969, các toán biệt kích Strata đă chuyển hướng hoạt động sang lănh thổ Lào và Campuchia.
    Last edited by alamit; 12-04-2012 at 08:11 AM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P2



    KẾ HOẠCH 34A - THẢ BIỆT KÍCH

    Trong những tháng đầu năm 1964, cơ quan t́nh báo Trung ương Mỹ CIA hoàn tất việc bàn giao những toán biệt kích sẽ thả xuống lănh thổ miền Bắc Việt Nam cho Đoàn nghiên cứu quan sát (SOG), bao gồm 4 toán Bell, Remus, Tourbillon và Easy, mà họ tin là vẫn đang hoạt động trong ḷng hậu phương của đối phương, với tổng quân số gồm 30 người. Toán thứ năm Europa, do cơ quan CIA thả trong tháng 2/1962, bị mất liên lạc ngay khi đang tiến hành chương tŕnh bàn giao. Cuối cùng CIA bàn giao điệp viên Ares, cùng căn cứ huấn luyện ở Long Thành, với khoảng 169 biệt kích quân đang huấn luyện và nhiều nhà tạm trú cho các biệt kích quân ở Sài G̣n.


    Sài G̣n 1960s. Ngă 4 Châu Văn Liêm - Hùng Vương

    Bộ trưởng Bộ Quốc pḥng Mỹ Mc. Namara cùng những viên chức cao cấp khác ở Washington luôn muốn hành động. Họ thúc đẩy SOG gia tăng việc thả những toán biệt kích xâm nhập lănh thổ lănh thổ miền Bắc Việt Nam. Từ giữa tháng 4/1964 đến tháng 10/1967, gần 30 toán biệt kích và một số điệp viên đơn tuyến đă xâm nhập vào lănh thổ miền Bắc Việt Nam, với tổng quân số khoảng 250 người. Nếu cộng thêm số biệt kích quân do CIA thả trước đó th́ tổng số biệt kích quân có khoảng 500 người. Có điều, CIA và SOG đều biết khả năng thành công của “Kế hoạch 34A” nhằm thả những toán biệt kích xâm nhập miền Bắc Việt Nam là rất thấp.

    Đến cuối 1967, chỉ c̣n lại 7 toán biệt kích là Remus, Tourbillon, Easy, Eagle, Hadley, Red Dragon, Romeo và điệp viên đơn tuyến Ares vẫn c̣n hoạt động ở Bắc Việt Nam.

    CIA thả toán Tourbillon ngày 16/5/1962. Sau đó 2 lần thả thêm biệt kích quân tăng cường cho toán Tourbillon đang hoạt động ở vùng Tây Bắc, Bắc Việt Nam. Toán Tourbillon được lệnh tổ chức những vụ phá hoại; sau đó đổi sang thu thập tin tức t́nh báo. Nhưng không có tài liệu nào ghi lại những hoạt động của toán Tourbillon. Mỗi lần SOG t́m cách rút toán về th́ y như rằng toán Tourbillon không đến được điểm hẹn để được bốc về (?!)

    Tháng 8/1963, CIA thả toán Easy xuống vùng rừng núi tỉnh Sơn La để bắt liên lạc với các phần tử người H’mông, Thái lập ra những căn cứ cho các toán khác đến hoạt động. Ngoài ra, toán Easy sẽ thăm ḍ mức độ phản ứng của lực lượng an ninh Bắc Việt để tuyển mộ dân thiểu số, tổ chức những vụ phục kích, phá hoại trục đường giao thông trên địa bàn. Nhưng từ tháng 1/1964, những vụ phá hoại trên không được SOG chấp thuận, nhất là không cho phép tổ chức những trận phục kích, v́ SOG cho rằng như vậy quá mạo hiểm. Easy chỉ c̣n nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo từ những người dân bản địa mà họ đă tuyển mộ. Trong hồ sơ của SOG, không có bản báo cáo nào quan trọng về toán Easy. Thực tế Easy được gửi tăng cường 4 lần, với tổng số 23 biệt kích quân. Khi SOG thông báo cho Easy biết rằng sẽ rút vài thành viên trong toán về, th́ Easy tắt máy, chấm dứt liên lạc.

    Riêng toán Remus, có 6 biệt kích quân nhảy dù xuống khu vực gần Điện Biên Phủ ngày 16/4/1962, để thiết lập căn cứ cho những hoạt động t́nh báo như: thu thập tin tức liên quan đến quân đội, t́nh h́nh chính trị và kinh tế...Ngoài ra, toán có thêm nhiệm vụ t́m kiếm những khu vực làm địa điểm thả dù tiếp tế, hoặc những khu vực an toàn cho những toán xâm nhập kế tiếp; tuyển mộ dân thiểu số cho công tác bảo đảm. Năm 1964, toán Remus báo cáo đă phá hủy 2 chiếc cầu. Bộ trưởng quốc pḥng Mc. Namara rất hài ḷng. Sau này ông trùm CIA W. Colby nhớ lại: “Lúc đó, ông Bộ trưởng phấn khích như trẻ con, khi nhận được bản báo cáo. Ông ta coi đó như một thành quả to lớn, có thể làm thay đổi cục diện chiến tranh”.

    Do được SOG coi như thành công, toán Remus được tăng cường thêm 5 lần. Năm 1966, Remus được lệnh thay đổi nhiệm vụ, toán bắt đầu than phiền rằng không nhận được lệnh đầy đủ, rơ ràng. Năm 1967, SOG ra lệnh cho toán rút 2 biệt kích quân về. Remus trả lời là điều đó rất nguy hiểm.


    Xuân Lộc, 14/4/1975

    Năm 1968, mọi liên lạc bằng vô tuyến với toán Remus đều chấm dứt. Cùng thời gian đó, do thẩm vấn một tù binh Bắc Việt bị bắt, anh ta cho biết là có nghe nói đến vụ bắt được một toán biệt kích trên địa bàn mà toán Remus từng hoạt động hồi ... tháng 6/1962.

    Ngày 13/5/1968, Hà Nội xác định có bắt được một toán biệt kích. Như vậy không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đó là toán Remus.

    Ares là điệp viên duy nhất do CIA thả xuống Bắc Việt c̣n sống sót. Trong các bản báo cáo của ḿnh, nhân viên CIA mô tả gặp Ares - Phạm Chuyên trong văn pḥng định cư tại Sài G̣n ngày 29/8/1960. Qua thẩm định, CIA cho rằng Ares là người có khả năng, linh động và muốn chống lại chính quyền Bắc Việt. Sau đó anh ta được CIA tuyển mộ và được phái ra xâm nhập miền Bắc bằng đường biển vào đầu năm 1961, gần biên giới Việt – Trung. Lúc đầu Ares rất thành công, cung cấp những tin tức về miền Bắc, về nhà máy điện Uông Bí cũng như hệ thống đường sá, cầu cống, cảng Hải Pḥng...cùng nhiều tin tức khác.

    Tuy nhiên, đến năm 1966, SOG bắt đầu để ư đến những báo cáo cũng như yêu cầu tiếp tế của điệp viên Ares. Khi được lệnh t́m một địa điểm để thả dù tiếp tế, Ares đề nghị một phương thức khác. Điều này khiến cho SOG nghi ngờ. Khi được lệnh rút quân, anh ta không trả lời. Nhưng Ares vẫn tiếp tục liên lạc cho đến năm 1968.

    Toán Eagle xâm nhập khu vực biên giới Việt – Trung ngày 27/6/1964, với nhiệm vụ phá hoại hai tuyến quốc lộ số 1, số 4 và phá hoại tuyến xe lửa Mục Nam Quan; căn cứ không quân Mai Phả. Tuy nhiên, chẳng có thông tin nào ghi nhận việc thi hành nhiệm vụ của toán Eagle. Chưa kể toán c̣n được giao nhiệm vụ thu thập tin tức t́nh báo về những mục tiêu trên. Theo tổng hợp của SOG, th́ những báo cáo của toán Eagle gửi về hầu như không có giá trị.




    Năm 1966, toán Eagle nhận nhiệm vụ chỉ do thám đường giao thông. Nhưng kết quả báo cáo về cũng chỉ là con số 0. Năm 1968, toán được lệnh di chuyển về hướng nam để rút quân. Eagle báo cáo không t́m ra vị trí để thu quân, sau đó mất liên lạc hoàn toàn.

    Toán Hadley cũng xâm nhập vào khu vực phía bắc khu phi quân sự, do thám con đường số 8, nối thông các tuyến đường số 15 với các tuyến đường 81, 12 và 121 của Lào. Đó là những trục đường giao thông được Quân đội Bắc Việt dùng để chuyển quân cũng như đồ tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Ngoài ra, Hadley c̣n phải đề ư theo dơi tuyến giao thông đường thủy sông Ngàn Phố, con sông này cũng chính là nguồn cung cấp nước chính yếu cho khu vực phía bắc khu phi quân sự. Thế nhưng Hadley đă bị phát giác ngay từ lúc đầu khi xâm nhập. Toán trưởng ngay lập tức báo cáo cho SOG rằng họ đă xâm nhập thành công, nhưng chẳng có ǵ chứng minh rằng Hadley hoạt động hữu hiệu cũng như không báo cáo được về những mục tiêu để chỉ điểm cho máy bay đến oanh tạc.

    Toán biệt kích cuối cùng được thả vào ngày 21/9/1967. Đó là toán Red Dragon, gồm 7 biệt kích quân, với nhiệm vụ xâm nhập khu vực phía bắc hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Hai tỉnh địa đầu của lưu vực sông Hồng, dọc theo biên giới Việt – Trung. Ở đó, những trục lộ giao thông đường bộ, đường xe lửa, đường thủy đều đi qua hai tỉnh này. Đó cũng chính là những mục tiêu mà toán Red Dragon có nhiệm vụ do thám và phá hoại.

    Theo các dữ liệu trong các bản báo cáo về tất cả những ǵ liên quan đến toán Red Dragon, cho thấy có những bất đồng khá sâu sắc giữa hai trung tâm chỉ huy lực lượng biệt kích Mỹ và Việt Nam. Người Mỹ tin là toán đă nằm trong tay đối phương và bị khống chế, buộc phải gửi đi những bản báo cáo sai sự thật về cho SOG. Các sĩ quan quân đội Sài G̣n th́ ngược lại, cho rằng toán biệt kích Red Dragon vẫn c̣n hoạt động, v́ toán vẫn tiếp tục liên lạc từ năm 1968, cho đến 1969 mới chấm dứt.

    Trong bài diễn văn được phát trên các kênh truyền h́nh Mỹ ngày 31/3/1968, Tổng thống Johnson tuyên bố sẽ không ra tái tranh cử và ra lệnh chấm dứt việc ném bom ngoài vĩ tuyến 20 trên lănh thổ miền Bắc Việt Nam. Theo đó, Bộ Ngoại giao Mỹ thông tư cho SOG biết, không được điều máy bay xâm nhập ngoài vĩ tuyến 20. Thông tư trên gần như hợp thức hóa việc SOG bỏ rơi 6 toán biệt kích đă nhảy dù xâm nhập lănh thổ miền Bắc trước đây.

    Hà Nội đă bắt được vài toán biệt kích và khống chế những biệt kích quân này gửi đi những báo cáo sai sự thật về cho SOG. Trên tấm bản đồ miền Bắc Việt Nam treo trong Pḥng hành quân, có ghim 8 cây kim màu xanh, đánh dấu vị trí hoạt động của 8 toán biệt kích. Trên hướng Tây Bắc, gần biên giới Việt – Trung, có 4 toán biệt kích là Remus, Easy, Tourbillon và Red Dragon. Hướng Đông Bắc, ngay sát biên giới là toán Eagle; gần bờ biển có điệp viên bí ẩn Ares. Khu vực miền Trung khu 4 (Thanh Hóa, Nghệ An) có toán Hadley và Romeo.


    Hoạt động các toán năm 1961
    Last edited by alamit; 12-04-2012 at 08:12 AM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P3




    Toán Verse nhảy dù xuống tăng cường cho toán Tourbillon ngày 7/11/1965. Trong số 8 người nhảy dù xuống miền Bắc, th́ có 2 biệt kích quân bị chết do dù không mở. Điều này quả rất đáng nghi ngờ. Hai tuần sau, khi đă huấn luyện cho toán Tourbillon về kỹ thuật do thám đường, toán Verse tự ư di chuyển ra khỏi khu vực hoạt động. Suốt 18 tháng sau đó, Verse liên tục báo cáo lập được nhiều thành quả, nhưng thật ra chỉ là những con số trong bản báo cáo mà thôi. Trong trạng thái không mấy tin tưởng, SOG ra lệnh cho toán Verse di chuyển đến một địa điểm bí mật của CIA trên đất Lào. Mệnh lệnh này không được toán Verse thi hành.

    Cuối cùng, vào tháng 6/1967, phi đoàn hành quân đặc biệt 21 của SOG tại Thái Lan đă sử dụng trực thăng xâm nhập lănh thổ miền Bắc Việt Nam để bốc toán Verse. Nhưng thật đáng tiếc, một máy bay Mỹ đă bị bắn rơi ngay gần băi đáp. Ba tuần sau, đài Hà Nội đưa tin bắt sống được toán biệt kích Verse.


    Khoảnh khắc trước khi rơi của chiếc CH-46 Sea Knight khiến toàn bộ 12 Lính thủy đánh bộ Mỹ cùng 1 phi công thiệt mạng, 3 người khác bị bỏng nặng, ngày 15/7/1966 gần khu phi quân sự

    Toán Tourbillon gồm 8 biệt kích nhảy dù xâm nhập lănh thổ miền Bắc ngày 16/5/1962, một biệt kích quân chết ngay khi tiếp đất. Toán được tăng cường lần đầu tiên vào tháng 11/1962, nhưng cả 4 biệt kích quân đều tử nạn. Tháng 5/1964, thêm 7 người nhảy dù xuống tăng cường cho toán Tourbillon, th́ có 1 người chết. Đến tháng 7, toán Tourbillon được tăng cường thêm 8 người, th́ có 2 người chết. Mặc dù tất cả các biệt kích quân đều đă qua khóa huấn luyện nhảy dù của SOG, được trang bị quân phục đặc biệt để bảo vệ thân thể, thế nhưng con số tổn thất lại quá cao. Trong con số tổn thất ấy, có thể họ bị bắt, bị bỏ mạng, bị tàn phế và có cả những người hợp tác với lực lượng anh ninh Bắc Việt để tóm gọn những toán biệt kích khác.

    Ngày 12/12/1964, bốn biệt kích quân nhảy dù xuống tăng cường cho toán Tourbillon, nhưng 8 ngày sau, hai người trong số họ đă bỏ mạng trong một cuộc phục kích. Kế đến, toán Verse nhảy dù vào tháng 11/1965, có 2 biệt kích quân chết. Hầu như mỗi phi vụ nhảy dù xâm nhập lănh thổ miền Bắc đều có biệt kích quân bỏ mạng.

    Riêng năm 1966, đă hai lần SOG t́m cách thu hồi toán Tourbillon, nhưng cả hai chuyến đều phải hủy bỏ v́ toán biệt kích không liên lạc bằng vô tuyến tại băi đáp. Đêm Giáng sinh 24/12/1966, toán Tourbillon được tăng cường thêm 2 người, nhưng hai tuần sau, nhân viên truyền tin mới được tăng cường bí mật gửi cho SOG một bức điện cho biết một trong số hai người đă nằm trong tay đối phương.

    Xâu chuỗi những sự kiện trên, có thể phỏng đoán toán Tourbillon có lẽ đă nằm trong tay đối phương từ lâu. Khi toán Verse nhảy dù xuống tăng cường cho Tourbillon, có thể định mệnh đă an bài sẵn cho các biệt kích quân trong toán. Pḥng 2 của cơ quan MACV cùng với SOG thẩm định lại t́nh h́nh các toán biệt kích quân thả xuống lănh thổ Bắc Việt. Họ đi đến kết luận tất cả các toán biệt kích đều đă bị bắt, kể cả Ares.

    Ngay từ đầu, kế hoạch thả biệt kích xuống lănh thổ Bắc Việt đă gặp trở ngại. Chuyến thả dù đầu tiên vào tháng 3/1961 th́ bị lưới lửa pḥng không của Bắc Việt vít đầu xuống, buộc phải đáp xuống khẩn cấp. Cả toán biệt kích lẫn phi hành đoàn đều bị bắt hoặc bỏ mạng. Năm 1963, CIA quyết định thả 13 toán biệt kích xuống miền Bắc th́ 1 toán bị đơn vị an ninh Bắc Việt bắt ngay khi vừa đáp đất. Năm 1964, thêm 5 toán biệt kích bị bắt, chỉ có 1 toán lọt lưới. Chuyện này lặp lại trong năm 1965 và 1966, mỗi năm có 1 toán thoát, số c̣n lại bị bắt sống hoặc bị tiêu diệt ngay tại băi đáp.


    Thiếu nữ Đà Nẵng đón chuẩn tướng F.J. Karch tại băi biển Mỹ Khê, ngày 8/8/1965


    Từ năm 1961, CIA và SOG huấn luyện để thả dù xuống lănh thổ miền Bắc tổng cộng 54 toán biệt kích, gồm 342 biệt kích quân. Nhiều người trong số họ cho đến lúc chết vẫn lầm tưởng ḿnh đă lựa chọn con đường đi đúng đắn. Thật ra, Kế hoạch 34A chính là một thất bại của ngành t́nh báo Mỹ và cho đến nay nhiều sự việc, sự kiện vẫn chưa được làm sáng tỏ và báo cáo một cách rơ ràng.

    Trường hợp của toán Remus, được một tù binh Bắc Việt do quân đội Mỹ bắt được cho biết: một toán biệt kích nhảy dù xuống một địa điểm gần làng của anh ta và bị lực lượng công an biên pḥng bắt ngay tức khắc. Khi người tù binh chỉ làng của anh ta trên bản đồ, th́ nơi đó gần địa điểm thả dù toán Remus. Tin này làm đau đầu Bộ chỉ huy SOG. Một câu hỏi nghiêm túc được đặt ra: Làm sao an ninh Bắc Việt có thể “hốt gọn” toán biệt kích Remus một cách nhanh gọn, ngay tại địa điểm thả dù ở một nơi xa xôi, hẻo lánh như vậy?

    Tháng 3/1968, báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động Việt Nam đă đưa tin về quy định mức án tử h́nh cho tất cả những kẻ nào hành động chống lại cách mạng. Đến đầu tháng 8/1968, Bắc Việt lại đưa tin đă bắt được ba toán biệt kích. SOG chỉ c̣n lại 5 toán biệt kích là Red Dragon, Hadley, Eagle, Ares và Tourbillon và họ sắp đăt chuẩn bị các phi vụ trả đũa.

    SOG gửi điện báo cho 1 toán biệt kích biết sẽ thả dù tiếp tế đựng trong thùng chứa có h́nh dạng như giống bom Napalm do phản lực cơ F4 thả. Lần này họ cho thả bom thật và tin rằng người nhận sẽ là đơn vị công an biên pḥng chứ không phải toán biệt kích. V́ lẽ đó, trong năm 1968, máy bay C123, C130 của SOG thả tiếp tế (bom thật) xuống lănh thổ miền Bắc 8 chuyến. Công an biên pḥng Bắc Việt sau đó không thèm nhận đồ tiếp tế thả cho các toán Hadley và Tourbillon nữa.


    Với nhiệt độ từ 800-1000°C, chỉ cần 1 quả bom hạng trung nặng 250 pound, nạn nhân sẽ không c̣n cơ hội sống sót trong ṿng bán kính 30m

    Từ cuối năm 1967, SOG thả những toán biệt kích Strata, do thám đường, t́m mục tiêu 150 dặm qua khỏi khu phi quân sự. Vùng hoạt động của những toán Strata nằm dưới vĩ tuyến 20 nên không bị ảnh hưởng bởi quy định giới hạn tập kích bằng đường không ngoài vĩ tuyến 20 của Tổng thống Johnson. Thời gian hoạt động của các toán biệt kích trong ḷng đối phương là 1 hoặc 2 tuần. Mục tiêu cho những toán Strata là do thám hệ thống đường sá dẫn đến các đèo Mụ Giạ, Bản Karai, bản Raving, trước khi đổ vào hể thống đường ṃn Hồ Chí Minh. Hầu hết các toán biệt kích đều xâm nhập qua biên giới Lào khoảng 10 dặm, trong vùng đồi núi hiểm trở.

    Các thành viên của toán Strata được huấn luyện trong Trung tâm huấn luyện Long Thành như những toán biệt kích được thả xuống miền Bắc những năm trước đó. Họ được huấn luyện riêng để giữ bí mật, sau đó đưa ra căn cứ gần núi Non Nước, Đà Nẵng.

    Tất cả có 14 toán biệt kích, với quân số từ 90-122 biệt kích quân.
    Các toán Strata xâm nhập lănh thổ Bắc Việt Nam đều xuất phát từ căn cứ không quân Nakhon, Thái Lan. Họ được máy bay C130 Black Bird của SOG đưa vào căn cứ không quân và được lệnh “chỉ ở trong pḥng làm việc của SOG”. Sau khi thay đổi sang quân phục của Quân đội Bắc Việt, biệt kích quân lên trực thăng “Pony” thuộc Phi đoàn 21 của SOG. Với khoảng nửa giờ bay qua 65 dặm bề ngang của nước Lào, trực thăng phải bay cao trên cao độ 10.000 bộ để tránh lưới lửa pḥng không Bắc Việt, sau đó bay dọc theo dăy Trường Sơn. Khi đến không phận Bắc Việt, máy bay bay thấp để tránh tên lửa SAM để đến băi thả biệt kích.

    Nhưng mọi hoạt động của Strata đều chấm dứt vào ngày 15/10/1968 sau cú điện thoại từ Washington đến Nam Việt Nam cho Đại tá Cavanaugh, chỉ huy trưởng SOG: “Ông có toán biệt kích Strata nào vượt biên ra ngoài Bắc không?” Một tướng lănh ở Lầu Năm Góc hỏi Cavanaugh. Ông trùm SOG trả lời: “Có hai toán đang hoạt động ngoài vĩ tuyến 17”. Vị tướng ra lệnh: “Ông phải thu hồi các toán biệt kích trong ṿng 24 tiếng đồng hồ”. Vị tướng cho biết thêm, Tổng thống Johnson sắp sửa ra lệnh hoàn toàn chấm dứt các phi vụ ném bom miền Bắc Việt Nam.


    Tổng thống Johnson tại Cam Ranh, 26/10/1968

    Đại tá Cavanaugh sau này than thở rằng Washington không cần biết đến sinh mạng của những biệt kích quân đang nằm lại tại Bắc Việt. Bởi muốn thu hồi một toán biệt kích trong ṿng 24 giờ đâu phải là chuyện dễ. Rất nhiều nguyên nhân trong vấn đề hành quân ngoại lệ, về thời tiết... Đến ngày 23/10 những toán biệt kích Strata cuối cùng mới về đến trung tâm huấn luyện ở Đà Nẵng.

    Từ lúc toán Strata đầu tiên xâm nhập lănh thổ miền Bắc cho đến lúc rút hết các toán biệt kích Strata, kéo dài 13 tháng. Tổng cộng biệt kích Strata xâm nhập miền Bắc 26 lần. Trong 26 lần xâm nhập ấy có 26 biệt kích quân mất tích. Trong số đó có 2 toán bị xóa sổ hoàn toàn. Tổn thất của Strata có nhiều nguyên nhân: do thời tiết xấu; do kế hoạch cấp cứu các toán biệt kích bị đ́nh trệ, có khi kéo dài đến 5 ngày mới kết thúc. Trong số 102 biệt kích quân của Strata thả xuống lănh thổ miền Bắc Việt Nam th́ có tới một phần tư quân số bị tổn thất.

  4. #4
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P4


    KẾ HOẠCH 35 – VƯỢT BIÊN

    Trong chiến tranh Việt Nam, không thể không nói đến vai tṛ cực kỳ quan trọng của đươg ṃn Hồ Chí Minh. Chính phủ Bắc Việt quyết định xây dựng con đường chiến lược này từ năm 1959. Đến cuối năm 1963, hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh càng phát triển, gia tăng số lượng và chất lượng chi viện cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh trên đất Lào gồm nhiều nhánh nhỏ chạy quanh co, xuyên qua núi non hiểm trở, rừng cây rậm rạp. Quân đội Bắc Việt xây dựng dọc theo tuyến đường hệ thống tiếp vận, kho lương thực, đạn dược, quân trang, quân dụng, các cơ quan chỉ huy, trạm giao liên... chi viện mọi mặt cho lực lượng vũ trang Giải phóng ở chiến trường miền Nam và cả quân t́nh nguyện của họ ở Lào, Campuchia.



    Ông trùm CIA là Colby đă ra lệnh do thám hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh từ mùa hè năm 1961. Theo tài liệu đă giải mă, th́ khu vực Colby giao cho SOG do thám kéo dài từ Attapeu về hướng bắc tới Tchepone và đường số 9, giáp ranh với địa bàn thuộc hai quân khu I và II của quân đội Sài G̣n. Attapeu nằm về hướng đông nam của vương quốc Lào, sát khu vực biên giới 3 nước Việt Nam – Lào – Campuchia, phía nam Tây Nguyên. Trong ṿng hai năm 1961-1693, CIA đă tổ chức 41 cuộc hành quân của biệt kích Mỹ, xâm nhập, do thám trên lănh thổ vương quốc Lào.

    Viên Đại úy Jerry King chỉ huy toán biệt kích hỗn hợp, gồm 1 biệt kích quân Mỹ, 1 Biệt động quân Thái Lan và 3 biệt kích Lào. Trong tháng 7/1962, họ đă nhiều lần xâm nhập vào khu vực gần Tchepone. Có lần họ xâm nhập đúng nơi đóng quân của một trung đoàn quân Bắc Việt. May sao, họ không bị phát hiện và chạy thoát. Đại úy King vẫn kịp nhận diện quân phục, phù hiệu, vũ khí của đối phương. Rơ ràng đó là 1 trung đoàn chính quy của Quân đội Bắc Việt. Dựa vào t́nh tiết này, CIA phỏng đoán trung b́nh hàng tháng, Bắc Việt có thể đưa 1.500 quân vào miền Nam theo hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh. Năm 1963, nhân cơ hội những biến động trên chính trường Sài G̣n, Bắc Việt tăng cường đưa quân vào miền Nam Việt Nam.

    Ban Tham mưu hỗn hợp MACV-CIA là cơ quan soạn thảo kế hoạch 34A cảm thấy sự cần thiết phải lưu tâm đến con đường chi viện huyết mạch của đối phương và yêu cầu phạm vi thực hiện Kế hoạch 34A phải bao gồm luôn cả lănh thổ vương quốc Lào. Theo tin t́nh báo của tháng 5/1964, cho thấy nhiều bằng cớ chứng tỏ có sự hiện diện của Quôn đội Bắc Việt trên đất Lào. Do đó, Tư lệnh Bộ chỉ huy Quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam được phép phối hợp với chính quyền Sài G̣n tổ chức những cuộc hành quân xâm nhập vào lănh thổ Lào để thu thập tin tức. Tuy nhiên, do có liên quan đến Bộ Ngoại giao nên các cuộc hành quân xâm nhập của biệt kích bị giới hạn trong khoảng không gian giữa đường 9 và vĩ tuyến 17. Thêm một hạn chế nữa là các biệt kích quân Mỹ không được phép vào đất Lào. Do những trở ngại trên, các biệt kích quân Sài G̣n khi vượt biên sang Lào không được mang quân phục của quân đội VNCH và chỉ được phép nổ súng trong trường hợp tự vệ.

    Trước khi biệt kích quân Sài G̣n có thể vượt biên, bất kỳ ai trong cơ quan MACV cũng có thể đảm nhận vai tṛ huấn luyện họ. Tháng 4/1964, Đại tá Clyde Russell là chỉ huy trưởng đầu tiên của Đoàn nghiên cứu, quan sát (SOG) đă đến văn pḥng tướng Westmoreland tŕnh diện. Trong buổi tŕnh diện, có sự hiện diện của Bộ trưởng quốc pḥng Mc. Namara; Tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ là tướng Taylor và Đại sứ Lodge. Những nhân vật quan trọng này đă chất vấn Đại tá Russell: “Khi nào SOG mới có thể hành quân xâm nhập vào đất Lào?“ và họ ra lệnh: “Phải đặt chân trên mặt đất, nh́n tận mắt về những hoạt động của cộng sản trên hệ thống đường ṃn”.


    Tướng Westmoreland và đại sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam Henry Cabot Lodge đón đại sứ Liên Hợp Quốc Arthur Goldberg tại sân bay Tân Sơn Nhất, ngày 01/03/1967.

    Khoảng 30 ngày sau, SOG huấn luyện xong vài toán biệt kích, sẵn sàng vượt biên xâm nhập lănh thổ Lào bằng cuộc hành quân Leaping Lena. Đến cuối tháng 6/1964, có 5 toán biệt kích, mỗi toán gồm 8 biệt kích quân Sài G̣n xâm nhập vào khu vực đường 9 Nam Lào, nằm về phía đông Tchepone. Những toán biệt kích được lệnh do thám các hoạt động của đối phương như chuyển quân, chuyển đồ tiếp vận của quân đội Bắc Việt. Nhưng kết quả thật thảm hại, chỉ có 5 trong số 40 biệt kích quân chạy thoát thân trở về. Bộ chỉ huy hành quân Leaping Lena quyết định không thả thêm toán biệt kích nào nữa trong năm 1964.

    Đầu mùa mưa năm 1965, Đại tá Donald Blackburn đă thay thế Đại tá Russell làm chỉ huy trưởng SOG. Tháng 9/1965, Blackburn chỉ định Đại tá Bull Simons tổ chức cuộc hành quân 35 (OP.35). Trong lúc đó, quân Bắc Việt phát triển mạnh hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh, tạo thành khá nhiều mục tiêu cho các toán biệt kích t́m kiếm và chỉ điểm cho máy bay đến oanh kích. Trung tá Ray Call cho rằng: “Đối phương đem đồ tiếp vận vào quá nhiều, các toán biệt kích gọi phi cơ oanh kích, bắn phá không xuể. Càng bắn phá bao nhiêu, họ càng đem đồ vào nhiều bấy nhiêu. Chắc phải thả bom những nơi cung cấp đồ tiếp vận cho họ là Trung Cộng hoặc Nga Xô (!)”.


    Đồng Hới, 31/01/1966

    Trung tá Ray Call được chỉ định tổ chức những cuộc hành quân do thám xâm nhập vào lănh thổ vương quốc Lào. Trước tiên, ông ta thành lập Bộ chỉ huy hành quân tại Đà Nẵng, một thành phố nằm cách biên giới Việt – Lào trên 50 dặm. Sau đó, Ray Call phải t́m một địa điểm khác gần biên giới làm căn cứ tiền phương cho những chuyến hành quân xâm nhập (FOB). Đại tá Simons và Trung tá Call chọn trại biệt kích Khâm Đức, nằm cách biên giới 10 dặm, để đưa các toán biệt kích xâm nhập lănh thổ Lào và chỉ định Thiếu tá Charlie Norton làm chỉ huy trưởng căn cứ. Tiếp đến, Đại tá Bull Simons t́m một sĩ quan biệt kích, có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong ḷng đối phương để làm sĩ quan chỉ huy hành quân. Đại úy Larry Thorn là người được chọn.

    Đại úy Larry Thorn ở trong trại biệt kích Khâm Đức cho đến 1965, sau một chuyến thả biệt kích, ông ta mất tích cho đến năm 2002 mới t́m ra hài cốt cùng với phi hành đoàn H34 King Bee Việt Nam.

    Kế hoạch 35 được triển khai dưới sự điều hành của một Bộ chỉ huy đóng tại Sài G̣n, c̣n Bộ chỉ huy hành quân tại Đà Nẵng có nhiệm vụ chỉ huy các căn cứ hành quân tiền phương (FOB); đồng thời soạn thảo lệnh hành quân, điều hành các ban yểm trợ, phối hợp liên lạc, quản lư nhân viên, tiếp tế cho các căn cứ hành quân. Trong đó, căn cứ hành quân đầu tiên là trại biệt kích Khâm Đức. Tính đến cuối năm 1965, căn cứ này có 5 toán biệt kích là Iowa, Alaska, Idaho, Kansas và Dakota.

    Mỗi toán biệt kích thường gồm 3 biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ, cùng 9 biệt kích quân là người dân tộc thiểu số. Thông thường, SOG tuyển mộ người Nùng. Trong ṿng hai năm 1965-1966, các toán biệt kích bí mật xâm nhập lănh thổ Lào bằng đường bộ, không được sử dụng trực thăng, v́ Đại sứ Mỹ tại Lào là Bill Sullivan yêu cầu : “Tôn trọng nền chính trị trung lập của nước Lào”.

    Với việc một số phi vụ xâm nhập trót lọt theo Kế hoạch 35, Washington ra lệnh gia tăng mức độ xâm nhập vào lănh thổ Lào và mở rộng phạm vi hoạt động khoảng 200 dặm, dọc theo biên giới Việt – Lào. Theo lệnh Washington, Bull Simons tăng thêm số lượng các toán biệt kích lên 20 toán và lập thêm các đội xung kích tiếp ứng cho Kế hoạch 35. Những Đại đội xung kích có nhiệm vụ tấn công các mục tiêu do các toán thám báo t́m ra.


    Một toán hỗn hợp MACV-SOG tại Sở Bắc

    Thêm một căn cứ hành quân tiền phương được thiết lập tại Kontum và trại biệt kích Khâm Đức được lệnh di chuyển ta Phú Bài, gần thành phố Huế, thuộc lănh thổ Quân khu I. Từ Phú Bài, các toán biệt kích có thể xâm nhập các mục tiêu trên đất Lào từ vĩ tuyến 17 trở vào đến thung lũng A Sầu. Khu vực c̣n lại sẽ do các toán biệt kích ở Kontum, vùng nam Tây Nguyên, thuộc lănh thổ Quân khu II đảm trách. Năm 1967, Kế hoạch 35 lập thêm 2 Bộ chỉ huy khu vực (CCC), đóng tại Kontum và vùng nam (CCS) đóng tại Buôn Mê Thuột. Bộ chỉ huy tại Đà Nẵng gọi là Bộ chỉ huy Bắc (CCN-Sở Bắc). Mỗi Bộ chỉ huy có 2 căn cứ hành quân tiền phương. Bộ chỉ huy Bắc đảm trách khu vực từ vĩ tuyến 17 đến thung lũng A Sầu; Bộ chỉ huy Trung chịu trách nhiệm khu vực c̣n lại trên đất Lào; Bộ chỉ huy Nam chịu trách nhiệm xâm nhập lănh thổ Campuchia từ tháng 5/1967.

    Trong hai năm 1966-1967, Đại tá Bull Simons đă xây dựng một đơn vị bí mật gồm 3 Bộ chỉ huy, với 110 sĩ quan, 615 biệt kích quân người Mỹ. Không rơ quân số biệt kích là người dân tộc thiểu số và người Việt là bao nhiêu. Tuy nhiên, có thể ước chừng mỗi Bộ chỉ huy có 30 toán thám báo, với quân số khoảng 800 biệt kích quân. Thêm 6 đại đội xung kích, 3 đại đội bảo vệ, tổng quân số lên đến hàng ngàn. Ngoài ra, người Mỹ c̣n lập thêm trung tâm huấn luyện biệt kích quân.



    Khi Đại tá Blackburn nhận lệnh hành quân viễn thám vượt biên, ông ta dựa theo chương tŕnh Sao Trắng mà Đại tá Bull Simons trước đây đă thành công trên đất Lào. Kế hoạch 35 được chia làm ba giai đoạn. Đợt thứ nhất, các toán biệt kích sẽ xâm nhập Lào để do thám, đánh dấu vị trí các Bộ chỉ huy của quân đội Bắc Việt; các căn cứ và kho tiếp vận. Khi t́m ra mục tiêu, họ sẽ chỉ điểm cho các máy bay Mỹ oanh kích. Đợt 2, sẽ tung Đại đội xung kích tấn công chớp nhoáng vào các mục tiêu ngoại biên rồi rút lui. Cuối cùng là tuyển mộ, tổ chức các bộ tộc người dân tộc thiểu số, vốn sống gần đường ṃn Hồ Chí Minh, để phá hoại hoặc chống lại quân đội Bắc Việt.

    Trong các bản báo cáo về Sở chỉ huy hành quân Shining Brass, cho biết nhiệm vụ chính của các toán biệt kích là do thám đường ṃn, xác định mục tiêu cho máy bay đến oanh kích. Nhiệm vụ khác là bắt tù binh để cung cấp tin tức cụ thể nhất về các đơn vị của đối phương. Các toán biệt kích thỉnh thoảng xâm nhập vào vùng bị máy bay B52 ném bom rải thảm để thẩm định kết quả những trận dội bom. Họ chụp ảnh sự tàn phá của bom và đếm xác đối phương bỏ lại. Toán biệt kích đem theo máy nghe lén và sẽ thu những cuộc điện đàm từ Bộ chỉ huy đến các đơn vị của quân đội Bắc Việt.

    Tháng 6/1967, Bộ trưởng Quốc pḥng Mc. Namara ra lệnh triển khai chương tŕnh Mussel Shoals. Chương tŕnh này đặt máy thăm ḍ điện tử, theo dơi sự chuyển quân của đối phương trên đường ṃn Hồ Chí Minh hoặc trong những cánh rừng già rậm rạp; những nơi nghi có sự hiện diện của quân đội Bắc Việt. Các tín hiệu điện tử sẽ báo về Trung tâm kiểm soát Nakhon Phanom tại Thái Lan rồi truyền tiếp đến Trung tâm hành quân thứ 7 của Không quân Mỹ đến đánh bom. Hàng ngàn chiếc máy ḍ điện tử được thả xuống từ máy bay, một số khác do các toán biệt kích SOG đem gài vào vùng đối phương kiểm soát.

    Với tuổi thọ khoảng 70 ngày, "cây nhiệt đới" sẽ thu thập chấn động, nhiệt để gửi về trung tâm

    Biệt kích quân cũng được dùng trong những phi vụ cứu phi công lâm nạn đang lẩn trốn, hoặc tấn công trại tù binh của quân đội Bắc Việt. Tháng 9/1966, Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương của Mỹ thành lập Trung tâm hỗn hợp cứu người (JPRC), trực thuộc SOG. Trung tâm hành quân giải cứu chia làm hai bộ phận: Thứ nhất là tấn công bất ngờ vào trại tù hoặc những nơi t́nh nghi giam giữ tù binh. Bộ phận thứ hai có nhiệm vụ t́m kiếm quân nhân lâm nạn do rơi máy bay hoặc trên đường đào tẩu sau khi trốn khỏi trại tù binh. Những nhiệm vụ kể trên đều nằm trong Kế hoạch hành quân Bright Light.

    Ngoài các toán viễn thám, Kế hoạch 35 c̣n tổ chức thêm những đơn vị trên cấp trung, đại đội xung kích để ngăn chặn, tấn công các cuộc phục kích trên đường ṃn Hồ Chí Minh và tiếp ứng cho các toán thám báo, trong trường hợp các toán này bị đối phương phát hiện và bao vây.

  5. #5
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P5


    Đến cuối mùa thu năm 1965, chi tiết về Kế hoạch hành quân đă thảo xong, 5 toán biệt kích đă sẵn sàng vượt biên. Do phi vụ bí mật, toán biệt kích xâm nhập vào đất Lào phải “sạch”. Họ không đeo quân hàm, phù hiệu đơn vị. Riêng quân phục được SOG đặt làm ở đâu đó bên Á Châu, vũ khí được trang bị cũng không phải súng đạn Mỹ và không thể truy t́m được nơi sản xuất. Các thành viên của toán không được đem theo bất cứ vật dụng ǵ có thể nhận diện được họ.



    Từ tháng 10 cho đến cuối năm 1965, các toán biệt kích vượt biên 7 lần. Những lần xâm nhập đầu tiên không làm đối phương nghi ngờ, kết quả thu được là khá khả quan. Các toán biệt kích SOG t́m ra nhiều mục tiêu để chỉ điểm cho máy bay oanh tạc. Một lần, biệt kích phát hiện ra kho tiếp vận lớn. Lần khác, họ t́m thấy băi đậu xe và kho nhiên liệu. Sau 37 lần máy bay oanh kích, kho nhiên liệu, tiếp vận của đối phương bốc cháy, gây ra nhiều tiếng nổ phụ. Trong những chuyến xâm nhập khác, biệt kích khám phá ra cầu cống, băi đậu xe, kho tiếp vận và các binh trạm của quân đội Bắc Việt. Báo cáo thẩm định về các trận đánh bom cho biết mục tiêu đă bị phá hủy.

    Sự thành công nào cũng có cái giá của nó. Một trong những chuyến xâm nhập đầu tiên vào tháng 10/1965, một toán biệt kích được thả vào khu vực t́nh nghi có che giấu một căn cứ tiếp vận lớn của đối phương. Hai trực thăng H34 thả toán biệt kích xuống một băi đáp gần biên giới và toán sẽ vượt biên đến mục tiêu trên bộ. Tin t́nh báo cho biết có nhiều hoạt động của đối phương trong vùng, thêm yếu tố thời tiết xấu, do đó Đại úy Larry Thorn đi theo trên chiếc H34 thứ 3, trường hợp khẩn cấp, phải thu hồi toán biệt kích. Theo lệnh của máy bay quan sát đường không, hai chiếc H34 thả toán biệt kích xuống băi đáp rồi bay về căn cứ hành quân tiền phương Khâm Đức. Đại úy Thorn vẫn tiếp tục bay quanh vùng cho đến khi nhận được báo cáo của toán biệt kích là đă di chuyển đến một nơi an toàn. Hôm đó thời tiết xấu, sương xuống thấp, chiếc H34 chở Đại úy Larry Thorn biến mất, măi đến năm 2002 mới t́m thấy hài cốt.

    Những kết quả ban đầu mà SOG thu được đă làm cho giới lănh đạo Mỹ hài ḷng. Họ quyết định mở rộng phạm vi hoạt động cho các đơn vị SOG và lệnh cho Đại tá Bull Simons gia tăng các cuộc hành quân của biệt kích trong năm 1966. Những sĩ quan cao cấp của Bộ chỉ huy Quân đội Mỹ tại Việt Nam (MACV) muốn oanh tạc hệ thống tiếp vận, truyền tin của đối phương tại Nam Lào. Bởi thực tế cho thấy quân đội Bắc Việt rơ ràng ngày càng phát triển, mở rộng hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh để tiếp tế, chuyển quân vào Nam Việt Nam, nhằm mở những trận đánh ngày càng lớn hơn, tạo thế và lực mới ở chiến trường miền Nam.

    Các toán biệt kích đem về khá nhiều tin t́nh báo mà không ảnh không thể hiện. Kể cả những sự kiện đang diễn ra trên đất Lào chứ không phải chỉ có vài ba đơn vị nhỏ lẻ của Bắc Việt đang xâm nhập vào Nam. Tướng Westmoreland muốn SOG vượt khỏi những giới hạn ràng buộc để mở rộng phạm vi, cũng như quy mô các cuộc hành quân do thám. Ông ta cho phép sử dụng trực thăng thả các toán biệt kích, v́ phương tiện trực thăng sẽ làm các hoạt động của biệt kích quân ngày càng hiệu quả hơn. Ngay cả Đô đốc U.S. Grant Sharp, Tư lệnh Lực lượng Thái B́nh Dương cũng muốn SOG được tự do hành động. Giống như Westmoreland, ông ta rất thích, ưu ái lực lượng biệt kích, thường nhận xét và phê những lời tốt đẹp vào các bản báo cáo hành quân của SOG.


    Huế 1972

    Kế hoạch 35 đ̣i hỏi phải thành lập 3 tiểu đoàn, với 450 biệt kích quân là người Nùng làm lực lượng cơ động và đơn vị xung kích cho cuộc hành quân Shining Brass, đă được viên Tư lệnh Lực lượng Thái B́nh Dương chấp thuận ngay. Những tiểu đoàn xung kích này được giao nhiệm vụ bảo vệ các căn cứ hành quân tiền phương (FOB), vừa tấn công những mục tiêu do các toán thám báo t́m ra; đồng thời tiếp ứng cho các toán thám báo trong trường hợp khẩn cấp. Những tiểu đoàn xung kích Nùng được tổ chức từ cấp trung đội (Hornet Force), đại đội (Hatchet/ Havoc Force) đến cấp tiểu đoàn (Haymaker Force). Giới nắm quyền cũng như quân sự Mỹ đều đồng ư, ngoại trừ Đại sứ Mỹ tại Lào là Sullivan. Ông ta chỉ tán thành mở các cuộc hành quân đến cấp trung đội, trong phạm vi 10km, sâu trong lănh thổ vương quốc Lào, với thời gian không quá 5 ngày và phải thông báo cho ṭa Đại sứ trước 40 giờ đồng hồ về khu vực hành quân.


    Mặc dù bị giới hạn nhưng năm 1966 vẫn là năm được coi là thành công của SOG. Theo số liệu thống kê, năm 1966 có 111 chuyến hành quân xâm nhập. Cao nhất là tháng 9, với 15 cuộc hành quân. Ngoài nhiệm vụ t́m ra mục tiêu để chỉ điểm cho máy bay oanh tạc, các toán biệt kích c̣n bắt cóc được 15 người. Trong cuộc hành quân Bright Light năm 1966, các toán biệt kích SOG thực hiện 4 phi vụ cứu phi công Mĩ bị bắn rơi ở miền Bắc Việt Nam hoặc trên lănh thổ Lào. SOG cũng tổ chức 13 cuộc tấn công của các trung đội Hornet (biệt kích người nùng) vào căn cứ đối phương trên đất Lào.


    Toán Georgia trong 1 chuyến xâm nhập Lào

    Hầu hết các chuyến xâm nhập trong năm 1966 kéo dài ra từ 3-5 ngày. Khi chạm trán đối phương hoặc phát hiện ra căn cứ của đối phương, lập tức máy bay điều hành không yểm (FAC) sẽ gọi các phi đội đến yểm trợ. Trưởng toán biệt kích sẽ chỉ điểm cho máy bay oanh kích thông qua trung gian FAC. Khi cần thiết phải “bốc” toán biệt kích nào đó ra, FAC sẽ điều động trực thăng đổ quân, trực thăng vũ trang đến đem toán thám báo ra khỏi khu vực nguy hiểm. Thông thường, các phi đoàn trực thăng đem theo trung đội Hornet (biệt kích Nùng) đến để tiếp ứng cho các toán thám báo. Trường hợp khẩn cấp, FAC sẽ điều động thêm khu trục hoặc phản lực đến yểm trợ. Năm 1966 có thể coi là năm thiệt hại lớn cho SOG trên đất Lào với 3 biệt kích quân Mỹ, cùng 25 biệt kích quân Việt Nam mất tích.

    Năm 1967, Trung tâm chỉ huy hành quân Shining Brass, với nhiệm vụ phá hoại các căn cứ đối phương trên hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh trên đất Lào, được đổi tên thành Trung tâm hành quân Prairie Fire. Trung tâm này tổ chức tất cả 187 chuyến xâm nhập, t́m kiếm căn cứ của đối phương cho máy bay oanh kích và 68 cuộc hành quân cấp trung đội Hornet hoặc cấp đại đội Hatchet. Trung tá Jonathan Carney, chỉ huy phó Kế hoạch 35 năm 1967, tin rằng các hoạt động biệt kích trong hai cuộc hành quân Shining Brass và Prairie Fire đă gây thiệt hại không nhỏ cho quân đội Bắc Việt. Có nhiều căn cứ, kho tàng tiếp tế bị máy bay oanh kích phá hủy. Trước t́nh h́nh trên, Hà Nội bắt đầu tổ chức những đơn vị chống biệt kích để bảo vệ hành lang vận chuyển của họ trên đất Lào.

    Năm 1967 đă diễn ra một sự kiện khá quan trọng trong hoạt động của SOG. Đó là phạm vi hoạt động của SOG đă mở rộng sang lănh thổ vương quốc Campuchia. Tướng Westmoreland đă được SOG báo cáo rằng hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh không dừng lại trên đất Lào mà tiếp tục phát triển vượt qua biên giới Lào – Campuchia. Năm 1967, tướng Westmoreland yêu cầu Washington cho SOG điều động lực lượng biệt kích xâm nhập lănh thổ Campuchia để do thám mức độ quân đội Bắc Việt tăng cường chi viện cho cộng sản ở miền Nam tới đâu.


    Pleiku, 24/01/1966

    Theo đó, tháng 5/1967, SOG được lệnh vượt biên xâm nhập lănh thổ vương quốc Campuchia bằng cuộc hành quân Daniel Boone, nhằm thu thập tin tức t́nh báo chiến lược tại vùng ba biên giới Việt – Lào – Campuchia.

    Phạm vi cuộc hành quân Daniel Boone được giới hạn từ vùng ba biên giới kéo dài xuống khu vực Lưỡi Câu trên đất Campuchia, nơi tập trung rất đông quân chính quy Bắc Việt lẫn Quân Giải Phóng, đây cũng là nơi đặt Bộ Chỉ huy tối cao của Việt Cộng là Trung ương Cục miền Nam, thường được gọi tắt là “R” và Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.


    Tương tự như hoạt động ở bên Lào trước đây, các toán biệt kích phải đi bộ xâm nhập qua biên giới. Trực thăng chỉ được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra, không được sử dụng máy bay oanh kích và các đại đội xung kích tiếp ứng. Khi các toán biệt kích xâm nhập sang lănh thổ Campuchia, họ phải tự bảo toàn sinh mạng của ḿnh. C̣n CIA chỉ lo bơm vào đầu họ tư tưởng “hy sinh v́ chủ nghĩa quốc gia”.

    Những toán biệt kích trực thuộc Trung tâm hành quân Daniel Boone phát hiện thấy nhiều đơn vị Quân đội Bắc Việt trên đất Campuchia. Điều đó chứng tỏ Hà Nội đă phát triển hệ thống hành lang vận chuyển chiến lược nối dài sang đất Campuchia, để thiết lập nhiều căn cứ vật chất, các kho nhiên liệu, sở chỉ huy, căn cứ truyền tin dọc theo các tuyến hành lang vận chuyển. Từ ngày 1/7 đến 31/12/1967, tổng cộng những toán biệt kích Daniel Boone đă xâm nhập lănh thổ vương quốc Campuchia 99 lần. Họ tự đánh giá có 63 lần thành công.


    Năm 1967 được coi là năm thành công của Kế hoạch 35. Trên lănh thổ Lào, các toán biệt kích đă phát hiện ra những căn cứ của đối phương và chỉ điểm cho những máy bay oanh kích. C̣n trên đất Campuchia, các toán biệt kích trong chương tŕnh hành quân Daniel Boone đă đem về những tin tức, h́nh ảnh về các hoạt động của đối phương trên đất Campuchia. Tuy nhiên, những ǵ SOG thu được đều phải trả bằng giá rất đắt. Có thể nói, tổn thất của SOG mỗi năm một gia tăng, số lượng biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ tử trận năm 1966 mới 3 người, tăng lên 42 người vào cuối năm 1967, cộng thêm 14 biệt kích quân khác mất tích.

    Năm 1968, Tổng thống Johnson ra lệnh chấm dứt tất cả các hoạt động của SOG ở miền Bắc Việt Nam và giới hạn các hoạt động ngoài lănh thổ tại Lào, Campuchia. Trong ṿng nửa năm, các toán biệt kích SOG, cùng các Đại đội xung kích chỉ hoạt động trên lănh thổ miền Nam Việt Nam, vừa yểm trợ cho các đơn vị quân đội Mỹ trong cuộc Tổng công kích của Quân đội Bắc Việt và Quân Giải phóng. Trong khi đó, Hà Nội bắt buộc phải bảo vệ hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh để tiếp tục tăng cường quân số, vũ khí, đạn dược và vật chất vào chiến trường miền Nam Việt Nam.

    Phản ứng đầu tiên của Bắc Việt là bố trí dọc theo biên giới Việt – Lào, mỗi vị trí một hoặc hai quân nhân để cảnh giới trực thăng thả biệt kích. Sau đó, họ rải quân ở những nơi có thể dùng làm băi thả biệt kích. Quân đội Bắc Việt cũng sử dụng những bộ tộc người dân tộc thiểu số sống gần tuyến đường ṃn Hồ Chí Minh để báo động bằng chiêng, trống, tù và... mỗi khi phát hiện trực thăng. Những sĩ quan Bắc Việt đă tiến hành nghiên cứu mọi phương thức hành quân của các đơn vị SOG, vẽ lại lộ tŕnh di chuyển, t́m ra quy luật hoạt động rồi từ đó đề ra cách thức tiêu diệt hoặc bắt sống các toán biệt kích quân.

    Để bảo vệ hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh, Bộ chỉ huy các binh trạm, băi đậu xe, kho nhiên liệu, lương thực, đồ tiếp vận... Quân đội Bắc Việt đă giao trách nhiệm bảo vệ an ninh cho các đơn vị hậu cần. Đến mùa khô 1967-1968, chỉ huy mới của SOG là Đại tá Steve Cavanaugh, cho rằng Hà Nội đă tổ chức xong một hệ thống bảo vệ đường ṃn rất phức tạp, gây nguy hiểm cho các toán biệt kích của SOG. Quân đội Bắc Việt cũng tổ chức những đơn vị đặc biệt để truy lùng, tiêu diệt những toán biệt kích xâm nhập tuyến đường chiến lược hàng đầu của họ, với tên gọi là những đội “săn biệt kích”. Những đơn vị “săn biệt kích” này được tuyển chọn từ Lữ đoàn Dù số 305 của Quân đội Bắc Việt, thành lập năm 1965. Sau đó, phát triển thành Sư đoàn Đặc công số 305, nổi danh bởi sự dữ dội, không khoan nhượng cũng giống như Lực lượng Đặc biệt của Quân đội Bắc Việt. Một bộ phận của Sư đoàn này được huấn luyện thành đơn vị chống biệt kích, với nhiệm vụ truy lùng và tiêu diệt các toán biệt kích quân của SOG.

    Trong một trận tấn công cấp đại đội Hatchet vào căn cứ bộ chỉ huy của đối phương trên đất Lào, ngay khi Đại đội xung kích vừa đáp đất, Quân đội Bắc Việt dường như đă biết trước, nổ súng xối xả vào đại đội biệt kích. Sau đó, họ bao vây, thanh toán gọn đại đội xung kích của SOG. Một hạ sĩ quan Mũ Nồi Xanh của Mỹ duy nhất c̣n sống sót là Charles Wilklow, do bị thương nặng nên đối phương không thèm giết. Wilklow chứng kiến cảnh Quân đội Bắc Việt đem những xác lính Mỹ đem chôn. Bốn ngày sau, Charles Wilklow lết ra đến một nơi trống trải và được trực thăng t́m thấy, bốc đem về.


    Hatchet Force xuất kích

  6. #6
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P6


    Biến cố Tết Mậu Thân 1968 đă khiến cho các đơn vị SOG phải giảm bớt số lượng các cuộc hành quân ngoại biên. Theo thống kê của Trung tâm hành quân Prairie, họ đă tổ chức tổng cộng 546 chuyến xâm nhập ngoại biên. Trong đó có 310 chuyến hành quân sang lănh thổ Lào, chiếm 57%; 43% c̣n lại trên lănh thổ miền Nam. Riêng chương tŕnh hành quân Daniel Boone đă tổ chức 726 chuyến xâm nhập, nhưng chỉ có 287 chuyến sang lănh thổ Campuchia, chiếm 39%. Tất cả những chuyến xâm nhập vào Campuchia đều nhân cơ hội biến cố Tết Mậu Thân để giảm áp lực khi xâm nhập.


    Đường Đồng Khánh, Sài G̣n 1968. Phía xa là nhà thờ Cha Tam

    Theo báo cáo, chương tŕnh Daniel Boone quay trở lại mục tiêu xâm nhập lănh thổ Campuchia từ tháng 10/1968. Tính đến cuối năm 1968, SOG đă thực hiện được 53 chuyến xâm nhập Campuchia. Trong ba tháng cuối năm 1968, Kế hoạch 35 tổ chức trung b́nh hàng tháng có 46 chuyến xâm nhập lănh thổ Lào và Campuchia.

    Trong biến cố Tết Mâu Thân 1968, chương tŕnh hành quân Prairie Fire đă giảm bớt hoạt động trên lănh thổ Lào để lo sự vụ “bên trong”, vừa yểm trợ cho căn cứ Khe Sanh của Mỹ, khi đó đang bị bao vây. Từ tháng 1 cho đến giữa tháng 6/1968, SOG bố trí 600 quân túc trực pḥng thủ, bảo vệ các đơn vị Quân đội Mỹ và căn cứ Khe Sanh. Nhưng sau đó, các căn cứ hành quân tiền phương, trại biệt kích Khâm Đức đă rơi vào tay đối phương ngày 12/5/1968, làm giảm đi hiệu quả của các đơn vị SOG trên đất Lào. Trại biệt kích Khâm Đức trước biến cố 1968 từng đảm nhiệm một phần ba địa bàn xâm nhập trên lănh thổ Lào, với nhiều mục tiêu quan trọng.

    Tại căn cứ hành quân tiền phương 4 (FOB 4), Trung tá Lauren Overby phải đối diện với quá nhiều khó khăn của hậu Mậu Thân 1968. Các toán biệt kích xâm nhập thường xuyên chạm trán với đối phương. Nhiều toán biệt kích vừa chạm đất đă đụng đối phương ngay tại băi đáp. Lauren Overby than rằng: “Hầu như không thể để cho các toán biệt kích ở lâu trong ḷng đối phương. Phe chúng ta có thể thành công bên Campuchia (Daniel Boone), nhưng riêng khu vực hành quân của tôi lại quá nhiều khó khăn. Căn cứ hành quân tiền phương này cách biên giới Lào khoảng 6 dặm. Có thể đối phương có người theo dơi chuyện làm ăn của bọn tôi (?!)”.

    Những toán biệt kích quân thuộc chương tŕnh hành quân Prairie Fire chịu nhiều tổn thất trong năm 1968. Con số thương vong càng ngày càng gia tăng. Cụ thể tại lănh thổ Lào, có 18 biệt kích quân tử trận, 101 bị thương, 18 mất tích. Tại miền Nam, có 21 biệt kích quân tử trận, 78 bị thương và 6 mất tích. Tổn thất của Kế hoạch 35, thuộc chương tŕnh hành quân Daniel Boone trên lănh thổ Campuchia có vẻ tổn thất nhẹ hơn, với 17 trường hợp tử trận, 56 bị thương và 3 mất tích. Hai Bộ chỉ huy Bắc (CCN) và Trung (CCC) với quân số khoảng 100 sĩ quan và 600 hạ sĩ quan, binh sĩ biệt kích Mỹ, th́ con số tổn thất như trên là quá cao. Kỷ lục tổn thất cao nhất không phải là Quân đội Sài G̣n, mà là các đơn vị quân đội Mỹ tham chiến tại Việt Nam.


    Huế, 1968

    Năm 1969, t́nh h́nh cũng không khả quan trên lănh thổ Lào. Theo báo cáo của Kế hoạch 35, th́ trung tâm hành quân Prairie Fire đă tổ chức 452 chuyến vượt biên, trong đó có 404 chuyến thả biệt kích xâm nhập với 48 chuyến hành quân cấp đại đội xung kích Hatchet Force. Nhiều chuyến xâm nhập vùng ba biên giới, nhiệm vụ của các toán biệt kích là khám phá hệ thống đường ống dẫn dầu, công binh xưởng sửa chữa xe cộ và trạm bơm xăng. Ngoài ra quân biệt kích sẽ khám phá hệ thống truyền tin, đường dây thông tin liên lạc của đối phương bố trí dọc theo đường ṃn Hồ Chí Minh.

    Tháng 9/1968, Đại tá Steve Cavanaugh lên làm chỉ huy trưởng SOG, Đại tá Jack “The Iceman” Isler được giao cho nhiệm vụ chủ tŕ Kế hoạch 35. Trong lúc đó, quân đội Bắc Việt tăng cường thêm lực lượng cho các đơn vị bảo vệ đường ṃn Hồ Chí Minh. T́nh h́nh đó gây trở ngại, nguy hiểm cho các toán biệt kích xâm nhập lănh thổ Lào. Jack “The Iceman” Isler than thở: “Nhiệm vụ quá khó khăn, không có toán nào ở lâu được quá hai ngày. Thậm chí khi mới thả xong 1 toán biệt kích, trên đường trực thăng bay về, phải quay trở lại để bốc toán biệt kích ra”.

    Trong năm 1969, con số thiệt hại của biệt kích Mỹ là 50% cho mỗi chuyến vượt biên xâm nhập lănh thổ Lào trong chương tŕnh hành quân Prairie Fire, so với 44% của năm 1968, 39% cho năm 1967. Tính trung b́nh cứ hai chuyến xâm nhập, lại có lính Mũ Nồi Xanh Mỹ tử trận, bị thương hoặc mất tích. Năm 1969, chương tŕnh Prairie Fire tổ chức 452 chuyến xâm nhập th́ tổn thất về phía người Mỹ là 19 trường hợp tử trận, 199 bị thương và 9 mất tích. Chương tŕnh hành quân Prairie Fire do Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng và Bộ chỉ huy Trung (CCC) ở Kontum đảm trách. Quân số năm 1969 của hai Bộ chỉ huy hành quân Bắc và Trung, thuộc lực lượng Mũ Nồi Xanh Mỹ có 72 sĩ quan và 409 hạ sĩ quan, binh sĩ.


    Trung úy Micheal Forte (giữa) thuộc MACV-SOG tại Bộ chỉ huy Trung (CCC), Kontum, 1971

    Kế hoạch 35 triển khai trên lănh thổ Canpuchia có vẻ ít khó khăn hơn so với ở Lào và Nam Việt Nam. Chương tŕnh hành quân Daniel Boone đă đổi tên thành Salem House. Năm 1969, con số thiệt hại trung b́nh cho mỗi chuyến vượt biên xâm nhập lănh thổ Campuchia là 13%. Cũng trong năm 1969, Trung tâm hành quân Salem House đă tổ chức 454 chuyến xâm nhập thu thập tin tức t́nh báo chiến lược. Trong đó, tổn thất lớn nhất của lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh là Mỹ mất đi một toán biệt kích nổi tiếng, từng nhận nhiều huy chương của quân đội. Đó là trường hợp Trung sĩ Jerry “Mad Dog” Shriver.

    Ngày 24/4/1969, một đại đội xung kích Hatchet Force, trong đó có Shriver được trực thăng đổ bộ xuống tấn công vào căn cứ đầu năo Trung ương Cục miền Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại đội này bị đối phương xóa sổ hoàn toàn. Trung sĩ Jerry Shriver mất tích, không t́m ra xác. Nhiều phi đội phản lực, khu trục được gọi đến để yểm trợ cho đoàn trực thăng cấp cứu đem những biệt kích quân c̣n sống sót của đại đội biệt kích Hatchet Force ra.


    "Huyền thoại" Mad Dog Shriver, mất tích ở Campuchia


    Đến năm 1970, khi chương tŕnh Việt Nam hóa chiến tranh bắt đầu được triển khai th́ con số thiệt hại của SOG nhờ đó được giảm đi. Vẫn theo số liệu của Trung tâm hành quân Prairie Fire, tại thời điểm năm 1970, cơ quan này đă tổ chức 441 chuyến vượt biên, chiếm tới 95% phi vụ thả biệt kích hoạt động trên lănh thổ Lào. Tuy nhiên, việc sử dụng các đơn vị đến cấp đại đội ngày càng trở nên khó khăn do việc quân đội Mỹ lần lượt rút khỏi Việt Nam, kèm theo họ không cung cấp đủ phương tiện cho các đơn vị SOG.

    Đến cuối năm 1970, con số thiệt hại của lực lượng biệt kích Mỹ là 12 trường hợp bỏ mạng, 98 bị thương và 4 mất tích. Chương tŕnh hành quân Salem House tại Campuchia phần nào nhẹ đi do sự kiện ngày 18/3/1970 khi mà ông hoàng Sihanouk bị tướng Lon Nol đảo chính lật đổ ngôi vị. Nhân cơ hội đó, liên quân Mỹ và Sài G̣n tổ chức cuộc hành quân B́nh Tây, tấn công sang đất Campuchia. Trung tâm hành quân Salem House đă tổ chức 577 chuyến xâm nhập Campuchia, chủ yếu do lực lượng Lôi Hổ thuộc Nha Kỹ Thuật của Quân đội Sài G̣n đảm nhiệm, v́ lính Mỹ không được phép sang Campuchia, theo lệnh ban hành ngày 30/6/1970.

    Đến cuối năm 1970, Quân đội Bắc Việt đă hoàn thành hệ thống chống biệt kích rất hiệu quả. Người chỉ huy trưởng cuối cùng của SOG là Đại tá Skip Sadler thừa nhận: “Chỉ có 40% các toán biệt kích hoạt động bên Lào lâu hơn 24 tiếng đồng hồ. Đối phương đă đợi sẵn và biết ḿnh sẽ đến”. Người lính Mũ Nồi Xanh cuối cùng của Mỹ bỏ xác ở rừng xanh vào ngày 29/1/1971 trên đất Lào là Trung sĩ David Mixter.

    Cùng năm 1971, Quân đội Sài G̣n tiến công sang lănh thổ Lào, bằng cuộc hành quân Lam Sơn 719. Để yểm trợ cho cuộc hành quân này, SOG tổ chức nhiều cuộc hành quân giả để đánh lạc hướng Quân đội Bắc Việt. Tại khu vực phía tây căn cứ Khe Sanh, SOG thả dù h́nh nhân giả đem theo chất nổ, khi chạm đất sẽ nổ để nghi binh, làm như thả nhiều toán biệt kích xuống địa bàn đă định. Trong lúc cuộc hành quân Lam Sơn 719 đang triển khai, SOG thả biệt kích xuống thung lũng A Sầu, hy vọng sẽ trói được tay đối phương, vừa để thu thập tin tức t́nh báo chiến lược cho các đơn vị của Mỹ.

    Từ ngày 1/1/1971 đến 31/3/1972, Kế hoạch 35 đă tổ chức 474 chuyến hành quân xâm nhập. Trong đó, lực lượng Mũ Nồi Xanh đă chỉ huy 278 chuyến xâm nhập, c̣n lại 196 chuyến do Nha Kỹ Thuật thuộc Bộ Tổng Tham mưu Sài G̣n đảm nhiệm. Mùa khô năm 1970-1971, những chuyến xâm nhập sang Lào và Campuchia ngày càng trở nên rất nguy hiểm. Trong các bản báo cáo của SOG cho thấy, trong tổng số các toán xâm nhập đă có 7 toán phải chiến đấu t́m đường tháo chạy.

    Đại tá Roger Pezzelle, người đă chỉ huy triển khai Kế hoạch 35 kể lại: “Trong tháng 8/1971, chúng ta thả toán biệt kích Kansas vào khu vực phía nam khu phi quân sự. Chỉ trong ṿng 10 phút, quân đội Bắc Việt kéo tới một trung đội, rồi đại đội, rồi cả tiểu đoàn (!)...” Pezzelle khẳng định thêm: “Quân đội Bắc Việt đưa quân rất đông vào Nam Việt Nam. Họ dùng xe chuyển quân, chở lương thực, đồ tiếp vận đến các đơn vị hành quân của họ trên chiến trường. Biệt kích báo cáo là đối phương có cả xe tăng ở Kontum, nhưng chẳng ai tin, cuối cùng phải chụp ảnh đem về”.


    Biệt kích Làng Vây di tản đến Khe Sanh, sau khi căn cứ bị tràn ngập

    Cuối năm 1971, Kế hoạch 35 thực hiện phi vụ cuối cùng. Theo bản báo cáo của SOG gửi Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam (MACV) cho biết trước cuộc tấn công Mùa hè đỏ lửa, mà Quân đội Bắc Việt gọi là “Chiến dịch Nguyễn Huệ”, mũi tiến công chính của Quân đội Bắc Việt sẽ vượt sông Bến Hải, đánh sang khu phi quân sự. SOG gọi đó là kiểu “đánh vào đầu”. Ngày 30/4/1972, Bộ Tư lệnh Lực lượng Thái B́nh Dương ra lệnh cho SOG bàn giao tất cả cho Nha Kỹ Thuật, trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Sài G̣n, chấm dứt “huyền thoại về Đoàn Nghiên cứu, quan sát – SOG”.

  7. #7
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P7


    KẾ HOẠCH 37 – BIỆT HẢI

    Bắt đầu từ những tháng đầu năm 1961, cơ quan Trung ương t́nh báo Mỹ (CIA) đă điều khiển những trận tấn công bất ngờ, phá hoại các căn cứ quân sự dọc theo bờ biển Bắc Việt Nam. Những cuộc tập kích trên đều do những toán biệt kích biển (Marops) đảm nhiệm. Đến mùa khô 1961-1962, sau khi đă đọc các bản báo cáo kết quả về những cuộc hành quân trên, Đô đốc Harry Felt chẳng c̣n ǵ để nói và CIA nhận thấy đă hết kiểu chơi. Tóm lại, các cuộc hành quân biệt hải chẳng gây thiệt hại nào đáng kể cho chính quyền Bắc Việt, mặc dù viên Tư lệnh lực lượng Quân đội Mỹ tại Thái B́nh Dương là người hiểu biết về vấn đề hành quân biển hơn ai hết.


    Đại bác 40 ly gắn ở đuôi chiếc PTF. Lớp vỏ bằng 1 loại ván ép đặc biệt giúp những chiếc Nasty tránh được radar của đối phương, vừa giúp chúng có tốc độ vượt trội

    Thực tế những toán biệt kích biển do CIA tuyển mộ đều sử dụng những chiếc tàu nhỏ mong manh, trang bị hỏa lực yếu. Ngay cả việc lái chiếc tàu nhỏ đến mục tiêu đă là một vấn đề khó khăn đối với các biệt kích quân. Thực ra Colby, ông trùm CIA, người chịu trách nhiệm chính về mọi hoạt động của lực lượng biệt kích cũng chỉ làm theo lệnh của Washington mà thôi.

    Đến tháng 7/1962, th́ Đô đốc George Anderson, Tư lệnh hành quân biển, được mời tham gia tổ chức những trận tập kích, quấy rối bờ biển Bắc Bộ. Kế hoạch này nhằm mục đích làm cho Bắc Việt không c̣n đủ sức yểm trợ cho quân cộng sản ở miền Nam Việt Nam.

    Người trực tiếp chịu trách nhiệm chính của kế hoạch này là Tucker Gougelmann, một chuyên gia hàng đầu về phá hoại trên biển của CIA. Năm 1961, ông ta lập căn cứ tại Đà Nẵng và bắt đầu đưa những toán biệt kích biển xâm nhập biển Bắc Bộ. Kế hoạch hành quân biển do CIA hoạch định và điều hành chỉ có tầm hoạt động rất giới hạn. Mục tiêu chính là thu thập tin tức, do thám bờ biển Bắc Bộ. Theo những tài liệu đă giải mă, th́ giai đoạn đầu của Kế hoạch hành quân biển diễn ra rất âm thầm, để tránh đụng độ với Hải quân Bắc Việt.

    Năm 1962, Gougelmann được lệnh của Washington bắt đầu những trận tập kích phá hoại để trả đũa cho việc Bắc Việt ngày càng gia tăng những hoạt động chi viện cho cộng sản ở miền Nam; đồng thời để xây dựng những mật cứ ở miền Bắc trong tương lai. Chính Tổng thống Kenedy là người thúc đẩy CIA tăng cường những hoạt động bí mật trên lănh thổ Bắc Việt Nam.

    Lực lượng biệt kích biển dưới quyền chỉ huy của Gougelmann đă sử dụng loại thuyền máy cũ kỹ đóng tại miền Nam cho các trận tập kích. Điều đó khiến Đô đốc Felt phật ư, v́ loại thuyền máy cũ kỹ ấy không thể dùng để tấn công bất ngờ được. Loại hành quân này rất cần tốc độ và bí mật. Khi Washington ra lệnh gia tăng các cuộc hành quân biệt hải, Hải quân Mỹ được lệnh yểm trợ, cung cấp trang bị chuyên biệt cho CIA để cơ quan chức năng này hoàn thành các phi vụ. Tháng 8/1962, tướng Harkins, Tư lệnh Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam, dự kiến sử dụng loại tàu Topedo (phóng thủy lôi), được căn cứ Tiếp vận hải quân ở Đà Nẵng yểm trợ, cho những cuộc hành quân biệt hải trên lănh thổ Bắc Bộ. Kế hoạch này được chính quyền Kenedy chấp thuận vào cuối tháng 9/1962.

    http://cb4.upanh.com/19.270.26111263...aulharkins.jpg
    Đại tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng MAAG (1962-1963); chỉ huy trưởng MACV (1963-1964)

    Cùng thời điểm trên, Hải quân Mỹ bắt đầu nghiên cứu, xem xét t́m loại tàu thích hợp cho các cuộc hành quân biệt hải. Tháng 10/1962, phụ tá Tổng trưởng Quốc pḥng Mỹ Roswell Gilpatric ra lệnh cho Đô đốc Anderson giao cho CIA 2 con tàu Topedo là PT. 810 và PT. 811, được đóng từ năm 1950. Hai con tàu này đều được trang bị đại bác 40 ly và 20 ly; được đổi tên mới là PTF-1 và PTF-2 (tàu tuần tiễu nhanh – Patrol Type Fast).


    Hỏa lực trang bị cho PTF

    Đầu năm 1963, Hải quân Mỹ mua hai con tàu Nasty PTF-3, PTF-4 của Hải quân Na Uy. Loại tàu này chạy rất nhanh và tránh được radar. Bỏ qua yêu cầu bảo mật, Đô đốc Anderson đă gửi 2 con tàu Nasty đến Washington tham gia diễu hành trong cuộc diễn tập hành quân và yểm trợ đổ bộ. Cuộc diễn tập đă diễn ra bên sông Potomac, do các toán biệt kích người nhái SEAL, mới thành lập, đảm trách.

    Phải đến những tháng cuối năm 1963, CIA mới nhận được những chiếc tàu Nasty vừa tham gia diễn tập. Để lái loại tàu này xâm nhập hải phận Bắc Việt Nam, CIA đă tuyển mộ lính đánh thuê người Na Uy và Đức. Mhằm trợ lực cho CIA, Hải quân Mỹ đồng ư để đơn vị SEAL huấn luyện cho biệt kích quân Việt Nam về chiến thuật hành quân phá hoại trên biển, vừa cung cấp đồ tiếp vận, cũng như bảo tŕ các tàu PTF.

    Trong lúc “Kế hoạch 37” đang triển khai, Tổng thống Kenedy ra lệnh cùng lúc xúc tiến “Kế hoạch Trở Lại" (Switch Back). Theo đó, tất cả các hoạt động của CIA tại miền Bắc Việt Nam được bàn giao cho Lầu Năm Góc (Bộ Tổng Tham mưu liên quân Mỹ), kể cả chương tŕnh Hành quân Biệt Hải. Lúc đầu nằm trong “Kế hoạch 34A”, một bộ phận thuộc Đoàn nghiên cứu, quan sát (SOG) thành lập “Ban cố vấn Hải quân”, mật danh của “Kế hoạch 37” ở Đà Nẵng.

    Ban Cố vấn Hải quân chính thức triển khai kế hoạch từ đầu tháng 1/1964, với mục tiêu bao gồm các cuộc hành quân bí mật trên biển. Đến năm 1965, một văn pḥng liên lạc được thành lập, trực thuộc SOG, chuyên trách theo dơi việc triển khai Kế hoạch 31 (OP-31). Nếu như Văn Pḥng Liên Lạc chuyên trách về nhân sự th́ Ban Cố vấn Hải quân (NAD) là cánh tay hành động, đều thuộc quyền chỉ huy của SOG.


    Bến Súc, 14/01/1967. Tản cư tránh trận càn Cedar Falls

    Việc t́m một sĩ quan hải quân cấp bậc đại tá trong Quân đội Mỹ không khó, nhưng t́m một sĩ quan cao cấp am hiểu về Chiến tranh ngoại lệ quả thật không dễ chút nào. V́ vậy, người chỉ huy đầu tiên của Ban Cố vấn Hải quân là Jack Owens, mới được bổ nhiệm được một năm đă phải thay thế. Đại tá Bob Fay là người kế nhiệm. Không giống như Owens, một sĩ quan Hải quân thông thường, Bob Fay trưởng thành từ một đơn vị Người nhái. Nhưng thật trớ trêu, ngày 28/10/1965, chiếc xe Jeep chở ông ta trúng đạn pháo kích của đối phương. Bob Fay trở thành sĩ quan biệt kích biển cao cấp đầu tiên của Mỹ bỏ mạng trên chiến trường Việt Nam.

    Bob Fay mới chỉ huy Ban Cố vấn Hải quân (NAD) được có 6 tháng. Những người kế nhiệm Bob Fay sau này là William Hawkins, Willard Olson, Robert Terry và Norman Olson đều ít am hiểu về chiến tranh ngoại lệ, cho dù họ đeo lon đại tá Hải quân Mỹ.

    Kế hoạch 37 do Ban Cố vấn Hải quân Mỹ đảm trách, được giao nhiệm vụ tấn công, phá hoại những mục tiêu dọc theo bờ biển Bắc Bộ. Với phạm vi hoạt động từ vĩ tuyến 17 ra đến vĩ tuyến 21, trong ṿng bán kính 30 dặm dọc theo bờ biển. Trong mệnh lệnh hành quân, khu vực hoạt động của các toán biệt kích biển ở phía dưới cảng Hải Pḥng, bao gồm mục tiêu cụ thể: Ngăn chặn và quấy rối (ngăn chặn, bắt cóc, thẩm vấn, phá hủy tất cả các loại tàu vũ trang, tiếp vận của miền Bắc. Phá hoại đường tiếp tế trên biển của Quân đội Bắc Việt cho miền Nam). Bắn phá các mục tiêu dọc theo bờ biển. Tập kích lên bờ, tấn công các căn cứ quân sự, dân sự. thả biệt kích, điệp viên xâm nhập miền Bắc. Tiến hành các thủ đoạn chiến tranh tâm lư như thả truyền đơn, radio, quà tặng xuống các khu vực giáo dân, nông thôn miền Bắc. Mặc dù được SOG tài trợ, huấn luyện nhưng tất cả những cuộc hành quân biệt kích biển, vượt tuyến đều do biệt kích, người nhái của Quân đội Sài G̣n đảm nhiệm.



    Năm 1964, Ban Cố vấn Hải quân Mỹ tổ chức thành 7 bộ phận. Những bộ phận quan trọng chuyên việc huấn luyện thủy thủ đoàn lái tàu Nasty và các toán biệt kích biển. Kế hoạch 37 triển khai với sự phối hợp giữa SOG và Nha Kỹ thuật của Quân đội Sài G̣n. Hải quân Mỹ chuyên soạn thảo kế hoạch hành quân; huấn luyện thủy thủ, biệt kích và bảo đảm cho kế hoạch. Sở Pḥng vệ Duyên hải trực thuộc Nha Kỹ thuật chuyên về những vấn đề yểm trợ khác. Sở này có 5 toán, gồm 15 biệt kích quân biển; 18 nhân viên, thủy thủ đoàn lái tàu Nasty và toán bảo dưỡng tàu. Tất cả đều nằm trong Kế hoạch 37. Nhiệm vụ chính của Sở chỉ huy là tuyển mộ thủy thủ và biệt kích quân.

    Tất cả những cuộc hành quân biệt hải chỉ được triển khai khi nhận được sự chấp thuận của giới chức thẩm quyền ở Washington. Riêng Hải quân Mỹ có trách nhiệm chọn mục tiêu, soạn thảo kế hoạch hành quân, phối hợp và chỉ huy các cuộc hành quân. Tính từ tháng 4 cho đến tháng 12/1964, các toán biệt kích biển đă tổ chức 32 cuộc vượt tuyến tấn công, phá hoại các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc như trạm kiểm soát, cầu, các đảo nhỏ, đài radar.

    Cụ thể, ngày 12/6/1964, biệt hải phá hủy một nhà kho. Cuối tháng 6, phá sập một chiếc cầu. Tháng 7, phá hủy một nhà bơm nước; đánh ch́m 3 chiếc tàu nhỏ. Ngày 30/7, bốn chiếc tàu PTF đến đông nam Ḥn Me (19º vĩ bắc, 106º 16’ độ kinh đông), chia làm hai tốp. Tàu PTF-3 và PTF-6 hướng về Ḥn Me; hai tàu PTF-5 và PTF-2 đi về Ḥn Niêu. Cả hai tốp đều đến bắn phá binh trạm, xưởng quân khí, trạm tiếp liệu. Khi bị tàu Swatow của Hải quân Bắc Việt đuổi theo, cả hai tốp đều chạy về hướng nam. Nhân chuyện này, Mỹ dựng lên “Sự kiện chiến hạm Maddox bị tấn công ngoài khơi vịnh Bắc Bộ”, để có cớ gây ra chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng không quân.

    Đến cuối năm 1964, SOG ra lệnh cho NAD gia tăng các chuyến hành quân biệt hải. Tính riêng năm 1965, có 170 chuyến vượt tuyến bắn phá, quấy rối hải phận miền Bắc Việt Nam. Năm 1966, NAD tổ chức 126 cuộc hành quân chính và 56 cuộc hành quân phụ. Trước t́nh h́nh trên, Hà Nội đă tăng cường lực lượng bảo vệ dọc theo bờ biển, gây trở ngại lớn và rất nguy hiểm cho các toán biệt kích biển; đương nhiên, càng khó khăn hơn cho các cuộc tập kích lên bờ. Bởi thế mà trong 34 trận tập kích của SOG ở vùng biển Bắc Bộ, chỉ có 4 trận được coi là thành công.


    Toán biệt hải được cố vấn Mỹ huấn luyện tại Đà Nẵng

    Bắt đầu từ năm 1967, cường độ các cuộc hành quân biệt hải trong Kế hoạch 37 giảm đi trông thấy. Năm 1967, theo kế hoạch có 151 cuộc hành quân th́ chỉ triển khai được 125 cuộc, hủy bỏ 19 cuộc v́ thời tiết; 7 cuộc do bị hỏng phương tiện tàu bè hoặc nhân viên có vấn đề.

    Ngày 1/11/1968, tất cả những cuộc hành quân vượt tuyến trong Kế hoạch 37 đều bị đ́nh chỉ. Đến tháng 7/1971, Sở Pḥng vệ Duyên Hải đảm nhiệm hoàn toàn các cuộc hành quân xâm nhập biển Bắc Bộ.

    Theo tài liệu: “The secret War Against Hanoi” by Richard H. Shultz Jr.

  8. #8
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P8

    KẾ HOẠCH 39 – CHIẾN TRANH TÂM LƯ


    Nằm dưới vĩ tuyến 17, dọc theo hải phận Việt Nam, đến ngoài khơi biển Đà Nẵng có một đảo nhỏ, phương ngữ gọi là Cù Lao Chàm. Khi người Mỹ đến Đà Nẵng, họ gọi là “Ḥn đảo thần tiên” (Paradise island). Đảo nhỏ này đă trở thành “vùng đất tự do” cho những ngư dân vùng biển Bắc Bộ bị biệt kích bắt cóc đem đến theo sách lược của “Phong trào Gươm thiêng ái quốc”.


    Những người đẹp Đà Nẵng với ṿng hoa trong tay để đón lính Mỹ đổ bộ vào ngày 8/8/1965

    Theo Kế hoạch 39 (OP 39), trước tiên SOG xây dựng trên ḥn đảo những làng nhỏ theo khuôn mẫu những làng chài dọc theo bờ biển Bắc Bộ. SOG để ư đến từng chi tiết nhỏ, sao cho giống hệt khuôn mẫu. Vấn đề c̣n lại là làm sao đem được những người dân chài miền Bắc đến đảo, mà họ tin rằng vẫn c̣n sống trên đất Bắc. Để làm được điều đó, SOG lập 1 đơn vị biệt kích biển cho phong trào “Gươm thiêng ái quốc”. Bắt đầu từ tháng 5/1964, những chiếc tàu vũ trang không tên sẽ xâm nhập vào hải phận miền Bắc Việt Nam để bắt cóc ngư dân đem đến Cù Lao Chàm.

    Nhân viên, thủy thủ trên những chiếc tàu bí mật đó đều nói giọng miền Trung hoặc miền Bắc Việt Nam, nhiều người di cư vào Nam từ năm 1954. Tàu nào cũng treo cờ của phong trào “Gươm thiêng ái quốc” và thủy thủ đoàn tự xưng là hội viên của phong trào trên.

    Như vậy, hoạt động của lực lượng biệt hải là sự kết hợp giữa hai chương tŕnh của Kế hoạch 39 và Kế hoạch 37. Ban Cố vấn Hải quân, thật ra là mật danh của Trung tâm điều hành Kế hoạch 37, đặt tại Đà Nẵng. Trung tâm này chuyên trách quản lư phương tiện tàu bè, nhân viên, thủy thủ biệt phái cho phong trào “Gươm thiêng ái quốc”, để thực thi những hải vụ bắt cóc ngư dân miền Bắc. Thiếu tá Roger Mc Elroy, một trong số rất ít người Mỹ đă từng xâm nhập vùng biển Bắc Bộ, trong một hải vụ, ông ta kể lại rằng: “Những chiếc tàu đó được đóng bằng gỗ để tránh bị radar phát hiện và được giấu ở Đà Nẵng chứ không phải để cho ngư dân trên đảo sử dụng. Thỉnh thoảng, tôi đi theo toán biệt hải. Lúc lên tàu, tôi mặc quần áo ngụy trang, đội lưới che măt và không đem theo bất cứ loại giấy tờ tùy thân nào hay vật dụng ǵ chứng minh tôi là người Mỹ”. Khi vào đến hải phận miền Bắc Việt Nam, MC Elroy không được lên trên boong tàu, nhiệm vụ của ông ta là liên lạc với lực lượng Hải quân Mỹ đang có mặt ngoài khơi vịnh Bắc Bộ.


    Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng, 8/8/1965

    Khi bắt được ngư dân hoặc thường dân sống dọc theo bờ biển Bắc Bộ, nhân viên SOG cho họ biết rằng đang nằm trong tay phong trào “Gươm thiêng ái quốc”, một phong trào yêu nước, và họ sẽ được đưa đến phần đất đă được giải phóng dọc theo bờ biển. Những người bị bắt cóc sau đó được giải thích v́ lư do an ninh nên phải bịt mắt, đưa xuống hầm tàu. Khi đến Cù Lao Chàm, họ được đưa lên trên boong tàu, gỡ băng bịt mắt ra và trước mắt họ là một làng chài đă được giải phóng, như ở đâu đó ngoài Bắc. Tất cả mới là khúc dạo đầu. Những ngày sau đó là phần tuyên truyền những người bị bắt cóc.


    Theo Đại tá Don Blackburn, một trong những ông trùm của SOG th́ “Mục đích của Kế hoạch 39 này là làm cho họ tin rằng đang ở trong một làng giải phóng ở miền Bắc. Khi trả họ về, họ sẽ loan tin là lực lượng kháng chiến có thật và đă giải phóng nhiều vùng ở miền Bắc”.


    Những người bị bắt cóc sẽ sống trên đảo hoang khoảng ba tuần lễ. Trong khoảng thời gian đó, họ chỉ gặp những người nói giọng miền Bắc, họ ăn uống, nói chuyện về đời sống dưới chế độ cộng sản, những điều về phong trào “Gương thiêng ái quốc”. Lại có người được đưa đi thăm những làng ở trên đồi, gây cho họ ư tưởng về những căn cứ kháng chiến nằm sâu trong vùng rừng núi ngoài Bắc.

    Jack Singlaub, người thay Blackburn, kể thêm: “Chúng tôi lo cho họ rất chu đáo, người nào cũng mập ra, chữa bệnh cho họ và làm cho họ cảm thấy sống trong vùng kháng chiến sướng hơn dưới chế độ cộng sản. Chúng tôi lấy tin tức từ những người bị bắt cóc và cho họ biết một số biểu hiện suy đồi của giới lănh đạo Hà Nội. Những ngư dân đôi khi cũng cho biết tên tuổi của một số viên chức tham nhũng trong chính quyền Hà Nội. Đài Gươm thiêng ái quốc theo đó mà nêu đích danh tên tuổi những giới chức tham ô, lạm dụng quyền lực ở đối phương khá chính xác, gây sự nghi ngờ trong nội bộ chính quyền Hà Nội”.

    Trong những ngày cuối cùng ở Cù Lao Chàm, họ được dặn ḍ liên lạc với phong trào “Gươm thiêng ái quốc” địa phương. Họ được trao quà lưu niệm, những đồ dùng khan hiếm ở miền Bắc và radio để nghe đài “Gươm thiêng ái quốc”. Sau đó, họ được thả về làng cũ bằng cách thức như lúc họ bị bắt cóc đưa đến Cù Lao Chàm.

    Năm 1966, được coi là năm hoạt động hiệu quả, 353 ngư dân và thường dân ngoài Bắc được đưa đến Cù Lao Chàm. Từ năm 1964 đến năm 1968, tổng cộng có 1.003 ngư dân và dân thường bị bắt cóc đưa đến Cù Lao Chàm để phong trào “Gươm thiêng ái quốc” “truyền giáo” . Quả thực, Kế hoạch 39 có cách thức hoạt động y như trong tiểu thuyết (!)


    Toán Biệt hải tại Đà Nẵng

    Trong những hải vụ xâm nhập, đương nhiên không thể tránh khỏi những cuộc đụng độ với tàu tuần tiễu của Bắc Việt. Trong trường hợp này nếu bắt được tù binh th́ họ sẽ bị đưa ra ṭa án “Gươm thiêng ái quốc”, tù binh sẽ bị khép vào tội “chống lại quê hương của họ” và lănh án tử h́nh. Điều đó khác hẳn những ǵ mà phong trào “Gươm thiêng ái quốc” thường nêu cao là “phụng sự ḥa b́nh”. Do đó, tù binh không bị tử h́nh mà được đưa đến Cù Lao Chàm. Tại đây, những tù binh luôn được rỉ tai, tuyên truyền kỹ lưỡng. Chưa hết, trước khi được trả về làng cũ, tù binh sẽ bị bắt buộc phải viết giấy thú tội, thề sẽ trung thành với phong trào.

    Trong trường hợp ai đó bị khuất phục, họ sẽ được chọn lọc, huấn luyện thêm để làm việc cho phong trào. Khi trở về lại nguyên quán, họ sẽ hoạt động ngầm, tuyên truyền cho phong trào. Những người thật sự muốn ở lại “phần đất tự do” sẽ được đưa tiếp vào miền Nam, sống trong những khu định cư dành cho những phần tử chiêu hồi. Trong tay SOG, phong trào “Gươm thiêng ái quốc” thật sự trở thành công cụ phá hoại, chống lại chế độ xă hội ở miền Bắc, bằng việc xúi giục dân chúng miền Bắc vũ trang chống lại chế độ hoặc tổ chức ám sát giới chức lănh đạo.


    Tuy Ḥa, 22/03/1975. Ảnh Nick Út

    Tuy nhiên, mọi dự án đều không được chấp thuận. Theo tài liệu đă được giải mă th́ Washington có bốn trở ngại. Thứ nhất, bành trướng phong trào “Gươm thiêng ái quốc” sẽ vi phạm đến những điều luật trong hiệp định Geneve, lộ âm mưu chống lại chính quyền Bắc Việt. Thứ hai, Washington lo ngại phong trào sẽ đi quá trớn, rất khó kiểm soát. Thứ ba, nếu gây ra sự khủng hoảng ở miền Bắc, có thể sẽ làm Hà Nội phản ứng mạnh mẽ bằng cách đưa thêm quân vào miền Nam. Thứ tư, nếu giấc mơ chế độ miền Bắc suy sụp trở thành hiện thực, biết đâu Trung Hoa sẽ nhảy vào ṿng chiến đấu như cuộc chiến ở Triều Tiên.

    Song song với đài “Gươm thiêng ái quốc”, Kế hoạch 39 đă tạo nên nhiều đài phát thanh khác như đài “Tiếng nói tự do” (Voice Of Freedom). Đài này thường đọc tin tức, thông qua các diễn đàn văn hóa để tuyên truyền về đời sống và lối sống tự do theo kiểu Mỹ. Trung b́nh mỗi tuân đài này phát thanh tới 75 giờ.

    Bên cạnh đó c̣n có đài phát thanh “Cờ đỏ” (Red Flag), tập hợp những phần tử chống cộng quyết liệt, chuyên xuyên tạc, vu khống lănh đạo và chế độ xă hội ở miền Bắc Việt Nam. Đồng thời đài c̣n cố t́nh xuyên tạc, gây hiềm khích giữa các nước XHCN với nhau, hoặc giữa các nước ủng hộ Việt Nam với dân tộc Việt Nam.

    Cơ quan Trung ương t́nh báo Mỹ c̣n lập đài phát thanh “Sao đỏ” (Red Star) để chống lại Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đài này đưa ra khẩu hiệu “Miền Nam Việt Nam là của người miền Nam”.

    Tất cả những hoạt động ngoài vĩ tuyến 17 được lệnh chấm dứt vào tháng 11/1968, sau khi chính quyền Johnson quyết định chấp nhận đề nghị của Hà Nội, t́m giải pháp cho ḥa b́nh. Theo đó, Kế hoạch 39 buộc phải bỏ rơi Cù Lao Chàm, vốn được CIA đặt cho cái tên nghe rất cổ tích “Đảo thần tiên”, nhưng lại là nơi toan tính biết bao thứ của họ.


    Xuân Lộc, 14/04/1975

  9. #9
    Member vanthanhtrinh's Avatar
    Join Date
    28-01-2011
    Posts
    547

    Tôn trọng sự thật.

    Kính bác Quốc dân.
    Bác bận việc ǵ mà không coi tụi nó chửi ḿnh tá lă dzậy?Bài bản của chúng vẩn như mấy năm trước:Nói chuyện lịch sữ rồi chen vô những câu mạt sát:Diệm,Thiệu,Công giáo,Cần Lao,Công Hoà.Các chế độ miền Nam toàn là một bọn tay sai.Bọn này phần lớn là Giao Điểm.Cánh tay nồi dài của Vẹm.Thấy bác ban nhiều người nói hơi cường điệu mà bọn này th́ không ?Tại sao?.Thành viên Alamit là ai mà được quyền trách dẩn sách của Vẹm bỏ vô đây.Liệu như thế có gọi là tôn trong sự thật không?

  10. #10
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Cuộc Chiến Bí Mật - NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU

    NHA KỸ THUẬT, BỘ TỔNG THAM MƯU
    Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P9


    HÀNH QUÂN SHINING BRASS

    Năm 1965, Đại tá Donald Blackburn được bổ nhiệm là chỉ huy trưởng Liên Đoàn Nghiên cứu, quan sát (SOG). Là một sĩ quan lâu năm trong lực lượng biệt kích, ông ta rất nổi tiếng về lư thuyết chiến tranh du kích. Theo lệnh của tướng Westmoreland, SOG tiến hành xâm nhập hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh, tuyến giao thông huyết mạch đưa Quân đội Bắc Việt vào chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam.

    Vào thời điểm đó, chưa ai biết chắc chắn chuyện ǵ đang xảy ra bên Lào. Thế là họ thành lập Trung tâm hành quân Shining Brass, do SOG đảm nhiệm, đặt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Arthur D. “Bull” Simons. Ông ta là một người có tầm vóc đáng nể, rất xứng đáng với danh hiệu “Ḅ mộng” hay “Người khổng lồ”.

    Trong Chiến Tranh Thế Giới lần II, Tiểu đoàn Biệt động quân số 6 của Bull Simons là đơn vị trinh sát, làm tai mắt cho Sư đoàn Dù số 11 của Mỹ, vừa là đơn vị mũi nhọn trong trận đổ bộ lên đảo Leyte, Phillipin.

    Đại tá "Bull" Simons (hàng ngồi, thứ 3 từ trái sang) cùng các thành viên Tiểu đoàn đặc nhiệm số 6. Chính Simons là người chỉ huy cuộc tập kích Sơn Tây ngày 21/11/1970, với thành phần chính được chọn từ Tiểu đoàn Đặc nhiệm số 6 & 7



    Đại tá Bull Simons từng biết vùng Nam Lào, bởi trước đó ông ta đă tuyển mộ, huấn luyện người dân tộc Kha cho CIA vào những năm 1961-1962. Khi Hiệp định Geneva 1962 về trung lập hóa vương quốc Lào được kư kết, Bull Simons cùng những phi vụ mật của ông ta ở Lào cũng tạm thời chấm dứt.

    Trung tâm hành quân Shining Brass tuyển quân t́nh nguyện từ Liên đoàn biệt kích số 1 của Mỹ và bắt đầu huấn luyện tại Okinawa, Nhật Bản. Đến cuối mùa hè 1962, có 16 biệt kích Mũ Nồi Xanh đă kết thúc khóa huấn luyện, đủ khả năng tăng cường cho 5 toán thám báo, c̣n thừa 1 người làm dự bị. Theo cách thức tổ chức của Bull Simons, mỗi toán thám báo sẽ gồm 2 hoặc 3 biệt kích Mũ Nồi Xanh của Mỹ và 9 biệt kích quân tuyển mộ từ các bộ tộc thiểu số của Lào. Toán thám báo hỗn hợp này có đầy đủ kinh nghiệm để thực thi những phi vụ được giao, lại thêm được CIA trang bị đầy đủ các phương tiện, vũ khí, máy móc tối tân; cộng với kinh nghiệm đi rừng, mật phục của các biệt kích quân người dân tộc thiểu số, chiếm số lượng chủ chốt trong toán, th́ chắc chắn sẽ giảm thiểu những thiệt hại về nhân mạng cho lực lượng Mũ Nồi Xanh của Mỹ.

    Lúc đầu, quân số của toán thám báo hỗn hợp phần lớn là người Nùng. Gốc gác của họ từng định cư ở phía nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, họ được người Pháp biết đến như là những chiến binh can trường. Đặc biệt là về những hoạt động biệt kích trong ḷng đối phương, họ luôn tỏ ra có khả năng trội hơn. V́ vậy, chính quyền Sài G̣n luôn dành cho họ những đặc quyền như: không phải động viên và thực hiện luật nghĩa vụ quân sự; các quân nhân Nùng có cấp bậc thấp đều được trợ cấp 60 USD/ 1 tháng, tương đương với mức lương của sĩ quan cấp Úy trong Quân đội Sài G̣n.

    Theo kế hoạch của Bull Simons, trước tiên các toán thám báo sẽ do thám để phát hiện các căn cứ, nơi đóng quân của Quân đội Bắc Việt. Sau đó, chỉ điểm cho máy bay đến oanh kích các mục tiêu trên. SOG tổ chức thêm những đại đội xung kích, sử dụng chiến thuật trực thăng vận tấn công chớp nhoáng vào những căn cứ, sở chỉ huy, kho quân dụng của đối phương do những toán thám báo t́m ra. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ về hỏa lực của không quân, các đại đội xung kích (Hatchet Force) được máy bay đổ bộ xuống, tràn vào các mục tiêu, phá hủy rồi rút nhanh, trước khi đối phương kịp trở tay. Những đợt tấn công chớp nhoáng này đều nằm trong chương tŕnh giai đoạn hai của cuộc hành quân.

    Đến giai đoạn ba, SOG sẽ tuyển quân từ các bộ tộc thiểu số của Lào, tiến hành phục kích phá hoại các đơn vị Bắc Việt; khiến họ phải tập trung vào vấn đề an ninh. Theo tính toán của Blackburn, lúc đó đối phương sẽ là miếng mồi ngon lành cho các phi vụ oanh kích của máy bay và các đại đội xung kích. Tuy nhiên kế hoạch của Đại tá Blackburn bị viên Đại sứ Mỹ tại vương quốc Lào là William Sullivan ngăn cản. Ông đại sứ giới hạn phạm vi hoạt động của SOG chỉ trong hai ô vuông trên bản đồ dọc theo biên giới Việt – Lào. Ông ta c̣n ra điều kiện cho tất cả các cuộc oanh kích đều phải xuất phát từ lănh thổ Thái Lan và cấm sử dụng trực thăng đổ quân xâm nhập. V́ vậy các toán thám báo đều phải đi bộ xâm nhập vào đất Lào, mặc dù họ vẫn có thể được trực thăng bốc về trong trường hợp khẩn cấp.

    Để tránh rắc rối với vị Đại sứ Mỹ tại Lào, Đại tá Blackburn quay sang xin một phi đoàn trực thăng 219 của Không quân Quân đội Sài G̣n, đóng tại Đà Nẵng biệt phái sang Lào. Tuy rằng những phi công trong Phi đoàn 219 đều lái những chiếc trực thăng H34 cũ kỹ, nhưng rất bảo đảm, v́ họ được đánh giá là những quân nhân can đảm và là niềm kiêu hănh của lực lượng SOG, do đă giải cứu được nhiều biệt kích quân.


    Trung Lập, 14/01/1966

    Đầu tháng 9/1962, Đại tá Bull Simons lập sở chỉ huy tiền phương của cuộc hành quân Shining Brass tại Đà Nẵng, do Trung tá Ray Call chỉ huy. Sở chỉ huy tại Sài G̣n bắt đầu gọi Sở chỉ huy ở Đà Nẵng là tiền phương của tiền phương cho các toán viễn thám trong cuộc hành quân Shining Brass. Sau này Sở chỉ huy trên trở thành sở chỉ huy vùng như các sở chỉ huy Bắc, Trung, Nam (CCN, CCC, CCS). Riêng Sở chỉ huy Đà Nẵng nằm trong phi trường.

    Tuy nhiên, Đà Nẵng vẫn c̣n cách xa biên giới Việt – Lào, mà Trung tâm hành quân Shining Brass cần 1 căn cứ hành quân cụ thể (FOB) để làm nơi chứa quân, cung cấp nhiên liệu cho trực thăng và đưa các toán thám báo xâm nhập. Họ quyết định sử dụng trại biệt kích Khâm Đức, cách Đà Nẵng 60 dặm về hướng tây nam, cách biên giới Việt – Lào chừng 10 dặm, làm căn cứ hành quân. Thiếu tá Charlie Norton được chỉ định làm chỉ huy trưởng căn cứ, Đại úy Larry Thorne chịu trách nhiệm thả các toán thám báo.

    Trước mắt đă có 5 toán biệt kích đầu tiên (Iowa, Alaska, Idaho, Kansas và Dakota) kết thúc khóa huấn luyện tại trại Khâm Đức. Toán trưởng mỗi toán có mật hiệu là “Một – không” (One – Zero); toán phó là “Một – một”; nhân viên truyền tin là “Một – hai”. Ngoài ra, có thể có thêm thành viên người Nùng, hoặc thêm 1 sĩ quan biệt kích của Quân đội Sài G̣n đi theo để học hỏi kinh nghiệm về kỹ thuật thám báo.

    Toán đầu tiên xâm nhập lănh thổ Lào, trong chương tŕnh hành quân Shining Brass là toán Iowa gồm 2 biệt kích quân Mỹ, 1 sĩ quan biệt kích Quân đội Sài G̣n và 7 biệt kích quân Nùng. Họ mặc quân phục không cấp bậc, phù hiệu đơn vị; quần áo, ba lô đều sản xuất tại Việt Nam. Vũ khí toán Iowa được trang bị gồm tiểu liên 9 ly của Thụy Sĩ; súng ngắn 9 ly của Bỉ. Tất cả đồ trang bị cho họ đều bí mật, trong trường hợp bị phát hiện, đối phương cũng không thể biết họ là ai.


    Toán Iowa

    Trong trường hợp toán bị bắt sống, các thành viên Iowa được dặn ḍ phải trả lời rằng họ trên đường đi t́m chiếc máy bay C123 bị bắn rớt và không ngờ “đi lạc” sang biên giới. Để câu trả lời có thêm trọng lượng, SOG c̣n làm thêm bản đồ giả, trong đó có đường biên giới quốc gia Việt – Lào dời sang lănh thổ Lào tới 10 km về hướng tây (!)

    Mặc dù Hà Nội không công nhận có quân ở bên Lào, nhưng đến tháng 10/1965, quân pḥng vệ, công binh, tiếp vận của họ ở bên Lào lên đến 30.000 quân, chưa kể 4.500 quân xâm nhập vào miền Nam hàng tháng. Khoảng 200 xe vận tại chở đồ tiếp tế di chuyển trên đường ṃn Hồ Chí Minh hàng tháng. Đến mùa khô 1964-1965, qua không ảnh do máy bay thám thính U -2 chụp được cho thấy đối phương mở thêm đường mới bên Lào và đă thông đường cho xe vận tải.

    Mục tiêu cho toán Iowa là D-1, ở vị trí khoảng 20 dặm về hướng tây bắc Khâm Đức, nơi có đường 165 của Lào đến gần biên giới. Mục tiêu D-1 là vị trí mà quân Mỹ nghi quân Bắc Việt đặt súng cối bắn hỏa tiễn vào các đơn vị thủy quân lục chiến và căn cứ không quân Mỹ đóng tại Đà Nẵng.

    Ngày 18/10/1965, báo chí Mỹ đăng tin Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 của họ chạm trán quyết liệt với 2 Trung đoàn 66 và 33 của Quân đội Bắc Việt tại thung lũng Ia Drang. Không ai biết cùng thời điểm ấy, tại trại Khâm Đức đang diễn ra một phi vụ bí mật.


    Thung lũng Ia Drang, nơi 2 bên chủ động gặp nhau, và trở thành 1 trong
    những trận đánh đẫm máu nhất trong chiến tranh VN

    Đầu giờ chiều, tất cả các thành viên trong toán Iowa đều mở ba lô ra để kiểm tra mọi tư trang lần cuối cho chắc chắn. Họ không được phép mang theo những ǵ liên quan đến Mỹ. Trong khi các biệt kích quân đang thử lại súng của họ th́ Thiếu tá Norton, Đại úy Thorne đưa các phi công Việt Nam, phi công trực thăng yểm trợ và máy bay thám thính, điều hành không yểm trợ tiền tuyến (FAC) đến Trung tâm hành quân bàn kế hoạch thả toán biệt kích Iowa.

    Nơi thả toán Iowa là một khu vực cây cối đă bị đốn và đốt cháy, v́ dân tộc Lào cũng như ở Việt Nam có thói quen đốt rừng làm rẫy. theo kế hoạch, toán sẽ được thả vào lúc trời sắp tối. Như vậy, đối phương sẽ không có thời gian cho quân truy lùng như ban ngày. Trường hợp chạm trán với đối phương ngay tại băi đáp th́ trực thăng H34 do phi công Việt Nam lái sẽ bốc toán biệt kích lên, trong lúc các trực thăng vũ trang khác bắn yểm trợ.

    Lúc 18h kém 15’ chiều ngày 18/10/1965, máy bay thám thính (FAC) do Thiếu tá không quân Harley Pyles cất cánh trước, chở theo sĩ quan không yểm của SOG tại Sài G̣n là Đại úy thủy quân lục chiến Winfield Sisson. Vài phút sau, Harley Pyles báo cáo về là thời tiết có mây thấp cùng với sương mù. Lập tức lệnh thả toán thám báo được ban ra. Ba chiếc H34 nổ máy, sẵn sàng cất cánh. Các biệt kích quân Mỹ đều phải để lại tất cả giấy tờ tùy thân, từ thẻ bài, thẻ căn cước, cho đến thuốc lá Mỹ. Trong trường hợp họ bỏ mạng, không lấy được xác, th́ chính quyền Mỹ sẽ chối bay về hành tung của họ. Xem ra người Mỹ quả là người biết tính toán kỹ.

    Đúng 18 giờ chiều, những chiếc trực thăng cất cánh, đem theo toán Iowa. C̣n những chiếc trực thăng vũ trang bay theo yểm trợ. Đến địa điểm quy định, ba chiếc H34 đáp xuống chớp nhoáng, thả toán Iowa biến mất vào trong rừng. Đại úy Thorne, người chịu trách nhiệm thả toán Iowa lệnh cho 2 chiếc H34 bay về trước, tiếp theo là máy bay thám thính và trực thăng vũ trang. Thorne chờ cho đến khi toán Iowa báo cáo đă đáp đất an toàn rồi mới bay trở về Khâm Đức. Thế nhưng, Đại úy Thorne cùng chiếc H34 của Phi đoàn 219 không quân Sài G̣n đă mất tích không hiểu v́ lư do ǵ. Thế là ngay phút đầu tiên mở màn, cuộc hành quân Shining Brass đă bị tổn thất.


    Chiếc máy bay thám thính do Thiếu tá Pyles lái cùng với Đại úy Sisson cất cánh rời trại Khâm Đức, trên đường về căn cứ Đà Nẵng cũng biến mất luôn. Trong một ngày, Quân đội Mỹ đă mất đi ba quân nhân không t́m ra tung tích. Phải đến 38 năm sau, vào năm 2003, người ta mới t́m ra hài cốt của họ.

    Rạng sáng ngày hôm sau, 19/10/1965, Thiếu tá Norton được báo cáo rằng toán Iowa đă đến mục tiêu D-1, có Quân đội Bắc Việt trong khu vực. Đối phương có mặt khắp nơi, đóng quân rải rác dọc theo hệ thống đường ṃn Hồ Chí Minh. Sang ngày thứ 3 (20/10), sau khi đi qua nhiều nhánh đường ṃn, toán Iowa hướng về khu vực có tiếng động cơ xe vận tải để quan sát. Họ chạm trán với toán quân Bắc Việt đang đi tuần. Hai bên nổ súng, một biệt kích Nùng đi dầu trúng đạn gục xuống, quân Bắc Việt ráo riết đuổi theo.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 36
    Last Post: 29-12-2011, 11:04 PM
  2. Replies: 1
    Last Post: 22-09-2011, 07:01 AM
  3. Replies: 1
    Last Post: 06-04-2011, 04:50 AM
  4. Replies: 2
    Last Post: 25-02-2011, 03:49 AM
  5. Replies: 9
    Last Post: 16-02-2011, 12:18 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •