Page 3 of 9 FirstFirst 1234567 ... LastLast
Results 21 to 30 of 83

Thread: Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

  1. #21
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN

    (1921-2008)

    Trần Đông Phong



    Kể từ khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tiền thân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, được thành lập dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, người nắm giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu lâu đời nhất, từ 1965 đến 1975, tưc là gần 10 năm, là Đại Tướng Cao Văn Viên, kế đó là Thống Tướng Lê Văn Tỵ, gần 8 năm, từ 1955 đến 1963, c̣n những vị khác th́ thời gian họ nắm giữ chức vụ này rất ngắn ngủi, có người chỉ chừng vài năm, có người chỉ chừng vài tháng mà thôi. Tuy nhiên trong số những vị này, Đại Tướng Cao Văn Viên là người duy nhất đă nắm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng khi quân số của Quân Lực VNCH lên đến trên 1 triệu người cả nam lẫn nữ và vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa, ông đă được Tổng Thống Trần Văn Hương bổ nhiệm làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH, một chức vụ mà trong suốt thời Đệ Nhị Cộng Ḥa do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nắm giữ.

    Theo bản tiểu sử chính thức của Việt Tấn Xă (Who’s Who in Vietnam,VNTTX Saigon, 1974) ông Cao Văn Viên sinh tại Vientiane (Vạn Tượng,) thủ đô nước Lào ngày 11 tháng 12 năm 1921. Ông theo học trường trung học của người Pháp ở Vientiane và sau khi tốt nghiệp bằng Diplome (trung học Đệ Nhất cấp), ông đi làm công chức trong ngành Kho Bạc (ngân khố) tại thủ đô nước Lào. Ông không phải là một người t́nh nguyện gia nhập vào quân đội, khi c̣n ở tuổi đôi mươi như những vị sĩ quan khác mà chỉ gia nhập vào quân đội một cách bất đắc dĩ sau khi bị bắt cầm tù. Có nhiều người từng quen biết với Đại Tướng Cao VănViên cho biết rằng ông Cao Văn Viên trở về Việt Nam với ư định tham gia kháng chiến chống Pháp nhưng lại bị quân đội Pháp bắt khi ông trên đường trở về Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 1940. Thấy ông nói tiếng Pháp thông thạo, quân Pháp bắt ông phải đi theo họ để làm thông ngôn (thông dịch viên) cho đến khi người Pháp mở lớp huấn luyện sĩ quan để phục vụ cho Vệ Binh Cộng Ḥa ở Nam Việt (Gardes Républicaines du Sud Vietnam,) ông đă được gửi đi thụ huấn khóa này. Ông tốt nghiệp lớp Huấn Luyện Sĩ Quan tại Cap St Jacques (Vũng Tàu) vào năm 1949, lúc bấy giờ đă gần 30 tuổi, cùng một khóa với các ông Nguyễn Chánh Thi, sau này là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, ông Nguyễn Hữu Hạnh, sau này là Chuẩn Tướng, được ông Dương Văn Minh bổ nhiệm làm Tổng Tham Mưu Phó QLVNCH vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 th́ mọi người mới biết Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh đă theo Cộng sản từ trước.

    Theo ông Phạm Văn Liễu th́ Tướng Cao Văn Viên đă từng giữ chức vụ chỉ huy những đơn vị tác chiến từ đầu thập niên 1950 tại Bắc Việt cùng với các sĩ quan sau này nắm giữ những chức vụ lănh đạo trong guồng máy chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng Ḥa như Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, Trung úy Trần Thiện Khiêm, Trung úy Tôn Thất Đính, Trung úy Đặng Văn Quang v.v. Tướng Cao Văn Viên đă từng làm tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 10 ở Tiểu Khu Hưng Yên, (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng có một thời phục vụ tại tiểu khu này với ông Cao Văn Viên,) tiểu đoàn trưởng Tiểu Đ̣an 56, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù, Tư Lệnh Quân Đoàn III trước khi được đề cử giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vào năm 1965.

    Ông cũng đă từng giữ chức vụ Tùy Viên Quân Sự tại Ṭa Đại Sứ Việt Nam Cộng Ḥa ở Washington trong hai năm rồi sau đó được cử theo học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu (CGS) của quân đội Hoa Kỳ tại Fort Leavenworth vào năm 1956-1957. Một trong những người bạn cùng khóa với ông tại Ft Leavenworth là Trung Tướng Harold G. Moore, người đă chỉ huy trận đánh Ia Drang vào năm 1965. Tướng Moore sau này là tác giả cuốn sách “We’re Soldier Once…and Young” và cuốn sách này đă được quay thành phim rất ăn khách với tài tử nổi tiếng Mel Gibson đóng vai tướng Harold Moore, với sự cộng tác của tài tử Đơn Dương ở Việt Nam. Cũng v́ đóng phim này mà Đơn Dương bị chính quyền Cộng sảnViệt Nam gây ra rất nhiều khó khăn nhưng nhờ có sự can thiệp tích cực của giới nghệ sĩ Hollywood cho nên Đơn Dương sau cùng mới được di dân sang sinh sống ở Hoa Kỳ.

    Sau khi trở về nước, Trung Tá Cao Văn Viên được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cử làm Tham Mưu Trưởng Tham Mưu Biệt Bộ tại Phủ Tổng Thống và sau cuộc đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1960, Trung Tá Cao Văn Viên được cử giữ chức Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù.

    Ngày 3 tháng 3 năm 1964, Đại Tá Cao Văn Viên được vinh thăng Thiếu Tướng sau khi bị thương trong lúc đang chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù hành quân trong vùng biên giới Việt-Miên. Ông là người sĩ quan cấp đại tá sau cùng được thăng lên chức vụ thiếu tướng 2-sao v́ sau đó th́ Thủ Tướng Nguyễn Khánh đă sửa đổi lại quy chế và cấp bậc trong quân đội, cho thiết lập thêm cấp bậc chuẩn tướng 1-sao giống như là Brigadier General trong quân đội Hoa Kỳ.

    Sau khi được thăng lên thiếu tướng, Tướng Cao Văn Viên được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Vùng 3 Chiến Thuật ở Biên Ḥa vào năm 1964. Một năm sau đó, vào ngày 14 tháng 10 năm 1965, ông lại được cử làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Sang năm 1966, ông được bổ nhiệm làm Tổng Trưởng Quốc Pḥng kiêm Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội nhưng sau khi Hiến Pháp VNCH được ban hành vào ngày 1 tháng 4 năm 1967 th́ ông từ chức Tổng Trưởng Quốc Pḥng, chỉ c̣n giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng cho đến tháng 4 năm 1975.

    Tướng Cao Văn Viên là người rất hiếu học. Trong thời gian phục vụ tại Phủ Tổng Thống, ông đă tự học và thi đậu cả hai bằng tú tài I và II, sau đó ông lại c̣n tiếp thục theo đuổi việc học tại trường Đại Học Văn Khoa Sài G̣n và đă lấy được văn bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp.

    Sau năm 1975, ông Cao Văn Viên cùng một số sĩ quan Việt Nam, Cam-Bốt và Lào được Trung Tâm Quân Sử của Lục Quân Hoa Kỳ mời cộng tác để viết lại về kinh nghiệm của họ trong cuộc chiến tranh Đông Dương và hai tác phẩm của ông đă được trung tâm này xuất bản trong bộ sách Indochina Monographs vào thập niên 1980, đó là cuốn “Leadership” xuất bản vào năm 1981 và “The Final Collapse” xuất bản vào năm 1983. Cuốn The Final Collapse đă được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra Việt ngữ dưới tựa đề “Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Ḥa” xuất bản vào năm 2003. Ngoài ra ông đă cùng với cựu Trung Tướng Đồng Văn Khuyên viết cuốn “Reflections on the Vietnam War” được xuất bản vào năm 1980.

    Sau ngày di tản sang Hoa Kỳ, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cư ngụ tại tiểu bang Virginia và ông sống một cuộc đời rất thầm lặng, ít liên lạc với bên ngoài cũng như là rất ít xuất hiện trước đám đông, kể cả những buổi họp mặt của các hội đoàn cựu quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa. Bà Cao Văn Viên đă từ trần cách đây ít lâu và v́ t́nh trạng sức khỏe trở nên rất suy yếu, trong những năm gần đây, ông Cao Văn Viên được đưa vào sống trong một nhà an dưỡng cho người cao niên tại niên tại Arlington thuộc vùng ngoại ô thủ đô Washington D.C.

    Suưt Bị Phe Đảo Chánh 1-11-1963 Thủ Tiêu

    Vào buổi trưa ngày 1 tháng 11 năm 1963, Đại Tá Cao Văn Viên không theo phe đảo chánh và “chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” nhưng có một số sĩ quan khác lại không được may mắn như vậy.

    Sáng ngày hôm đó, Đại Tá Cao Văn Viên cũng như tất cả các vị tư lệnh mọi quân binh chủng và giám đốc nha sở tại Sài G̣n đều được lệnh cuả Trung Tướng Trần Văn Đôn, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội VNCH, mời về họp tại Bộ Tổng Tham Mưu.

    Đúng 1 giờ 30 chiều, Trung Tướng Dương Văn Minh, nhân danh Chủ Tịch Hội Đồng Cách Mạng tuyên bố với tất cả sĩ quan hiện diện rằng Quân Đội đă đứng lên làm đảo chánh chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Tướng Minh hỏi từng người ai không theo “cách mạïng.” Đại Tá Cao Văn Viên và Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt từ chối không theo và cả hai ông đều bị quân cảnh c̣ng tay rồi nhốt trong một căn pḥng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Cùng bị nhốt chung với hai vị đại tá nói trên c̣n có Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống, Đại tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân, Trung Tá Nguyễn Văn Thiện, Chỉ Huy trưởng Thiết Giáp và Đại Tá Trần Văn Trung, Tùy viên Quân sự tại ṭa Đại sứ Việt Nam tại Paris vưà mới về nuớc v.v.

    Tối hôm đó, Đại úy Nguyễn Văn Nhung, sĩ quan tùy viên của Dương Văn Minh, mang Đại Tá Lê Quang Tung và em trai cuả ông là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt sang nghiă địa cuả Hội Bắc Việt Tương Tế cạnh Bộ Tổng Tham Mưu bắn chết. Không ai được biết một cách chính xác người nào đă ra lệnh xử tử hai vị sĩ quan này, nhưng chỉ trong ṿng một ngày 2 tháng 11, viên sĩ quan tùy viên này của Tướng Dương Văn Minh đă giết chết 4 mạng người, nếu kể thêm cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu. Cho đến bây giờ, thân nhân cuả hai ông Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu cũng không thể nào t́m được di hài cuả họ mặc dù đă cố cất công hỏi thăm t́m kiếm từ năm 1963. Người duy nhất biết đích xác nơi chôn vùi hai vị sĩ quan này là Đại úy Nhung, nhưng ông này đă “dùng dây giày tự tử” sau cuộc chỉnh lư ngày 30 tháng 1 năm 1964.
    Một vị sĩ quan khác cũng cùng chung số phận với hai vị sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt này, đó là Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân.

    Sáng ngày 1 tháng 11, Đại Tá Hồ Tấn Quyền được một sĩ quan Hải Quân cũng là bạn cuả ông là Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực mời đi Thủ Đức để ăn mừng sinh nhật cuả ông Quyền. Sau này có nhiều người thắc mắc tại sao Đại Tá Quyền lại đi Thủ Đức ăn sinh nhật vào buổi sáng ngày 1-11 v́ trên nguyên tắc, ông là tư lệnh một quân chủng th́ đă phải nhận được lệnh về dự phiên họp đặc biệt tại Bộ Tổng Tham Mưu vào trưa hôm đó, tại sao ông lại đi Thủ Đức v́ một việc riêng cuả ông?

    Một nguồn tin từ trước năm 1975 nói rằng theo cuộc điều tra của An Ninh Hải Quân sau này th́ người tài xế lái chiếc xe traction cuả Đại Tá Quyền kể lại rằng dường như Đại Tá Quyền có vẻ không muốn đi nhưng hai người sĩ quan kia đi hai bên có vẻ như là ông bị kèm ở giưă. Trên xe, Đại Tá Quyền ngồi ở giưă, Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực ngồi bên phải và Đại Úy Nguyễn Kim H.G. ngồi bên trái ở băng sau. Điều này cho thấy là ông Quyền bị áp lực cuả hai ông sĩ quan thuộc cấp v́ theo lễ nghi quân cách th́ vị tư lệnh bao giờ cũng phải ngồi ở vị trí bên phải chứ không ngồi ở giưă. Khi xe chạy qua vườn cao su Thủ Đức (lúc bấy giờ Xa lộ Biên Hoà đang được xây cất), người tài xế nghe có tiếng căi cọ ở phía sau, rồi có tiếng súng nổ. Đại Tá Quyền là người khá to lớn, ông lại có vơ nên cả hai vị sĩ quan kia phải khó khăn lắm mới hạ nỗi ông Quyền. Người tài xế được lệnh ngừng xe lại, hai người kia đẩy xác Đại Tá Quyền xuống rừng cao su rồi sau đó xe lại chạy về Bộ Tổng Tham Mưu. Đại Tá Hồ Tấn Quyền bị đâm chết bằng nhiều lát dao, không biết rơ ai là thủ phạm, tuy nhiên cả hai ông sĩ quan ngồi cùng ông Quyền ở sau chiếc xe traction đó sau này đều được thăng chức và không hề bị truy tố về tội sát nhân. Trung Tá Lực đă qua đời tại Pháp cách đây ít lâu, c̣n ông Nguyễn Kim H. G, th́ vẫn c̣n sống tại Hoa Kỳ. Đại Tá Hồ Tấn Quyền nhất quyết không chịu theo phe đảo chánh do đó mà ông đă bị hạ sát.

    Người viết được may mắn có quen biết với một vị sĩ quan hải quân, người này là bạn của Thiếu Tá Nguyễn Văn Lực. Trong một cuộc gặp gỡ gần đây tại Westminster, California, vị cựu đại tá Hải Quân này có kể cho người viết nghe những chi tiết về việc Tư Lệnh Hải Quân Hồ Tấn Quyền bị giết vào năm 1963 theo lời tường thuật của chính Trung Tá Lực (mới được thăng chức sau ngày đảo chánh) và những chi tiết này hoàn toàn không giống như nguồi tin vưà nói ở trên.

    Trung Tá Lực cho biết rằng ông đă được “móc nối” về vụ đảo chánh và được lệnh phải t́m cách cô lập hoặc đưa Đại Tá Hồ Tấn Quyền ra khỏi Bộ Tư Lệnh Hải Quân vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 v́ phe đảo chánh không muốn các đơn vị hải quân chống lại đảo chánh.

    Sáng ngày hôm đó là ngày lễ Toussaint (Các Thánh) cho nên công chức và quân nhân được nghỉ nưả ngày, Đại Tá Quyền cùng Thiếu Tá Lực đi đánh quần vợt. Sau đó, Thiếu Tá Lực mời Đại Tá Quyền đi lên Thủ Đức nhậu để mừng sinh nhật của ông Quyền. Ông Quyền không muốn đi v́ ông nói rằng chiều hôm đó ông phải vào tŕnh diện Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Ông Quyền vẫn không chịu đi nhưng v́ ông Lực năn nỉ hết lời cho nên cuối cùng th́ ông nhượng bộ nhưng đ̣i ông Lực phải về sớm. Ông Lực thường lái xe riêng, một chiếc xe hiệu Vauxhall của Anh, tuy nhiên lúc đó ông bảo người tài xế của Đại tá Quyền sang lái chiếc xe của ông và chính ông Lực th́ lái chiếc xe “Traction” của ông Quyền. Đại Tá Quyền ngồi cạnh Thiếu Tá Lực ở băng trước, Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang ngồi đằng sau. Khi xe chạy lên tới vườn cao su Thủ Đức, Thiếu Tá Lực mới nói cho Đại tá Quyền rằng các tướng lănh đang đảo chánh tại Sài G̣n và yêu cầu ông Quyền theo phe đảo chánh. Ông Quyền nghe nói như vậy th́ giận lắm, ông từ chối không chịu theo đảo chánh, mặt ông đỏ rần lên và ra lệnh cho Thiếu Tá Lực phải quay xe trở lại Sài G̣n. Ông Lực không nghe lời, cứ lái xe chạy thẳng và lúc đó th́ Đại Tá Quyền rút một con dao găm trong người đâm vào tay phải của ông Lực mấy nhát. Ông Lực phải cố gắng lắm mới giữ được chiếc xe khỏi bị lật và trong lúc đó th́ Đại úy Nguyễn Kim Hương Giang ở đằng sau rút khẩu súng lục Colt-12 bắn một phát vào sau gáy ông Quyền. Đại Tá Hồ Tấn Quyền chết ngay trên chiếc xe traction của ông. Sau đó hai ông Lực và Hương Giang ngừng xe trong rừng cao su, khiêng xác ông Quyền dấu vào sau cốp xe rồi lái thẳng về Bộ Tổng Tham Mưu tŕnh diện các tướng lănh.

    Vị sĩ quan hải quân này cho người viết biết rằng ông gặp Trung Tá Nguyễn Văn Lực chỉ mấy ngày sau cuộc đảo chánh và thấy tay phải của ông Lực vẫn c̣n bị băng bó. Ông c̣n cho biết thêm rằng Trung Tá Lực có nói với ông nguyên văn như sau: “cả hai thằng chỉ được có ba trăm ngàn chứ mấy!” Sau đó ông Lực được thăng lên trung tá và được Hội Đồng Cách Mạng cử đi làm Tùy Viên Quân Lực tại Đại Hàn. Sang năm 1964, sau cuộc chỉnh lư th́ ông Lực được lệnh phải về Sài G̣n tŕnh diện. Khi ông Lực về đến Sài G̣n th́ có người mách ông ta rằng có thể ông sẽ bị bắt, do đó ông đă đào ngũ và chạy sang Nam Vang rồi sang sinh sống ở Pháp. Cố Hải Quân Đại Tá Phạm Gia Luật có thời làm Tùy viên Hải Quân tại London có cho người viết biết rằng hồi đó ông vẫn thường sang Pháp chơi và vẫn đến thăm bạn cũ là cựu Trung Tá Nguyễn Văn Lực đang làm chủ một tiệm ăn nhỏ ở Paris. Ông Nguyễn Văn Lực đă qua đời tại Pháp.

    Vị cựu đại tá hải quân này cũng cho biết Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang sau đó được thuyên chuyển về Thủy Quân Lục Chiến và có người kể lại rằng trong nhà ông ta có chưng h́nh của cố Đại tá Hồ Tấn Quyền trên bàn thờ v́ ông bị hồn ma của Đại Tá Quyền về “phá” hoài. Cựu Đại Tá Nguyễn Kim Hương Giang hiện vẫn c̣n sống tại Hoa Kỳ. Người viết hỏi vị đại tá này có nên viết tắt tên của Đại úy H.G. hay không th́ ông trả lời rằng không cần thiết v́ trong Hải Quân ai cũng đều biết chuyện này.

    Cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ lúc đó là Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống chống lại phe đảo chánh có nói về hai viên sĩ quan Hải Quân này như sau:
    “…Sau đó, Đại đội 3 đóng ở Sở Thú báo cáo bắt được một thiếu tá Hải Quân tên là Lực và một đại úy tên là Giang, họ tưởng quân của Lữ Đoàn là quân của phe đảo chánh nên nhờ báo cáo lên Tổng Tham Mưu là họ đă giết được Đại Tá Quyền, Tư Lệnh Hải Quân rồi. Đại đội 3 xin tôi quyết định về hai ông này. Tôi ra lệnh phải giam giữ hai ông cẩn thận để sau này Tổng Thống quyết định….
    “Sau cách mạng, Thiếu Tá Lực được lên trung tá. Đại úy Giang, người cùng Thiếu tá Lực giết Đại Tá Quyền, sau cũng lên trung tá và anh cũng sang Mỹ tỵ nạn, cùng ở San Diego như tôi. Chúng tôi cũng đôi khi gặp nhau…”

    Trung Tướng Trần Văn Đôn cũng có nhắc đến chuyên Đại Tá Hồ tấn Quyền bị giết: “tại câu lạc bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tướng Dương Văn Minh cho tôi biết tin Trung Tướng đă ra lệnh quân sĩ về thủ đô sớm hơn trù liệu v́ Đại Tá Hồ Tấn Quyền đă bị giết sợ e đổ bể… Từ đó tôi ra lệnh không được cho bất cứ ai ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham Mưu v́ tôi sợ bị tiết lộ…”

    Trong ngày hôm đó, Đại Tá Cao Văn Viên may mắn chỉ bị c̣ng tay nhưng không bị giết.
    Sự may mắn đó có lẽ là nhờ ở sự can thiệp của một người bạn cũ thời cùng phục vụ tại Tiểu khu Hưng Yên ở Bắc Việt, lúc đó đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân tại Bộ Tổng Tham Mưu: Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm. Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, chánh văn pḥng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, một trong những người đă được chứng kiến từ đầu đến cuối mọi diễn tiến của cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 v́ khi đó văn pḥng của tướng Trần Thiện Khiêm là bản doanh của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, có nói đến việc Đại Tá Cao Văn Viên bị bắt giữ như sau:
    “Một lúc sau đó, tôi vào tŕnh Thiếu Tướng Khiêm:
    - Thưa Thiếu Tướng, tôi thấy giữ Đại Tá Viên (Đại Tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù), dưới pḥng họp không tiện lắm. Xin Thiếu Tướng cho phép đưa Đại Tá Viên lên ngồi ở văn pḥng tôi và tôi chịu trách nhiệm.
    - Được rồi, chú đưa Đại Tá Viên lên pḥng chú đi.”
    Như vậy có lẽ nhờ được ngồi trong văn pḥng của Đại úy Phạm Bá Hoa ở ngay bên ngoài văn pḥng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm và cũng nhờ t́nh bạn giữa Đại Tá Cao Văn Viên với Tướng Khiêm mà những tướng khác trong phe đảo chánh đă không giết ông như trường hợp Đại tá Lê Quang Tung. Về sau, khi Tướng Cao Văn Viên trở thành Tổng Tham Mưu Trưởng, ông Phạm Bá Hoa được Tướng Viên giữ lại làm Chánh Văn pḥng của ông cho đến khi được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Cần Thơ.

    Một nhân vật nữa cũng bị c̣ng tay nhưng may mắn không bị giết là Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống. Theo cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, tham mưu trưởng của ông cho biết như sau: “Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Lữ Đoàn Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống kể với tôi rằng khi ông đi họp ở Tổng Tham Mưu vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 th́ bị Thiếu Tá Thiệt, Quân Cảnh, c̣ng tay với nhiều sĩ quan cao cấp mà phía đảo chánh gọi là “người tin cậy của Tổng Thống Diệm.” Ông cằn nhằn Thiếu tá Thiệt: “Sao kỳ vậy anh Thiệt? Tôi là sĩ quan cao cấp được Tổng Tham Mưu mời họp mà anh lại c̣ng tôi?” Thiếu tá Thiệt trả lời: “Thưa Trung Tá, tôi không dám, nhưng đây là lệnh của Đại Tá Quan.” Thật vậy, sau này tôi mới biết địa vị quan trọng của Đại Tá Nguyễn Văn Quan từ lúc tổ chức đảo chánh, rồi ông được coi như là phụ tá của Trung Tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu đảo chánh sau trở thành quốc trưởng.”

    Đại Tá Nguyễn Ngọc Khôi sau này có cho người viết biết rằng vào ngày hôm sau, 2 tháng 11 năm 1963, mấy vị sĩ quan bị bắt đước gặp Trung Tướng Dương Văn Minh và Trung Tá Khôi đă nói với Tướng Minh rằng các ông chỉ là những sĩ quan trong quân đội, mỗi người đảm trách một chức vu nào đó để thi hành nhiệm vụ mà Bộ Quốc Pḥng giao phó chứ không có quyền chọn lựa ǵ cả. Ông hỏi Tướng Minh tại sao mà những sĩ quan phục vụ cho quân đội chứ không phải là Việt Cộng mà lại bị quân đội dưới quyền lănh đạo của ông Minh c̣ng tay? Ông Khôi cho biết thêm rằng sau đó ông Dương Văn Minh ra lệnh mở c̣ng cho các sĩ quan đang bị giam giữ tại Bộ Tổng Tham Mưu như Đại Tá Huỳnh Ngọc Hiền, Đại tá Trần Văn Trung, Trung Tá Nguyễn Văn Thiện v.v. Tuy nhiên theo Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ th́ sau ngày đảo chánh, Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi lại bị nhóm tướng lănh “cách mạng” giam ở khám Chí Ḥa (173).

  2. #22
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN
    (1921-2008)
    P2
    Trần Đông Phong




    Trong một cuộc tiếp xúc dành cho người viết tại tư gia của ông tại thành phố Garden Grove, California, cựu Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi cho biết rằng ông được Đại Úy Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Pḥng của Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm gọi điện thoại mời lên họp tại Bộ TTM vào buổi trưa ngày 1 tháng 11 và sau khi ăn trưa tại câu lạc bộ sĩ quan th́ tất cả các sĩ quan được mời sang Pḥng Họp tại Ṭa Nhà Chánh tức là Văn Pḥng của Tổng Tham Mưu Trưởng. Vào khoảng hai ba giờ chiều ǵ đó th́ Thiếu tá Thiệt đến gặp nhửng sĩ quan mà ông có tên trong một danh sách và c̣ng tay họ lại. Đại Tá Khôi cho biết ông Thiệt căn cứ vào danh sách và có người th́ bị c̣ng riêng, có người th́ bị c̣ng chung với người khác. Đại tá Khôi phản đối và đ̣i được nói chuyên với Trung Tướng Dương Văn Minh. Đến chiều tối th́ Tướng Minh vào pḥng và khi thấy Đại Tá Khôi đang bị c̣ng th́ ông ra lệnh cho Thiếu tá Thiệt mở c̣ng cho ông.

    Đại Tá Khôi hỏi Tướng Minh là ông ta có nói chuyện với Tổng Thống Diệm hay không th́ ông Minh nói rằng ông Diệm có nói chuyện với Thiếu Tướng Khiêm. Ông Minh nói thêm rằng “Tôi không có mang ơn nghĩa ǵ với gia đ́nh họ Ngô và tôi sẵn ḷng để cho họ ra đi. Nhưng mà họ c̣n ngoan cố, trốn ra khỏi Dinh Gia Long rồi t́m cách liên lạc với chỗ này chỗ nọ…Tôi sợ rằng tôi không c̣n có thể bảo đảm an ninh cho họ được nữa…”

    Ông Khôi nói rằng tối hôm đó những sĩ quan bị bắt được ăn cơm mang cơm từ Câu Lạc bộ Sĩ quan sang rồi khoảng chừng lối 11 giờ th́ ông Khôi cùng một số sĩ quan được đưa sang pḥng khác và anh em Đại Tá Lê Quang Tung th́ lại được đưa sang một pḥng khác nữa. Đó là lần cuối cùng ông nh́n thấy hai vị sĩ quan này…Ngày hôm sau ông bị các tướng lănh cách mạng nhốt vào khám Chí Ḥa.

    Cựu Đại Tá Nguyễn Ngọc Khôi có tiết lộ cho người viết một chi tiết quan trọng có liên quan đến kế hoạch chống đảo chánh của ông Ngô Đ́nh Nhu. Ông Khôi nói với người viết rằng khoảng một vài hôm trước ngày cuộc đảo chánh diễn ra, ông Ngô Đ́nh Nhu đă đưa ra một kế hoạch nhằm bắt giữ một số tướng lănh và sĩ quan bị nghi ngờ là có thể đang âm mưu đảo chánh. Theo kế hoạch này th́ nếu có lệnh của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, đơn vị được giao phó cho việc đi bắt này sẽ là Lực Lượng Đặc Biệt dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê Quang Tung, một vị sĩ quan được xem như là người trung thành nhất với chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Ông Khôi nói rằng em trai của ông là Đại úy Nguyễn Ngọc Hạp, lúc bấy giờ là sĩ quan tùy viên của ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu đă kể lại với ông rằng vào khoảng ngày 31 tháng 10 năm 1963, ông Nhu đă tŕnh với Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm yêu cầu thi hành kế hoạch bắt giữ các tướng lănh nhưng Tổng Thống Diệm đă bác bỏ sự yêu cầu này v́ ông cho rằng ông là vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội th́ không thể nào ra lệnh bắt giữ các sĩ quan khi mà họ chưa có làm điều ǵ phạm pháp.

    Tổng Thống Diệm Có Ư Định “Ẩn Trốn” Trong Nhà Đại Tá Viên?

    Khi xảy ra vụ đảo chánh 1-11-63, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng c̣n ở Hoa Kỳ, tuy nhiên trong cuốn “The Palace File,” ông có đề cập đến chuyện Đại Tá Cao Văn Viên hồi đó, v́ theo ông th́ cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă kể lại cho ông nghe khi ông phỏng vấn ông Thiệu ở Luân Đôn hồi năm 1976.

    TS Hưng viết rằng:
    “Theo Tướng Tôn Thất Đính th́ khi Đại Tá Cao Văn Viên từ chối không ủng hộ “cách mạng,” Tướng Dương Văn Minh ra lệnh thủ tiêu ông Viên, nhưng Tướng Đính đă cứu mạng ông Viên và nói với ông Minh rằng Đại Tá Viên sẽ không chống lại cuộc đảo chánh, nhờ vậy mà ông Viên chỉ bị nhốt tại Bộ Tổng Tham Mưu chứ không bị thủ tiêu. Ông Viên đă đồng ư để cho hai ông Diệm và Nhu đến ẩn trốn trong nhà ông, tuy nhiên, bà Cao Văn Viên, người vẫn thường đánh mạt chược với tướng Tôn Thất Đính, đă tiết lộ rằng chiều ngày 1-11-63, khi trong Dinh Gia Long gọi điện thoại cho bà th́ bà cho họ biết rằng ông Viên đă bị bắt và nhà cuả bà đang bị canh chừng. Do đó, TT Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu đă đến nhà Mă Tuyên trong Chợ Lớn để tá túc.”

    Người viết có phối kiểm với Đại Tá Trần Văn Thăng, cựu Cục trưởng Cục An Ninh Quân Đội, cựu Phó Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc gia về chuyện Đại Tá Cao Văn Viên bị nhốt ở Tổng Tham Mưu vào ngày đảo chánh 1-11-1963, Đại Tá Thăng lúc đó là Chánh Sở 3 An ninh Quân Đội dưới quyền của Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Tư Lệnh Quân Đoàn III. Ông Thăng cho biết rằng người đă can thiệp với Trung Tướng Dương Văn Minh không nên thủ tiêu Đại Tá Cao Văn Viên hồi đảo chánh năm 1963 không phải là Trung Tướng Tôn Thất Đính v́ lúc bấy giờ Tướng Đính đang chỉ huy và điều động các đơn vị đảo chánh tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở đại lộ Lê Văn Duyệt. Người đă can thiệp cho Đại tá Cao Văn Viên chính là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, lúc bấy giờ đang giữ chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân/ Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà và ngày hôm đó ông đang ngồi ở Bộ Tổng Tham Mưu bên cạnh Trung Tướng Dương Văn Minh. Đại Tá Thăng nói thêm rằng: “Hơn nưă, Tướng Khiêm là bạn thân của Đại tá Cao Văn Viên.”

    Điều này rất đáng tin v́ theo Đại Tá Phạm Bá Hoa th́ “tôi quen biết chưa nhiều với Đại Tá Viên, nhưng theo bà Khiêm nói lại, theo đó th́ Thiếu Tướng Khiêm, Thiếu Tướng Khánh và Đại tá Viên rất thân nhau, nhất là từ khi ba vị này c̣n là sĩ quan cấp úy và cùng chiến đấu ở mặt trận Na Sản trên đất Lào trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp. Và ba gia đ́nh này cũng thân nhau v́ có nhiều thời gian sống chung nhau ở Hà Nội trong khi các ông cùng ở mặt trận. Đó là nguyên nhân.”

    Tướng Cao Văn Viên cũng phủ nhận chuyện Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm dự định đến “ẩn trốn” trong nhà của ông vào chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963 theo như lời ông Nguyễn Tiến Hưng thuật lại trong cuốn sách của ông. Một người bạn của Đại Tướng Cao Văn Viên có cho người viết biết về nội dung của cuộc điện đàm giưă Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và bà Cao Văn Viên vào chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963 do chính Tướng Cao Văn Viên kể lại như sau:
    “Khi nghe tiếng điện thoại reo, bà Cao Văn Viên nhắc điện thoại và nói “a-lô” th́ từ đường dây bên kia có tiếng nói giọng Huế “Mụ Viên đó hỉ !” Nhận ra đó là giọng của ông Ngô Đ́nh Diệm, bà Viên bèn chào: “kính chào Tổng Thống.” Ông Diệm hỏi: “Có Đại tá Viên ở nhà không?” Bà Viên nói rằng “Thưa Tổng Thống, nhà con đi họp trên Tổng Tham Mưu từ hồi sáng, hiện vẫn c̣n bị giữ trên đó chưa có về nhà.” Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nói với bà Viên: “Nói với ông Viên tôi gởi lời thăm. Thôi chào Mụ Viên hỉ !”

    Đại tướng Cao Văn Viên kể lại như thế và nói rằng nội dung cuộc điện đàm cuối cùng giưă Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và bà Cao Văn Viên vào chiều 1 tháng 11 năm 1963 chỉ có như vậy, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm không hề nhờ bà Cao Văn Viên cho đến nhà ẩn náu như có người đă đồn đại hoặc đă viết vào sách báo. Đại Tướng Cao văn Viên nói với người bạn này rằng ông rất kính trọng và kính phục tư cách của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, khi c̣n tại chức cũng như là trước khi từ giă cơi đời.

    Cuốn “The Final Collapse” do cựu Đại Tướng Cao Văn Viên viết từ thời 1976-1977 và đă được xuất bản vào năm 1983, tuy nhiên đến 20 năm sau cuốn sách này mới được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với sự cho phép của tác giả. Trong bản dịch tiếng Việt nhan đề “Những Ngày Cuối của Việt Nam Cộng Ḥa,” tác giả có viết thêm phần “lời bạt” v́ tác giả “muốn có đôi lời để giải thích về một hai chú thích ở bản Anh ngữ…”
    Về chuyện cuộc đảo chánh 1-11-1963, cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết:
    “Tiện đây, có mấy việc cũ cần được nêu lên cho chính xác:
    “Trưa ngày 1-11-1963, khi tŕnh diện Bộ Tổng Tham Mưu để nhận lệnh hành quân (lúc đó tác giả là đại tá tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù,) tác giả được đưa lên gặp Tướng Dương Văn Minh thay v́ Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên Quân như thường lệ.
    “Tướng Minh hỏi: “Tụi “moi” đảo chánh, toa nghĩ sao?”
    “Tác giả trả lời: “Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này trung tướng mới cho tôi hay?”
    “Đó là nguyên văn câu hỏi và trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của Tướng Minh chỉa súng “carbine” vào lưng tác giả. Vài phút sau, Đại Tá Đỗ Mậu, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có ǵ để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại Bộ Tổng Tham Mưu và chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc nhờ cảm t́nh của một số tướng tá theo phe đảo chánh và sự can thiệp của vợ ḿnh.

    “Sáng ngày 2 tháng 11, 1963, tác giả được trả tự do ra về. Vợ tác giả thuật lại: sau khi cuộc đảo chánh bùng nổ, Tổng Thống Diệm điện thoại hỏi tác giả ở đâu. Sau khi biết tác giả lên Bộ Tổng Tham Mưu họp và có lẽ bị giam giữ ở đó, TT Diệm dặn người nhà liên lạc với tác giả và nói tác giả điện thoại thẳng cho ông. Chừng một tiếng sau, TT Diệm điện thoại một lần nưă. Khi được biết không c̣n hy vọng, TT Diệm không nói ǵ thêm và cũng không khi nào ngỏ ư đến nhà tác giả. Ngoài ra cũng không có ai mời TT Diệm đến nhà tác giả như tin đồn.”

    Trong một đoạn khác, cũng trong phần “Lời Bạt,” ông Cao Văn Viên nói rơ hơn là trong cuộc đảo chánh 1963, Tướng Dương Văn Minh có ư định giết ông: “Tác giả không hợp tác với Tướng Dương Văn Minh v́ ông ta có ư định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963…”

    Ông Cao Văn Viên sau đó có nói thêm rằng ông “thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” v́ vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đă bị c̣ng tay tại Bộ Tổng Tham Mưu v́ không chịu tham gia với phe đảo chánh.

    Ba tháng sau, vào ngày 30 tháng 1 năm 1964, Tướng Nguyễn Khánh lănh đạo một cuộc đảo chánh không đổ máu lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của các tướng lănh đạo cuộc đảo chánh TT Ngô Đ́nh Diệm là Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim v.v. để lên cầm quyền. Lực lượng ṇng cốt được sử dụng trong cuộc đảo chánh này, được mệnh danh là “Chỉnh Lư” là Lữ Đoàn Nhảy Dù vẫn do Đại Tá Cao Văn Viên làm tư lệnh.

    Không Ủng Hộ Đảo Chánh, Dù Là Đảo Chánh Ôn Ḥa

    Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng th́ sau khi chứng kiến hai tử thi cuả anh em cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nằm trong chiếc thiết vận xa ở Bộ Tổng Tham Mưu năm 1963, cơn ác mộng triền miên cuả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau này là nguy cơ bị ám sát hay đảo chánh. Ông Thiệu đă cho TS Nguyễn Tiến Hưng biết rằng khi từ Dinh Gia Long về đến Bộ Tổng Tham Mưu, ông ta thấy chiếc thiết vận xa đi đón TT Ngô Đ́nh Diệm đang đậu ở trước sân và ông đă ra lệnh cho người tài xế mở cửa sau chiếc xe này. Khi được nh́n thấy xác cuả cố TT Diệm và ông Nhu đầy vết dao đâm chém và vết đạn nằm trên sàn xe đẩm máu, ông kinh hoàng và muốn xỉu. Ông giở nón và nghiêng ḿnh trướùc hai xác chết. Tổng Thống Thiệu sau này nói rằng “nếu tôi t́m được Tổng Thống và bào đệ của ông ta trong Dinh Gia Long th́ tôi đă có thể đưa hai ông về Bộ Tổng Tham Mưu trên một chiếc xe Jeep mui trần. Không có ai dám giết hai người đó giưă thanh thiên bạch nhật như vậy được.”

    Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói rằng cuộc đảo chánh 1963 cũng là một bài học thật đắng cay cho TT Nguyễn Văn Thiệu về tầm quan trọng của sự trung thành của giới sĩ quan dưới quyền ông. Có nhiều người đă phê b́nh gay gắt TT Thiệu cho rằng căn bản mà ông đă dựa vào đó để chọn Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội chỉ v́ ông đánh giá cao sự trung thành của ông Cao Văn Viên đối với TT Ngô Đ́nh Diệm trong cuộc đảo chánh 1963. Khi Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng phỏng vấn ông Thiệu tại London vào năm 1976, ông Thiệu đă bày tỏ với ông Hưng nỗi lo sợ của ông đối với việc người Mỹ có thể ám sát ông rồi đổ thưà cho Việt Cộng hoặc đảo chánh ông. Ông Thiệu biết rằng văn pḥng của ông bị người Mỹ nghe lén và sống trong một t́nh trạng luôn luôn âu lo cho sinh mạng của ông. Ông Thiệu nói với ông Hưng rằng “ tôi chỉ có an tâm trên sân quần vợt, ngay khi mà tôi bỏ chiếc vợt xuống th́ cái bóng ma đảo chánh lại trở về với tôi.”

    Chính v́ vậy mà TT Thiệu đă chọn một vị tướng lănh không có tham vọng chính trị, một vị tướng lănh thuần tuư quân sự chỉ biết phục vụ cho quân đội mà thôi để đặt vào địa vị lănh đạo quân đội. Người đó là Tướng Cao Văn Viên.

    Trong hàng ngũ tướng lănh Việt Nam, Đại Tướng Cao Văn Viên là người đă từng sống tại Hoa Kỳ lâu năm nhất, khoảng gần 4 năm kể cả thời gian làm tùy viên quân sự và theo học khoá CGS tại Fort Leavenworth. Có lẽ đó là một trong những nguyên nhân mà dường như ông có vẻ bị ảnh hưởng bởi truyền thống về vai tṛ cuả quân đội cuả người Mỹ, đó là quân đội chỉ có nhiệm vụ duy nhất là phục vụ quốc gia. Do đó, không những ông không ủng hộ cuộc đảo chánh khi c̣n là đại tá chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù mà sau này khi nắm giữ vai tṛ lănh đạo toàn thể quân đội trên một triệu người, Đại Tướng Cao Văn Viên từ chối không chịu tham gia một âm mưu đảo chánh nào, dường như là đă có 3 lần âm mưu đảo chánh như vậy.

    Đầu năm 1975, nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến có tiết lộ vói người viết về một trong những âm mưu đảo chánh nhưng bất thành v́ Đại Tướng Cao Văn Viên không chấp thuận tham gia. Theo nhà báo Như Phong th́ cuối năm 1974 đầu năm 1975, t́nh h́nh chính trị và quân sự tại Việt Nam đang trên đà suy sụp, nhất là sau khi Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH, một số người đă quy trách TT Nguyễn Văn Thiệu phải chịu trách nhiệm về nguy cơ Miền Nam có thể đi đến chỗ sụp đổ và họ dự định làm một cuộc “đảo chánh ôn ḥa” để lật đổ ông Thiệu rồi đưa Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay thế. Theo nhóm người này th́ nếu cuộc đảo chánh thành công, chế độ hợp hiến VNCH vẫn tồn tại, Hiến pháp vẫn tồn tại, tuy nhiên với Cụ Trần Văn Hương làm tổng thống th́ Cụ sẽ đứng trên chính trị, giao quyền cho một chính phủ chịu trách nhiệm trước quốc hội, có nghiă là chịu trách nhiệm trước quốc dân và Cụ sẽ giao cho quân đội hoàn toàn trách nhiệm trong công cuộc chiến đấu chống Cộng sản.

    Nhà báo Như Phong nói rằng hồi đó, tất cả bốn vị tư lệnh quân đoàn và vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH đều xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, đó là Đại Tướng CaoVăn Viên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh QĐII, Trung Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh QĐ III và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh QĐ IV và những người âm mưu tổ chức đảo chánh đă thuyết phục được đa số trong 4 vị tướng lănh này. Theo kế hoạch cuả những người này th́ 4 vị tư lệnh quân đoàn sẽ họp tại Bộ Tổng Tham Mưu dưới quyền chủ toạ cuả Đại Tướng Cao Văn Viên và họ sẽ mời TT Nguyễn văn Thiệu đến họp về t́nh h́nh quân sự rồi trong phiên họp này họ sẽ tuyên bố bất tín nhiệm ông Thiệu, đ̣i ông Thiệu từ chức hoặc là ép buộc ông Thiệu phải từ chức và sẽ mời Phó TT Trần Văn Hương lên thay thế.

    Nhà báo Như Phong nói với người viết rằng kế hoạch này đă thất bại v́ Đại Tướng Cao Văn Viên chủ trương quân đội không làm chính trị, ông từ chối không chịu tham gia đảo chánh, dù là đảo chánh “ôn hoà.”

    Không Có Tham Vọng Chính Trị

    Đối với Đại Tướng Cao Văn Viên, quân đội chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là bảo vệ hiến pháp và bảo vệ quốc gia. Đại sứ Bunker cho biết rằng “một bằng chứng cho hành động xây dựng của phiá quân đội đối với chính phủ mới là việc Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đă ra lệnh cho Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị in cuốn Hiến Pháp 1967 với phần giải thích và phân phát cho mọi quân nhân các cấp trong quân đội với mục đích để cho mọi quân nhân có ư thức rộng răi về bản Hiến pháp cũng như là các nghiă vụ của công dân, kể cả quân nhân trong quân lực.”

    Đại Tướng William C. Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đă nói về Đại Tướng Cao Văn Viên như sau : “tôi rất thán phục Đại Tướng Cao Văn Viên v́ tính t́nh chân thật, trung tín, ít nói, thông minh, lịch duyệt như là một nhà ngoại giao… Lúc ông Diệm bị lật đổ, ông Viên là tư lệnh Nhảy Dù. Mặc dù bị đe doạ đến tính mạng, ông Viên vẫn một ḷng trung thành với tổng thống nên không chịu tham gia đảo chánh. Do đó sau khi đảo chánh, ông bị cầm tù và lên án tử h́nh. Nhưng v́ ảnh hưởng cuả ông quá mạnh nên cuối cùng được trả tự do và được trở lại nắm quyền…”

    Đại Tướng Cao Văn Viên không hề có tham vọng chính trị, tuy nhiên vào năm 1967 th́ suưt nưă ông đă trở thành Quốc Trưởng nước Việt Nam Cộng Ḥa. Theo cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ kể lại trong cuốn hồi kư của ông th́:
    “ Vào năm 1967, sau khi ông Thiệu tuyên bố ông dự định sẽ ra tranh cử Tổng thống, nhiều tướng lănh trong Quân ủy (tạm dịch chữ “politburo”của ông Kỳ) đă đến gặp riêng ông Thiệu và đ̣i ông ta đừng ra tranh cử. Họ nói với ông Thiệu rằng tôi đă giữ chức vụ tối cao đó trong một thời gian quá lâu để chứng tỏ rằng tôi biết làm việc và tôi có được sự hậu thuẫn sâu rộng trong Quân Lực VNCH.
    “Các tướng lănh nói với ông Thiệu rằng:
    -Ông hảy để cho ông Kỳ ra ứng cử tổng thống, lo làm chính trị và đương đầu với người Mỹ c̣n ông th́ hảy về làm Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội.”
    “ Ông Thiệu đă trả lời với các tướng lănh rằng:
    -Không! Nếu các anh không muốn cho tôi làm ứng cử viên đại diện cho quân đội th́ tôi cũng chẳng cần đến quân đội nưă, tôi sẽ ra tranh cử một ḿnh.”
    “… Khi gần ngày hết hạn ghi danh ứng cử và công bố liên danh đại diện cho quân đội, tôi mời các tướng lănh trong “quân ủy” họp lại. Tôi hỏi các tướng lănh:
    -Thời gian mà chúng ta cần để thuyết phục ông Thiệu đừng ra ứng cử đă qua rồi. Các anh muốn ai, ông Thiệu hay là tôi?”
    -Chúng tôi muốn ông” các tướng đồng thanh trả lời.
    -Được rồi, tôi chấp nhận,” tôi nói.
    “Các tướng hỏi lại tôi:
    -Ông làm thế nào để thực hiện việc đó?”
    “Tôi trả lời:
    -Dễ dàng thôi! Nếu mà ông Thiệu muốn có một cơ may hy vọng nào th́ ông ta cần phải có sự ủng hộ của quân đội. Vậy th́ chúng ta hảy cho ông ấy về hưu. Hảy để cho ông ta ra ứng cử với tư cách dân sự nếu ông ta muốn.”
    “Tất cả mọi người gật đầu đồng ư.
    “Tôi nói tiếp:
    -Như vậy th́ chức vụ quốc trưởng sẽ bỏ trống. Sự lưạ chọn hay nhất là Tướng Cao Văn Viên, ông Viên là người có cấp bậc cao và thâm niên nhất. Các anh có đồng ư không?”
    “ Tướng Viên là Tổng Tham Mưu Trưởng và tất cả các vị Tư lệnh Vùng đều ủng hộ ông ta. Ông ta là người tốt, một quân nhân giỏi và ông ta là một trong những người ủng hộ tôi mạnh mẽ nhất…”

    Như vậy, theo sự tiết lộ của ông Kỳ th́ hồi năm 1967, nếu mọi sự xảy ra đúng như cái “quân ủy” của ông đă quyết định với nhau, có lẽ ông Thiệu đă bị cho về hưu và ông Cao Văn Viên đă trở thành quốc trưởng và khi đă làm đến chức vụ quốc trưởng th́ không ít th́ nhiều, đó là một chức vụ chính trị. Ông Cao Văn Viên không thích làm chính trị và may thay mọi sự đă không xảy ra như ông Kỳ và phe của ông dự định, ông Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă giữ Đại Tướng Cao Văn Viên ở lại chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH dù rằng theo ông Kỳ th́ ông Viên là một trong những tướng lănh ủng hộ ông mạnh nhất.



    Theo cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu chánh văn pḥng cuả Tướng Cao Văn Viên đă viết trong cuốn Đôi Ḍng Ghi Nhớ th́ Tướng Cao Văn Viên thân với Tướng Nguyễn Cao Kỳ hơn Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu v́ ông đă được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH khi ông làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là thủ tướng. Ít lâu sau đó, vào năm 1966, ông lại được Tướng Kỳ cử làm Tổng Tưởng Quốc Pḥng thay thế Trung Tướng Nguyễn Hữu Có và kiêm luôn chức Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCHù, tuy nhiên sau khi Hiến pháp được ban hành th́ việc kiêm nhiệm đó không hợp hiến do đó ông rời Bộ Quốc Pḥng chỉ giữ chức Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu và ở lại chức vụ đó cho đến năm 1975.

    Tướng Cao Văn Viên Đă Xin Từ Chức Năm, Sáu Lần

    Có nhiều người chê trách Đại Tướng Cao Văn Viên khi ông giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, họ nói rằng ông chỉ ngồi đó làm “hộp thơ” c̣n tất cả mọi sự điều động về quân sự đều do TT Nguyễn Văn Thiệu quyết định. Họ nói rằng ngay cả hai vụ triệt thoái Cao nguyên và Vùng I đều do ông Thiệu ra lệnh, Đại Tướng Cao Văn Viên không biết ǵ cả.

    Qua lời kể lại cuả cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết rằng “trên thực tế, mỗi vị tư lệnh quân đoàn là một “ḥn đảo độc lập” và TT Nguyễn Văn Thiệu luôn luôn liên lạc trực tiếp với họ. Không có một guồng máy trung ương nào về việc dự thảo các kế hoạch chiến tranh một cách hữu hiệu tại Bộ Quốc Pḥng.”

    Trong cuốn “The Final Collapse” cuả ông, Đại Tướng Cao Văn Viên nói rằng “tất cả những quyết định về quân sự đều do TT Thiệu quyết định, Bộ Tổng Tham Mưu là hoàn toàn chỉ có tính cách cố vấn mà thôi.”

    Có lẽ v́ cảm thấy bất lực không thể làm ǵ khác hơn để cải thiện guồng máy quân đội, Đại Tướng Cao VănViên đă xin từ chức mấy lần:
    “Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đă đệ đơn xin TT Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lư do là v́ tác giả đă ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quá lâu (trên 5 năm,) đă đủ thâm niên quân vụ cùng sức khoẻ kém (có kèm theo giấy bác sĩ chứng nhận.) Lư do tác giả hành động như vậy v́ vào khoảng giưă năm 1970, sau một buổi họp với Đại Tướng Creighton Abrams (Tư Lệnh MACV,) ông ta cho biết theo tin ṭa đại sứ Hoa Kỳ, TT Thiệu có ư định cho Trung tướng Đỗ Cao Trí thay thế tác giả. Chờ đợi măi không thấy lệnh thay thế, tác giả cảm thấy ḿnh không c̣n được “sủng ái” nên đă xin về hưu.”

  3. #23
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN
    (1921-2008)
    P3
    Trần Đông Phong







    Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu chánh văn pḥng cuả ĐT Cao Văn Viên cho biết rằng “Đại tướng xin từ chức mấy lần rồi mà Tổng Thống không chấp thuận, cho nên Đại tướng nói là Đại tướng không làm việc nưă cho đến khi được từ chức…” Đại Tá Hoa nói rằng đó là lời cuả bà Cao Văn Viên nói với ông ta nhân hôm sinh nhật cuả bà. Ông cũng cho biết thêm là từ năm 1972, Đại tướng Cao Văn Viên đă đệ đơn xin từ chức lên Tổng thống Thiệu tất cả là 4 lần nhưng đều bị ông Thiệu bác bỏ, do đó hàng ngày ông lái trực thăng từ tư dinh trong Chợ lớn lên Bộ Tổng Tham Mưu “làm việc tại văn pḥng nhưng cũng không làm hết việc cuả văn pḥng nưă chứ v́ những nhu cầu quan trọng do các vị tư lệnh tŕnh xin Tổng Tham Mưu theo hệ thống quân giai th́ Đại Tướùng Viên bảo các vị đó xin lên tổng thống…”

    Ông Trần Văn Đôn cũng cho biết như vậy. Theo ông Đôn th́ “đă nhiều lần ông Viên bày tỏ ư không muốn giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng nữa, xin từ chức hoài nhưng ông Thiệu không chấp nhận.”

    Trong một cuộc phỏng vấn thu h́nh dành cho Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh tại Virginia vào năm 2006, cựu Đại Tướng cao Văn Viên cho biết ông đă xin từ chức tất cả là 6 lần: “Trước khi cuộc hội đàm tại Paris tiến đến giai đoạn kết thúc vào năm 1973, t́nh h́nh quân sự càng thêm căng thẳng. Tổng Thống Thiệu, với tư cách là Tổng Tư Lệnh Tối Cao quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp về hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu lần hồi bị dồn vào vai tṛ tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc Pḥng chỉ c̣n là “hộp thơ” giữa tổng thống và Bộ Tổng Tham Mưu. V́ không có điều kiện làm việc được như trước, tôi đă năm, sáu lần xin từ chức. Ông Thiệu yêu cầu tôi nán lại đợi người thay thế nhưng ông lại không có quyết định, Tôi không có quyền bỏ ra đi một cách vô trách nhiệm…”

    Như vậy, theo Đại Tướng Cao Văn Viên th́ tuy giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội nhưng quyền bính th́ do Tổng Thống Thiệu hoàn toàn nắm giữ. Điều này cũng không có ǵ lạ v́ ngay cả thượng cấp của ông là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Chính Phủ kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng và Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, Phó Thủ Tướng cũng không hề được biết ǵ nhiều hơn ông.

    Trong bài “Mạn Đàm Với Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên” cuả Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh ngày 1 tháng 9 năm 2001 tại California, Bác sĩ Viên, cựu Phó Thủ Tướng trong chính phủ cuả Đại Tưóng Trần Thiện Khiêm đă kể lại rằng:
    “Vụ Ban Mê Thuột làm tan hoang hết. Nội các không hề được hỏi ư kiến. Pas un mot (không mội lời.) Một ngày sau khi bỏ Pleiku, có nhóm hội đồng nội các. Sau chương tŕnh nghị sự, Tổng trưởng Ngô Khắc Tĩnh dơ tay lên nói “thưa Thủ Tướng, tôi xin Thủ Tướng một đặc ân. Dầu sao chúng tôi cũng là nhân viên nội các, bà xă tôi vừa nghe tin mất Pleiku trên đài BBC và đài VOA mới nói lại cho tôi biết. Vậy xin Thủ Tướng nếu có tin ǵ th́ xin thông báo cho chúng tôi, chớ không th́ kỳ quá!” Lúc đó trên bàn chủ tọa, Thủ Tướng Khiêm quay qua tôi ngồi phiá bên trái, nó nhỏ “moa cũng vậy.” Tôi ngạc nhiên hỏi lại “Bộ nói giả ngộ hay sao? Anh là Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng, đại tướng 4 sao mà!.” Ông Khiêm gật đầu “thật chớ!” (nguyên văn.)

    TS Lâm Lễ Trinh hỏi: “Không lẽ ông Thiệu lại quyết định một ḿnh chuyện quá nghiêm trọng như vậy?” và BS Nguyễn Lưu Viên trả lời: “Tôi có nghe “h́nh như” Tổng Thống Thiệu có hội ư với hai tướng Cao Văn Viên và Phạm Văn Phú. Tuy nhiên sau tháng 4 năm 1975, tôi thoát được qua đảo Guam, có gặp một số sĩ quan cao cấp trong Bộ Tổng Tham Mưu, họ quả quyết ông Viên chỉ biết sau khi việc này xảy ra. Phủ Tổng Thống ra lệnh thẳng cho các tư lệnh vùng, không qua Tổng Tham Mưu, bằng một hệ thống trực tiếp. Vậy, ông Thiệu đă chỉ thị ngay cho Tướng Phú? Điểm này, nghĩ nên duyệt lại.” TS Trinh hỏi: “Tại sao Thủ Tướng Khiêm và anh không phản đối?” và BS Viên trả lời: “Phản đối cách nào và v́ sao? Có biết đâu mà phản đối? Đây là vấn đề quân sự..”

    Trong cuộc tiếp xúc với Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu sĩ quan tuỳ viên và là người thân tín cuả Cố TT Trần Văn Hương trong những ngày cuối cùng, ông Nhựt cho biết là khoảng ngày 25 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú có cho người mang đến tŕnh lên cho TT Hương một lá thư dày cộm. Ông Nhựt nói rằng TT Hương đă ra lệnh cất ngay lá thư này vào tủ sắt và trước khi bàn giao cho Dương Văn Minh, Cụ Hương đă ra lệnh đốt lá thư này đi. Đại úy Nhựt hỏi Cụ Hương sao Cụ không mở lá thơ xem Tưóng Phú nói ǵ về vụ triệt thoái Cao Nguyên nhưng Cụ Hương nhất định không đọc v́ Cụ nói rằng Tướng Phạm văn Phú đang ở trong t́nh trạng bị điều tra về trách nhiệm cuả ông trong việc di tản Quân Đoàn II và Cụ đă bắt phải đốt lá thư cuối cùng cuả tướng Phú trước mặt Cụ. Đại Úy Nhựt nói rằng có lẽ trong lá thơ đó, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú có thể giải thích cho Cụ Hương về những lệnh mà ông nhận được từ TT Nguyễn Văn Thiệu và như vậy th́ có thể làm sáng tỏ được nhiều ẩn khuất, tuy nhiên Cụ Trần Văn Hương ra lệnh đốt đi mà không đọc, do đó cho đến giờ này chỉ c̣n có Đại Tướng Cao Văn Viên là người duy nhất c̣n sống và một ngày nào đó, có thể Đại Tướng sẽ bạch hoá vấn đề này.

    Vai Tṛ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH

    Khi nghe nói rằng một ông đại tướng giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng một quân đội trên một triệu người mà những chuyện đại sự như là di tản Quân Đoàn II từ vùng Cao Nguyên vể miền đồng bằng hoặc Quân Đoàn I có giữ Huế hay không mà ông Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng không biết ǵ hết về kế họch triệt thoái và chuyện Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên, Phó Thủ tướng cũng cho biết rằng rằng chính cấp trên của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng là Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng cũng là một đại tướng 4-sao mà cũng không biết ǵ nốt th́ điều kỳ quái đó không ai có thể tin được.

    Trong suốt hơn 30 năm qua, cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm sống rất thầm lặng tại Hoa Kỳ, ông không hề tiếp xúc với bất cứ cơ quan truyền thông nào và cũng không hề trả lời một cuộc phỏng vấn nào trên báo chí. Một vài chi tiết về ông là do một số người khác kể lại, chẳng hạn như Bác Sĩ Nguyễn Lưu Viên, một người bạn và cũng là phó thủ tướng trong nội các của ông một thời gian khá dài đă kể lại câu chuyện được ghi lại trong bài mạn đàm của Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh.

    Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cũng giữ thái độ im lặng, tuy nhiên khi cuốn The Final Collapse của ông được Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt và xuất bản vào năm 2003 th́ ông Cao Văn Viên có viết thêm một đoạn gọi là “Lời Bạt” từ trang 255 đến trang 268 trong đó ông có tiết lộ một số chi tiết có liên quan đến một vài vấn đề chính trị và quân sự hồi trước năm 1975 và cũng có thêm một đôi điều để đính chính một vài điểm không đúng với sự thật về cá nhân ông và quân đội trong cuốn sách “The Palace File” của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng. Một trong những điều quan trọng trong phần này là vai tṛ của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa từ tháng 7 năm 1970 cho đến tháng 4 năm 1975.

    Trong phần “Lời Bạt” cũng như là Phụ Bản A về “Vai Tṛ của Bộ Tổng Tham Mưu,” cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết rằng vào tháng 7 năm 1970, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă ban hành một sắc luật cải tổ các cơ cấu quốc pḥng và quy định vai tṛ cùng trách nhiệm của Bộ Tổng Tham Mưu.

    Theo Tướng Cao Văn Viên th́ “Bộ Tổng Tham Mưu được định nghĩa là một ban tham mưu của liên quân chủng, tạm thời có cơ cấu giống như một bộ tư lệnh Lục Quân. Không Quân và Hải Quân có bộ tham mưu riêng của các quân chủng đó…Trên thực tế và bản chất, Bộ Tổng Tham Mưu là một bộ tham mưu của Lục Quân với thẩm quyền trên hai quân chủng kia…, chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng trưởng quốc pḥng về vấn đề huấn luyện, tổ chức và sử dụng quân đội trong đường hướng do tổng thống định liệu.
    “Nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu bao gồm:
    -Tổ chức và phát triển quân lực. Sử dụng quân đội để bảo vệ quốc gia và b́nh định lănh thổ.
    -Thu thập, khai thác tin tứùc t́nh báo, phản gián có tích cách chiến lược và chiến thuật.
    -Phát triển, bổ dụng, bảo tŕ và quản trị quân đội.
    -Thiết lập cấp số quân đội quân đội và nhân viên dân chính cần thiết cho Bộ Tổng Tham Mưu Thiết lập kế hoạch tiếp vận, theo dơi và cung cấp vũ khí, quân nhu và quân dụng cho quân đội.
    -Huấn luyện binh sĩ, nâng cao tinh thần và đời sống vật chất cho quân nhân các cấp.
    -Nghiên cứu và phát triển khả năng tác chiến. Khi được chỉ định, soạn thảo kế hoạch hành quân hỗn hợp với các quốc gia đồng minh đang chiến đấu tại Việt Nam.
    -Soạn thảo và ban hành luật pháp căn bản về vấn đề giam giữ và đối xử với tù binh chiến tranh.
    “Với vai tṛ và nhiệm vụ được viết ra thành từng chi tiết nhỏ, chúng ta nhận thấy nhiệm vụ của Bộ TTM không liên quan ǵ đến những quyết định tối hậu của cuộc chiến, đó là trách nhiệm của tổng thống…Bốn quân đoàn, trên lư thuyết, nằm dưới quyền điều khiển của Bộ TTM, tuy nhiên về bản chất của cuộc chiến và cấp số của các cuộc hành quân cho nên trách nhiệm về hành quân được hoàn toàn ủy thác cho tư lệnh các quân đoàn/quân khu. Tư lệnh các quân khu có trách nhiệm về hành chánh, tư lệnh các quân đoàn/quân khu có quyền hành và trách nhiệm trong một khu vực rộng lớn, Bộ TTM ít khi xen vào kế hoạch hành quân hay quyết định của các quân đoàn, trừ trường hợp có hành quân hay thám thính vượt qua biên giới hay quân đoàn yêu cầu cho tăng viện các đơn vị tổng trừ bị dưới quyền của Bộ TTM. Vị tư lệnh quân đoàn là người cớ luôn thẩm quyền về kế hoạch b́nh định và phát triển ở trong vùng trách nhiệm nên họ có thẩm quyền sử dụng tài nguyên quốc gia được chỉ định phân phối cho vùng và đặt các tỉnh trưởng dưới quyền kiểm soát của họ. Đây là một quyền hạn mà Bộ TTM không bao giờ có được. Quyền hạn của các tư lệnh quân đoàn rất lớn. Họ thường liên lạc thẳng với tổng thống để nhận và thi hành quân lệnh. Và họ cũng là người chịu trách nhiệm trực tiếp với tổng thống…”

    Như vậy, theo tinh thần của sắc luật về vai tṛ của Bộ TTM được Tổng Thống Thiệu ban hành vào tháng 7 năm 1970 th́ không thấy nói ǵ đến quyền điều động các đại đơn vị tức là 4 quân đoàn. Đại Tướng Viên cho biết rằng: “Khi Hiệp định Paris 1973 được kư kết, quốc sách “4 Không” ra đời, lúc mà tất cả mọi hoat động quân sự có ảnh hưởng đến chính trị th́ các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh quân đoàn, quân khu cùng các tư lệnh quân binh chủng như Hải Quân, Không Quân v.v. được diễn ra trong Dinh Độc Lập thay v́ ở Bộ TTM như thường lệ. Những buổi họp này được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống Thiệu với tư cách là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Từ đó, Tổng Thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định và ra lệnh thẳng cho các nơi. Như vậy, Tổng Thống Thiệu đă đạt được quyền hành tuyệt đối, tập trung mọi quyền hành pháp, lập pháp và quân đội vào một mối duy nhất…”
    “…Khi Tổng Thống Thiệu thực sự là Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực VNCH th́ Bộ TTM trở thành Bộ Tham Mưu của Tổng Thống. Ông Thiệu ra lệnh thẳng cho các tư lệnh quân đoàn, Không quân và Hải Quân cũng như là liên lạc thẳng với Tham Mưu Trưởng Liên quân của Bộ TTM. Hoa Kỳ biết chuyện này nên trưởng phái đoàn Hoa Kỳ, Đại Tướng Weyand, đă khuyến cáo chính phủ (Việt Nam) nên dành nhiều quyền hành cho Bộ TTM hơn.”

    Để chứng minh cho những điều nói trên, Tướng Cao Văn Viên cho biết tại Cam Ranh, chính Tổng Thống Thiệu quyết định và ra lệnh trực tiếp cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú “tái phối trí lực lượng”:
    “Đây là lệnh trực tiếp của Tổng Thống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú tái phối trí lực lượng cơ hữu (lực lượng của quân đoàn) để tái chiếm Ban Mê Thuột. Do đó không có lư do ǵ Bộ TTM gọi gọi Tướng Phú về Sài G̣n để thiết kế việc rút lui. Tuy lệnh quân đoàn và bộ tham mưu phải có khả năng làm việc đó. Trong kế hoạch rút lui, chính Tướng Phú chọn đường Liên Tỉnh lộ 7B để có yếu tố bất ngờ v́ các trục lộ khác đă bị địch quân chiếm giữ…”

    Về t́nh h́nh tại Quân Đoàn I ở miền Trung, Tướng Cao Văn Viên cho biết rằng Quân Đoàn I không báo cáo cho Bộ TTM biết về việc Sư Đoàn 1 Bộ Binh rút ra khỏi Huế về phía nam. Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3 Bộ TTM biết được việc này qua một giới chức khác. Ông cũng cho biết thêm rằng việc các tướng lănh thuộc Quân Đoàn I rút lui trên chiến hạm HQ-4 cũng không được báo cáo về Bộ TTM. Chuẩn Tướng Thọ biết được việc này là qua báo cáo của hệ thống truyền tin Hải Quân…

    Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên không phải là một vị tướng lănh bỏ chạy hay đào ngũ như dư luận đồn đại.

    Theo ông Trần Văn Đôn trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” th́ ngày 23 tháng 4, sau khi nội các Nguyễn Bá Cẩn từ chức, ông gặp Dương Văn Minh và ông Minh yêu cầu ông Đôn nói với Đại tướng Cao Văn Viên nên ngồi lại ghế Tổng Tham Mưu Trưởng. Ông Đôn đề nghị ông Minh đến thăm ĐT Cao Văn Viên để nói chuyện đó v́ có lần ông Viên dọa “....T ôi sẽ từ chức ngay. Tôi không thể nào làm việc với ông Dương Văn Minh.”

    Chiều ngày 24 tháng 4 năm 1975, ông và Đại Tướng Cao Văn Viên vào gặp TT Trần Văn Hương để phúc tŕnh về t́nh h́nh quân sự, TT Trần Văn Hương nói với hai ông là Cụ chia xẻ với số phận cuả anh em quân nhân tại chiến trường và sẵn sàng cùng chết với anh em chiến sĩ. Sau đó, TT Trần Văn Hương chỉ định Đại Tướng Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH. Đại Tướng Cao Văn Viên nhận lời tuy nhiên ông đă khẩn khoản xin với TT Trần Văn Hương cho phép ông được giải ngũ hay nghỉ giả hạn không lương nếu Cụ Hương phải bàn giao quyền hành lại cho Dương Văn Minh và lời yêu cầu của Đại Tướng Viên đă được TT Trần Văn Hương chấp thuận.

    Trưa ngày 27 tháng 4, sau khi Cụ Hương họp để bàn về việc đề nghị với quốc hội giao quyền lại cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh và cũng theo ông Trần Văn Đôn th́ “buổi họp chấm dứt lúc 12 giờ trưa. Sẵn dịp đó ông Viên xin ông Hương kư sắc lệnh cho ḿnh được nghỉ dài hạn không lương kể từ ngày đó với lư do “không thể làm việc dưới quyền ông Minh.” Ông Hương chấp thuận lời yêu cầu của ông Viên.”

    Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cho biết: “Tối chủ nhật 27 tháng 4 năm 1975, sau khi Quốc Hội biểu quyết trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh, v́ thời gian quá gấp rút, theo hệ thống quân giai, tác giả “tŕnh miệng” với Trung Tướng Trần Văn Đôn đang là Tổng Trưởng Quốc Pḥng trong nội các của Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, tŕnh lên TT Trần Văn Hương nguyện vọng được về hưu của tác giả đă xin từ 5 năm về trước. Tổng Thống Trần văn Hương biết rơ chuyện này nên đă kư sắc lệnh cho tác giả về hưu. Ông Nguyễn Thạch Vân, Phụ tá của Tổng Thống Hương, hiện đang sống bên Pháp, biết rơ chuyện này.”

    Đại Tướng Cao Văn Viên xác nhận chuyện này trong cuộc phỏng vấn dành cho Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh vào năm 2006: “Tuy nhiên khi Tổng Thống Trần Văn Hương nhường ghế cho Tướng Dương Văn Minh tháng 4 năm 1975, tôi cương quyết xin giải ngũ v́ tôi không phục ông Minh từ lâu, tôi từng là nạn nhân của ông Minh. Tổng Thống Hương chấp nhận đơn của tôi. Ngày 27 tháng 4 năm 1975, tôi rời Việt Nam trong t́nh trạng hợp lệ.”

    Cựu Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, tuỳ viên của TT Trần Văn Hương, cho người viết biết rằng TT Trần Văn Hương đă kư sắc lệnh này tối ngày 27 tháng 4 năm 1975 và đă cho nhân viên thuộc Phủ Tổng Thống mang tay vào Bộ Tổng Tham Mưu trao cho Đại Tướng Cao Văn Viên ngay trong đêm hôm đó.

    Sáng ngày 28 tháng 4, trước khi TT Trần Văn Hương trao quyền cho Dương Văn Minh vào buổi chiều, ông Đôn đến văn pḥng Tổng Tham Mưu Trưởng và gặp ông Cao Văn Viên để theo dơi t́nh h́nh quân sự. Ông Cao Văn Viên nhắc ông Đôn rằng ông đă được TT Trần Văn Hương cho nghỉ dài hạn và yêu cầu ông Đôn, với tư cách là Tổng Trưởng Quốc Pḥng, chỉ định người thay thế. Ông Đôn nói rằng ngay lúc đó th́ ông Minh gọi điện thoại đến và dặn ông Đôn cố giữ ông Viên ở lại chức Tổng Tham Mưu trưởng, đừng để cho ông Viên đi. Ông Đôn nói ông không biết xử sự ra sao v́ nếu ông Tổng Tham Mưu trưởng chỉ đi vắng một thời gian th́ ông có thể chỉ định một tướng lănh khác xử lư thường vụ, tuy nhiên đằng này ông Viên nghỉ luôn th́ việc đó phải do tổng thống, tổng tư lệnh tối cao quân đội chỉ định. Ông Đôn c̣n cho biết thêm rằng chiều hôm đó, ông Dương Văn Minh lại gọi cho ông ở Bộ Quốc Pḥng và dặn ông hủy bỏ sắc lệnh mà TT Trần Văn Hương đă kư cho phép ông Cao Văn Viên được nghỉ dài hạn: “về lại văn pḥng, tôi nhận được điện thoại của ông Minh dặn hủy bỏ sắc lệnh mà ông Hương đă kư cho phép ông Viên nghỉ dài hạn không lương, nhưng sắc lệnh đó ông Hương đă gởi thẳng cho ông Viên rồi, lúc đó ông Hương chưa trao lại quyền tổng thống cho ông Minh.”

    Đây là một chuyện thật khôi hài v́ ông Trần Văn Đôn chỉ là Xử lư Thường vụ Tổng trưởng Quốc Pḥng th́ làm sao mà ông ta lại có đủ thẩm quyền để huỷ bỏ một sắc lệnh do tổng thống đă kư? Lúc đó th́ Cụ Hương chưa bàn giao và ông Minh cũng chưa có trở thành tổng thống cho nên cái sắc lệnh do Cụ kư vẫn có giá trị. TT Trần Văn Hương là người luôn luôn giữ chữ tín, trọng nguyên tắc và cẩn thận, Cụ biết rằng việc Đại Tướng Cao Văn Viên xin Cụ nghỉ dài hạn v́ không thể phục vụ dưới quyền Dương Văn Minh là chính đáng và đă được Cụ chấp thuận, do đó Cụ đă kư sắc lệnh và cho người mang trao tận tay cho ông Viên trước khi bàn giao cho Dương Văn Minh vào buổi tối ngày 27 tháng 4 năm 1975. Nhờ sự thông cảm của Cụ Trần Văn Hương, Đại Tướng Cao Văn Viên đă được măn nguyện v́ ông không thể nào phục vụ dưới quyền một người đă từng ra lệnh c̣ng tay ông, đă từng nhốt ông và đă từng có ư định muốn thủ tiêu ông chỉ v́ ông là một quân nhân, một quân nhân thuần tuư chỉ biết trung thành với “Quốc Gia, Danh Dự và Trách Nhiệm” chỉ biết phục vụ Quốc Gia, phục vụ chính phủ hợp hiến hợp pháp, chứ không phục vụ cho một cá nhân hay một phe phái nào. Ông Cao Văn Viên đă giải thích nguyên nhân tại sao ông nhất quyết không phục vụ dưới quyền Dương Văn Minh như sau: “Tác giả không hợp tác với Tướng Minh v́ ông ta có ư định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tác giả cũng không thể phục vụ cho một chính phủ liên hiệp và lư do quyết định nhất là đă ở chức vụ này quá lâu (gần 10 năm,) sức khoẻ kém và đă xin về hưu 3 lần rồi…”

    Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu tuỳ viên cuả TT Trần Văn Hương tiết lộ với người viết rằng khi Cụ Hương chỉ định ĐT Cao Văn Viên làm Tổng Tư Lệnh th́ ĐT Viên có ngỏ lời yêu cầu với Cụ Hương xin cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh nhưng TT Trần Văn Hương không trả lời. Ông Nhựt nói rằng sau đó, ĐT Cao Văn Viên có gởi đến Phủ Tổng Thống một văn thư chính thức đề nghị cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh Quân Lực VNCH nhưng TT Trần Văn Hương cũng lại để sang một bên trên bàn viết. Ông Nhựt cho biết sau khi Cụ Hương kư sắc lệnh cho phép ĐT Cao Văn Viên được nghỉ giải hạn không lương vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, ông đă lấy hồ sơ về đề nghị của Tổng Tư Lệnh xin bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng làm Phó Tổng Tư Lệnh QLVNCH đặt ngay ngắn trước mặt Cụ Hương nhưng Cụ Hương nói với ông Nhựt rằng Tướng Ngô Quang Trưởng đang ở trong t́nh trạng bị điều tra về trách nhiệm cuả ông ta ở Quân Đoàn I, do đó dù rằng Cụ rất có cảm t́nh với TT Ngô Quang Trưởng nhưng Cụ không thể nào bổ nhiệm ông Trưởng thay thế cho ĐT Cao Văn Viên được.

    Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên được TT Trần Văn Hương kư sắc lệnh cho phép được nghỉ dài hạn không lương ngày 27 tháng 4 năm 1975, vị tướng lănh cao cấp nhất tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, do đó trên nguyên tắc Tướng Khuyên là Xử Lư Thường Vụ chức vụ này. Theo Frank Snepp th́ vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, “Tướng Nguyễn Cao Kỳ đi lang thang trong hành lang vắng vẻ của Bộ Tổng Tham Mưu để t́m tướng Đồng Văn Khuyên nhưng ông Khuyên đă biến mất.”

    Đại Tá Phạm Bá Hoa, cựu Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận dưới quyền Trung tướng Đồng Văn Khuyên, đă kể lại sự ra đi không một lời giả biệt với ông như sau:
    “…Trung Tướng Khuyên đi thẳng lên xe Jeep, ông nh́n thẳng phía trước và im lặng trong khoảng 5 phút. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ của ông như vậy, và tôi nghĩ: “phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu từ đây?” Ông không nói một tiếng nào trong khoảng thời gian đó, sau cùng ông ra hiệu bằng tay và anh hạ sĩ quan tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người đưa tay lên trán chào ông, rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu rằng tôi biết chuyện ǵ đang xảy ra…Tôi không chút phiền muộn nào đối với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cho dù ông đă không một lời từ biệt tôi, một lần từ biệt với biết bao hiểm nguy cho kẻ ở lẫn người đi! Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975…”

    Theo ông Trần Văn Đôn th́ “8 giờ 15 sáng ngày 29-4-1975, tôi đến Tổng Tham Mưu, nhưng vừa tới cổng th́ viên sĩ quan ở cổng chận tôi lại không cho vô v́ bên trong đang bị pháo kích. Gần 20 phút sau, tôi vô văn pḥng Trung tướng Đồng Văn Khuyên mà Đại Tướng Cao Văn Viên đề cử Xử lư Thường Vụ Tổng Tham Mưu Trưởng kiêm Tham Mưu Trưởng Liên Quân, tôi mới biết ông Viên đă ra khỏi nước bằng chiếc trực thăng riêng đến cơ quan DAO là cơ quan lo việc tản cư của Mỹ, từ đó chở qua Bangkok, xong lấy phi cơ bay thẳng qua Mỹ. Ông Viên đi ngày 28 tháng 4 sau khi đă sắp xếp nội bộ Tổng Tham Mưu xong. Họ có sắp xếp trước, nếu không th́ đâu có đi dễ dàng như vậy. Lúc đi ra khỏi nước ông Viên mặc quần jeans, sơ mi thường. Đến Bangkok, ông lấy vé phi cơ dân sự bay thẳng đến Hoa Thịnh Đốn như một du khách chứ không qua các thủ tục như các người tỵ nạn khác.”

    Cũng theo lời ông Đôn, ngay sau đó ông gọi điện thoại để báo cáo t́nh h́nh bi đát cho Dương Văn Minh và yêu cầu ông Minh chỉ định gấp cho một Tổng Tham Mưu trưởng mới và đề nghị nên cử Trung Tướng Vĩnh Lộc hay Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Ông Minh đă chỉ định Trung Tướng Vĩnh Lộc vào chức vụ này. Như vậy, Trung Tướng Vĩnh Lộc là vị Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của QLVNCH nhưng ông cũng đă rời khỏi Việt Nam vào tối 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thực ra th́ dù ông Minh có muốn bổ nhiệm Trung tướng Trưởng làm Tổng Tham Mưu Trưởng th́ cũng đă quá trể v́ ông Trưởng đă rời Việt Nam theo trực thăng cuả Tướng Nguyễn Cao Kỳ, phi cơ này đáp xuống hàng không mẫu hạm Midway cuả Hải Quân Hoa Kỳ vào lúc 1 giờ 12 chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975 và sau đó hai ông được đưa sang chiến hạm Blue Ridge.

    Ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông Cao Văn Viên đă không dự lễ “trao quyền tổng thống” cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh tại Dinh Độc Lập v́ vào buổi chiều ngày hôm đó ông không c̣n là Tổng Tư Lệnh hay là Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH nưă, ông chỉ là một thường dân mà thôi. Theo ông Trần Văn Đôn th́ người đại diện cho Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tại lễ nhậm chức của ông Dương Văn Minh là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Liên Quân.

    Có nhiều người mến phục Đại Tướng Dương Văn Minh và họ xem ông ta như là một bậc anh hùng. Ông Minh đă được ca tụng là anh hùng đến hai lần trong đời của ông: lần đầu tiên ông được xưng tụng là “Anh hùng Rừng Sát” sau khi ông chỉ huy cuộc hành quân tiêu diệt B́nh Xuyên tại Rừng Sát vào năm 1955 và lần thứ hai ông được xưng tụng là “Anh hùng Cách Mạng” sau khi ông lănh đạo cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, đă giết Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa. Tuy nhiên cũng có một số người không những không xem ông Dương Văn Minh như là một bậc anh hùng, trái lại họ không phục ông Minh dù rằng ông Minh đă từng giữ những chức vụ như Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, Quốc Trưởng và… Tổng Thống “trao quyền.” Một trong những người đó là Đại Tướng Cao Văn Viên.

    Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên nhất quyết không chịu phục vụ dưới quyền cựu Đại Tướng Dương Văn Minh, người lănh đạo cuộc đảo chánh năm 1963, người đă ra lệnh c̣ng tay ông và suưt nưă th́ ông cũng bị thủ tiêu và khi ông Dương Văn Minh nhậm chức “tổng thống” vào giờ chót, ngày chót của nền Đệ Nhị Cộng Ḥa, ông đă không phải mặc quân phục tŕnh diện trước ông tân tổng thống mà ông không phục v́ ông cương quyết không nhận bất cứ chức vụ nào dưới quyền ông Dương Văn Minh. Theo ông Trần Văn Đôn th́ cũng vào ngày ông Dương Văn Minh được TT Trần Văn Hương “trao quyền” tổng thống tại Dinh Độc Lập th́ ông Cao Văn Viên đă để lại bản sao sắc lệnh cuả Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương, cho phép ông được nghỉ dài hạn không lương kể từ ngày 27 tháng 4 năm 1975 trên bàn giấy của ông rồi ra phi trường bay sang Bangkok, từ đó ông lên phi cơ thương mại bay thẳng sang Hoa Kỳ.

    Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có một số dư luận đưa ra những sự đồn đại không những chẳng có mấy tốt đẹp mà lại c̣n có tính cách nhục mạ vị tướng lănh cựu Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Họ nói rằng Đại Tướng Cao Văn Viên đă “hèn nhát bỏ chạy ra ngoại quốc sau khi để lại trên bàn giấy lá đơn xin từ chức dưới tấm bảng 4-sao của ông.” Điều này hoàn toàn không đúng sự thật.

    Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên không phải là một vị tướng lănh bỏ chạy hay đào ngũ như dư luận đồn đại.
    Ngược lại, vào cuối tháng 4 năm 1975, mọi quân nhân từ cấp tướng lănh, các sĩ quan cấp tá, cấp úy, các hạ sĩ quan và anh chị em chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă di tản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 (trong số đó có cả người viết bài này đă may mắn nhảy lên được một chiếc xà lan của Hoa Kỳ rời khỏi Kho 5 ở Khánh Hội vào lúc 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975,) tức là trước ngày Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, tất cả những người đó đều đă rời bỏ nhiệm sở một cách “bất hợp pháp” v́ họ không hề nhận được lệnh hay sự cho phép của cấp chỉ huy trực tiếp để rời khỏi đơn vị, chỉ riêng có một ḿnh cựu Đai Tướng Cao Văn Viên là đă ra đi một cách hợp pháp v́ ông là người quân nhân duy nhất, vị tướng lănh duy nhất đă được chính vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực tức là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà kư sắc lệnh chính thức cho phép nghỉ dài hạn không lương (một h́nh thức gần như được giải ngũ trong quân đội) và do đó, không c̣n có trách nhiệm ǵ nưă trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà khi ông rời Việt Nam vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, không đầy một ngày trước khi “Tổng Thống” Dương Văn Minh ra lệnh cho toàn thể các đơn vị trong QLVNCH buông súng đầu hàng quân đội Cộng sản Bắc Việt.

    *
    * *

    Trong phần kết luận của bài phỏng vấn vị Đại Tướng khả kính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa cách đây gần hai năm trước khi ông từ giă cơi đời, Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh có nói:
    “Đại Tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong kư ức những người từng biết đến ông- thân hữu, bạn đồng đội cũng như những kẻ bất đồng ư kiến với ông- h́nh ảnh của ḷng chung thủy, “trước sau như một,” không a dua, không phản trắc, từ tốn khi phê b́nh, chủ trương đoàn kết trong t́nh huynh đệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trường, không đạp lên xác đồng đội để tiến thân. Ông là một vị tướng lănh phi chính trị bị thời thế cuốn hút vào chính trường gió tanh mưa máu…”

    Đại Tướng CaoVăn Viên, vị tướng lănh đă từng lănh đạo Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trong gần 10 năm sau cùng trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do, dân chủ và no ấm cho mấy chục triệu nhân dân miền Nam để chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng sản Bắc Việt đă từ giă đồng đội, từ giă cơi đời vào hồi 6 giờ 15 sáng ngày thứ ba 22 tháng 1 năm 2008 tại Fairfax, tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 87 tuổi..
    Đại Tướng Cao Văn Viên đă ra người thiên cổ.

    Khi nói về những người chiến sĩ già đă ra đi về miền miên viễn, Thống Tướng Douglas MacArthur, một đại danh tướng của quân đội Hoa Kỳ từng nói một câu bất hủ:
    “Những người lính ǵà không bao giờ chết, họ chỉ tàn úa mà thôi!”

    Tất cả mọi cựu quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa xin thành kính nghiêng ḿnh trước sự ra đi của vị anh cả một thời của họ trong quân đội.
    Đại Tướng Cao Văn Viên không chết, ông chỉ tàn úa với thời gian.

    Trần Đông Phong

  4. #24
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại tướng Cao Văn Viên nhận định về chính sách của 5 Tổng thống Hoa Kỳ đối với cuộc chiến Việt Nam

    Thứ sáu - 21/09/2012 14:42


    LTS. Tiếp theo loạt bài về những năm tháng đầu tiên của Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, phần mục Sự kiện Lịch sử VNCH sẽ lần lượt tŕnh bày đến bạn đọc những sự kiện trọng yếu của nền Đệ Nhất và Đệ nhị VNCH. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: Quân lực trong giai đoạn 1946-1955 ( Khối Quân sử/Pḥng 5/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH); Việc từng ngày 1945-1969 của nhà nghiên cứu Đoàn Thêm, hồi kư của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, của cựu Thiếu tướng Đỗ Mậu,và tài liệu của nhiều tác giả khác.


    Tổng thống Eisenhower đón Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm thăm Hoa Kỳ năm 1957

    Đai tướng Cao Văn Viên kể về các cuộc hội đàm ngưng bắntrong số báo vừa qua, VS đă tổng lược những ghi nhận và phân tích của Đại tướng Cao Văn Viên về các sự kiện đă quyết định t́nh h́nh cuộc chiến Việt Nam vào giai đoạn cuối cùng.

    Về chính sách Hoa Kỳ đối với cuộc chiến Việt Nam, Đại tướng Cao Văn Viên đă nhắc đến các chiến lược của 5 vị Tổng thống Hoa Kỳ: Tổng thống Truman, Tổng thống Eisenhower, Tổng thống Kennedy, Tổng thống Johnson, Tổng thống Nixon. Sau đây là phần tổng lược những ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên về chính sách Hoa Kỳ đối với VN qua 5 chính quyền Tổng Thống Mỹ. Phần này được biên soạn dựa theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ xuất bản, dịch giả Duy Nguyên chuyển sang Việt ngữ.

    * Tổng thống Truman, Tổng thống Eisenhower và cuộc chiến VN

    Theo Đại tướng Cao Văn Viên, ngoài những nguyên nhân chính vừa nêu trên, dĩ nhiên c̣n vô số những lư do chằng chịt khác tác dụng vào tạo nên sự suy sụp này. Vào cuối thế chiến thứ hai, sự lănh đạo của Hoa Kỳ đối với Thế giới Tự do không ai mà không nh́n nhận. Nhưng chừng như khi có cuộc chiến tại Việt Nam và nhất là tại khu vực Đông Nam Á nói chung, chính sách Hoa Kỳ đă thay đổi nhiều lần, mà thoạt đầu là chính sách phi chính sách. Rồi đến khi cuộc can thiệp để chống Cộng sản lên đến giai quyết liệt th́ lại nhượng bộ và ḥa hoăn. Sự thay đổi này làm ảnh hưởng một cách nặng nề đến chính sách viện trợ và cung cách tiến hành chiến tranh tại phần đất này của thế giới.

    Đại tướng Cao Văn Viên cũng nhắc lại một số sự kiện như sau: Tổng thống Franklin D.Roosevelt không bao giờ có quyết định là có nên giúp cho Pháp trở lại tái lập chế độ thuộc địa tại Đông Dương hay không. Chính quyền Truman th́ có một phản ứng rơ ràng về trước cuộc xung đột giữa Việt Minh và Pháp trong khoảng 1945-1946. Chính quyền Mỹ từ khước việc Pháp yêu cầu phi cơ và tàu chiến Hoa Kỳ giúp chuyên chở quân lính Pháp đến Đông Dương và đồng thời cũng từ khước việc Pháp yêu cầu trang bị vũ khí cho quân đội Pháp đánh nhau với Việt Minh. Đồng thời chính quyền Truman cũng từ khước lời kêu gọi của Hồ Chí Minh. Tháng 8 và 9 năm 1945, trong khi Việt Minh đang kiểm soát Hà Nội, Hồ Chí Minh, qua trung gian của Văn pḥng Cơ quan Chiến lược Hoa Kỳ, đă gửi yêu cầu lên Tổng thống Truman xin cho Việt Nam được hưởng quy chế "như của Phi Luật Tân để được bảo hộ trong thời gian giành độc lập." Từ tháng 10/1945 cho đến tháng Hai năm 1946, Hồ Chí Minh viết cho Tổng thống Truman ít nhất 8 lá thư, chính thức kêu gọi Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc can thiệp để ngăn chận chính sách thuộc địa của Pháp. Không có bằng chứng nào cho thấy các lá thư này được trả lời. Việc Hoa Kỳ không can thiệp chẳng khác ǵ là không chấp nhận cho Pháp vào vậy. (Bản tóm lược chính sách Hoa Kỳ dựa trên tập "Tài liệu Ngũ Giác Đài" của New York Times xuất bản năm 1971.)


    -Tổng thống Johnson khen thưởng chiến binh Hoa Kỳ tại Cam Ranh (tháng 10-1966)

    Nhưng khi Việt Nam được công nhận độc lập một phần trong Liên Hiệp Pháp vào tháng Ba năm 1949 do Vua Bảo Đại đứng đầu th́ chính quyền Tổng thống Truman lại không hậu thuẫn cho ông, viện cớ là Vua Bảo Đại là do Pháp đặt ra. Chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam bắt đầu ló dạng từ khi Mao Trạch Đông bắt đầu nắm vận mệnh Trung Hoa vào cuối năm 1949. Mục đích của Hoa Kỳ là chận đứng sự bành trướng của Cộng sản tại châu Á. V́ vậy khi Nga và Trung Cộng công nhận Hồ Chí Minh vào tháng 1/1950 th́ Mỹ liền công nhận Vua Bảo Đại trong chức danh Quốc trưởng Quốc gia VN vào tháng 2/1950 và chỉ ba tháng sau Mỹ tuyên bố sẽ viện trợ kinh tế cho Pháp để Pháp trở lại Đông Dương. Từ một khoản viện trợ khiêm tốn 10 triệu Mỹ kim, số tiền viện trợ này vọt lên đến 1 tỉ (ngàn triệu) Mỹ kim vào năm 1954. Cuộc chiến tranh Đông Dương diễn ra bằng tiền của Mỹ tiếp tế qua tay người Pháp.

    Khi Pháp bị thất trận Điện Biên Phủ và buộc phải kư hiệp định Genève năm 1954, Hội đồng An ninh Quốc gia của chính quyền Tổng thống Eisenhower thấy rằng hiệp định này rất thất lợi cho Mỹ nên đă t́m cách chận đựng sự bành trướng thêm nữa của Cộng sản tại VN. Mục tiêu được đặt ra là duy tŕ "t́nh thân hữu với những người không Cộng sản tại miền Nam", tức chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, và để ngăn chận Cộng sản chiến thắng tại miền Nam bằng một cuộc tổng tuyển cử. Từ đó, Việt Nam Cộng Ḥa nhận viện trợ trực tiếp từ Mỹ. Quân đội Quốc gia Việt Nam, do Pháp huấn luyện và trang bị, được cải tổ toàn diện. Những binh sĩ chuyên nghiệp có nhiều kinh nghiệm chiến đấu nhưng mang nặng tư tưởng và hành vi theo Pháp liền được cho giải ngũ. Một thế hệ mới được thu nhận vào và theo cấp bậc mà thăng tiến trong quân đội mới mang tên là Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa (QLVNCH-tiếng Anh gọi tắt là ARVN).

    Mục tiêu của QLVNCH là khai triển quân đội theo cách tổ chức của Hoa Kỳ, được Hoa Kỳ huấn luyện, trang bị và kỹ thuật chiến đấu từ đầu đến cuối. Để làm quen với cơ cấu tổ chức theo kiểu Hoa Kỳ, nhiều sĩ quan QLVNCH theo học khóa Lănh đạo Chỉ huy. Về sau nhiều sĩ quan c̣n được cử đi Hoa Kỳ để học thêm về các ngành chuyên môn của ḿnh.

    * Các quyết định của Tổng thống Kennedy, Tổng thống Johnson, và kế hoạch Việt Nam hóa của Tổng thống Nixon

    Khi được đắc cử, Tổng thống Kennedy đă chuyển kế hoạch có giới hạn của chính quyền Tổng thống Eisenhower thành một cuộc can thiệp rộng lớn để ngăn chận sự thống trị của CS tại miền Nam. Nhưng sự can thiệp này, mặc dù rộng lớn, không bao giờ thực hiện đúng mức của nó. Phải đợi đến khi chính quyền của Tổng thống Johnson tham gia quyết liệt vào bằng cả Không quân và lực lượng bộ chiến, và giai đoạn gay cấn nhất là quân số Hoa Kỳ lên đến 543,500 người vào đầu năm 1969. Người kế vị Tổng thống Johnson là Tổng thống Nixon. Vị Tổng thống này lập tức đảo ngược phương cách can thiệp bằng kế hoạch Việt Nam hóa, một phó sản khá thuận lợi của học thuyết do ông đưa ra. Thay v́ phải trực diện đối đầu, Tổng thống Nixon chủ trương thương thuyết và chiến lược mưu t́m ḥa b́nh của ông được đặt trên "ba cây cột: thiện chí, sức mạnh và t́nh tương nhiệm". Đó là cách Tổng thống Nixon thường nói. Nhưng nếu có một điểm khác biệt chính yếu duy nhất giữa chủ thuyết Nixon và chính sách của Hoa Kỳ về VN từ năm 1954 là ở chỗ Tổng thống Nixon muốn "phía tương nhiệm gánh vác công việc pḥng thủ". Hăy xem bộ trưởng Quốc pḥng Melvin R.Laird kịch liệt đả kích chính sách của chính quyền cũ th́ thấy rơ.

    "Từ quan điểm của chính sách pḥng thủ của Hoa Kỳ, thảm trạng Việt Nam là kế hoạch Việt Nam hóa không được thực hiện sớm hơn, trước 1969, bằng phương thức huấn luyện và trang bị cho Quân lực VNCH để họ chiến đấu chống lại Bắc Việt một cách hữu hiệu cũng như đối phó với vấn đề mất an ninh trong nước do Việt Cộng gây ra. Rơ ràng, những cơ hội đó đă bị bỏ qua để thay vào đó những quyết định can thiệp một cách đáng kể của Hoa Kỳ vào mọi giai đoạn của cuộc chiến" (trích Chủ thuyết Nixon: "Từ sự thất vọng ngấm ngầm đến những cơ hội mới" do bộ trưởng Quốc pḥng Melvin R. Laird đọc).

    * Những thí dụ về trang bị vũ khí

    Để giải thích thêm cho sự phân tích của bộ trưởng Quốc pḥng Melvin R. Laird, Đại tướng Cao Văn Viên đă nêu ra 1 trường hợp và ghi nhận như sau: Loại súng cá nhân AR-15 mà sau được cải danh thành M-16 là một thí dụ cần nêu rơ. Loại súng này được thí nghiệm tại Việt Nam từ đầu năm 1964. Đây là loại súng rất tuyệt hảo nhờ các đặc điểm: nhẹ, dễ bảo tŕ và chính xác. Viên đạn nhỏ nên người lính bộ chiến có thể mang theo nhiều cấp số, sức công phá của đầu đạn rất mạnh khả năng xuyên phá sâu nhờ vào tốc độ viên đạn bắn đi nhanh. Nói tóm lại, loại súng này chế tạo cho người lính Việt Nam và cho chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên chỉ có khoảng 200 khẩu súng này được đưa ra sử dụng thật sự. Mấy năm say loại súng này mới được chọn làm vũ khí căn bản cho người lính bộ chiến Việt Nam Cộng Ḥa, nhưng chỉ sau khi Cộng sản được trang bị loại súng AK-47 có nhiều ưu thế hơn. Đại tướng Cao Văn Viên cũng nhắc đến việc trang bị loại ống phóng hỏa tiễn M-72 chống xe tăng và sau là loại phi đạn TOW chỉ được thực hiện sau khi Cộng quân đă có loại B-40 và B-41.



    Tác giả bài viết: Đặng Quang

  5. #25
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN
    Sự Bất Lực Của Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH


    Tướng Viên là Tổng Tham Mưu Trưởng, nhưng ông lại tránh né mọi quyết định trọng yếu. Ông không vấn hỏi MACV v́ sợ gây xung đột. Viên cũng rất ít khi góp ư với Thiệu để tránh các quyết định khó khăn và mối ngờ vực từ phía Thiệu. Ông lập luận là chính sách quốc pḥng đă được Tổng Thống ấn định (lẽ đương nhiên là với ư kiến vay mượn từ phía Mỹ), phương tiện và kế hoạch đă được khai triển bởi MACV. Các Tư Lệnh Quân Đoàn, Sư Đoàn và Quân Khu phải thi hành chính sách và kế hoạch đă được quyết định mà không được hạch hỏi lôi thôi.

    Khi cuộc đảo chánh 1963 xảy ra, với tư cách chỉ huy trưởng Lữ Đoàn Dù, Viên đă tỏ ra b́nh tĩnh và quyết chí. Thái độ này khiến nhiều người kính nể ông. Sau cuộc chỉnh lư, Viên lấy quyết định tách xa ra khỏi các biến động chính trị tai hại. Ông thường than phiền với bạn bè, "Tôi không muốn biến bạn thành thù trong thời gian ngắn ngủi như vậy."

    Biết rơ con người của Thiệu từ hồi xa xưa, Viên không chấp nhận hành vi bảo vệ lấy quyền lợi riêng tư của Thiệu. Đối với Kỳ, Viên cảm thấy gần gũi hơn v́ giống ở trực tính và cùng xác tín. Đối với Quang, Viên rất ghét tính bất trung nghĩa của Quang. (Khi Ngô Đ́nh Cẩn bị xử, Quang dự vào ghế bồi thẩm đoàn, mặc dù Cẩn là bố đỡ đầu của Quang). Quang cũng có thói đê tiện là đâm sau lưng. Viên biết Thiệu muốn bổ nhiệm Quang vào chức Tổng Tham Mưu Trưởng từ năm 1965, nhưng không làm vậy v́ gặp sự chống đối của Mỹ và quần chúng. Biết là Thiệu t́m mọi dịp để loại ḿnh, Viên làm hết sức để Thiệu hiểu là sẽ không có hiểm họa tới từ phiá Tổng Tham Mưu.

    Lệnh đă được ban bố để Viên trở thành Tổng Tham Mưu Trưởng thay v́ Quang tại v́: Mỹ thiên về Viên; Thiệu biết là có thể xoay sở với Viên; Viên sẽ không tham dự vào bất cứ cuộc đảo chánh chính trị nào.

    Mặc dù có vẻ viển vông nhưng c̣n có một lư do khác, dị đoan. Số tử vi của Viên cho thấy ông là "sức mạnh" khả dĩ kiềm chế chống lại Vơ Nguyên Giáp. Thiệu hay bàn luận điểm này cách lư thú với bạn bè. (Không chừng đây có thể là mánh khoé của CIA hay thuộc hạ của Viên). Cũng giống như các viên chức cao cấp khác thời đó, Viên thường không tí do dự làm mọi điều do MACV mớm ư để chiều ḷng Mỹ. Kết quả là Viên chiếm được sự tin cậy và ủng hộ của Mỹ. Càng nhiều quân lính Mỹ đổ vào Việt Nam, ghế ngồi của Viên càng thêm vững chắc.

    Từ xa và trên bề mặt, Viên tỏ vẻ không màng tới công danh và tiến chức. Ông tập Yoga hằng ngày và đệ đơn từ chức bốn lần. Tuy nhiên, Viên rất khôn khéo xây đắp ḷng tin của chủ ḿnh và củng cố địa vị. Chẳng hạn, với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Thiệu thường hay ra lệnh trực tiếp cho các Tư Lệnh Quân Đoàn mà không hội ư trước với Viên. Tướng lăo làng Nguyễn Văn Là, Phụ Tá của Viên, cảm thấy khó chịu với sự vi phạm hệ thống quân giai này và hỏi Viên, "Họ coi Tổng Tham Mưu như đồ kiểng, Đại Tướng có thấy vậy không?" Viên trả lời, "Kệ họ, như vậy ḿnh càng ít việc."

    Để củng cố địa vị, Viên để Tướng Vỹ nắm quyền Bộ Quốc Pḥng và bổ nhiệm Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên làm Trưởng Ban Tiếp Vận và Tham Mưu Trưởng tại Tổng Tham Mưu. Từ ngày ra trường Vơ Bị đến khi trở thành Trung Tướng, Khuyên chưa hề chỉ huy một tiểu đội tác chiến. V́ ḷng trung kiên, thói cần mẫn, và biết chiều ư cấp trên, Khuyên được thăng chức mau chóng. Trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, Khuyên bị bỏ tù v́ mang tài liệu mật về nhà và bị ông anh cộng sản cuỗm mất. Sau 1963, sự kiện này được bỏ qua và cho vào quên lăng.

    Sau khi Khuyên được bổ nhiệm vào chức vụ mới, không một viên chức, kể cả từ Bộ Quốc Pḥng, bén mảng tới Tổng Tham Mưu nữa. Bây giờ Tổng Tham Mưu tập chung vào các sinh hoạt Mua và Cung Cấp và ít chú tâm tới các vấn đề hành quân. Đôi khi, khi cần phải xuất hiện với Tổng Thống trong những nghi lễ, Viên chỉ định phụ tá đại diện thay thế ḿnh. Thiệu hiểu rơ cảm nghĩ của Viên và không nói ǵ. Cả hai người phải nhân nhượng lẫn nhau để tồn tại. Sau khi trúng cử lên làm Phó Tổng Thống, Trần Văn Hương đề nghị đưa Trung Tướng Đỗ Cao Trí về giữ một chức tư lệnh tại Quân Khu 3. Thiệu ngại ngùng không muốn nghe theo. Thiệu biết Tướng Trí đánh giặc giỏi với nhiều năm kinh nghiệm trên chiến trường. Trí c̣n thâm niên hơn Viên và Thiệu. Không ai biết Trí nghĩ ǵ trong đầu óc. Hương cũng góp ư kiến đưa Trí thay Viên.. Nhưng Hương không hiểu mối liên hệ kỳ cục giữa Viên và Thiệu cũng như ông không hiểu tí ǵ về người Mỹ.

    Khi Hương được bổ nhiệm Chủ Tịch Ủy Ban Bài Từ Tham Nhũng, với sự phụ tá của Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Thiệu đồng ư cho Hương duyệt xét hồ sơ của Viên. Trong một bữa cơm gia đ́nh ở Vĩnh Long, Hương nói với tôi là ông đề nghị với Thiệu duyệt xét hồ sơ của Viên, và sau này hồ sơ của Quang nữa. Tôi giải thích cho Hương là cho dù Viên có bị loại, th́ Viên cũng được thay thế bởi Quang, chứ không phải bởi Trí. Hơn nữa, rất khó cho Thiệu và Hương cách chức Viên. V́ lẽ không đủ bằng chứng Viên hành sự thiếu sót hay bất trung, và Viên khôn ngoan đủ để cho Thiệu có lấy được bằng chứng. Dưới sự bao che của Viên, Khuyên sẵn sàng hy sinh cho Viên. Khuyên, mặt khác, được sự hỗ trợ của MACV v́ ông luôn đồng ư với cố vấn trong việc chu toàn bổn phận quản trị tiếp tế, chuyên chở, tồn kho, và các dịch vụ tiếp vận khác cung ứng cho các cuộc hành quân được thành công.

    Hương bắt đầu tập chung điều tra vào Quang nhưng Thiệu t́m đủ mọi cách bao che cho Quang v́ bảo vệ Quang tức là bảo vệ ḿnh v́ các dịch vụ của Quang và của Thiệu là một. Tướng Hiếu thu thập và hoàn tất hồ sơ về Quang và trở nên bất măn. Ông xin trở lại Quân Đội.

    Hương thất vọng và thôi không đeo đuổi các viên chức cao cấp, và thay vào đó, ông chú tâm vào những viên chức thấp bé hơn.

    Hoàng Văn Lạc và Hà Mai Việt


    ____________________ ____________________ _________________

  6. #26
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN
    Sự Bất Lực Của Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH


    Tướng Viên là Tổng Tham Mưu Trưởng, nhưng ông lại tránh né mọi quyết định trọng yếu. Ông không vấn hỏi MACV v́ sợ gây xung đột. Viên cũng rất ít khi góp ư với Thiệu để tránh các quyết định khó khăn và mối ngờ vực từ phía Thiệu. Ông lập luận là chính sách quốc pḥng đă được Tổng Thống ấn định (lẽ đương nhiên là với ư kiến vay mượn từ phía Mỹ), phương tiện và kế hoạch đă được khai triển bởi MACV. Các Tư Lệnh Quân Đoàn, Sư Đoàn và Quân Khu phải thi hành chính sách và kế hoạch đă được quyết định mà không được hạch hỏi lôi thôi.

    Khi cuộc đảo chánh 1963 xảy ra, với tư cách chỉ huy trưởng Lữ Đoàn Dù, Viên đă tỏ ra b́nh tĩnh và quyết chí. Thái độ này khiến nhiều người kính nể ông. Sau cuộc chỉnh lư, Viên lấy quyết định tách xa ra khỏi các biến động chính trị tai hại. Ông thường than phiền với bạn bè, "Tôi không muốn biến bạn thành thù trong thời gian ngắn ngủi như vậy."

    Biết rơ con người của Thiệu từ hồi xa xưa, Viên không chấp nhận hành vi bảo vệ lấy quyền lợi riêng tư của Thiệu. Đối với Kỳ, Viên cảm thấy gần gũi hơn v́ giống ở trực tính và cùng xác tín. Đối với Quang, Viên rất ghét tính bất trung nghĩa của Quang. (Khi Ngô Đ́nh Cẩn bị xử, Quang dự vào ghế bồi thẩm đoàn, mặc dù Cẩn là bố đỡ đầu của Quang). Quang cũng có thói đê tiện là đâm sau lưng. Viên biết Thiệu muốn bổ nhiệm Quang vào chức Tổng Tham Mưu Trưởng từ năm 1965, nhưng không làm vậy v́ gặp sự chống đối của Mỹ và quần chúng. Biết là Thiệu t́m mọi dịp để loại ḿnh, Viên làm hết sức để Thiệu hiểu là sẽ không có hiểm họa tới từ phiá Tổng Tham Mưu.

    Lệnh đă được ban bố để Viên trở thành Tổng Tham Mưu Trưởng thay v́ Quang tại v́: Mỹ thiên về Viên; Thiệu biết là có thể xoay sở với Viên; Viên sẽ không tham dự vào bất cứ cuộc đảo chánh chính trị nào.

    Mặc dù có vẻ viển vông nhưng c̣n có một lư do khác, dị đoan. Số tử vi của Viên cho thấy ông là "sức mạnh" khả dĩ kiềm chế chống lại Vơ Nguyên Giáp. Thiệu hay bàn luận điểm này cách lư thú với bạn bè. (Không chừng đây có thể là mánh khoé của CIA hay thuộc hạ của Viên). Cũng giống như các viên chức cao cấp khác thời đó, Viên thường không tí do dự làm mọi điều do MACV mớm ư để chiều ḷng Mỹ. Kết quả là Viên chiếm được sự tin cậy và ủng hộ của Mỹ. Càng nhiều quân lính Mỹ đổ vào Việt Nam, ghế ngồi của Viên càng thêm vững chắc.

    Từ xa và trên bề mặt, Viên tỏ vẻ không màng tới công danh và tiến chức. Ông tập Yoga hằng ngày và đệ đơn từ chức bốn lần. Tuy nhiên, Viên rất khôn khéo xây đắp ḷng tin của chủ ḿnh và củng cố địa vị. Chẳng hạn, với tư cách Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Thiệu thường hay ra lệnh trực tiếp cho các Tư Lệnh Quân Đoàn mà không hội ư trước với Viên. Tướng lăo làng Nguyễn Văn Là, Phụ Tá của Viên, cảm thấy khó chịu với sự vi phạm hệ thống quân giai này và hỏi Viên, "Họ coi Tổng Tham Mưu như đồ kiểng, Đại Tướng có thấy vậy không?" Viên trả lời, "Kệ họ, như vậy ḿnh càng ít việc."

    Để củng cố địa vị, Viên để Tướng Vỹ nắm quyền Bộ Quốc Pḥng và bổ nhiệm Thiếu Tướng Đồng Văn Khuyên làm Trưởng Ban Tiếp Vận và Tham Mưu Trưởng tại Tổng Tham Mưu. Từ ngày ra trường Vơ Bị đến khi trở thành Trung Tướng, Khuyên chưa hề chỉ huy một tiểu đội tác chiến. V́ ḷng trung kiên, thói cần mẫn, và biết chiều ư cấp trên, Khuyên được thăng chức mau chóng. Trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, Khuyên bị bỏ tù v́ mang tài liệu mật về nhà và bị ông anh cộng sản cuỗm mất. Sau 1963, sự kiện này được bỏ qua và cho vào quên lăng.

    Sau khi Khuyên được bổ nhiệm vào chức vụ mới, không một viên chức, kể cả từ Bộ Quốc Pḥng, bén mảng tới Tổng Tham Mưu nữa. Bây giờ Tổng Tham Mưu tập chung vào các sinh hoạt Mua và Cung Cấp và ít chú tâm tới các vấn đề hành quân. Đôi khi, khi cần phải xuất hiện với Tổng Thống trong những nghi lễ, Viên chỉ định phụ tá đại diện thay thế ḿnh. Thiệu hiểu rơ cảm nghĩ của Viên và không nói ǵ. Cả hai người phải nhân nhượng lẫn nhau để tồn tại. Sau khi trúng cử lên làm Phó Tổng Thống, Trần Văn Hương đề nghị đưa Trung Tướng Đỗ Cao Trí về giữ một chức tư lệnh tại Quân Khu 3. Thiệu ngại ngùng không muốn nghe theo. Thiệu biết Tướng Trí đánh giặc giỏi với nhiều năm kinh nghiệm trên chiến trường. Trí c̣n thâm niên hơn Viên và Thiệu. Không ai biết Trí nghĩ ǵ trong đầu óc. Hương cũng góp ư kiến đưa Trí thay Viên.. Nhưng Hương không hiểu mối liên hệ kỳ cục giữa Viên và Thiệu cũng như ông không hiểu tí ǵ về người Mỹ.

    Khi Hương được bổ nhiệm Chủ Tịch Ủy Ban Bài Từ Tham Nhũng, với sự phụ tá của Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Thiệu đồng ư cho Hương duyệt xét hồ sơ của Viên. Trong một bữa cơm gia đ́nh ở Vĩnh Long, Hương nói với tôi là ông đề nghị với Thiệu duyệt xét hồ sơ của Viên, và sau này hồ sơ của Quang nữa. Tôi giải thích cho Hương là cho dù Viên có bị loại, th́ Viên cũng được thay thế bởi Quang, chứ không phải bởi Trí. Hơn nữa, rất khó cho Thiệu và Hương cách chức Viên. V́ lẽ không đủ bằng chứng Viên hành sự thiếu sót hay bất trung, và Viên khôn ngoan đủ để cho Thiệu có lấy được bằng chứng. Dưới sự bao che của Viên, Khuyên sẵn sàng hy sinh cho Viên. Khuyên, mặt khác, được sự hỗ trợ của MACV v́ ông luôn đồng ư với cố vấn trong việc chu toàn bổn phận quản trị tiếp tế, chuyên chở, tồn kho, và các dịch vụ tiếp vận khác cung ứng cho các cuộc hành quân được thành công.

    Hương bắt đầu tập chung điều tra vào Quang nhưng Thiệu t́m đủ mọi cách bao che cho Quang v́ bảo vệ Quang tức là bảo vệ ḿnh v́ các dịch vụ của Quang và của Thiệu là một. Tướng Hiếu thu thập và hoàn tất hồ sơ về Quang và trở nên bất măn. Ông xin trở lại Quân Đội.

    Hương thất vọng và thôi không đeo đuổi các viên chức cao cấp, và thay vào đó, ông chú tâm vào những viên chức thấp bé hơn.

    Hoàng Văn Lạc và Hà Mai Việt


    ____________________ ____________________ _________________

  7. #27
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Trần Thiện Khiêm




    Sơ Lược Tiểu Sử Binh Nghiệp Đại Tướng Trần Thiện Khiêm

    Tháng 9/19 69 đến tháng 04/1975 Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Pḥng VNCH.
    Năm 1969? đến tháng 09/1969 Phó Thủ Tướng
    Tháng 05/1968 đến năm 1969 Tổng Trưởng Nội Vụ.
    Tháng 10/1965 đến tháng 05/1968 Đại Sứ VNCH tại Đài Bắc.
    Tháng 10/19 64 đến tháng 10/1965 Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ.
    Tháng 07/1964 Thăng Đại Tướng.
    Tháng 01/1964 đến tháng 09/1964 TTQP kiêm TTMT QLVNCH.
    Tháng 12/1963 đến tháng 01/1964 Tư Lệnh Quân Đoàn 3.
    Tháng 11/1963 Thăng Trung Tướng.
    Tháng 12/1962 Thăng Thiếu Tướng.
    Tháng 12/1962 đến tháng 11/1963 Tham Mưu Trưởng Liên Quân.
    Tháng 02/1960 đến tháng 12/1962 Tư Lệnh SĐ21BB kiêm TL QK5.
    Năm 1958 đến tháng 02/1960 Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Dă Chiến.
    Năm 1957 đến năm 1958 Tu nghiệp khóa CH&TM cao cấp tại Hoa Kỳ.
    Tháng 08/1957 Đại Tá Xử Lư thường vụ Tham Mưu Trưởng BTTM.
    Tháng 07/1954 Thiếu Tá rồi Trung Tá TM Phó Tiếp Vận BTTM.
    Tháng 07/1948 Thiếu Úy SQ tập sự Vệ Binh Nam Phần.
    Năm 1946 đến năm 1947 Chuẩn Uư HSQ cao cấp Viễn Đông (Đập Đá)

    Nhan Hữu Hiệp

    -----------------------------------------------------------

    Đại Tướng Trần Thiện Khiêm
    Wikipedia


    Sinh 15 tháng 12, 1925 (86 tuổi)
    Tiểu sử
    Quốc tịch Việt Nam Cộng ḥa
    Nơi sinh Long An, Đông Dương thuộc Pháp
    Binh nghiệp
    Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
    Năm tại ngũ 1945-1975
    Cấp bậc Đại tướng
    Chỉ huy Đông Dương thuộc Pháp

    Công việc khác
    Tổng trưởng Quốc pḥng
    Thủ tướng Việt Nam Cộng ḥa
    Nhiệm kỳ tháng 9 năm 1969 – 14 tháng 4 năm 1975
    Tiền nhiệm Trần Văn Hương
    Kế nhiệm Nguyễn Bá Cẩn


    Trần Thiện Khiêm (sinh 1925) là một cựu tướng lĩnh và chính khách Việt Nam Cộng ḥa. Ông từng có vai tṛ quan trọng trong các cuộc đảo chính quân sự tại Việt Nam Cộng ḥa trong những năm 1963-1964 và là người từng giữ chức vụ Thủ tướng Việt Nam Cộng ḥa trong thời gian lâu nhất: 6 năm.

    Khởi đầu binh nghiệp

    Ông sinh ngày 15 tháng 12 năm 1925 tại Châu Thành, Long An, trong một gia đ́nh đại điền chủ giàu có. Sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông theo học Trường vơ bị liên quân của Pháp. Tại đây, ông làm quen với một số bạn hữu như Nguyễn Khánh, Quách Sến, Lâm Văn Phát, Trần Đ́nh Lan...

    Năm 1945, ông tham gia phong trào Việt Minh. Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông cùng các bạn hữu rút vào chiến khu 8, chiến đấu dưới quyền khu trưởng Trần Văn Trà một thời gian ngắn, sau đó lại trở về thành.

    Năm 1946, do từng được huấn luyện vơ bị, quân đội Pháp đưa ông đi học khóa đào tạo sĩ quan dành cho người Việt tại Đập Đá. Ông tốt nghiệp năm 1947 với cấp bậc Chuẩn úy.

    Sau khi tốt nghiệp, ông phục vụ trong quân đội Pháp. Tháng 7 năm 1948, ông được chuyển sang lực lượng Vệ Binh Nam Phần làm sĩ quan tập sự, với cấp bậc Thiếu úy. Một thời gian sau, khi Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, ông chuyển ngạch phục vụ và trở thành sĩ quan chính thức với cấp bậc Trung úy, được điều làm chỉ huy một đơn vị đồn trú tại Mông Thọ, Rạch Giá. Tại đây, ông làm quen và kết hôn với bà Đinh Thị Yến (Tư Nết, tên Pháp là Annette), con gái một đại điền chủ vùng Rạch Giá.

    Năm 1951, ông được điều đi đồn trú tại Tiểu khu Hưng Yên với cấp bậc Đại úy. Tại đây ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và Trung úy Cao Văn Viên. Bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất trong nền Đệ nhị Cộng ḥa.

    Tháng 7 năm 1952, ông được thăng cấp Thiếu tá, Tham mưu trưởng Đệ nhị Quân khu (phụ trách Trung phần) vừa được thành lập, dưới quyền Trung tá Tư lệnh Nguyễn Ngọc Lễ. Hai năm sau, tháng 7 năm 1954, ông được thăng Trung tá, Tham mưu Phó Tiếp vận Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam.

    Do có công ủng hộ Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, tháng 8 năm 1955, ông được thăng Đại tá, giữ chức Xử lư thường vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Tháng 8 năm 1957, ông được cử đi tu nghiệp khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.

    Sau khi về nước năm 1958, ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 4 Dă chiến. Tháng 2 năm 1960, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm cải tổ phiên chế các đơn vị cấp sư đoàn. Sư đoàn 4 dă chiến sát nhập với Khu chiến thuật 21 để trở thành Sư đoàn 21 Bộ binh. Ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn, kiêm Tư lệnh Quân khu 5 (đồng bằng sông Mekong).

    Tháng 10 năm 1960, khi nổ ra cuộc đảo chính quân sự do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu, ông đă chỉ huy Sư đoàn 21 kéo về Sài G̣n để giải vây cho Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.
    Mưu sĩ của các cuộc đảo chính

    Do hành động giải vây trên, ông rất được Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm tín nhiệm. Tháng 12 năm 1962, ông được thăng cấp Thiếu tướng và giữ chức Tham mưu trưởng Liên quân, thay cho người tiền nhiệm là tướng Nguyễn Khánh vừa được điều vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II.

    Tuy vậy, tướng Khiêm lại là một trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia cuộc đảo chính một năm sau đó. Với cương vị Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Khiêm được cho là có những động thái tích cực để vạch kế hoạch và điều động các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài G̣n cũng như cách ly các đơn vị trung thành với tổng thống Diệm. Do công lao này, sau khi đảo chính thành công, ông được Hội đồng tướng lĩnh thăng cấp Trung tướng, giữ chức Ủy viên quân sự trong Hội đồng.

    Sau cuộc đảo chính, ông được điều vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 3, kiêm Tổng trấn Sài G̣n thay cho tướng Tôn Thất Đính. Tuy nhiên, chỉ một tháng sau, ông cùng với người bạn cũ là tướng Nguyễn Khánh đă thực hiện cuộc "chỉnh lư" chớp nhoáng, cướp quyền của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, đưa tướng Khánh lên nắm quyền tối cao. Để trả công, ông được tướng Khánh giao giữ chức Tổng trưởng Quốc pḥng, kiêm Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng ḥa. Tháng 7 năm 1964, ông được thăng cấp Đại tướng và trở thành người thứ 2 sau tướng Lê Văn Tỵ thụ phong hàm Đại tướng của Việt Nam Cộng ḥa.

    Nhằm dung ḥa mâu thuẫn giữa các tướng lĩnh, giải pháp "Tam đầu chế" ra đời. Trong một thời gian ngắn, từ 27 tháng 8 đến 8 tháng 9, ông tham gia Ủy ban lănh đạo quốc gia cùng với 2 tướng Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh.
    Thắng làm vua, thua làm đại sứ

    Tuy nhiên, mâu thuẫn quyền lực đă nảy sinh với ông bạn cũ Nguyễn Khánh. Để đảm bảo quyền lực tuyệt đối, tướng Khánh khó mà chấp nhận người bạn đă nhiều lần tổ chức đảo chính và đă đưa ḿnh lên vị trí quyền lực. Cho rằng tướng Khiêm đứng đằng sau cuộc binh biến của tướng Dương Văn Đức ngày 13 tháng 9 năm 1964, ngày 24 tháng 10 năm 1964, ông bị tướng Khánh tước mọi chức vụ và được "cử" làm Đại sứ Việt Nam Cộng ḥa tại Hoa Kỳ, thực chất là một h́nh thức đẩy đi lưu vong ở nước ngoài.

    Sau khi nhóm các tướng trẻ do tướng Nguyễn Cao Kỳ và một người bạn cũ của tướng Khiêm là tướng Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu, đă buộc tướng Khánh phải rồi khỏi chức vụ để "làm" đại sứ lưu động, tướng Khiêm đă có hy vọng trở về. Tuy nhiên, nhóm tướng Kỳ một lần nữa lại đẩy ông làm Đại sứ Việt Nam Cộng ḥa tại Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc).
    Trở về nắm quyền

    Măi đến sau khi người bạn cũ Nguyễn Văn Thiệu đă dùng nhiều biện pháp để loại trừ vây cánh của tướng Kỳ, lúc đó đă là Phó tổng thống, ngồi chắc vào ngôi vị Tổng thống, tháng 5 năm 1968, ông mới được triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong chính phủ Trần Văn Hương. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng. Tháng 9 năm 1969, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và lập chính phủ mới. Khi tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng trưởng Quốc pḥng năm 1972, ông kiêm nhiệm luôn chức vụ này cho đến tận tháng 4 năm 1975.
    Lưu vong lần thứ hai

    Tháng 3 năm 1975, sau khi Quân đội Nhân dân Việt Nam đă kiểm soát được hầu hết miền Trung và cao nguyên, trước áp lực của Hoa Kỳ đ̣i hỏi phải có một cuộc cải tổ sâu rộng thành phần chính phủ để ổn định nội t́nh Miền Nam và có đủ sức mạnh để đối thoại với phía Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă yêu cầu ông từ chức để mời Nguyễn Bá Cẩn thành lập chính phủ mới. Ngày 14 tháng 4 năm 1975, ông chính thức rời khỏi chức vụ. Ngày 21 tháng 4, đến lượt tổng thống Thiệu cũng từ chức, giao quyền Tổng thống cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Ngày 25 tháng 4, ông cùng với cựu tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam.

    Những giờ phút cuối cùng của ông tại Việt Nam được cựu điệp viên CIA Frank Snepp ghi lại trong quyển "Decent Interval" như sau:


    "Khoảng 5giờ chiều 25 tháng 4 năm 1975, Polgar gọi tôi, Joe Kingsley, tướng Timmes và một nhân viên khác của sở đến văn pḥng: "Các anh có thể t́m đường quanh Sài G̣n ban đêm?...". "Tốt". "V́ tôi muốn các anh giúp tôi đưa Thiệu và Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay". Đại sứ Martin sau này thú nhận với tôi là ông đă tiếc v́ đă nhờ Polgar Giám đốc CIA ở Việt Nam, thay v́ nhờ cơ quan DAO và than phiền Polgar đă không làm được việc giao phó cho đúng. "Tôi đă yêu cầu ông ấy đánh máy hồ sơ cần thiết cho Thiệu và đem theo với ông ấy khi các anh vào Tân Sơn Nhất. Nhưng ông ấy không làm được. Ông ấy quên giấy. Ông ấy bảo là không t́m thấy bàn đánh máy chữ". Kết quả là Thiệu rời khỏi xứ trên máy bay Mỹ mà không có giấy tờ chấp thuận của Việt Nam hay phía Mỹ.

    Timmes, hai nhân viên khác và tôi lấy ba chiếc Limousine từ nhà xe của cơ quan CIA khoảng 8giờ 30 tối và lái xe đến Bộ Tư lệnh Quân đội miền Nam ngoài Tân Sơn Nhất nơi Khiêm cư ngụ…

    Ngay sau 9 giờ tối, Polgar đến nhà Khiêm với xe riêng và tài xế. Trong khi ông ta uống rượu với Khiêm và Timmes trong nhà, tất cả chúng tôi ra ngoài sân nghỉ chân….


    Sau khi sang Mỹ, ông cùng gia đ́nh định cư tại Virginia, Hoa Kỳ. Vợ ông, bà Đinh Thị Yến đă qua đời ngày 17 tháng 11 năm 2004.

  8. #28
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Trần Thiện Khiêm

    Sự Bất Lực Của Bộ Quốc Pḥng

    Sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm ngày 1/11/1963, QLVNCH được lănh đạo bởi bốn tướng bốn sao. Những tướng này được huấn luyện dưới hệ thống Pháp tại các trường quân sự ở Vũng Tàu và Thủ Dầu Một. Họ tham dự vào hầu hết các trận chiến lớn thời Pháp đang chiến đấu chống Việt Minh. Sau 1954, họ chỉ huy nhiều đơn vị tinh nhuệ cho Nam Việt Nam. Tuy nhiên, họ không thăng cấp v́ thành quả hay kinh nghiệm mà tiên quyết dựa vào phe phái chính trị hay cán cân quyền lực giữa các nhà lănh đạo quân sự. Do đó rơ rệt có t́nh trạng bất kính đối với các tướng lănh gây nên sự khó khăn trong việc cai quản và hành chánh một nước.

    Sau cuộc chỉnh lư 30/1/1964, Tướng Dương Văn Minh bị đẩy hưu trí sớm và ngưng tham gia vào hội trường chính trị. Tướng Nguyễn Khánh bị đầy ải từ 26/2/1965. Chỉ c̣n lại hai tướng bốn sao, Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, và Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng và Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Cả hai tướng đều dưới quyền Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cựu Trung Tướng nay là Tổng Tư Lệnh QLVNCH.

    Khiêm được bổ nhiệm Bộ Trưởng Quốc Pḥng thay Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị Thiệu cách chức v́ dính líu tới vụ Ngân Hàng Kỹ Nghệ và Thương Mại. Ngân hàng quân đội này do Thiệu sáng lập và sau lại chính Thiệu hủy bỏ. Lư do chính là v́ Mỹ và các con buôn Chợ Lớn cảm thấy bất ổn với số tiền kếch xù (cả tỷ bạc) đặt vào tay kiểm soát của quân đội. Tuy có tiếng cần mẫn và vô tư, Tướng Vỹ bị làm con tế thần. Ông đă là một cấp Tướng khi hai ông Viên và Thiệu c̣n mang lon Thiếu Tá. Hơn nữa để Khiêm có thể nắm chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng cách tuyệt đối, Vỹ phải bị bứng đi, và chính điều đó xảy ra.

    Khiêm đă giúp Thiệu nhiều lần trong quá khứ, và nay lại từ chức vụ ngoại giao tại Đài Loan trở về giúp đỡ Thiệu một lần nữa. Thiệu dùng Khiêm, cũng như đă dùng Hương. Thiệu đă chọn Trần Văn Hương đứng cùng liên danh năm 1971 khi Thiệu muốn tạo dựng một liên minh Nam Việt Nam mới nhờ vào các tiếp xúc và ảnh hưởng của Hương. Giờ đây Thiệu dùng Khiêm để lấy ảnh hưởng của Khiêm có từ phía quân đội. Khiêm bề ngoài coi bộ trầm lặng, dễ dăi, nhưng rất cẩn trọng, nóng tánh nhưng biết tự chế ngự. Ông thường ban bố bổng lộc cho bạn bè và thuộc cấp, hoặc tiền bạc hay chức tước. Ông tỏ vẻ b́nh tĩnh và luôn nhớ tới những ngày bất hạnh đầy ải từ 1964 đến 1968.

    Khi Tướng Khánh biết được Khiêm mớm ư cho Tướng Dương Văn Đức và Đại Tá Huỳnh Văn Tồn "biểu dương lực lượng" ngày 13/9/1964 và cổ vơ các cuộc biểu t́nh của Phật Giáo chống Khánh, Khánh tới nhà Khiêm và dọa nạt, "Tôi không bảo đảm cho sinh mạng ông ở đây được, do đó, tôi bổ nhiệm ông vào chức Đại Sứ nước Hoa Kỳ." Vợ Khiêm giận lắm nhưng quyết định vội vă dời khỏi nước v́ thày bói nói là phải ra ngoại quốc mới được bảo toàn tính mạng.

    Khiêm dính líu vào nhiều vụ x́ căn đan, và đứng sau hầu kết các biến cố quan trọng tỷ như cuộc lật đổ Diệm năm 1963. Khiêm tỏ vẻ rất trầm lặng và đạo đức, nhưng ông "lặng lẽ hốt bạc". Thuộc hạ của ông làm giàu v́ biển thủ công quỹ Thương Cảng Sài G̣n và Phi Trường Tân Sơn Nhứt.

    Khiêm thường tâm sự với bạn bè, "Tôi luôn kính trọng và thương mến Tổng Thống Diệm. T́nh h́nh cuối năm 1963 biến chuyển quá nhanh chóng; nếu tôi không thay đổi ư ủng hộ nhóm lănh đạo đảo chánh, tôi không c̣n sống sót tới giờ này". Sau cuộc đảo chánh, Khiêm hiến cho Minh một số ư kiến, nhất là chống lại việc thành lập nội các cầm đầu bởi Nguyễn Ngọc Thơ. Theo Khiêm, Thơ là cựu Phó Tổng Thống của Diệm và v́ vậy không hợp với những đ̣i hỏi của t́nh huống mới. Hơn nữa, Khiêm cố vấn Minh đừng để hai Trung Tá Trần Đ́nh Lan và Vương Văn Đống, làm việc cho cơ quan phản gián Pháp, hồi hương, Hậu quả là sau 24 tiếng, Khiêm bị đưa đi Biên Ḥa bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn III/Quân Khu 3.

    Trong thời kỳ Khiêm thuộc quyền Khánh, Khiêm khám phá là tṛ múa rối chính trị của Khánh đưa nước lâm vào cảnh rối loạn, khiến cho cộng sản thu lấn đất khắp mọi nơi. Khiêm cố ngăn cản Khánh nhưng không thành công. Sau cùng, mặc dù Khiêm là bạn chí thân của Khánh, ông cũng bị loại ra khỏi nước tới ngày Thiệu trở nên Tổng Thống. Tuy Khiêm biết Thiệu đang trên đường trở thành độc tài, ông phải nhận sự kiện là Thiệu sẽ ép ḿnh hành động trong khuôn khổ của hiến pháp. Do đó, ông tự coi là Tham Mưu Trưởng của Thiệu. Thiệu đích thân bổ nhiệm các chức vụ quan trọng kể cả viên chức nội các, tư lệnh quân đoàn và sư đoàn, tỉnh trưởng và thị trưởng.

    Giống như Thiệu và Viên, Khiêm hiểu rơ là mọi hành động và quyền thế phải phát xuất từ phía Mỹ. Khi Tướng Cao Hảo Hớn, Giám Đốc B́nh Định và Phát Triển Nông Thôn của œy Ban Trung Ương đệ tŕnh một bản dịch nguyên văn của kế hoạch hằng năm từ cơ quan CORDS, Khiêm lập tức đóng ấn kư chấp thuận kế hoạch.

    Thiệu không tin vào ai bao giờ. Thấy Khiêm quá vâng lời, Thiệu đâm ra ngờ vực và bắt đầu hóa giải Khiêm. Khi Đảng Dân Chủ Việt Nam được sáng lập, Thiệu không thèm thông báo Khiêm. Và khi Thiệu quyết định sửa đổi hiến pháp để ông có thể tái cử Tổng Thống lần thứ ba, Khiêm không được hội ư. Thiệu t́m dủ mọi cách để Khiêm không tranh cử một ghế dân cử nào.

    Đầu năm 1974, khi Bắc Quân nới rộng cuộc chiến, Thiệu ngấm ngầm ra lệnh cho các Thượng Nghị Sĩ và Dân Biểu trong Đảng Dân Chủ của ông điều tra và truất phế Khiêm. Nhưng Khiêm thoát nạn nhờ vào số bạn bè ông có trong quốc hội.

    Dưới sự lănh đạo của Khiêm, Bộ Quốc Pḥng chỉ có hai nhiệm vụ chính: 1. Hoạch Định ngân sách quốc pḥng, 2. Thực thi luật động viên thanh niên dân sự phục vụ trong Quân Lực. Kể ra th́ hai mục tiêu và phận vụ này cũng "bất thường", dù trong Thế Giới Tự Do hay trong Thế Giới Cộng Sản,

    Hoàng Văn Lạc và Hà Mai Việt

  9. #29
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    Đại Tướng Trần Thiện Khiêm
    Phản quốc chi Tướng!
    Lữ Giang




    Sau khi bài phóng sự được viết theo kiểu “thổi ống đu đủ” dưới đầu đề “Cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm đến California” được đăng trên nhật báo Người Việt online tại Orange County ngày 1.10.2010, hàng loạt bài phê phán nặng nề Tướng Khiêm được phổ biến trên các diễn đàn Internet, chẳng hạn như "Cóc kêu th́ trời mưa", “Mùi tử thi Trần Thiện Khiêm đến California Friday”, “Một tên tội phạm của dân tộc lấy tư cách ǵ vinh danh ai?”, “Đứng dưới bàn tay nhúng chàm” v.v.

    Thiếu Tá Trần Ngọc Giang, Chánh Văn Pḥng của Tướng Khiệm được Tướng Khiêm cử làm Trưởng pḥng An ninh Quân đội Bộ Tổng Tham mưu trong thời gian đảo chính ông Điệm, đă đưa ra nhiều bằng chứng để chứng minh Tướng Trần Thiện Khiêm là “Cơn lốc rối loạn Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Ḥa Việt Nam”, v.v.



    MỘT VÀI GHI NHẬN

    Ông Kim Âu viết:

    “Lịch sử thế giới chỉ có hai tên TT Thiệu và T T Khiêm của VNCH và ban lănh đạo của chúng là đào nhiệm, đào ngũ, "được ăn thua chạy". Trước khi chạy c̣n phá nát QLVNCH, dâng lănh thổ cho giặc Cộng theo cách "không được ăn th́ đạp đổ". Máu của bao nhiêu dân quân cán chính VNCH ở tỉnh lộ 7 trong cuộc triệt thoái cao nguyên. Máu của quốc dân, đồng bào, chiến sĩ chết tức tưởi ở vùng Một. Bao nhiêu mạng người đă nằm xuống trên đường bộ vượt sang Thái Lan? Bao nhiêu sinh mạng đă ch́m đắm dưới đấy đại dương? Bao nhiêu tinh hoa của đất nước đă chết thê thảm trong ngục tù của cộng sản? Bao nhiêu máu, nước mắt, sinh mạng. T́nh cảnh "nước mất, nhà tan, thân nhục" chưa làm cho phường bất trí, vô lại "bưng bô - đội đĩa" thức tỉnh e rằng thời quốc mạt c̣n kéo dài.”



    Trong bài “Tai sao Nam VN Thua?” được phổ biến trên các diễn đàn Internet ngày 4.10.2010, Bác sĩ Nguyễn Đức An ở Florida đă mở đầu như sau:

    “Miền Nam VN mất, v́ nhiều lư do cộng lại, trong đó có nguyên nhân chính là chế độ Thiệu Kỳ Khiêm quá thối nát. Do đó, dù chúng ta có các cấp chỉ huy giỏi, thanh liêm, hết ḷng v́ nước nhưng cuối cùng Nam VN vẫn thua trận đánh cuối cùng.”



    Sau đó, ông đă đưa ra một số bằng chứng về sự thối nát dưới thời Thiệu Khiêm cai trị và đi đến kết luận:

    “Quân đội VN anh hùng. Chúng ta có nhiều đơn vị thiện chiến đánh cho VC chạy te tua. Chúng ta có những sĩ quan giỏi và lư tưởng. Chúng ta có những tướng sạch, giỏi như Nguyễn Đức Thắng, Nguyen Khoa Nam, Trần văn Hai. Chúng ta có những nhân tài Quốc gia Lư tửơng như GS Nguyễn văn Bông. Nhưng chúng ta Thua CS-BV v́ bọn Đầy Tớ cho Pháp, Mỹ (quá nhiều) đă cấu kết với nhau làm Hư Hỏng Nam VN.

    “Trần thiện Khiêm là một tên Đầy Tớ trung thành của Mỹ, đă làm hư hỏng Nam VN.

    “Sự xuất hiện của Trần thiện Khiêm trong sinh hoạt Cộng Đồng VN-HN là một điềm xấu, báo hiệu một điều chẳng lành.”



    Trong bài “Đứng dưới bàn tay nhúng chàm” phổ biến trên Internet ngày 6.10.2010, Duyên-Lăng Hà Tiến Nhất có ghi lại một câu chuyện được Đại Tá Phạm Bá Hoa, nguyên chánh văn pḥng của tướng Khiêm kể lại:

    “Đầu tháng 3/2007 trong lúc nói chuyện với cựu Đại Tướng Khiêm sau khi đón ông và gia đ́nh từ phi trường IAH sau chuyến du lịch Pháp quốc trở về Houston, nhân lúc vui vẻ, tôi (đại tá Hoa) hỏi:

    - Thưa anh Tư (đại tướng Trần Thiện Khiêm), hồi đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, bắt đầu từ phía Hoa Kỳ hay từ phía Việt Nam ḿnh anh Tư?

    - Từ phía Hoa Kỳ.

    - Vậy ai là người nối vào Việt Nam ḿnh anh Tư?

    - Ông S. (chú thích của bần bút: có lẽ là SPERA. Al Spera là cố vấn chính trị Bộ TTM)

    - Ông ấy nối vào ai vậy anh Tư?

    - Nối vào anh (đại tướng Khiêm), nhưng anh thấy việc lớn quá nên giới thiệu với Trung Tướng Minh.”



    Duyên-Lăng Hà Tiến Nhất nhận xét:

    “Tiết lộ trên cho thấy 3 điểm: thứ nhất, người Mỹ là kẻ chủ trương đảo chánh. Thứ hai, tướng Khiêm là người được Mỹ tín nhiệm và giao việc. Và thứ ba, tướng Minh là công cụ được tướng TTK sử dụng để th́ hành lệnh của Mỹ...”



    Dư luận có vẻ chú ư đến thư ngỏ của Đại Úy Nguyễn Phán, nguyên trưởng ban 3/TĐ30 BĐQ, gửi cựu Đại Tướng Trần thiện Khiêm, về chuyện ông tâm sự rằng ông “luôn luôn theo dơi các chương tŕnh như Đại hội cứu trợ TPB, và các chương tŕnh vinh danh người lính Quân Lực VNCH,…” và chuyện ông nói đến tham dự Đại Hội để CẢM ƠN các “chiến hữu”.



    Đại Úy Phán đă đặt nhiều vấn nạn. Sau đây là ba vấn nạn chính:

    (1) Cựu Đại Tướng nghĩ sao sau hơn 35 năm “vắng bóng” trong mọi sinh hoạt của tập thể các cựu lính/VNCH?

    (2) Qua phát ngôn của cựu Th/tá Phan tấn Ngưu, Đại Tướng thổ lộ “tuy ở xa ông luôn luôn theo dơi các chương tŕnh như Đại hội cứu trợ TPB…”. Thế th́ tại sao chúng tôi chưa bao giờ nhận được, dù một dollar, đóng góp vào công việc đại nghĩa nầy từ cựu Đại Tướng, để cụ thể tấm ḷng, t́nh cảm của cựu Đại Tướng dành cho những Đồng Đội bất hạnh của chúng tôi và cũng là những thuộc cầp của cựu Đại Tướng? Trong khi đó, Người Thương Binh/VNCH, chúng tôi đă nhận được không biết bao nhiêu là NGHĨA T̀NH từ Chiến Hữu cũ, từ Đồng Hương. Họ là những binh nhất, những binh nh́, những trung sĩ, những sĩ quan cấp nhỏ như thiếu uư, trung uư,… và những con người rất b́nh thường của Miền Nam.

    (3) Hôm nay, cựu Đại Tướng định mời một số các anh chị em đă làm việc thiện nguyện, hay làm vẻ vang cho Quân Lực/CVNCH đến “ĂN MỘT BỬA CƠM với cựu Đại Tướng, để rồi nhận sự CẢM ƠN của Cựu Đại Tướng. Riêng các thực khách đă nhận lời đến dùng cơm với cựu Đại Tướng th́ tôi không rơ họ nghĩ sao. Không lẽ, họ làm việc thiện nguyện cho các Thương Phế Binh, họ đă gắn bó với sinh hoạt của tập thể cựu lính bao nhiêu năm qua, chỉ chờ có một ngày được DÙNG CƠM VỚI Ông Cựu Đại Tướng, cựu Thủ Tướng! Người đă từ nhiệm vào ngày 25/04/1975 để ra đi trong an b́nh, trong khi, hơn bao giờ hềt, Tổ Quốc đang cần sự có mặt của các nhà Lănh Đạo. Tôi không muốn so sánh quư vị với các Nhà Lănh Đạo của Kampuchia. Thật đau ḷng khi phải làm cuộc so sánh!



    Dĩ nhiên là đám tà lọt và một số người được hưởng ơn mưa móc của ông Khiêm đă cố gắng viết vài lời để bênh vực ông, nhưng họ không thể chối bỏ sự thật lịch sử được. Họ chỉ “chọi đá đường rầy xe lửa” hay đưa ra những lập luận vớ vẩn như: “Tên đó láo phét. Là lính VNCH tại sao nó hạ thấp chế độ miền Nam, gây chia rẽ phân hóa hàng ngũ Dân Quân Cán Chính VNCH, tạo cơ hội cho Cộng Sản xâm nhập lũng đoạn Cộng đồng Người Việt Tỵ Nạn? Chỉ có Việt Cộng mới đánh phá các nhà lănh đạo VNCH...” Nói cách khác, nhóm này muốn “LẤY THÚNG ÚP VOI”, “LẤY NÓN CỐI ÚP LỊCH SỬ” để biện hộ cho tội làm mất nước của Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm! Nếu đây là CHXNCNVN th́ họ đă thẳng tay với “bọn phá hoại” rồi. Nhưng đây là nước Mỹ! Thiếu Tá Phan Tấn Ngưu có dám huy động Cảnh Sát Đặc Biệt mở cuộc hành quân thủ tiêu tất cả các tài liệu trong văn khố Mỹ, rồi áp dụng điều 88 Bộ H́nh Luật của Việt Cộng trừng trị “bọn phá hoại” hay không?



    VÁC XÁC TRẦN THIỆN KHIÊM TỚI

    Một câu hỏi được nhiều người nêu ra: Tại sao Đại Tướng Trần Thiện Khiêm lại xuất hiện lúc này trong Đại Hội Toàn Quân?

    Trong cuộc phỏng vấn của nhật báo Viễn Đông ở Orange County ngày 16.9.2010, Thiếu Tá Cảnh Sát Phan Tấn Ngưu, Chủ Tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam California, người được ủy nhiệm đứng ra tổ chức đại hội, đă cho biết:

    “Đại tướng Trần Thiện Khiêm muốn được nói lời cám ơn đến sự hy sinh vô bờ bến đến tất cả Quân, Cán, Chính VNCH cũng như Hoa Kỳ, trong cuộc chiến, mà biểu tượng là h́nh ảnh hai người chiến binh tại Tượng đài; sau đó trở về Hội trường họp Đại hội với tân Chủ tịch TTCSVNCH mới được bầu.”



    Câu trả lời này đă đặt ra nhiều câu hỏi khác: Tướng Khiêm là một tướng bỏ chạy, một tướng đào ngũ, ông lấy tư cách ǵ để “CÁM ƠN” các chiến sĩ VNCH và Đồng Minh đă hy sinh trong cuộc chiến? Tại sao phải chờ đến 35 năm sau ông mới xuất hiện và nói lời “CÁM ƠN”?

    Tuy có nhiều cách trả lời khác nhau, nhưng câu trả lời chính xác hơn cả là ban tổ chức sợ Đại Hội Bất Thường của Tập Thể Chiến Sĩ VNCH hải ngoại ở Westminster ít ai đến, nên Tướng Nguyễn Khác B́nh phải vác xác Tướng Trần Thiện Khiêm từ Bắc Cali xuống để câu khách. Chính Thiếu Tá Ngưu cũng phải xác nhận rằng Đại Hội dự trù có khoảng 80 người đến tham dự, nhưng nhờ có Tướng Khiêm, số người tham dự đă tăng gấp đôi.

    Đàn em ông Khiêm và những người hưởng ơn mưa móc của ông đă t́m đến gặp ông tay bắt mặt mừng. Một số người hiếu kỳ cũng đă đến xem ông lúc này như thế nào... Nếu không có ông Khiêm, Cảnh Sát sẽ chiếm đa số.

    Đại Hội đă bầu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm Chủ Tịch Hội Đồng Đại Diện thay thế Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh xin từ nhiệm “v́ lư do sức khỏe”. Và cái xác của Tướng Trần Thiện Khiêm đă được dựng lên trong Hội Đồng Tư Vấn của Tập Thể!



    TÊN ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH

    Vào tháng 6 và tháng 7 năm 2008, các báo An Ninh Thế Giới, Công An Nhân và Nhân Dân Việt Nam ở trong nước có đăng nhiều kỳ một bài nói về Tướng Trần Thiện Khiêm của Văn Thư dưới đầu đề “Tướng Trần Thiện Khiêm của chính quyền Sài G̣n cũ: Đ̣n xóc hai đầu” hay “Trần Thiện Khiêm của chế độ Sài G̣n cũ: tham th́ thâm, lừa thầy, phản bạn”. Loạt bài này cho thấy kư giả trong nước bắt đầu viết lịch sử bớt bôi bác, nhưng v́ họ không phải là nhân chứng của thời cuộc và không có cơ hội tham khảo các tài liệu mới được giải mă, nên không thấy được mặt trái đàng sau.

    Bác sĩ Nguyễn Đức An nói: “Trần thiện Khiêm là một tên Đầy Tớ trung thành của Mỹ, đă làm hư hỏng Nam VN”. Câu nói này rất chính xác. Tuy nhiên, trước khi đi xa hơn, chúng ta cần xác định Tướng Khiêm xuất thân từ trường nào, v́ đây là một vấn đề đang được tranh luận.

    Đa số các tài liệu nói năm 1946 - 1947 ông tốt nghiệp Chuẩn Úy HSQ cao cấp trường Viễn Đông Đập Đá. Nhưng viết như vậy là sai. Phải đến năm 1948 trường Đập Đá ở Huế mới được thành lập.

    Thật ra, Tướng Khiêm đă tốt nghiệp École d'Elèves-Officiers d'Extrême-Orient của Pháp ở Đà Lạt khoá 1946–1947. V́ số khóa sinh quá ít nên người Pháp gọi là Peloton Inter-Armes d'Extrême-Orient (Khoá Liên Quân Viễn Đông). Chỉ có 16 sĩ quan tốt nghiệp khóa này, trong đó có Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Trần Ngọc Tám, Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Bùi Hữu Nhơn, Cao Hảo Hớn, Dương Ngọc Lắm, v.v.

    Đến năm 1948, theo sáng kiến của Thủ Hiến Phan Văn Giáo, Trường Sĩ Quan Hiện Dịch mới được lập tại Đập Đá, Huế. Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang, Trần Văn Trung, Tôn Thất Đính... là những người học khoá đầu tiên ở đây. Sau hai khoá, tháng 10/1950 Bảo Đại cho dời trường này về Đà Lạt và gọi là École Militaire Inter-Armes de Dalat (sau đổi thành Trường Vơ Bị Quốc Gia theo Sắc Lệnh số 325-QP ngày 10.4.1963). C̣n École d'Elèves-Officiers d'Extrême-Orient của Pháp ở Đà Lạt được dời ra Vũng Tàu và gọi là École Militaire Nuoc Ngot.



    Những tài liệu liên quan đến Tướng Trần Thiện Khiêm là một đầy tớ trung thành của CIA đưa miền Nam tới ngày diệt vong đă được chúng tôi tŕnh bày rất nhiều lần với những bằng chứng khó có thể tranh căi được. Ở đây chúng tôi chỉ nhắc lại những điểm chính.

    Sau khi ông Diệm bị lật đổ, có 4 nhân vật được CIA dùng để lănh đạo miền Nam theo ư họ, đó là Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu và Đặng Văn Quang. Nhưng chỉ có Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang là “agent”, c̣n Nguyễn Khánh và Nguyễn Văn Thiệu chỉ là con bài.

    Trong một cuộc phỏng vấn, Tướng Nguyễn Khánh quả quyết với tôi Tướng Trần Thiện Khiêm là một nhân viên (agent) của CIA có trả lương. Qua các tài liệu được giải mă, chúng ta thấy Tướng Khiêm được CIA giao cho giữ những vị trí then chốt trong các biến cố tại miền Nam:

    Trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1960, Tướng Trần Văn Đôn tiết lộ rằng khi đem quân về Sài G̣n, Đại Tá Khiêm có tiếp xúc với Đại Sứ Mỹ Durbrow và Tướng McGarr, người cầm đầu cơ quan MACV. Hai viên chức này không hoàn toàn ủng hộ ông Diệm, nhưng đă khuyên không nên lật đổ ông Diệm, chỉ cho ông ấy một bài học như vậy là đủ rồi. Thực ra, mục tiêu của cuộc đảo chánh này là xem phương thức và khả năng đối phó của ông Diệm, đồng thời biến Tướng Khiêm thành “con cưng” của ông Diệm để làm nội ứng.

    Tài liệu cho thấy Tướng Khiêm là người chỉ huy cuộc đảo ngày 1.11.1963, c̣n Đại Tá Thiệu đưa Sư Đoàn 5 về thực hiện. Đảo chánh xong, Mỹ để cho Tướng Dương Văn Minh quậy làm miền Nam suy sụp, rồi cho Tướng Khiêm làm “chỉnh lư” ngày 30.1.1964 và đưa người của Mỹ lên cầm quyền để đổ quân vào. Cuộc đảo chính này được báo Mỹ gọi là “Pentagon’s Coup”. Tướng Khánh được đưa ra làm quốc trưởng bù nh́n, c̣n Tướng Khiêm nắm thực quyền. Nhưng v́ tham vọng, Tướng Khánh đă làm hỏng kế hoạch của Mỹ và bị Phật Giáo chống đối. Mỹ bảo Tướng Khiêm đi lánh nạn, loại tướng Khánh và đưa Tướng Nguyễn Văn Thiệu lên thay. Nhưng v́ kẹt vụ Phật Giáo, Mỹ phải dùng Tướng Kỳ và Tướng Loan để dẹp Phật Giáo. Sau khi dẹp xong vụ Phật Giáo, Mỹ loại Tướng Kỳ, dựng Tướng Thiệu lên và đưa Tướng Khiêm về.

    Để kềm hăm Tướng Thiệu, CIA tuyển dụng Tướng Đặng Văn Quang, Phụ Tá An Ninh Phủ Tổng Thống, làm “agent” với nhiệm vụ báo cáo các hành vi của Thiệu cho Mỹ biết. Tuy nhiên, trong cuộc họp ngày 14.4.1974 tại Cam Ranh, có Tướng Quang tham dự, Tổng Thống Thiệu ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên và cấm không được cho Mỹ biết. Tướng Quang sợ Thiệu, không dám cho Mỹ biết, nên khi khám phá ra, CIA đă sa thải Tướng Quang. Theo Trung Tá Trần Tích, Trưởng Pḥng Quản Trị Quân Đoàn II cho biết chính Đại Tá Lê Khắc Lư, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, đă tiết lộ tin này cho Mỹ biết. Tướng Phú định bắn nhưng bị can gián nên lại thôi.

    Khi biết miền Nam sắp mất, đầu tháng 4/1975, CIA ra lệnh cho Tướng Khiêm phải từ chức, “bán cái” cho Nguyễn Bá Cẩn để chuẩn bị ra đi và đầu hàng. Nguyễn Bá Cẩn quá yếu kém về chính trị, tưởng bở nên “cắn câu”. Tổng Thống Thiệu không hề hay biết chuyện đó và cho đến khi đi qua bên kia thế giới ông vẫn chưa hay biết!



    MỘT CUỘC RA ĐI NHỤC NHĂ

    Frank Snepp kể lại:

    Tối 25.4.1975, CIA lập ra hai toán, một toán đến Bến Bạch Đằng áp tải Tướng Thiệu, một toán vào khu gia đ́nh tướng lănh ở trong Tổng Tham Mưu khống chế Tướng Khiêm. Khoảng 21 giờ, một chiếc xe Mercedes màu xám chở Tướng Thiệu từ Bến Bạch Đằng tới nhà Tướng Khiêm, nơi đó Tướng Timmes và một số viên chức cao cấp của Việt Nam đă đợi sẵn. Xe chở Tướng Thiệu vào đến Tân Sơn Nhứt lúc 21 giờ 30 và đi thẳng ra chỗ đậu máy bay. Các xe đi theo đă đến bao vây xe của Thiệu gióng hệt một cảnh trong phim trinh thám. Một chiếc C-118 của Không Quân Hoa Kỳ đă chờ sẵn. Đại Sứ Martin cũng đứng đợi đó từ trước. Chung quanh máy bay có thủy quân lục chiến Mỹ mặc thường phục dàn chào. Tướng Thiệu lủi thủi leo lên máy bay, sau đó là Tướng Khiêm và đoàn tùy tùng.



    Chúng ta nhớ lại khi Mỹ tháo chạy khỏi Nam Vang ngày 12.4.1975, Thủ Tướng Sarak Matak đă từ chối không ra đi. Ông đă gởi cho ông John Gunther Dean, Đại Sứ Dean Mỹ ở Cambodia, một điện văn như sau:

    “Thưa Đại nhân và Thân hữu, tôi thành thật cám ơn về bức thư của ngài và về việc ngài dành cho tôi chỗ để đến nơi tự do. Than ôi, tôi không thể ra đi theo cách hèn nhát như vậy. C̣n về ngài, và đặc biệt về đại quư quốc, tôi không bao giờ nghĩa rằng các ngài lại có ư định bỏ lại những người đă chọn tự do. Các ngài đă từ chối không bảo vệ chúng tôi nữa. Chúng tôi không có thể làm ǵ được. Ngài lên đường, tôi chúc ngài và qúy quốc t́m thấy hạnh phúc dưới bầu trời... Tôi đă mắc một sai lầm duy nhất là tin vào những người Mỹ!”



    Đây là một điện văn lịch sử. Thủ Tướng Sarak Matak đă ở lại và bị Khmer Đỏ giết.

    Thôi, hăy nghe lời Thánh Kinh: “Let the dead bury their dead” Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết (Lc 9:60).

    Điều chắc chắn, không thể để các tướng đào ngũ, các tướng bỏ chạy và các tướng đầu hàng đứng ngang hàng với những chiến sĩ đă tuẩn tiết hay đă chiến đấu đến giờ phút cuối cùng.



    Ngày 6.10.2010

    Lữ Giang

  10. #30
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?

    Việt Nam Cộng Ḥa: Danh Tướng / Loạn Tướng?
    TƯỚNG TRẦN THIỆN KHIÊM
    Cơn lốc rối loạn Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Ḥa Việt Nam
    Tác Giả: Trần Ngọc Giang




    Kể từ biến cố lịch sử năm 1975 đến nay đă có nhiều sách báo, đoàn thể, tôn giáo cũng như hầu hết đồng bào Việt Nam đều quy trách những nhà lănh tụ miền Nam như Tổng thống Diệm, tuớng Minh, Đôn, Thiệu, Kỳ v.v...đều là những người đă một phần chịu trách nhiệm để Cộng sản thôn tính miền Nam. Sự quy trách này trên b́nh diện chính trị, truyền thông đương nhiên không ai phủ nhận, nhưng trên phương diện lịch sử th́ thật là phiến diện. Do đó tiện giả sau nhiều lần suy nghĩ, trăn trở vẫn phải cầm cây viết hầu phơi bày một sự thật để phần nào giúp các sử gia sau này có những sự kiện quan trọng đưa vào ḍng định mệnh của Lịch sử Việt Nam.

    Ngược dốc thời gian năm 1958, Đại tá Trần Thiện Khiêm là một trong những sĩ quan được Tổng thống Diệm ưa thích v́ vậy Đại tá Khiêm đă được bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 4BB. Thời gian này Đại tá Khiêm có hai người bạn thân nhất là Đại tá Nguyễn Khánh và Trung tá Nguyễn Văn Thiệu, bất cứ cuối tuần nào , Đại tá Khiêm đều lái xe đến thăm Đại tá Khánh tại đồn điền trà J'Ring, sau đó 2 người kéo lên Đà Lạt thăm Trung tá Thiệu đương là Chỉ huy trưởng Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

    Năm 1960 trong vụ đảo chánh do Trung tá Vương Văn Đông cầm đầu bị thất bại, bởi Đại tá Khiêm Tư lệnh SĐ 21BB từ miền Tây kéo về giải cứu Tổng thống Diệm, và kể từ đó Đại tá Khiêm được Tổng thống Diệm tín cẩn tuyệt đối, thăng cấp Thiếu tướng và được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Liên quân Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa.

    Sau khi nắm chức vụ trên và nhất là được sự tin tưởng của Tổng thống, Thiếu tướng Khiêm đă đề cử Trung tá Thiệu làm Tư lệnh Sư đoàn 5BB và Thiếu tướng Khánh làm Tư lệnh vùng 2 Chiến thuật. Tóm lại tất cả các chức vụ quan trọng trong Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa vào thới điểm này nếu có sự đề bạt của Thiếu tướng Khiêm chắc chắn sẽ được Tổng thống Diệm chấp thuận, ngoài ra TT Khiêm hơn hẳn các tướng lănh khác là được cả ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu mến phục. Bởi vậy tiếng nói của Thiếu tướng Khiêm với hai nhân vật then chốt của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa có một tác dụng gần như tuyệt đối, các tướng lănh và tư lệnh quân binh chủng trong QLVNCH biết như vậy nên mọi lệnh của TT Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân đưa ra đều được thi hành đầy đủ, chính xác.

    Từ trước tới nay đă có nhiều sử gia và nhân vật chính trị đề cập đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-63 nhưng nhiều sự kiện vẫn c̣n thiếu sót và không chính xác v́ chưa ai nêu đúng nhân vật chủ chốt, hầu hết đều cho rằng các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính là những nhân tố chính. Nhưng mặt trái bên trong hậu trường th́ không phải vậy, Trung tướng Đôn mặc dù là Quyền Tổng Tham mưu trưởng nhưng không được các Tư lệnh quân binh chủng tin tưởng, Tướng Minh không có thực lực trong tay c̣n lại Tướng Đính chỉ trong phạm vi Tổng trấn Sài G̣n mà thôi.

    Đến đây tiện giả xin tŕnh bày diễn tiến cuộc đảo chánh 1-11-63 để quư vị độc giả có thể thấu hiểu ai là người đă soạn thảo, móc nối và thi hành kế hoạch đảo chánh.

    Khoảng đầu tháng 10-1963 Thiếu tướng Khiêm gọi Thiếu tá Giang lên văn pḥng cho biết sẽ có đảo chánh để lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa v́ Thiếu tướng Khiêm được biết ông Ngô Đ́nh Nhu đă có liên lạc với phía Việt Cộng. Đến đây tiện giả xin mở dấu ngoặc. Sở dĩ Thiếu tướng Khiêm tiết lộ cuộc đảo chánh cho Thiếu tá Giang v́ Thiếu tá Giang đă từng là Chánh Văn pḥng của Thiếu tướng Khiêm, và ngay sau nhậm chức Tham mưu trưởng Liên quân Thiếu tướng Khiêm đă yêu cầu Nha An ninh quân đội đưa Thiếu tá Giang sang giữ chức vụ Trưởng pḥng An ninh Quân đội Bộ Tổng Tham mưu.

    Ngày 20-10-1963 Thiếu tướng Khiêm chỉ thị Thiếu tá Giang qua gặp Đại tá Đỗ Mậu, Giám đốc Nha An ninh quân đội để cho Đại tá Mậu biết là ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu vừa ra lệnh cho Thiếu tướng Khiêm tạm giữ Đại tá Mậu v́ ông này đang vận động đảo chánh; và Thiếu tướng Khiêm dặn Thiếu tá Giang nói với Đại tá Mậu tạm thời lánh mặt để Thiếu tướng Khiêm dễ dàng tŕnh lên ông Cố vấn. Cũng trong thời gian này Thiếu tướng Khiêm tiết lộ với Thiếu tá Giang về phía tướng lănh Thiếu tướng Khiêm đă tranh thủ được hầu hết, chỉ c̣n có Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh vùng 4 là chưa hội ư, riêng Tướng Khánh và Đại tá Thiệu hoàn toàn đồng ư với Thiếu tướng Khiêm, ngoài ra các Tư lệnh quân binh chủng đă có hứa là sẽ sát cánh với Thiếu tướng Khiêm. Nói tóm lại việc vận động, tổ chức cũng như hoàn tất kế hoạch đảo chánh hầu như do Thiếu tướng Khiêm chủ động v́ chỉ có tướng Khiêm hội đủ mọi yếu tố để cho các tướng lănh và tư lệnh quân binh chủng tin tưởng.

    Sáng sớm ngày 31-10-1963 Thiếu tướng Khiêm gọi Thiếu tá Giang lên văn pḥng; khi Thiếu tá Giang bước vào th́ thấy Đại tá Nguyễn Hữu Có ở đó, Thiếu tướng Khiêm chỉ thị cho Thiếu tá Giang cầm công điện hỏa tốc đi cùng với Đại tá Có xuống Mỹ Tho để bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn hiện do Đại tá Đạm là tư lệnh. Sở dĩ Thiếu tướng Khiêm ra lệnh cho Thiếu tá Giang đi với Đại tá Có là để Đại tá Đạm tin tưởng là lệnh thật do chính Thiếu tướng Tham mưu trưởng kư v́ Đại tá Đạm từng biết sự thân cận giữa Thiếu tướng Khiêm và Thiếu tá Giang.

    Đến 11 giờ sáng cùng ngày Thiếu tá Giang trở về Bộ Tổng Tham mưu và được Thiếu tướng Khiêm cho biết đúng 12 giờ trưa Thiếu tướng Khiêm sẽ chủ tọa buổi họp các tư lệnh quân binh chủng, và sau buổi họp nếu ai chống lại đảo chánh th́ thiếu tá Giang phải giữ lại trong pḥng họp Bộ Tổng Tham mưu chờ lệnh của Thiếu tướng Khiêm. Buổi họp vừa chấm dứt; trong lúc lộn xộn th́ Đại úy Nhung sĩ quan cận vệ của Trung tướng Minh tự ư bắt Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt dẫn đi đâu không rơ, sau đó Đại úy Nhung trở lại định bắt Đại tá Cao Văn Viên, Tư lệnh Sư đoàn nhảy dù và ông Lê Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô Thành, nhưng Thiếu tá Giang đă ngăn chặn kịp thời. Đại úy Nhung báo lên Trung tướng Minh và Trung tướng đến hỏi lư do cản trở Đại úy Nhung th́ Thiếu tá Giang trả lời là thi hành lệnh Tướng Khiêm.

    Khoảng 2 giờ trưa ngày 31-10-63 Đại úy Lê Quang Triệu, em ruột của Đại tá Tung dẫn 1 đại đội lực lượng đặc biệt cùng với 4 chiến xa đến cổng Bộ Tổng Tham mưu để hỏi t́nh trạng Đại tá Tung, ngay khi đó Đại úy Nhung chạy ra gặp Đại uư Triệu và yêu cầu Đại úy vào tŕnh diện Thiếu tướng Khiêm, Đại úy Triệu nghe lệnh tŕnh diện Thiếu tướng Khiêm nên Đại úy không nghi ngờ ǵ do đó mới bị chết thảm.

    Khi tiếng súng đảo chánh nổ trưa 31-10-63 Thiếu tướng Khiêm đă chủ động qua các diễn tŕnh như:
    - Ra lệnh cho Đại tá Có điều động Sư đoàn 7 ngăn chặn lực lượng tiếp viện từ vùng 4 chiến thuật.
    - Lệnh cho Đại tá Thiệu, Tư lệnh Sư đoàn 5 điều quân về Sài G̣n để làm chủ lực tấn công Lữ đoàn pḥng vệ Phủ Tổng thống và Dinh Gia Long.
    - Cô lập tất cả Tư lệnh Quân binh chủng nào xét ra chống lại cuộc đảo chánh.
    - Ra lệnh cho Tướng Khánh, Tư lệnh vùng 2 và Tướng Trí vùng 1 chiến thuật thi hành những biện pháp cần thiết. Riêng các Tướng Minh, Đôn, Kim, Nghiêm, Xuân v.v...có mặt tại Ṭa nhà chánh bộ Tổng Tham mưu chỉ có tính cách phụ giúp hơn là thực quyền v́ tất cả mọi lệnh và điều hành đảo chánh đều diễn ra trong pḥng làm việc của tướng Khiêm.

    Tiếng chuông của chiếc điện thoại được reo đúng 3 giờ 17 phút, Thiếu tướng Khiêm nghe, đầu giây bên kia người đối thoại không ai khác là Tổng thống Diệm. Sau cuộc điện đàm Thiếu tướng Khiêm quay qua tướng Minh, Đôn nói "Tổng thống nói với các tướng lănh đến dinh Gia Long nói chuyện. Moi trả lời để hội ư rồi sẽ tŕnh lại Tổng thống sau" nhưng sau đó tướng Minh, Đôn, Kim và cả Khiêm không đồng ư đến gặp Tổng thống Diệm. Tuy nhiên khoảng 4:30 chiều 31-10-63 Thiếu tướng Khiêm tự ư điện thoại cho Tổng thống Diệm với đề nghị đưa Tổng thống cùng toàn thể gia đ́nh ông Nhu ra ngoại quốc với sự bảo đảm an ninh do chính Thiếu tướng Khiêm hứa. Khoảng 6 giờ chiều Tổng thống Diệm gọi cho tướng Khiêm để cho biết là T.T. đồng ư đề nghị nói trên nhưng khi tướng Khiêm hội ư với tướng Minh, Đôn, Kim th́ tướng Minh nói ngay "Giờ này quá trễ rồi, chúng ta cứ tiếp tục". Qua các cuộc điện đàm kể từ lúc tiếng súng bắt đầu nổ cho đến khi Tổng thống Diệm chạy đến nhà thờ Cha Tam, Tổng thống Diệm chỉ có gọi điện thoại cho Thiếu tướng Khiêm mà thôi.

    Đọc hết đoạn trên chắc độc giả đă nhận ra vai tṛ của tướng Khiêm từ tiền đảo chánh đến khi cuộc cách mạng 1-11-63 thành công, nếu tướng Khiêm không được Tổng thống Diệm tin dùng, nếu không có sự hợp tác với tướng Minh, Đôn v.v...chắc chắn là cuộc đảo chánh không thể xảy ra được v́ trên cương vị Tham mưu trưởng Liên quân lại được sự tín cẩn của Tổng thống v́ vậy các Tư lệnh Quân Binh Chủng đă không có phản ứng nên cách mạng 1-11-63 mới thành công một cách dễ dàng. Ngược lại nếu tướng Minh, Đôn, Đính ra lệnh cho các đơn vị chắc chắn sẽ bị chống đối hoặc không thi hành, nhất là 2 lực lượng nồng cốt do chính Thiếu tướng Khiêm điều động với SĐ7 có nhiệm vụ ngăn chặn tiếp cứu của vùng 4, và Sư đoàn 5 chủ yếu tấn công Lữ đoàn Liên Binh pḥng thủ phủ Tổng thống với dinh Gia Long.

    Sau cuộc cách mạng 1-11-63 thành công vai tṛ nổi bật là những tướng Minh, Đôn, Kim, Đính, Xuân. Riêng tướng Khiêm với chức vụ Tổng trưởng Quốc pḥng hữu danh vô thực, ngoài ra tiếng nói của tướng Khiêm trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng hầu như bị lăng quên do đó cuộc chỉnh lư mới bùng nổ mà nguyên nhân chính là do sự bất măn của tướng Khiêm.

    Người tổ chức, thảo kế hoạch do tướng Khiêm chủ động với sự trợ giúp của tướng Khánh và tướng Thiệu cùng 1 số đông các Tư lệnh quân binh chủng. Tuy nhiên v́ sở trường của tướng Khiêm là không bao giờ muốn lộ mặt nên tướng Khánh được tướng Khiêm chỉ định coi như lănh đạo cuộc chỉnh lư. Trên thực tế tướng Khánh không có thực lực, không được ai tin tưởng cho nên nếu không có tướng Khiêm đẩy ra sân khấu chắc chắn không bao giờ tướng Khánh mơ tưởng được làm Chủ tịch Hội đồng Quân nhân, Thủ tướng v.v...

    Mục tiêu của cuộc chỉnh lư không ngoài mục đích của tướng Khiêm là vô hiệu hóa hết quyền hành các tướng Minh, Đôn, Kim v.v...để trả thù lại sự vô ơn của các tướng đối với tướng Khiêm sau cách mạng 1-11-63 và luôn thể đưa những người bạn thân nhất nắm chính quyền là tướng Khánh, tướng Thiệu v.v... Do đó ngay khi cuộc chỉnh lư thành công tướng Khiêm không muốn ở vị thế lănh đạo nên đẩy tướng Khánh ra thay thế tướng Minh, đưa tướng Thiệu nắm chức Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH.

    Nhưng khi tam đầu chế Minh, Khánh, Khiêm thành h́nh th́ tướng Khánh ham quyền lực, quên đi người đă gây dựng sự nghiệp cho ḿnh là tướng Khiêm, nên tướng Khánh một mặt củng cố uy quyền mặt khác loại bỏ những người thân cận của tướng Khiêm. Tiện giả c̣n nhớ câu của tướng Khánh nói với tướng Khiêm khi tướng Khánh tống tướng Khiêm đi làm Đại sứ tại Đài Loan như sau: "Anh phải dời VN trong ṿng 48 tiếng, nếu không tôi sẽ không bảo đảm tính mạng của anh".

    Mặc dù sau khi tướng Khánh loại được tướng Khiêm, nhưng từ Đài Loan tướng Khiêm vẫn âm thầm tổ chức để lật đổ tướng Khánh, do đó mới có những cuộc binh biến xảy ra liên miên cầm đầu bởi tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát, Đại tá Tồn, Trang v.v... Tuy nhiên, tướng Khiêm ít nhất vẫn được người bạn trả ơn đàng hoàng là tướng Thiệu, v́ ngay khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống th́ tướng Khiêm, đương kim Đại sứ Hoa Kỳ được gọi về giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội Vụ và sau đó là Thủ tướng cho đến sát biến cố 4-1975.

    Xuyên qua những sụ kiện tŕnh bày trên tiện giả chỉ với mục đích duy nhất là đóng góp nhỏ nhoi vào kho tàng lịch sử biến động nhất của 2 nền Cộng hoà mà tiện giả nghĩ rằng nhân vật Trần Thiện Khiêm dù muốn dù không đă nắm giữ một vai tṛ tích cực có tính cách xoay chuyển cục diện của miền Nam v.v...

    Tiện giả cũng nghĩ rằng nếu không có Trần Thiện Khiêm sẽ không có đảo chánh 1-11-63, không có chỗ cho vai tṛ của tướng Khánh trên sân khấu chính trị "cải lương" nhất trong gịng lịch sử Việt và chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống nền Đệ nhị Cộng ḥa, người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm làm tan ră QĐVNCH trong một thời gian kỷ lục cũng như đau khổ, tủi nhục cho hàng triệu gia đ́nh Việt Nam.

    Trần Ngọc Giang
    (Văn Nghệ Tiền Phong số 272)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 22-11-2011, 01:00 AM
  2. Replies: 85
    Last Post: 24-04-2011, 11:18 PM
  3. Replies: 1
    Last Post: 22-03-2011, 08:51 PM
  4. Hé lộ mật lệnh “ban” thuốc độc giết danh tướng của Hitler
    By Phó thường dân in forum Ngược Ḍng Lịch Sử
    Replies: 2
    Last Post: 08-03-2011, 10:48 PM
  5. Replies: 2
    Last Post: 12-12-2010, 06:08 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •