Page 6 of 6 FirstFirst ... 23456
Results 51 to 58 of 58

Thread: Chiến tranh biên giới Việt-Trung

  1. #51
    Member
    Join Date
    20-04-2011
    Posts
    5,771
    Những bài học về cuộc chiến Việt-Trung 1979


    Cảnh sát biên pḥng Trung Quốc ngăn các phóng viên chụp h́nh tại cửa khẩu Thiên Bảo ở tỉnh Vân Nam, đối diện với cửa khẩu Thanh Thủy của Việt Nam.Cảnh sát biên pḥng Trung Quốc ngăn các phóng viên chụp h́nh tại cửa khẩu Thiên Bảo ở tỉnh Vân Nam, đối diện với cửa khẩu Thanh Thủy của Việt Nam.

    Nguyễn Hưng Quốc

    26.02.2013
    Cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1979 là cuộc chiến tranh đầu tiên giữa hai nước trong thời hiện đại; là một trong hai cuộc chiến tranh đầu tiên giữa hai quốc gia xă hội chủ nghĩa (cuộc chiến kia là giữa Việt Nam và Campuchia năm 1978); là một trong những cuộc chiến tranh ngắn ngủi nhất trên thế giới (tính từ ngày Trung Quốc bắt đầu tấn công Việt Nam 17/2 đến lúc Trung Quốc tuyên bố kết thúc cuộc tấn công 5/3 là 17 ngày; đến ngày Trung Quốc rút hết quân khỏi Việt Nam, 16/3, là 27 ngày), nhưng đồng thời cũng là một trong những cuộc chiến tranh đẫm máu nhất, với trên 20.000 người bị giết chết mỗi bên; (nếu chia đều số người bị chết này cho thời gian thực sự của cuộc chiến, con số tử vong hàng ngày rất cao). Đó là chưa kể các thiệt hại khác về cơ sở vật chất và đời sống của dân chúng.

    Tại sao Trung Quốc, nước từng viện trợ cho Việt Nam trên 20 tỉ đô la suốt cả cuộc chiến tranh trước 1975 lại quyết định tấn công Việt Nam? Họ thường nêu lên bốn lư do chính: Một, đập tan giấc mộng bá quyền của Việt Nam ở Đông Nam Á; hai, trừng phạt Việt Nam về tội quấy phá ở vùng biên giới của hai nước; ba, trả thù việc Việt Nam đối xử tàn tệ đối với các Hoa kiều (trấn áp, tịch thu tài sản và xua đuổi họ ra khỏi nước); và bốn, dằn mặt việc Việt Nam kư hiệp ước liên minh với Liên Xô để mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Các nhà b́nh luận chính trị quốc tế nêu lên ba mục tiêu chính của Trung Quốc: Một, tấn công có giới hạn một số vùng đất dọc biên giới để trừng phạt Việt Nam; hai, tạo sức ép để Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia; và ba, để Việt Nam - và từ đó, các nước khác - hiểu là không thể tin cậy vào sự liên minh với Liên Xô, từ đó, có thể cắt đứt mối liên minh ấy để quay về với Trung Quốc.

    Trung Quốc thành công hoàn toàn ở mục tiêu đầu, dĩ nhiên với một giá rất đắt về nhân mạng. Nhưng hai mục tiêu sau th́ họ lại thất bại: Việt Nam không những không rút quân khỏi Campuchia mà c̣n đóng chiếm ở đó trên 10 năm; Việt Nam không những không bất măn Liên Xô mà c̣n tiếp tục giữ liên minh chặt chẽ với Liên Xô đến tận lúc Liên Xô sụp đổ vào năm 1990.

    Đối với cuộc xâm lược của Trung Quốc, bộ máy tuyên truyền của Việt Nam có hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau: Trước, họ lên án Trung Quốc một cách kịch liệt; sau, họ hoàn toàn im lặng và bắt buộc mọi người phải im lặng theo. Trước, họ xem Trung Quốc như một tên đế quốc luôn luôn có tham vọng bá quyền và bành trướng; sau, họ lại xem Trung Quốc là một láng giềng tốt và một đồng chí tốt. Ở cả hai giai đoạn và với hai thái độ khác nhau ấy, Việt Nam đi từ cực đoan này sang cực đoan khác. Và cực đoan nào cũng nguy hiểm như nhau. Cái nguy hiểm nhất là chúng ngăn chận người ta học được những bài học cần thiết.

    Trong số những bài học cần thiết ấy, theo tôi, bài học đầu tiên cần được nhấn mạnh là: Đừng ngây thơ.

    Quan sát và/hoặc t́m hiểu cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, hầu như mọi nhà nghiên cứu đều ghi nhận một điểm giống nhau: Việt Nam hoàn toàn bị bất ngờ trước sự tấn công của Trung Quốc. Lúc lính Trung Quốc tràn qua biên giới Việt Nam, lực lượng pḥng thủ của Việt Nam chủ yếu là bộ đội địa phương; c̣n trong giới lănh đạo th́ cả Phạm Văn Đồng lẫn Văn Tiến Dũng đều đang đi thăm Campuchia. Trong cuốn Bên thắng cuộc, Huy Đức kể, những người được phỏng vấn về cuộc tấn công ấy cũng đều cho là Việt Nam hoàn toàn không chuẩn bị trước. Với giới quan sát và nghiên cứu, cảm giác bất ngờ của Việt Nam quả là điều… bất ngờ. Nhiều người kể, ngay trước năm 1975, Lê Duẩn vừa nhận viện trợ của Trung Quốc lại vừa nghi ngại Trung Quốc; sau năm 1975, ông cũng biết rơ là nếu Việt Nam tấn công Campuchia, Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam. Vậy mà, lạ, lúc Trung Quốc tấn công Việt Nam, ông cũng như toàn bộ giới lănh đạo Việt Nam vẫn thấy bất ngờ. Tại sao? Người ta giải thích: Giới lănh đạo Việt Nam vẫn tin là Trung Quốc chỉ doạ dẫm chứ sẽ không đánh họ; vẫn tin là t́nh đồng chí giữa hai nước xă hội chủ nghĩa, tuy bị thử thách nghiêm trọng, vẫn đủ để ngăn chận một cuộc xâm lược.

    Kể ra, sau khi đă từng bị Campuchia, một nước xă hội chủ nghĩa anh em khác, tấn công và sau khi đă dẫn quân tràn qua biên giới càn quét người anh em xă hội chủ nghĩa ấy, mà vẫn c̣n tin như thế được quả là một sự ngây thơ đáng kinh ngạc. Ngây thơ đến dại dột.

    Nhưng ở đây, có đến hai sự ngây thơ. Ngoài sự ngây thơ đối với t́nh đồng chí xă hội chủ nghĩa của Trung Quốc, c̣n có sự ngây thơ đối với t́nh đồng chí của Liên Xô. Trước đó, Việt Nam đă từng kư kết hiệp ước hữu nghị và hợp tác quốc pḥng với Liên Xô, những tưởng Liên Xô sẽ ra tay bảo vệ Việt Nam trước sự xâm lược của Trung Quốc. Chính Trung Quốc cũng tưởng như vậy nên, để hoá giải sự trả đũa của Liên Xô, họ đề ra ba sách lược chính: Một, đi vận động sự ủng hộ của Mỹ, Nhật và các nước Đông Nam Á cho chiến dịch đánh Việt Nam, để các nước này, sau đó, có thể ủng hộ họ trong trận đối đầu với Liên Xô nếu Liên Xô nhảy vào bênh vực Việt Nam; hai, tuyên bố cuộc chiến tranh nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học” chỉ là một cuộc chiến tranh giới hạn về cả quy mô (không dùng không quân), mục tiêu (chỉ nhắm tiến sâu vào lănh thổ Việt Nam khoảng vài chục cây số) và thời gian (trong ṿng vài tuần) để Liên Xô không có cớ chính đáng gây chiến với Trung Quốc; và ba, chọn thời điểm mở đầu cuộc tấn công vào giữa tháng Hai để, một mặt, tránh được mùa mưa (thường bắt đầu vào tháng Tư) và, mặt khác, đă qua hết mùa đông - băng trên các ḍng sông dọc biên giới Trung Quốc và Liên Xô đă tan chảy hết - , tránh t́nh trạng Liên Xô có thể dễ dàng xua quân tràn qua mặt sông đóng băng cứng để tấn công Trung Quốc. Nhưng cả Việt Nam lẫn Trung Quốc đều đoán sai. Khi quân Trung Quốc tràn qua biên giới đánh chiếm Việt Nam, Liên Xô vẫn án binh bất động.

    Bởi vậy, ngay sau khi chiến tranh biên giới bùng nổ, giới b́nh luận chính trị trên thế giới đều nhận ra một điều: quyền lợi quốc gia quan trọng hơn hơn ư thức hệ nhiều. Không nên tin vào cái gọi là t́nh đồng chí quốc tế.

    Bài học thứ hai là cần t́m hiểu kỹ hơn về Trung Quốc. Hầu như ai cũng biết: mặc dù sống sát cạnh Trung Quốc, chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc và thường xuyên đánh nhau với Trung Quốc, sự hiểu biết của Việt Nam về Trung Quốc, kể cả trong giới học giả, lại rất giới hạn. Cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979 cho thấy một yếu kém nghiêm trọng khác của Việt Nam: t́nh báo. Lâu nay, giới truyền thông thường làm ồn ào về tài t́nh báo của Việt Nam ở miền Nam: Họ lọt vào cả những chức vụ quan trọng nhất trong guồng máy chính quyền miền Nam. Tuy nhiên, với Trung Quốc th́ họ lại hoàn toàn mù mờ. Từ giữa năm 1978, giới lănh đạo Trung Quốc đă bắt đầu bàn luận về kế hoạch tấn công Việt Nam: Họ hoàn toàn không biết. Từ cuối năm 1978, Trung Quốc bắt đầu lên kế hoạch tấn công: Họ cũng không biết. Cũng từ cuối năm 1978 và đầu năm 1979, Trung Quốc liên tục đàm phán với Mỹ, Nhật và một số nước Đông Nam Á, như Thái Lan và Malaysia, về việc tấn công Việt Nam: Họ cũng không biết. Tệ nhất là sự kiện: để điều động trên 300.000 quân với vũ khí và lương thực đến biên giới, Trung Quốc cần ít nhất là ba tháng, với cả hàng trăm ngàn dân công: Họ cũng không biết.

    Đến lúc Trung Quốc chính thức nổ súng, họ vẫn không biết ǵ về kế hoạch đánh mạnh, phá sạch và rút nhanh của Trung Quốc cả. Trong khi Trung Quốc chỉ đặt chỉ chỉ tiêu là tiến sâu vào khoảng 30-40 cây số, chiếm hai tỉnh lỵ Cao Bằng và Lạng Sơn là rút quân về nước ngay, Việt Nam vẫn chuẩn bị cho pḥng tuyến hai, nhằm bảo vệ Hà Nội, để mặc cho dân quân và một số ít bộ đội chủ lực chống chọi với Trung Quốc ở biên giới.

    Việt Nam bị hớ trong việc pḥng thủ biên giới. Họ lại hớ lần nữa trong việc pḥng thủ Hà Nội, nơi Trung Quốc không hề có ư định tấn công. Cả hai lần hớ ấy đều xuất phát từ một nguyên nhân: Thiếu tin tức.

    Bài học thứ ba: Trong lúc giới lănh đạo ngây thơ và hớ hênh trong chiến lược pḥng thủ như vậy, những kẻ thực sự có công đầu trong việc đánh chận quân xâm lược Trung Quốc chính là các dân quân du kích và bộ đội địa phương ở các tỉnh biên giới. Toàn bộ bộ đội và du kích Việt Nam là khoảng 100.000 người trong khi bộ đội Trung Quốc lên đến khoảng 300.000 người. Như vậy, một người lính Việt Nam phải chọi lại ba người lính Trung Quốc. Họ không đủ khả năng ngăn chận được Trung Quốc. Họ chỉ làm được hai điều: Một, làm chậm bước tiến của quân Trung Quốc; và hai, gây thiệt hại nặng nề cho lính Trung Quốc. Trong khi đó, hầu hết quân chủ lực của Việt Nam th́ hoặc đang ở Campuchia hoặc đang canh giữ pḥng tuyến hai gần Hà Nội.

    Theo các nhà phân tích quân sự và chính trị quốc tế, sở dĩ bộ đội và du kích ở các tỉnh biên giới chiến đấu giỏi như vậy là nhờ bốn yếu tố chính: Một, họ quen thuộc với địa h́nh núi non hiểm trở ở vùng biên giới; hai, họ có thật nhiều kinh nghiệm chiến đấu sau hai cuộc chiến tranh kéo dài cả ba mươi năm; ba, vũ khí của họ tối tân hơn hẳn Trung Quốc (chủ yếu là nhờ nguồn vũ khí tịch thu ở miền Nam năm 1975); và bốn, tinh thần yêu nước và sự dũng cảm của họ rất cao.

    Xin lưu ư: trong bốn yếu tố tạo nên ưu thế của quân đội Việt Nam năm 1979, yếu tố thứ hai và thứ ba hoàn toàn trở thành vô hiệu theo thời gian. Năm 1979 bộ đội và cả tướng lĩnh Trung Quốc bị xem là thiếu kinh nghiệm chiến đấu v́ cuộc chiến tranh gần nhất mà họ tham gia là ở Triều Tiên, trước đó 26 năm (1953). Đó cũng là trường hợp của bộ đội và tướng lĩnh Việt Nam hiện nay: Cuộc chiến tranh lớn mà họ tham gia, ở Campuchia năm 1978 và ở biên giới Việt-Trung năm 1979, cách đây đă trên 30 năm. C̣n yếu tố thứ tư th́ bị chính chính quyền Việt Nam ra tay đập phá triệt để bằng nhiều biện pháp khác nhau: một, ngăn cấm mọi biểu hiện của t́nh thần yêu nước, từ việc phát biểu bằng lời đến việc bày tỏ thái độ qua các vụ biểu t́nh; hai, vu khống và nhục mạ những người bộc lộ ḷng yêu nước và lên án các hành động uy hiếp hay sách nhiễu của Trung Quốc; ba, ngăn cấm mọi h́nh thức kỷ niệm hay tưởng niệm chiến tranh chống Trung Quốc; và bốn, tuyên truyền cho một thứ chủ nghĩa đầu hàng được nguỵ trang dưới chiêu bài láng giềng tốt và đồng chí tốt.

    Ở trên, tôi nêu lên ba bài học chính. Bạn thử nghĩ xem: chính quyền Việt Nam học được mấy bài?

    ***
    Chú thích: Các sự kiện và số liệu sử dụng trong bài viết này được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, nhung nhiều nhất là từ bài “China’s 1979 war with Vietnam: A reassessment” của Xiaoming Zhang trên The China Quarterly 2005, tr. 851-874.

  2. #52
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Cuộc chiến 1979: nạn kiều Amie Mui Lee 'bị hắt hủi cả đời'



  3. #53
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    ĐẶNG TIỂU B̀NH TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG 1979 (TRẦN TRUNG ĐẠO)
    Tháng 2 17, 2020
    p1


    ‘…Nỗi sợ hăi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính ḿnh không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống v́ tương lai của các thế hệ con cháu mai sau…’


    Trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu B́nh tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”.

    Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền h́nh Trung Cộng phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lănh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đă xem đoạn phóng sự truyền h́nh đó “Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ măng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền h́nh trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “hooligan” – tức du côn, côn đồ.”

    Tại sao Đặng Tiểu B́nh nói câu “lỗ măng” đó?

    Đảng CS Trung Quốc "hy sinh" quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Cộng không chỉ viện trợ tiền của mà c̣n bằng xương máu.

    Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong chiến tranh Việt Nam:

    “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đă lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không (SAM), pḥng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét ḿn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiễn pḥng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Cộng giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.

    Trong số năm nhân vật hàng đầu lănh đạo Trung Cộng giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lư Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu B́nh th́ Đặng Tiểu B́nh là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đă tiếp xúc, làm việc với các lănh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Cộng dành cho đảng CSVN.

    Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Cộng nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu B́nh chết đói trên 10 triệu người.

    Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4, 1965, chính Lê Duẩn đă sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu B́nh để gởi quân trực tiếp tham chiến.

    Xung đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều

    Theo báo cáo Bộ Quốc Pḥng Trung Cộng, các đụng độ quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên pḥng hai nước đă gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lư do chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ư cho Bắc Kinh thấy giải pháp có thể phải chọn là giải pháp quân sự.

    Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang Cambodia và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm Trung Cộng khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.

    Đánh Việt Nam để củng cố quyền lực

    Đặng Tiểu B́nh được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực.

    Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lư Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều c̣n nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng.

    Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Cộng trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.

    Nỗi sợ bị bao vây

    Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ các lư do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các thế hệ lănh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó.

    Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) vừa xuất bản, đă trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Cộng của họ Phạm vào năm 1968.

    Chu Ân Lai: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng nhiệt t́nh đáp lại: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lănh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lư do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy”. Chu Ân Lai đồng ư: “Các đồng chí nghĩ thế là đúng ”.

    Chính sách của Đặng Tiểu B́nh đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như “một đe dọa đối với ḥa b́nh”. Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được kư ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hăi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không c̣n là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm.

    Cambodia, giọt nước tràn ly

    Không những Trung Cộng sợ bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà c̣n lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu B́nh cũng đă chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”.

    Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Cộng trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Cộng của y vào tháng Ba, 1976.

    Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam kư Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô.

    Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu B́nh xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt ṿng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Đặng Tiểu B́nh chọn phương pháp quân sự để chọc thủng ṿng vây.

    Quyết định của Đặng Tiểu B́nh

    Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẽ trong nội bộ Bộ Chính Trị đảng CSTQ, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu B́nh.

    Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu B́nh chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam. Các thành viên tham dự chẳng những đồng ư với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ Mengla và Vân Nam qua đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu B́nh cử Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.

    Soạn kế hoạch trên giấy tờ th́ dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như Đặng Tiểu B́nh, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế và quân sự c̣n rất yếu của Trung Cộng vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu B́nh nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu B́nh phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ.

    Lên đường thuyết khách t́m đồng minh

    Cuối năm 1978, Đặng Tiểu B́nh, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lănh đạo tối cao của Trung Cộng để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam.

    Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mă Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho ḥa b́nh và ổn định Đông Nam Á.

    Đặng Tiểu B́nh phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978:

    “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đă trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ư nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái B́nh Dương. An ninh và ḥa b́nh châu Á, Thái B́nh Dương và toàn thế giới bị đe dọa.”

    Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.

    Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu B́nh chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung Cộng thông báo cho Mỹ biết ư định b́nh thường hóa ngoại giao.

    Đầu tháng 12, Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Cộng vào đầu năm Dương Lịch 1979. Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn Pḥng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán, Đặng đă nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán vơ khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới b́nh thường hóa v́ Đặng nóng ḷng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xăm lăng Việt Nam.

    Chính thức viếng thăm Hoa Kỳ

    Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu B́nh lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Ông ta nghĩ rằng Mỹ và Trung Cộng đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống Sô Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới.

    Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu B́nh gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên. Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Ṭa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter c̣n có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu B́nh thông báo cho TT Mỹ biết Trung Cộng đă quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của Đặng Tiểu B́nh, TT Carter không trả lời ngay, ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng nên “tự chế khi đương đầu với t́nh trạng khó khăn”.

    Ngày hôm sau, Đặng Tiểu B́nh nhận lá thư viết tay của TT Carter, trong đó ông có ư cản ngăn họ Đặng v́ theo TT Carter dù Trung Cộng có đánh Việt Nam, Việt Nam cũng không rút quân khỏi Cambodia mà c̣n làm Trung Cộng sa lầy. TT Carter cũng nhắc việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực của Trung Cộng cổ vơ cho một viễn ảnh ḥa b́nh trên thế giới.

    TT Carter viết lại trong nhật kư Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch:

    “Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Pḥng Bầu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi đă đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lư luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đă nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lănh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn c̣n đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đă sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.”

    Ngày 30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT Carter, Đặng Tiểu B́nh cho biết việc đánh Việt Nam đă được quyết định và sẽ không có ǵ làm thay đổi. Tuy nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy ra trong ṿng giới hạn.

    Đặng Tiểu B́nh không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ để đánh Việt Nam nhưng ít ra không phải về tay trắng.

    Tổng thống Carter để lấy ḷng “khách hàng khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên Xô” đồng ư cung cấp tin tức t́nh báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dơi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đă dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”.

    Chuyến viếng thăm Mỹ là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án Trung Cộng xâm lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật.

    Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979, Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam.

    Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu B́nh xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.

    Lănh đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Cộng tràn qua biên giới?

    Trong khi Đặng Tiểu B́nh chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lănh đạo CSVN đă bị CSTQ tẩy năo sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ ḷng đem quân đánh đàn em CSVN.

    Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lănh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy ḷng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Cộng từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Cộng] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.”

    Khi hàng trăm ngàn quân Trung Cộng tràn sang biên giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn c̣n đang viếng thăm Campuchia.

    T́nh báo Việt Nam không theo dơi sát việc động binh ồ ạt của Trung Cộng và cũng không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân Trung Cộng. Tác giả Xiaoming Zhang viết trong Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979 “Rơ ràng t́nh báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng” và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đă có nhiều dấu hiệu chiến tranh, các lănh đạo Việt Nam không thể nào tin “nước xă hội chủ nghĩa anh em” có thể đánh họ.

    Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Cộng.

    Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin t́nh báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đă hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Cộng. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân đội Trung Cộng học bài học ǵ dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese Army đă mô tả quân Trung Cộng chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều Tiên mấy chục năm trước.

    Nếu ngày đó giới lănh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ư thức hệ CS và “t́nh hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đă không chết, Lạng Sơn đă không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Cộng đă không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.

  4. #54
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    ĐẶNG TIỂU B̀NH TRONG CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG 1979 (TRẦN TRUNG ĐẠO)
    Tháng 2 17, 2020
    p2



    Bài học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979

    Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Cộng bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.

    Đặng Tiểu B́nh trước đây và các lănh đạo CSTQ hiện nay sẵn sàng dùng bất cứ phương tiện ǵ để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy).

    Đừng quên họ Đặng đă từng chia sẻ ư định này với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô tḥ ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi”.

    Đặng Tiểu B́nh muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á.

    Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông:

    “Những ǵ Đặng Tiểu B́nh đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lănh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”.

    “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ư Đặng Tiểu B́nh tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.

    Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.”

    Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế Trung Cộng phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.

    Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng.

    Lịch sử đă chứng minh, Trung Cộng giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hăi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính ḿnh không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống v́ tương lai của các thế hệ con cháu mai sau.

    Trần Trung Đạo

    Nguồn: facebook.com/ChinhLuanTranTrungDa o/posts/488451798456001
    Tham khảo:

    - Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010
    - China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang
    - Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
    - Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
    - A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
    - Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
    - Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
    - Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999
    - Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
    - A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259 , Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007)
    - Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch

  5. #55
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    “Những cái nhất” của ngày 17/2/1979
    TS. Đinh Hoàng Thắng
    2020-02-17


    H́nh minh hoạ. Những nhà hoạt động cầm biểu ngữ tập trung kỷ niệm ngày cuộc chiến biên giới với Trung Quốc 17/2/1979 ở Hà Nội hôm 17/2/2016
    AFP
    Đọc cái “tút” của GS-TS Trần Ngọc Vương từ Đại học Quốc gia nhân ngày tập đoàn lănh đạo Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 41 năm trước đây, thú thật người viết bài này không khỏi giật ḿnh. Nói chuyện điện thoại với Giáo sư xong, viết bài này, như thắp một nén tâm hương, tưởng niệm gần 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta đă bỏ ḿnh trong hai cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc từng bị lăng quên một cách nhẫn tâm và chóng vánh.

    ________________


    Con số 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta hy sinh là lấy từ Tuyên bố của Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng. Tuyên bố viết: “Lịch sử rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương vong trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo các nhà quan sát phương Tây ước tính, th́ quân và dân Việt Nam đă hy sinh trong hai cuộc chiến tranh biên giới mà nguyên nhân là từ Trung Quốc cộng sản gây ra khoảng 100.000 người”.


    Vâng, con số nói trên rơ ràng chưa được thẩm định. Ở một đất nước mà phải sau 3 Nghị quyết của Bộ Chính trị, doanh nghiệp, người dân và xă hội mới được phép “hội nhập toàn diện” với thế giới, th́ việc trích con số mất mát trong trận mạc chưa qua thẩm định rất có thể bị xử lư. Vẫn biết chẳng hy vọng ǵ nhiều vào câu chữ trong EVFTA, tự do báo chí sẽ được bảo đảm ở Việt Nam, để tính chuyện “chạy tội”. Đơn giản, phải chờ đến năm 2023, cam kết trong Hiệp định ấy mới có hiệu lực pháp lư. C̣n trên thực tế th́ chưa biết đến “Tết Công gô” nào mới có!


    Nhưng chẳng nhẽ v́ thế mà những nhà báo có lương tri dịp này vẫn “mũ ni che tai”? Tác giả bài này c̣n nhớ, dạo nọ, nhân tưởng niệm ngày 17/2, một trang mạng hàng đầu ở Việt Nam có đặt bài về cuộc chiến tranh biên giới, nhưng lại đưa ra yêu cầu là không được đề cập đến hai từ “Trung Quốc” trong bài viết. Thật là tột cùng của mọi sự phi lư! Đỉnh cao của mọi sự vô liêm sỉ! Ngay cả 17/2 năm nay, một số tờ báo hầu như “không giám chấp” hay do “huư kỵ” đặc biệt, vẫn tránh hai chữ “Trung Quốc” trong bài viết như tránh dịch Covid-19. Lần này, cùng với GS. Trần Ngọc Vương, tác giả muốn đề xuất với các “sử gia” đáng kính 5 “cái nhất” mà những người viết bộ sử “chính thống” ấy không rơ v́ lư do ǵ đă bị ép quên hay tự lăng quên.



    Status trên Facebook của GS. TS Trần Ngọc Vương Courtesy of FB Vuong Tran Ngoc
    Thứ nhất, đợt tấn công phủ đầu trên toàn tuyến biên giới bắt đầu ngày 17/2/1979 thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn nhất nhưng lại diễn ra trong một thời gian ngắn nhất, tính đến thời điểm địch phải tuyên bố rút quân (ngày 5/3/1979). Theo nhà nghiên cứu Lịch sử Lê Mă Lương, đấy thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc. Chưa bao giờ chúng ta phải đối phó với một đội quân xâm lược nhung nhúc như thế! Địch tung ra một lực lượng quân sự 600.000 lính, cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại, tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc trong gần một tháng. Tuy nhiên, chúng chỉ tiến sâu vào được đất ta không quá 50km. Khác với các triều đại trước đây, mỗi lần đánh ta, đa phần quân Tàu vào tận kinh đô. Ấy vậy mà, các sử gia chính thống chỉ chép về chiến công hiển hách ấy có 290 ḍng trên tổng số 103.000 ḍng về các sự kiện qua 70 năm trong bộ sử chính. Số chữ về cuộc chiến chiếm chưa đầy 0,003% toàn bộ dung lượng về các sự kiện từ 1930 đến 2000. Mỉa mai thay, các “sử nô” đă viết về cuộc chiến tranh bi thảm ấy bằng những con chữ vô hồn nhất, với nguỵ biện để bảo đảm trung tính và khách quan, v́ chưa “thương lượng” xong với các “sử gia bạn” (!?)


    Thứ hai, từ đ̣n đánh bất ngờ ấy, một cuộc chiến tranh đẫm máu nhất đă diễn ra, như tài liệu từng tổng kết. Nhưng sử “chính thống” chép quá sơ lược, thậm chí hầu như không viết ǵ về cuộc chiến từ 1984 đến 1989, nên rất nhiều người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, vẫn không biết ǵ về mức độ ác liệt của nó. Trên thực tế, chỉ riêng tại Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn 1984-1989, Trung Quốc chết 15.178 quân, bị thương 17.757 tên. Ở khu vực này, có chỗ ta và địch giằng co nhau từng mét đất biên cương. Việt Nam đă tổn thất 4.000 (có nguồn ghi 5.000) sĩ quan, chiến sĩ và hơn 9.000 bị thương. Chỉ một đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tái chiếm các điểm cao, quân khu II thiệt hại hơn 600 cán bộ chiến sĩ. Có nguồn ghi ngày đó, trên các điểm cao ấy, các sư của ta “mất” ít nhất 1200 người.



    H́nh minh hoạ. Một đơn vị pháo của Việt Nam chống chả quân xâm lược Trung Quốc trên biên giới ở Lạng Sơn hôm 23/2/1979 AFP
    Thứ ba, cuộc chiến đẫm máu nói trên lại cũng là một cuộc chiến dai dẳng nhất (kéo dài chục năm có lẻ) trong lịch sử cận đại Việt Nam. Như tuyên bố của CLB Lê Hiếu Đằng, nếu định nghĩa chiến tranh xâm lược là một quốc gia đưa quân đi giết người của đối phương để chiếm lănh thổ, th́ cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Trung Quốc từng xâm lăng, bắn giết người Việt Nam để chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, tiếp đó dùng tập đoàn Polpot xâm lược Tây Nam – Việt Nam, đặc biệt cuộc tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc từ 17/2/1979 đến 1989, vụ thảm sát binh sĩ, sĩ quan Việt Nam để chiếm Gạc Ma và một số đảo đá thuộc Trường Sa ngày 14/3/1988, cho đến nay, Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ và xây các căn cứ quân sự trên đó.


    Thứ tư, trong thời gian chiến tranh Trung – Việt 10 năm có lẻ ấy, Trung Quốc đă vi phạm luật tù binh thô bạo nhất và đối xử dă man nhất với thường dân. Quân Trung Quốc đă thảm sát hàng ngàn tù binh, đặc biệt là 64 cán bộ chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, cùng với 2 tàu vận tải vĩnh viễn nằm sâu dưới ḷng Biển Đông. Trung Quốc đă chiếm đảo Gạc Ma và nhiều đảo đá khác thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến ngày nay. Trên biên giới, lính Trung Quốc đă thảm sát dă man hàng ngàn thường dân, đặc biệt ở Tổng Chúp, đă giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng Chúp, xă Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tháng 2/1979.



    H́nh minh hoạ. Bộ đội Việt Nam chiến đấu chống lại quân xâm lược ở Đồi Chậu Cảnh, tỉnh Lạng Sơn hôm 21/2/1979 AFP
    Thứ năm, một cái nhất nữa không thể không nhắc đến: Chưa có một cuộc chiến tranh nào trong lịch sử Việt Nam được cả chính quyền lẫn các sử quan “lăng quên nhanh nhất” và “bỏ chạy một cách kỹ lưỡng nhất” (từ của GS. Trần Ngọc Vương). Bộ lịch sử 15 tập, dày hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000 ḍng, trong đó dành cả chục ngàn ḍng về cuộc chiến ư thức hệ từ 1954 đến 1975 – cuộc chiến mà Trung Quốc đă “tận t́nh giúp” để ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” – trong khi đó chỉ chép vẻn vẹn có mười một ḍng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. Sau hơn 4 thập kỷ, người ta cố t́nh tung hoả mù lên tính chính danh của cuộc chiến. Không cho phép gọi kẻ xâm lược là địch, các chiến sỹ ta hy sinh, khó khăn lắm mới được vinh danh là liệt sỹ. Chứ không phải chết ngày hôm trước th́ ngay hôm sau đă được truy tặng “Huân chương Chiến công hạng nhất”. Quả là một kỷ lục về sự “nhập nhằng địch – ta!”


    Từ những thiện nghĩ trên đây (Thật ra có thể liệt kê thêm một số bất cập khác), có thể thấy cuộc chiến bảo vệ tự do độc lập, toàn vẹn lănh thổ của Việt Nam cho đến hôm nay vẫn chưa kết thúc. Kẻ thù của ta không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước (1977 – 1989) ở biên giới Tây Nam và 41 năm trước (1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Ngày nay, kẻ thù ấy vẫn ngang nhiên bám vào đường “lưỡi ḅ” để đ̣i chiếm 80% Biển Đông, cho dù Toà Trọng tài của Liên hiệp quốc đă hoàn toàn bác bỏ.


    Đúng như cảnh báo của CLB Lê Hiếu Đằng, với chiến lược “vành đai con đường” Trung Quốc đă/đang bành trướng lănh thổ, xâm phạm biển đảo và thềm lục địa Việt Nam, không để Việt Nam hợp tác với các nước khác khai thác dầu khí ở khu mỏ Cá Rồng Đỏ, Băi Tư Chính. Kẻ thù đó ngày nay với “sức mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đă/đang lôi kéo được nhiều người mang ḍng máu Việt Nam nhưng v́ cơ hội chính trị, tham lam quyền lực và vật chất, kể cả một số người mang danh trí thức cũng bị mờ mắt và lú lẫn, đă can tâm làm tay sai cho ngoại bang./.


    Có thể tham khảo thêm:


    https://www.rfa.org/vietnamese/in_de...02102020134809.


    https://baotiengdan.com/2020/02/16/t...gioi-phia-bac/


    https://www.facebook.com/people/Vuon...00012163200431


    * Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

  6. #56
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Đừng hòng đánh tráo lịch sử



    Phạm Đình Trọng (Danlambao) - Ngày 17.2.2020, bốn mươi mốt năm khởi đầu cuộc chiến tranh mười năm 1979-1989 bảo vệ biên cương phía Bắc. Hàng chục ngàn chiến sĩ, đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến đẫm máu giành đi giật lại từng tấc đất biên cương kéo dài suốt mười năm.

    Trên suốt 1400 kilomet đất biên cương phía Bắc thì những mỏm núi đá vôi thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, Hà Giang là nơi những người lính Việt Nam giữ đất của tổ tiên phải giành giật với bọn Tàu Cộng cướp nước ác liệt nhất, dai dẳng nhất, đẫm máu nhất.

    Sau trận đánh của một đại đội đặc công giành lại một mỏm đá vôi có kư hiệu là C3 trên bản đồ tác chiến, tôi đã đến Thanh Thủy. Tôi đã bám vào đá tai mèo, đạp lên bột vôi trắng xóa do đạn pháo nung đá thành vôi, leo lên mỏn C3, đã gặp những người lính vừa giành lại C3.

    Xuống núi, trong một chiều ảm đạm, giữa cánh rừng bên sông Lô, tôi đã đứng lặng chứng kiến người vợ trẻ, chị Nguyễn Thị Định gục xuống giang tay ôm nấm đất còn in hằn dấu xẻng, nấm mồ chồng chị, thượng úy đại đội trưởng Cao Hoàng Việt. Đứa con trai bốn tuổi của vợ chồng anh Việt chị Định đứng cạnh mẹ mắt vô tư chăm chú nhìn theo con chuồn chuồn đỏ từ sông Lô bay đến cứ xập xè bay lượn quanh nấm mồ mới.

    Sự hồn nhiên chưa biết đến sự mất mát quá lớn của đứa bé con người lính Cao Hoàng Việt làm cho những người lính chứng kiến càng bùi ngùi, xót xa. Tuần nhang đã cháy hết, người vợ vẫn không rời mộ chồng. Tôi đến bên chị, thắp ba nén nhang mới và hình ảnh người vợ ôm mộ chồng trong cánh rừng chiều ảm đạm ở biên giới Vị Xuyên, Hà Giang mãi mãi ở lại trong tôi.

    Giặc chiếm được C3 hai ngày thì đêm thứ ba thượng úy đại đội trưởng Cao Hoàng Việt dẫn những người lính thiện chiến đi êm như gió đến từng hang đá thả thủ pháo vào trong hang lúc nhúc bọn giặc Tàu Cộng. Tiêu diệt gọn bọn giặc trên C3, cả đại đội không ai trầy da sước vảy. Nhưng khói thủ pháo trong hang đá chưa tan hết thì pháo giặc từ bên kia biên giới sầm sập trùm kín cả mỏm C3. Đi kiểm tra bố trí đội hình chiến đấu, Cao Hoàng Việt chưa kịp về hầm chỉ huy thì pháo giặc dập tới. Đại đội trưởng Cao Hoàng Việt là người lính duy nhất hy sinh trong trận đánh giành lại C3.

    Hàng năm ngày 17.2 đến tôi lại nhớ đến Cao Hoàng Việt, tôi lại thấy hình ành vợ anh Việt phủ phục trên nấm mồ anh, giang hai tay ôm ghì nấm mồ. Ngày 17 tháng hai ra tượng Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, thắp hương tưởng nhớ những người Việt Nam đã hy sinh trong cuộc chiến giữ đất biên cương 1979-1989 tôi đều thầm gọi tên Cao Hoàng Việt. Không ra tượng đài Trần Hưng Đạo được thì tôi thắp hương ở nhà.

    Ngày 17.2.2020, từ sáng sớm gần chục tên an ninh trẻ mặc đồ dân sự đã rải quân chốt chặn từ cửa thang máy ra đến hai ngả đường dẫn vào nhà tôi, Họ chặn không cho tôi ra khỏi nhà đi tham dự lễ kỷ niệm cuộc chiến tranh chống Tàu Cộng xâm lược giữ đất biên cương.

    Ngày 17.2.2020 cả bộ máy truyền thông khổng lồ của nhà nước cộng sản Việt Nam, mỗi năm ngốn hàng ngàn tỉ tiền thuế của dân nhưng không có một chữ, một lời nhắc đến sự kiện 17.2.1979 đau thương nhưng lẫm liệt bi tráng của lịch sử Việt Nam.

    Một facebooker là một sĩ quan từng cầm súng đánh Tàu Cộng xâm lược giữ đất biên cương 1979 - 1989 đã cảnh cáo bộ máy truyền thông đớn hèn và nhảm nhí của nhà nước cộng sản: “Báo chí hôm nay không nhắc đến 17.2.1979, th́ từ nay cũng đừng nhắc đến 30.4.1975 nữa.”

    Không đủ lòng yêu nước, không đủ tư thế hiên ngang của một nền độc lập để nhắc đến ngày đổ máu giữ nước 17.2.1979 thì cũng đừng trơ tráo, lươn lẹo nhắc đến ngày kết thúc cuộc chiến tranh người Việt bắn giết người Việt 30.4.1975.

    Trong lịch sử, nhắc đến ngày 17.2.1979 là nhắc đến trang sử giữ nước vẻ vang, nhắc đến hào khí Bạch Đằng, Đống Đa, nhắc đến khí phách lẫm liệt Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung. Còn 30.4 chỉ nhắc đến nỗi đau 100 năm chia cắt đất nước thời Trịnh - Nguyễn phân tranh người Việt giết người Việt máu nhuộm đỏ biển Đông, xương chất cao như dãy Trường Sơn.

    Không nhắc đến trang sử máu giữ nước 1979-1989 mà chỉ nhắc đến sự kiện cả giống nòi Việt Nam trở thành nô lệ cộng sản từ ngày 30.4.1975 là sự đánh tráo lịch sử.

    Vừa là phong kiến trung cổ, cướp quyền dân, dìm người dân trong tăm tối ngu dân, vừa là phát xít hiện đại, tàn bạo đàn áp dân, thể chế cộng sản tưởng rằng có thể đánh tráo được lịch sử, tưởng rằng những văn kiện cộng sản lừa dối dân sẽ trở thành văn bia muôn đời. Dù lầm than trong thể chế cộng sản nhưng người dân Việt Nam cũng đã được đón nhận ánh sáng kỷ nguyên văn minh tin học của nhân loại.

    Trong kỷ nguyên tin học, dù thể chế cộng sản có dối trá và tàn bạo đến đâu cũng đừng hòng đánh tráo lịch sử tội lỗi của đảng cộng sản với lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam.

    18.02.2020


    Phạm Đình Trọng
    danlambaovn.blogspot .com

  7. #57
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    PHẢN PHÚC (Chiến Tranh Biên Giới Việt Trung 1979)
    JB NGUYỄN HỮU VINH 🔥



  8. #58
    Member
    Join Date
    24-05-2016
    Posts
    6,466

    Chiến tranh biên giới Việt-Trung

    Biên giới phía Bắc 1979: Đảng quên dân nhớ



Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Photos: Chiến tranh biên giới Việt-Tàu 1979
    By Cu Cường in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 15-10-2011, 01:20 AM
  2. 32 Năm Chiến Tranh Biên Giới Trung Việt
    By Tigon in forum Tin Việt Nam
    Replies: 27
    Last Post: 26-02-2011, 05:24 AM
  3. Hồ sơ CIA 1979: Tranh chấp biên giới Việt-Trung (Kỳ 1)
    By Phó thường dân in forum Tin Việt Nam
    Replies: 11
    Last Post: 18-02-2011, 11:49 AM
  4. Replies: 1
    Last Post: 08-02-2011, 09:13 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •