Page 2 of 2 FirstFirst 12
Results 11 to 11 of 11

Thread: NHÂN NGÀY CHIẾN SĨ TRẬN VONG : TƯỞNG NIỆM CÁC CHIẾN SĨ QUÂN LỰC VNCH

  1. #11
    Member boban's Avatar
    Join Date
    09-03-2011
    Posts
    99

    Văn tế tướng sĩ trận vong.

    Sau khi thống nhất sơn hà, vua Gia Long chỉ định Đại Tướng Tiền Quân Nguyển Văn Thành làm Tổng Trấn Bắc Thành . Nhân dịp lể truy điệu Pḥ Mă Chưởng Hậu Quân Vơ Tánh và Lễ Bộ Tham Tri Ngô Tùng Châu cùng các tướng lănh và binh sĩ đă hi sinh tính mạng giúp vua Gia Long đánh bại anh em nhà Nguyễn Tây Sơn, ông Nguyễn văn Thành làm bài Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong . Đây là bài văn tế độc nhất vô nhị trong lịch sử văn học nước Việt Nam. V́ là bài văn cổ , sao chép nhiều lần, nếu có sai sót xin quí vị làm ơn sửa dùm. Đa tạ.


    1. " Than ôi ! Trời Đông Phố (1) vận ra sóc cảnh (2), trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay. Nước Lô Hà (3) chảy xuống Lương Giang (4), nghĩ mấy kẻ điêu linh những từ thủa nọ. Cho hay sinh là kư mà tử là qui, mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.

    2. Xót thay ! T́nh dưới viên-mao (5), phận trong giới trụ (6). Ba ngh́n họp con em đất Bái (7), cung tên ngang dọc chí nam nhi, hai trăm vây bờ cỏi non Kỳ (8), cơm áo nặng dày ơn cựu chủ. Dấn thân cho nước, son sắt một ḷng, nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ . Kẻ th́ theo cơ đích (9) chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung. Kẻ th́ đón việt mao (10) trở lại chốn sơ cơ (11), dập d́u vén cánh nương vây, trông cơi Bắc quyết thu về đất cũ. Nằm gai nếm mật chung nổi ân ưu, mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ. Trước từng trải Xiêm La, Cao Mên, về Gia Định mới dần ra Khánh Thuận (11b), đă mấy buổi sơn phong hải lễ, (12) trời Cao Quang (12b) soi tỏ tấm kiên trinh. Rồi lại từ Đồ Bàn, Nam Ngăi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long, biết bao phen vũ pháo vân thê (13), đất Lũng Thục (13b) lăn vào nơi hiểm cố. Phận truy tuỳ (14) gẫm lại cũng cơ duyên, trường tranh đấu biết đâu là mệnh số ?. Kẻ thời chen chân ngựa quyết giựt cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mà mệnh bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay, kẻ th́ bắt mủi thuyền toan cướp giáo giữa ḍng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa, mặc bèo trôi sóng vỗ. Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc (15), mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương. Mặt chinh phu khôn (16) vẻ nét gian nan, lập loè lửa trơi (17) soi chừng cổ độ (18)...

    3. Ôi ! Cùng ḷng trung nghĩa khác số đoản tu (19), nửa cuộc công danh chia phần kim cổ. Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đă chăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến h́nh hài. Những là khen dạ đá gan vàng bóng bạch câu (19b) xem nửa phút như không, ơn dày đội cùng cam trong phế phũ. Phận dù không gác khói đài mây (20), danh đă dậy ngàn cây nội cỏ. Thiết v́ thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương, đệm giá, những chờ xem cao thấp mức cân thường. Tiếc cho khi lỡ bước giửa ḍng, kiếp đă về cơi suối làn mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ (21). Vâng thượng đức hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng,Thuận, Nghệ, Thanh cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang. Mà những người từng thượng trận ngày xưa, lớp tấu công từ Ngọ, Vị, Thân, Dậu đến giờ treo tính tự để nằm trong lá sổ. Ngọn c̣i rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui, nhịp trống dồn hoa, chốn tươi chốn ủ. Đă biết rằng anh hùng th́ chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không. Nhưng tiếc cho tạo hoá khéo vô t́nh, ngàn năm một hội tao phùng, phận thuỷ có, phận chung sao chẳng có ?

    4. Bản chức nay: Vâng việc biên pḥng, chạnh miền viển thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh. Trong nhà rơ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu (22) vung trước gió...Bâng khuâng kẻ khuất với người c̣n, tưởng tượng thầy đâu th́ tớ đó. Nền phủ định tới đây c̣n xốc nổi, vụ ḷng một lễ, chén rượu thoi vàng, chữ tương đổng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân cờ đào nón đỏ, có cảm thông th́ tới đó khuyên mời. Dù linh thính hăy nghe lời dặn dỗ. Buổi chinh chiến hoặc c̣n oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẻ tấu biểu duơng cho. Hội thăng b́nh đừng có nghĩ rằng không. Dù ai c̣n cha già, mẹ yếu, vợ goá, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ. Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn Nghiêu, hài cốt đó cùng nước non Thang Vũ. Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rơ, thiêng th́ về cố quận (23) để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân. Niềm tôn quân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ (24) chửa rời ngôi bảo tộ (25). "


    Thượng hưởng.



    Nguyển văn Thành
    (1758-1817)



    (1) Đôngg Phố : tên thành phố Sàigon và Gia Định củ.
    (2) Sóc cảnh : cảnh trí ở phương bắc, ám chỉ Thăng Long, đất Bắc.
    (3) Lô Hà : sông nhỏ chảy qua tỉnh Tuyên Quang, đổ xuống sông Nhị Hà gọi là sông Lô .
    (4) Lương Giang : Sông Nhị Hà.
    (5) Viên mao: lệnh của quan Đại Tướng.
    {6) Giới trụ : áo giáp, nón "sắt ".
    (7+8) : nơi khởi nghĩa của vua Hán cao Tổ, bên Tàu.
    (9) Cơ đích : gịng chính, chỉ Nguyển Ánh.
    (10) Việt mao : lệnh của vua.
    (11) Sơ cơ : cơ sở, căn cứ địa ban đầu, có sách viết là sa cơ.
    (12) Sơn phong, hải lể : gió nồm và ḍng nước ngọt ngoài biển. Ư nói Vua Gia Long được Trời giúp.
    (14) Truy tuỳ : theo và pḥ tá. Tuỳ : phụ. Tuỳ thiếp : vợ bé.
    (15) Minh mạc : mịt mờ, bát ngát , không thấy rỏ đâu là bến bờ.
    (16) Khôn : tiếng Việt xưa, cổ, có nghĩa là không .
    (17) Lửa trơi : con đóm đóm, ban đêm bay sáng lập loè như con ma trơi.
    (18) Cỗ độ : bến đ̣ xưa , nơi quê quán , cố quận của ḿnh.
    (19) Đoản tu : ngắn, dài.
    (20) Gác khói đài mây : công danh, sự nghiệp.
    (21) Vũ lộ : mưa móc.
    (22} Tấm cừu : chỉ lúc hàn vi , nghèo, mùa lạnh không có áo ấm phải dùng tấm da cừu.
    (25) Bảo tộ : ngôi vị cao quí.
    (24) Kỷ : thời gian 12 năm. Vạn kỷ = muôn năm ! ???.
    (23) Cố quận : quê nhà.
    (12b) Cao Quang : tên hai ông vua lớn có công xây dựng nhà Hán : Hán Cao Tổ và Hán Quang Vũ.
    (13) Vũ pháo, vân thê : mưa pháo; thang mây là loại thang rất dài (vươn tới mây ) dùng để tấn công chiếm thành.
    (11b) Khánh Thuận : Khánh Hoà (Diên Khánh) và Thuận Hoá (Phú Xuân) .
    (13b) Lũng Thục : Lũng Tây (Thiểm Tây) và Ba Thục (Tứ Xuyên), hai địa danh rất hiểm trở bên Tàu thời Tam Quốc.
    (19b) : Bạch câu : ngựa trắng, chạy rất nhanh.
    Last edited by boban; 15-11-2013 at 08:27 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 82
    Last Post: 10-05-2017, 03:12 AM
  2. Replies: 76
    Last Post: 29-03-2015, 11:56 AM
  3. Replies: 10
    Last Post: 18-06-2011, 04:04 PM
  4. THƯ MỜI THAM DỰ ĐÊM VĂN NGHỆ VINH DANH CHIẾN SĨ QUÂN LỰC VNCH
    By NguyễnQuân in forum Thông Báo Cộng Đồng
    Replies: 0
    Last Post: 12-06-2011, 07:25 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 17-11-2010, 04:08 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •