Ngàỷ 3-2- 1930, theo lệnh của Liên sô, Nguyễn ái Quốc, ( Nguyễn tất Thành), tập họp ba nhóm cộng sản tạp nham tại Việt Nam lại tại Hồng Kông để thành lập đảng cộng sản Đông Dương. Sau hai năm lănh đạo nhóm cộng sản này, Nguyễn ái Quốc bị bắt giam tại nhà tù ở Hồng Kông. Cuối 1932, Nguyễn ái Quốc được trả tự do, nhưng cũng có hai nguồn tin khác biệt. Nguyễn ái Quốc đă chết rục trong tù v́ bệnh lao phổi. Nguyễn ai Quốc đă chết trên đường đến Liên Sô? Tuy chưa ai nắm rơ sự sống chết của Y, nhưng Quốc đă hoàn toàn mất dấu từ đây. Đến năm 1939, một nhân vật có tên Hồ Quang, đảng viên đảng cộng sản Trung cộng, mang cấp bậc thiếu tá trong đội giải phóng quân Trung cộng xuất hiện và trở thành kẻ lănh đạo đảng cộng sản VN.

Trước tiên, Hồ Quang xâm nhập vào địa giới Việt Nam vào đầu năm 1941. Lập căn cứ địa hoạt động cho cộng sản tại hang Pắc Pó. Hang động này trước kia nằm trong nội địa Việt Nam, (gần biên giới) nay đả chuyển tên và nằm sâu trong nội địa của Trung cộng. Đây là bước đầu tiên, Hồ Quang, chiếm đât của dân Việt Nam để đem về cho Tàu, hơn là dâng cho Tàu, v́ Hồ Quang không phải là người Việt Nam?

Tháng 8- 1942, Hồ Quang trở về Trung Hoa để báo cáo công tác nhập địa và lấn đất của Việt Nam cho đảng cộng sản Trung cộng. Y đă bị tầu Tưởng bắt ở Túc Vinh. V́ sợ bị lộ tẩy là thiếu tá t́nh báo của Trung cộng, kẻ thù không đội trời chung với Tưởng giới Thạch, nên khi bị bắt Hồ Quang đă khai tên là Hồ chí Minh, ( Minh cũng có nghĩa là Quang) người Việt Nam. Cái tên Hồ chí Minh này theo y cho đến khi chết vào năm 1969. Thành tích của Hồ Quang trong một năm ngồi tù là … chôm được tập thơ Ngục Trung Nhật Kư của một người Trung Hoa, thuộc phe Quốc dân đảng. Tác gỉa có lẽ v́ hiềm khích hay bị nghi ngờ là Hán gian đă bị quốc dân đảng Trung Hoa băt giam. Ông ta c̣n sống hay đă chết, không ai hay biết. Chỉ biết tập Ngục Trung Nhật Kư của người này có nhiều bài thơ nói lên ư hướng yêu nước và tận trung vời quê hương và dân tộc của tác gia ở vùng Quảng Đông. Theo lịch sử cổ Trung Hoa th́ thuộc nước Việt của Việt vương Câu Tiễn, một trong những ông vua có tôi thần là Phạm Lăi, nổi tiếng thời Đông Chu, sau đó bị sát nhập vào Trung hoa thời Tần thủy Hoàng.

Về tập thơ, bất cứ người nào biết đọc biết viết, có suy nghĩ b́nh thường, không bị điên loạn, đều có khả năng nhận biết tập thơ này tuyệt đối không phải là của Hồ chí Minh sáng tác. Tuy nhiên, bằng cách nào Hồ chi Minh có được tập thơ th́ không ai biêt. Chỉ nghe qua vài chuyện như giả tưởng của nhà nươc cộng sản đưa ra là “bác” t́m lại được tập thơ này vào năm 1959. Sau đó giao cho Trung Ương đảng cộng sản giữ làm kèn. Từ đây các kèn loa, bỏ quên cả nhân cách, tư cách con người, phùng mồm lên thổi đó là thơ trong tù của Hồ chí Minh. Tệ hơn, bản văn ăn cắp này c̣n được một cái nghị định ǵ đó của nhà nước CHXHCN/VC nâng nó lên hàng tài sản văn hóa của Việt cộng.!(tôi đă viêt trong loạt bài “Tác gỉa ngục Trung Nhật Kư không phải là người Việt Nam”).

Nhờ nguồn văn hóa này, ngày 2-9-1945, nhân cuộc tổng đ́nh công băi thị và tuần hành của công chức, sinh viên học sinh Hà Nội, Việt cộng do Hồ chí Minh lănh đạo đă cướp lấy chính quyền hợp pháp của chính phủ Trần trọng Kim. Sau đó Bảo Đại đă thoái vị. Công quyền lọt vào tay Hồ chí Minh, nhưng trong thực tế mới chỉ có danh nghĩa, chưa có thực lực trên toàn quốc.

Với mưu đồ chiếm độc quyền lănh đâo theo lệnh của CS Tàu- Liên sô, Hồ Quang mời quân Pháp trở lại Hà Nội để gạt Tàu Tưởng, trong phe đồng minh, có nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật tại Việt Nam, ra khỏi Việt Nam. Sau đó dùng chiêu bài chống thực dân Pháp mở lại cuộc chiến tranh với Pháp. Cuộc chiến kéo dài trong 9 năm được nuôi dưỡng bằng súng đạn và cơm gạo của Nga-Hoa với cài chết của “khoảng 250,000 dân thường. Số nhân mạng trong binh đoàn của trung cộng và Việt cộng không được công bố , nhưng người ta ước tính không dưới 500,000 người. Về phía Pháp có 172,108 thương vong. Trong đó có 31,176 binh lính thuộc khối đông dương. Về tài sản cũng không được công bố. Tuy nhiên, sự thiệt hại về tài sản của nhân dân và về những nguồn lợi kinh tế của Việt Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh và cả những năm tháng sau chiến tranh, cộng với sự thiệt hại về nhân mạng, đă cho thấy cái giá của chiến thắng là qúa đăt. Cái gía ây không đắt, nếu chiến tranh là con đường duy nhất để dẫn đến Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ thật sự cho dân tộc” ( GS Lê văn Khoa, bài học chín năm 1945-1954)

Tuy nhiên, cái giá ấy là qúa đắt, bởi v́ chỉ trong ṿng mấy năm sau 1945, tất cả các thuộc địa của Pháp ở Phi Châu đều được trao trả Đôc Lập mà chẳng phải đổ máu. Và ngay tại Việt Nam, trong thực tế, cũng đă được trao trả Độc Lập trọn vẹn vào năm 1949. Theo đó, cái gía máu đổ ra là vô cùng đắt và khốn nạn cho dân tộc Việt Nam. Bởi v́ từ sau năm 1954, Việt Nam chẳng những không có Độc Lập, không có Tự Do, không có Dân Chủ, không có Hạnh Phúc. Chỉ có “ mưa sa trên màu cờ đỏ” (Trần Dần), có máu chảy loang đồng ruộng. Và chỉ có một nền chính trị bạo tàn trong tay Hồ Quang đang từng bước đưa Việt Nam vào trong ṿng nô lệ của Bắc Kinh.

Và nó c̣n đắt hơn thế gắp trăm ngàn lần, dưới sự lănh đạo của viên thiếu tá tàu Hồ chí Minh, đảng cộng sản Việt Nam đă học tập nhuẫn nhuyễn và thực hành đến nơi đến chốn bài viết tâm đắc “địa chủ ác ghê” do Hồ chí Minh chủ xướng. Kết quả, hơn 172,000 người Việt Nam đă bị Hồ Quang và đảng cộng sản Việt Nam đấu tố, và giết hại trong kế sách cướp của giết người Việt Nam cho vừa bụng Tàu, mà chúng gọi là mùa cải cách từ 1953-1956. Nhân mạng đă thế. Tất cả tài sản của tư nhân, của công cũng như guồng máy công quyền đều thu gọn vào tay đảng cộng sản, giúp Hồ chí Minh hiện thực ư đố thôn tính Việt Nam cho Tàu.


Hồ chí Minh là ai? Thực sự không c̣n ai biết rơ ngọn nguồn, lư lịch của y, ngoài những tài liệu đầy nghi vấn. Lư do của sự thiếu chứng minh thực tế là măi đến năm 1959, sau khi tất cả những thành viên sáng lập đảng cộng sản ĐD tại Hồng Kông đă chết. Bà chị ruột Nguyễn thị Thành và Nguyễn sinh Khiêm đă yên mồ yên mả. Hồ Quang biết chắc không c̣n một người nào khả dĩ chứng minh Quang không phải là Nguyễn sinh Cung, Y mới dám úp mở, hé lộ bản tin Hồ chí Minh là Nguyễn ái Quốc người làng Kim Liên. ( trước đó th́ luôn mồm chối không phải là Nguyễn ái Quốc). Nhắc lại, vào thời điểm này, chỉ c̣n một người duy nhất là Trịnh đ́nh Cửu có khả năng biết mặt Nguyễn ái Quốc khi c̣n ở Hồng Kông. Tuy nhiên Cửu bị mắc bệnh … câm khi c̣n ở bên Tàu, nên phải giữ im lặng cho đến chết. Bệnh câm của Y có hai lợi thế, như một cái bóng, dù nói hay không nói đểu ngầm ư chứng minh Hồ Quang là Nguyễn ái Quốc. Đó là lư do Củu c̣n sống để chết già.

Cùng theo mưu đồ phục vụ cho Trung cộng để xin làm nô lệ, năm 1951, Đặng xuân Khu đă nhân danh tổng bí thư đảng CSVN viết lời kêu gọi đông bào Việt Nam, “bỏ học chữ Quốc Ngữ, học chữ Tàu. Bỏ thuốc tây, uống tuốc Tễ, để được làm chư hầu cho Trung cộng”. Vào năm 1958, đảng CSVN qua Phạm văn Đồng đă chính thức giao Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam cho Trung cộng. Kế đến, để thực hiện mưu đồ đỏ hóa toàn cơi Đông Dương theo chỉ đạo của Trung cộng, Hồ chí Minh đă mở chiến tranh vào miền nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh này có một chính nghĩa rất ngời sáng do tên Lê Duẫn, tổng bí thư của đảng CSVN công bố ” Cuộc chiến này là ta đánh là đánh cho Trung quốc cho Liên Sô”. “ Chúng tôi kiên cường chiên đấu tất cả v́ công việc của Mao chủ Tịch”. Kết quả của cuôc chiến do tên Lê Duẫn và Hồ chí Minh chủ trương “Đánh đến người Việt Nam cuối cùng cũng đánh” ( để rộng đất cho Tàu kéo sang) đă kết thúc vào ngày 30-4-1975. Theo tài liệu lịch sử “kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. (1954-1975) của nhà xuất bản chính trị của nhà nước CHXNCH/VC như sau:

Thiệt hại về nhân mạng của CS miền bắc là: (1) Theo tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia có:
• 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa t́m được xác)
• 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.
• Gần 2 triệu thường dân chết; Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời; do miền bắc bị ném bom và dân công tải đạn.

Về phía Việt Nam Cộng Ḥa, những người đă hy sinh bảo vệ nền Độc Lập và Tự Do Dân Chủ và toàn vẹn lănh thổ cho Việt Nam được ghi nhận như sau:
• từ 250,000 – 316,000 tử trận hoặc mất tích.
• Khoảng 1.170,000 quân nhân bị thương, nặng và nhẹ.
• khoảng 2.000,000 dân thường bị chết và mang thương tật. Trong số hy sinh có một Tổng Thống là ông Ngô đ́nh Diệm, rất nhiều trẻ em đi đến trường như vụ Cai Lậy. Và có khoảng 5000 người dân bị Việt cộng chôn sống để chúc thọ, chúc tết cho Hồ chí Minh trong những ngày tháo chạy khỏi Huế vào tết Mậu Thân 1968
Hoa Kỳ:
• 58.209 tử trận và chết v́ lư do khác
• Hơn 305.000 bị thương. nặng và nhẹ.
• 1.948 mất tích
Hàn Quốc: 5.099 tử trận 11.232 bị thương. 4 mất tích trong chiến đấu.
Bắc Triều Tiên *14 phi công chết, 2 cố vấn bị thương?.

Trung cộng. 1,446 công binh chết (có lẽ con số rất cao, nhưng không được công bố).

Liên Sô. Khoảng 6000 quân nhân Xô Viết tham gia vao chiến tranh Việt Nam. Số chết được công bố là 16 người?

Philippines: 552 tử trận.

Thái Lan: 351 tử trận. 1358 bị thương.

Úc Đại Lợi. Khoảng 500 tử trân, bị thương.

New zeland: 55 tử trận và 212 bị thương

(1) Tất cả những con số trong phần này được ghi lại theo wikipedia)

phần 2
Bảo Giang