Results 1 to 2 of 2

Thread: NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN

  1. #1
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,690

    NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN



    NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN

    Biến cố 30-4-1975 là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nhiều sách báo đă viết về biến cố nầy. Nhân sắp đến ngày 30-4, ở đây chỉ xin ôn lại diễn tiến trong ngày 30-4-1975 tại Sài G̣n.

    1.- DIỄN TIẾN NGÀY 30-4-1975

    Từ 26-4-1975, quân cộng sản bao vây Sài G̣n từ năm hướng: hướng bắc (Quân đoàn 1 CS), hướng tây bắc (QĐ 3 CS), hướng đông (QĐ 4 CS), hướng đông nam (QĐ 1 CS), hướng tây và tây nam (Đoàn 232 và SĐ 8 thuộc Quân khu 8 CS). Chiều 26-4, CS bắt đầu tấn công, đánh phá ṿng đai pḥng thủ bên ngoài, chiếm Long Thành, Trảng Bom, Nhơn Trạch, Bà Rịa, cắt đường số 4 từ Sài G̣n đi miền Tây. Đối đầu với lực lượng lớn mạnh nầy, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) bảo vệ thủ đô Sài G̣n chỉ gồm Quân đoàn III (hai sư đoàn 5 và 18), các chiến đoàn tập họp từ các sư đoàn của QĐ I và QĐ II di tản vào Sài G̣n, các lữ đoàn TQLC, Dù, các liên đoàn BĐQ, một số trung đoàn Pháo binh, Kỵ binh thiết giáp và Nghĩa quân, Địa phương quân. Các đơn vị nầy đều thiếu quân v́ trước đó đă bị tấn công, phải di tản, đồng thời thiếu trang bị vơ khí, đạn dược và thiếu nhiên liệu cần thiết.

    Chiều 28-4, ngay sau khi cựu đại tướng Dương Văn Minh vừa nhận chức tổng thống, 5 chiếc A-37 trước đây của Không quân VNCH bị CS tịch thu, nay dưới sự hướng dân của Nguyễn Thành Trung, cựu trung úy phi công VNCH, vốn là đảng viên CS cài vào Không quân VNCH, bay đến thả bom sân bay Tân Sơn Nhứt. Tối hôm đó, CS tiếp tục pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt làm hỏng các phi đạo. Phi trường không thể sử dụng được, nên phải dùng trực thăng đề di tản. Hôm sau 29-4, CS chiếm được các căn cứ Nước Trong, Long B́nh, thành Tuy Hạ (quận Long Thành, tỉnh Biên Ḥa), Đồng Dù (Củ Chi), Hậu Nghĩa. Sáng 30-4 quân CS bắt đầu tiến vào nội thành Sài G̣n. Trước sự đe dọa của CSVN, ảo vọng thương thuyết của Dương Văn Minh hoàn toàn tan vỡ. Cuối cùng, lúc 10G 24 phút sáng 30-4-1975, qua đài phát thanh Sài G̣n, Dương Văn Minh, với tư cách tổng thống tổng tư lệnh quân đội, nhận chức trước đó hai ngày, ra lệnh toàn thể quân đội VNCH ngưng chiến đấu, hạ khí giới. Sau đây là nguyên văn lời Dương Văn Minh:

    “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là ḥa giải và ḥa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự ḥa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. V́ lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa hăy b́nh tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu th́ ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, v́ chúng tôi ở đây đang chờ gặp chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong ṿng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Ḥa, 10 ngày cuối cùng, Fountain Valley, CA: Nxb. Nam Việt, 2006, tr. 358)

    Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, tổng tham mưu phó quân đội VNCH, thay mặt trung tướng Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của tổng thống Dương Văn Minh.
    Lúc 11G 30 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của Đại đội 4, Lữ đoàn Thiết giáp 203 CS tiến vào dinh Độc Lập. Lúc đó, một số cán bộ Trung đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304 CS, do đại úy trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn đầu, đến pḥng họp dinh Độc Lập, nơi có mặt tổng thống Dương Văn Minh và nội các của thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Đại úy Thệ đă nói thẳng với Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu rằng các ông bị bắt làm tù, phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và không có ǵ bàn giao cả.

    Sau đó, quân CS áp tải Dương Văn Minh tới đài Phát thanh để đọc lời tuyên bố đầu hàng. Tại đài phát thanh, các sĩ quan CS soạn tại chỗ lời đầu hàng, và buộc cựu đại tướng Dương Văn Minh phải đọc như sau: “Tôi, đại tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài G̣n, kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Ḥa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài G̣n, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương lại cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng ḥa Miền Nam Việt Nam.” (google.com.vn) (vào chữ Dương Văn Minh, t́m 30-4.)

    Trước áp lực của họng súng quân thù, cựu đại tướng Dương Văn Minh đành phải đọc bản văn do CS soạn sẵn, “kêu gọi quân đội Việt Nam Cộng Ḥa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam.” Quân đội VNCH liền ngưng chiến đấu, tự nhiên ră ngủ, trong khi c̣n nhiều đơn vị vẫn muốn tiếp tục chống cộng, nhất là Quân đoàn IV vẫn c̣n nguyên vẹn, chưa thất trận. Việt Nam Cộng Ḥa hoàn toàn sụp đổ.

    2.- NGÀY QUỐC HẬN

    Thông thường, người ta tản cư hay di tản khi chiến tranh bùng nổ. Người ta bỏ chạy để tránh lửa đạn. Đàng nầy, chiến tranh chấm dứt ngày 30-4-1975, lửa đạn không c̣n, mà người ta bỏ chạy, chạy xa thật xa, nghĩa là người ta sợ cái ǵ c̣n hơn lửa đạn. Ngay khi CS chiếm Sài G̣n, khoảng 150,000 người Việt bỏ ra nước ngoài, trong đó khoảng 140,000 đến Hoa Kỳ và khoảng 10,000 đến các nước khác. (Nguồn: UNHCR, The State of the World's Refugees - Fifty Years of Humanitarian Actions, ch. 4, tr. 81.) Cộng sản Việt Nam tố cáo những người di tản là tay sai đế quốc Mỹ. Theo luận điệu nầy, trưa ngày 30-4-1975, Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Sài G̣n phát biểu rằng: “Những kẻ ra đi chúng ta xem như là đă phản bội đất nước.” (Trích nguyên văn: http://ngoclinhvugia.wordpress.com/). Viên nhạc sĩ nầy c̣n hát bài “Nối ṿng tay lớn”, nhưng dân chúng không chấp nhận ṿng tay lớn của CS, tiếp tục ra đi dù bị kết tội “phản quốc”.

    Sau ngày 30-4-1975, càng ngày càng có nhiều người kiếm cách ra nước ngoài, dầu phải hy sinh chính mạng sống của ḿnh, tạo thành phong trào vượt biên. Theo thống kê của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đưa ra năm 2000, từ ngày 30-4-1975 cho đến cuối năm 1995, tổng số người di tản và vượt biên đến được các trại tỵ nạn là 989,100 (gần một triệu) kể cả đường biển lẫn đường bộ. Người ta phỏng chừng có khoảng từ 400,000 đến 500,000 thuyền nhân bỏ ḿnh trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết. Ngoài ra, phải kể thêm số người rời Việt Nam qua các hải đảo nhưng không đậu thanh lọc và bị đuổi về nước. Nếu kể thêm chương tŕnh ODP (Orderly Departure Program) và chương tŕnh HO do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, đưa vài trăm ngàn người nữa ra nước ngoài bằng đường chính thức, th́ tổng cộng tất cả các số liệu trên đây, sau khi CS chiếm miền Nam Việt Nam, trên 1,500,000 người Việt đă bỏ nước ra đi.

    Đây chỉ là những người có điều kiện ra đi. C̣n biết bao nhiêu người muốn ra đi mà không đi được. Nghệ sĩ TrầnVăn Trạch đă từng nói một câu bất hủ: "Ở Việt Nam hiện nay, cây cột đèn cũng muốn ra đi.”

    Trước khi quân cộng sản vào Sài G̣n, nhiều chức quyền cao cấp VNCH đă di tản ra nước ngoài. Trong số các chức quyền ở lại, có phó tổng thống rồi tổng thống Trần Văn Hương. Ngày 28-4-1975, trước khi bàn giao chức vụ tổng thống cho Dương Văn Minh, đại sứ Pháp ở Sài G̣n cho người đến mời tổng thống Hương di tản. Ông Hương trả lời: “Nếu trời hại, nước tôi mất, tôi xin thề là tôi sẽ ở lại đây và mất theo nước ḿnh.” Sau khi Trần Văn Hương giao quyền tổng thống cho Dương Văn Minh tối 28-4, th́ hôm sau, ngày 29-4 đích thân đại sứ Hoa Kỳ là Graham Martin đến gặp Trần Văn Hương và mời ông ra đi. Trần Văn Hương trả lời như sau:

    “Thưa ông đại sứ, tôi biết t́nh trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đă đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có một phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đă suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài G̣n, bao nhiêu đau khổ, nhục nhă sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lănh đạo hàng đầu của họ, tôi t́nh nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau khổ tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cảm ơn ông đại sứ đă đến viếng tôi.” Sau khi nghe Trần Văn Hương trả lời, Martin nh́n trân trân vào ông Hương, rồi ra đi mà chẳng bắt tay từ biệt. (Trần Đông Phong, sđd. tt. 352-355.)

    Trần Văn Hương thấy trước và nói rất đúng: “Tôi cũng dư biết rằng cộng sản vào được Sài G̣n, bao nhiêu đau khổ, nhục nhă sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam.” Nước mất là mất tất cả. Mất tất cả các quyền tự do dân chủ, cả tôn giáo, văn hóa, mất tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, có người mất luôn cả thân nhân nữa. Trước ngày 30-4-1975, dầu chưa hoàn thiện, dầu bị giới hạn v́ chiến tranh, chế độ Cộng ḥa vẫn là chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng dân quyền và nhân quyền. Khi mới chiếm được miền Nam, cộng sản bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của VNCH c̣n lại trong nước giam giữ dài hạn, không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc. Số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người tại trên 150 trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu, 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm, 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) c̣n khoảng 60,000 người bị giữ lại.

    (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Volume Two, Santa Barbara, California, 1998, tr. 602.) Số liệu nầy theo dư luận chung, c̣n thấp hơn so với số lượng người và số năm bị thực giam. Ngoài ra, trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đă từ trần trong các trại tù "cải tạo". (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon's fall”, nhật báo Orange County Register, số ngày Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.) Sau khi bắt giam hàng triệu công chức quân nhân trên toàn cơi miền Nam Việt Nam, cộng sản trấn áp dân chúng miền Nam bằng nhiều phương thức khác nhau:

    Thực hiện chế độ hộ khẩu, ai ở đâu ở yên đó, không được di chuyển, không có quyền tự do đi lại. Muốn đi lại phải xin giấy phép khó khăn. Về kinh tế, cộng sản đổi tiền nhiều lần một cách tàn bạo. (Đổi lần đầu ngày 22-9-1975, 500 đồng VNCH lấy 1 đồng mới. Đổi lần thứ hai ngày 3-5-1978 và lần thứ ba ngày 14-9-1985.) Cộng sản tổ chức đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tư sản nhỏ (tiểu tư sản), lục soát nhà cửa, tịch thu vàng thật, rồi lập biên bản là “kim loại có màu vàng”, để đổi vàng giả. Cộng sản cướp nhà cửa, buộc những người khá giả phải hiến đất, hiến nhà để khỏi bị tù. Tại thành phố, CS đưa vào quốc doanh tất cả những xí nghiệp, cơ sở kinh doanh do CS quản lư. Tại nông thôn, CS quốc hữu hóa toàn thể đất đai, ruộng vườn; nông dân phải vào hợp tác xă, làm việc chấm công để lănh lúa, dân chúng gọi là “lúa điểm” tức “liếm đũa”. Cộng sản buộc dân chúng phải đi kinh tế mới, sống trên những vùng khô cằn, nghèo khổ. Cộng sản thi hành chính sách ngăn sông cấm chợ, để CS độc quyền lưu thông và phân phối hàng hóa. Tất cả chính sách của CS nhắm làm cho dân chúng nghèo khổ cho CS dễ cai trị.

    Chính sách cai trị của CS sau năm 1975 đưa Việt Nam đến bờ vực thẳm, nguy hại cho chính CS. Trước t́nh h́nh đó, CS mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Cộng sản đổi mới để tự cứu ḿnh chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam. Từ đó, Việt Nam thay đổi dần dần, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào đầu 2007. Tuy nhiên dầu đổi mới về kinh tế nhưng cộng sản vẫn duy tŕ độc quyền chính trị, lo sợ "diễn biến ḥa b́nh", định hướng kinh tế xă hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, không tôn trọng dân quyền và nhân quyền. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh.
    Như thế, ngày CS vào Sài G̣n, chấm dứt chế độ VNCH, là một biến cố lịch sử có tầm vóc lớn lao, làm thay đổi ḍng sinh mệnh dân tộc, ảnh hưởng lâu dài cho đến ngày nay.

    Ngày 30-4 cũng là ngày mở đầu thảm họa chẳng những cho dân chúng miền Nam mà cho cả toàn dân Việt Nam khi chế độ cộng sản càng ngày càng bạo tàn, tham nhũng và nhất là lộ rơ bộ mặt tay sai Trung cộng, dâng đất, nhượng biển, quy lụy Bắc Kinh để duy tŕ quyền lực. V́ vậy dân chúng gọi ngày nầy là ngày Quốc hận. Hai chữ Quốc hận do dân chúng tự động đặt tên cho ngày 30-4 và truyền khẩu với nhau thành danh xưng chính thức, chứ không có một chính phủ, hay một đoàn thể chính trị nào đặt ra. “Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ.”

    3.- NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN

    Những người vượt biên được gọi chung là thuyền nhân. Thuyền nhân là từ ngữ được dịch từ chữ “boat people” trong tiếng Anh, xuất hiện từ cuối thập niên 70 để chỉ những người Việt bỏ nước ra đi sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam. Người Việt vốn ràng buộc với đất đai, ruộng vườn, chỉ ra đi trong hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng người Việt bỏ nước ra đi lên đến hàng triệu người. Đặc điểm nổi bật của phong trào thuyền nhân là tất cả những người vượt biên đều tự nguyện ra đi, tự ḿnh muốn ra đi, hoàn toàn tự phát ra đi theo từng gia đ́nh, từng nhóm nhỏ. Không có một đảng phái, một thế lực chính trị hay một nước ngoài nào can thiệp hay tổ chức cho thuyền nhân ra đi. Có khi, nhà cầm quyền CS lợi dụng ḷng khao khát ra đi t́m tự do của dân chúng để bán băi, hay tổ chức vượt biên bán chính thức nhằm lấy vàng. Dầu ra đi trong kế hoạch mà CS gọi là “bán chính thức”, người ra đi vẫn là những người tự nguyện muốn rời bỏ Việt Nam để tránh nạn độc tài cộng sản.

    Như thế, vượt biên hay thuyền nhân là một phong trào của vài triệu người, kéo dài trong nhiều năm và nhiều địa điểm khác nhau. Phong trào nầy là hậu quả của ngày Quốc hận 30-4. Ngày 30-4 là ngày đánh dấu sự thành công của chế độ độc tài toàn trị, gây tang thương cho dân tộc Việt Nam. Nỗi đau nầy càng ngày càng nhân lên khi CSVN càng ngày càng đàn áp phong trào dân chủ quốc nội. Chỉ v́ ḷng yêu nước, người Việt biểu t́nh phản đối Trung Quốc xâm lược mà cũng bị CSVN bắt giam th́ trên thế giới, chuyện nầy chỉ xảy ra ở Việt Nam. Hai sự kiện ngày Quốc hận 30-4 và Phong trào thuyền nhân hoàn toàn khác nhau và không thể lẫn lộn nhau. Ngày 30-4 là ngày kỷ niệm Quốc hận của toàn dân. Phong trào thuyền nhân ban đầu chỉ khoảng 1,500,000 người. Nếu ngày nay, dân số thuyền nhân phát triển lên khoảng 3,000,000, th́ ở trong nước, dân số tăng lên mấy chục triệu người.

    V́ vậy, để kỷ niệm phong trào vượt biên, ngày 28-4-2009, toàn thể Hạ viện Hoa Kỳ đă thông qua nghị quyết số 342 do dân biểu liên bang Hoa Kỳ gốc Việt Nam là Cao Quang Ánh đề xướng, ấn định ngày 2-5-2009 là “Ngày Vinh Danh Người Tỵ Nạn Việt Nam” tại Hoa Kỳ (tức thuyền nhân Việt cộng them những người ra đi theo chương tŕnh ODP và HO). Sau đó, ngày 12-8-2009, Hội đồng thành phố Westminster, (thuộc Orange County, tiểu bang California) thông qua nghị quyết số 4257, ấn định ngày Thứ Bảy cuối cùng của mỗi tháng Tư hằng năm là “Ngày Thuyền Nhân Việt Nam”. Westminster là thành phố có Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, khánh thành ngày27-4-2003, và từ đó là nơi diễn ra lễ Kỷ niệm ngày Quốc hận hàng năm của Cộng đồng Người Việt Tỵ nạn CS.

    Cả hai nghị quyết trên đây đều chọn một ngày khác với ngày 30-4 để kỷ niệm phong trào thuyền nhân, nhằm tránh làm mất ư nghĩa quan trọng của ngày Quốc hận 30-4. Chỉ có cộng sản và những người làm tay sai cho CS mới cố t́nh vận động chuyển đổi ngày Quốc hận 30-4 thành ngày Thuyền nhân, nhằm làm giảm nhẹ tội lỗi của cộng sản Việt Nam trước lịch sử, trong khi tội lỗi của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam không thể xóa bỏ được.

    Mưu toan nầy hoàn toàn thất bại v́ Cộng đồng Người Việt Hải ngoại quyết liệt phản đối, chỉ v́ một lư do đơn giản, thật đơn giản: NGÀY QUỐC HẬN LÀ NGÀY QUỐC HẬN, không thể nào khác hơn được và không có chữ nào đúng hơn được!

    TRẦN GIA PHỤNG
    (Toronto, 01-02-2012)

    * SOURCE: http://vietduongnhan.blogspot.com/p/...-tran-gia.html
    Last edited by Sydney; 11-04-2020 at 03:28 PM.

  2. #2
    Member Sydney's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    3,690

    ÂM MƯU BIẾN NGÀY QUỐC HẬN THÀNH NGÀY THUYỀN NHÂN?

    Sau bài “Ngày Quốc hận là ngày Quốc hận”, có nhiều e-mail hỏi người viết rằng tại sao lại có âm mưu biến ngày Quốc hận thành ngày Thuyền nhân? Câu hỏi nầy đáng lẽ phải hỏi thẳng những người âm mưu. Ở đây chúng tôi chỉ phỏng đoán lư do mà thôi. Sự phỏng đoán có thể thiếu sót, xin các bậc cao minh bổ túc thêm.

    1. LÀM PHAI LẠT Ư NGHĨA NGÀY QUỐC HẬN

    Ngày 30-4-1975 là ngày Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, áp đặt chế độ độc tài đảng trị trên toàn thể lănh thổ Việt Nam. Chế độ cộng sản chà đạp tự do dân chủ, giết hại dân lành, gây nhiều tội ác, trong đó quan trọng nhất là tội phản quốc, nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng để duy tŕ quyền lực. V́ vậy dân chúng tự động đặt tên ngày 30-4 là NGÀY QUỐC HẬN.
    Sau ngày Quốc hận 30-4-1975, hàng triệu người Việt Nam đă bỏ nước ra đi t́m tự do. Khoảng nửa triệu người bỏ ḿnh trên biển cả. Cộng sản chận bắt, bắn giết những người t́m cách vượt biên. Lúc đầu, cộng sản gọi người Việt vượt biên là tay sai Mỹ ngụy, chạy theo bơ sữa tư bản.

    Dần dần, người Việt hải ngoại tập họp thành những cộng đồng lớn mạnh ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu. Hàng năm cộng đồng người Việt hải ngoại gởi về hàng tỷ Mỹ kim để giúp đỡ thân nhân ở trong nước. Cộng sản liền uốn lưỡi, đổi giọng, gọi người Việt hải ngoại thành “khúc ruột ngàn dặm”. Tuy nhiên CSVN rất e ngại “khúc ruột ngàn dặm”, v́ nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ, phương tiện truyền thông nhanh chóng, tất cả những tin tức ở trong nước được đưa ra nước ngoài dễ dàng. “Khúc ruột ngàn dặm” sẵn sàn tranh đấu, bảo vệ người Việt trong nước, gây trở ngại không ít cho cuộc đàn áp của độc tài cộng sản.
    Đối phó với “khúc ruột ngàn dăm”, Bộ chính trị đảng CSVN đưa ra nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26-3-2004 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, để bằng tất cả các cách thu hút và nếu thu hút không được th́ đánh phá các tổ chức, hội đoàn, cộng đồng người Việt hải ngoại, nhằm hóa giải, chận đứng tất cả các cuộc chống đối của người Việt hải ngoại.

    Để thực hiện nghị quyết 36, CSVN đưa ra nhiều thủ đoạn thâm độc mà chúng ta không lường trước được. Có khi có người vô t́nh lạc vào những thủ đoạn của CSVN mà không biết. Âm mưu biến ngày Quốc hận làm ngày Thuyền nhân là một trong những âm mưu thâm độc của CSVN. Âm mưu nhằm hai mục đích: 1) Làm phai lạt dần dần ư nghĩa Ngày Quốc hận trong ḷng người Việt hải ngoại, giảm nhẹ tội ác cho CSVN. 2) Tạo một đề tài gây tranh căi và làm chia rẽ cộng đồng người Việt hải ngoại.

    2.- VÔ HIỆU HÓA HỘI CỰU QUÂN NHÂN

    Ở hải ngoại có nhiều hội đoàn. Hội đoàn có tinh thần quốc gia, dân tộc, chống cộng mạnh mẽ, lại có quy củ, có tổ chức, hoạt động mạnh nhất ở bất cứ nước nào, địa phương nào, là hội Cựu Quân Nhân (CQN). Hằng năm, nếu nơi nào không có ban chấp hành cộng đồng, như ở Toronto (Canada) chẳng hạn, th́ hầu như hội CQN được giao tổ chức ngày Quốc hận 30-4. Hoặc hội CQN phối hợp với các hội đoàn khác để cùng tổ chức. Luôn luôn hội CQN làm ṇng cốt, thường có lễ chào cờ, rước quốc quân kỳ…

    Hội Cựu Quân Nhân là hội giữ lửa cho Cộng đồng, hội mũi nhọn trong các cuộc biểu t́nh chống cộng. Mỗi năm hội CQN có hai hoạt động chính là tổ chức “Ngày Quốc hận” (30-4) và “Ngày Quân lực” (19-6). Nếu vận động được các địa phương biến ngày 30-4 thành ngày Thuyền nhân, th́ lúc đó hội Cưu Quân Nhân không c̣n cần thiết, v́ đối tượng chính trong buổi lẽ sẽ là thuyền nhân, th́ thuyền nhân sẽ đứng ra phụ trách. Một Uỷ ban của các thuyền nhân sẽ đứng ra tổ chức Ngày Thuyền nhân 30-4 hằng năm, thay cho hội CQN.
    Khi đó, hội CQN chỉ c̣n buổi lễ chính là mừng Ngày Quân lực. Là ngày vui th́ chỉ có ăn uống, vui chơi, nhảy đầm. Từ vai tṛ giữ lửa chống cộng, hội CQN trở thành một món trang sức cho cộng đồng. Như thế là một cách vô hiệu hóa hội CQN, làm giảm bớt hoạt động của hội CQN, giảm bớt ngọn lửa đấu tranh chống cộng,. Cái thâm độc của cuộc vận động biến ngày Quốc hận 30-4 thành ngày Thuyền nhân nằm ở chỗ đó. Tuy nhiên vẫn chưa hết…

    3.- TIÊU DIỆT TIỀM LỰC CHỐNG CỘNG

    Ngày Quốc hận 30-4 là ngày của toàn dân Việt, ở trong cũng như ngoài nước, trừ một thiểu số đảng viên. V́ vậy, hằng năm, vào ngày 30-4 ở hải ngoại, khắp nơi trên thế giới đều tổ chức lễ Kỷ niệm Ngày Quốc hận. Rất đông người đến tham dự, có thể nói là đông đảo nhất trong năm. Kỷ niệm Quốc hận hằng năm nhằm nhắc nhở ngày tang thương của dân tộc, tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ đă hy sinh v́ chính nghĩa quốc gia, những đồng bào đă bỏ ḿnh trên đường t́m tự do, và những tù nhân chính trị đă và đang bị đày đọa đến chết trong các trại tù cộng sản. Kỷ niệm Quốc hận 30-4 cũng là dịp cho Cộng đồng Người Việt hải ngoại lên tiếng đ̣i hỏi dân chủ tự do cho đồng bào ở trong nước. Nói cách khác, ngày 30-4 là ngày tưởng niệm và cũng là ngày tranh đấu.
    Trong khi đó, số người thực sự là thuyền nhân hiện nay, một mặt so với dân số toàn quốc th́ quá ít v́ ở trong nước không có thuyền nhân, và một mặt khác so với tổng số người Việt ở hải ngoại, số thuyền nhân hiện nay chỉ bằng khoảng một phần tư (1/4) hay một phần năm (1/5) mà thôi.

    Nếu ngày 30-4 hằng năm là Ngày Thuyền nhân, th́ những người không phải là thuyền nhân có thể không đến dự các buổi lễ ngày 30-4, v́ không liên quan đến họ. Số người tham dự các buổi lễ kỷ niệm sẽ giảm đi và có thể giảm đi rất nhiều. Như thế, dần dần ngày 30-4 sẽ phai lạt dần. Từ đó, tinh thần đấu tranh chống cộng sản bạo tàn, đ̣i hỏi tự do dân chủ cho Việt Nam của cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ càng ngày càng xuống giốc.

    Hơn nữa, một ngày kia, những thuyền nhân sẽ lần lượt qua đời, sẽ không c̣n thuyền nhân trên thế giới, th́ Ngày Thuyền nhân cũng tàn lụi theo. Lúc đó chắc chắn Ngày Thuyền nhân sẽ chẳng c̣n ai chú ư, chẳng c̣n ai cử hành, nghĩa là ngày 30-4 cũng sẽ mất tích luôn.
    Tóm lại, âm mưu biến đổi Ngày Quốc hận 30-4 thành Ngày Thuyền nhân phát xuất từ ư đồ của CSVN, nhằm làm giảm nhẹ tội ác của cộng sản, triệt tiêu hoạt động của Hội CQN và dần dần làm biến mất ngày Quốc hận, tiêu diệt tiềm lực chống cộng của cộng đồng người Việt hải ngoại. Âm mưu nầy được tay chân của cộng sản, cùng một số tên thân cộng ở hải ngoại t́m cách thực hiện để mưu lợi, trao đổi buôn bán với cộng sản. Tuy nhiên, dầu cố gắng cách nào đi nữa, âm mưu nầy cũng không thể thành công được, v́ lịch sử là những sự kiện đă xảy ra trong quá khứ, không ai có thể sửa đổi được lịch sử, nhất là một khi đă được khắc ghi vào bia miệng thế gian. “Trăm năm bia đá th́ ṃn,/ Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ.”

    Ở trong nước, CSVN tham nhũng, bóc lột, cướp đất dân lành, nhượng đất nhượng biển cho Trung cộng, đàn áp dân quyền và nhân quyền, bắt bớ, giam cầm những nhà tranh đấu dân chủ bất bạo động, những người yêu nước biểu t́nh chống Trung cộng xâm lược. Ở hải ngoại, đời sống đầy đủ, tự do dân chủ, lại có những kẻ không nghĩ đến tương lai dân tộc, không nghĩ đến đồng bào đang đau khổ v́ CS ở trong nước, mà chỉ v́ một chút danh lợi nhỏ nhoi, tiếp tay tuyên truyền cho CSVN, tiếp tục duy tŕ nạn độc tài toàn trị trên quê hương Việt Nam, th́ tội lỗi nầy cũng không kém ǵ tội lỗi của CSVN.

    Trần Gia Phụng

    * SOURCE: https://chungtoimuontudo.wordpress.c...y-thuyen-nhan/

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 11-04-2020, 03:17 PM
  2. Replies: 36
    Last Post: 05-06-2011, 10:49 PM
  3. Replies: 2
    Last Post: 31-03-2011, 10:09 PM
  4. Replies: 0
    Last Post: 26-02-2011, 06:54 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 05-09-2010, 02:30 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •