░Đ░ầu tiên biết cái tên Krishnamurti vào những năm cuối trung học (khoảng 1973) khi một thằng bạn thân đưa cho cuốn “Tự do đầu tiên và cuối cùng” của triết gia Ấn Độ này hỏi tui có muốn đọc không ? tui nói “miễn đi, tao chưa đủ già để đọc triết” hắn nói “tao cũng vậy nhưng lăo này viết nhiều cái đáng đọc lắm”. Cuốn sách đó hắn mua từ hội Thông Thiên Học trên đường Vơ Tánh (tên trước 1975) Phú Nhuận , cái tên Thông Thiên Học thoạt nghe nghe có vẻ tôn giáo huyền bí, lănh vực tui chẳng thích tí nào nhưng nh́n b́a được biết dịch giả Phạm Công Thiện, một tên tuổi uy tín của nền học thuật miền Nam lúc bấy giờ, hẳn tác giả mà ông bỏ công dịch hoàn toàn không phải một đạo sư giáo phái huyền bí như tôi nghĩ, tuy nghĩ vậy nhưng tôi đă không đọc.
Mấy chục năm qua “ba ch́m bảy nổi chín long đong”, nhiều lần đọc những bài của triết gia này không phải từ sách vở mà qua internet tuy rằng ngay khởi đầu tôi không thích triết gia này v́ ông chủ trương bác bỏ khoa học, lănh vực tui thích, và tôn giáo (chính xác mà nói là các tổ chức tôn giáo), nhưng vẫn đọc cho biết . . . và dường như tuổi tác càng chồng tư tưởng ông càng đáng suy ngẫm, tuy rằng nói thấm nhuần th́ c̣n lâu mới lĩnh hội được. Chẳng phải ông chối bỏ khoa học hay tôn giáo (theo nghĩa đen của từ ngữ) mà chỉ là ông chọn đi trên con đường riêng ở đó t́m hiểu và làm chủ chính bản thân để đánh thức trí tuệ, thức tỉnh cảm quan trước sự kỳ vĩ của thế giới tự nhiên, khơi ḷng đồng cảm và sống trọn cho thời khắc hiện tại là trọng tâm. Khi có người hỏi Krishnamurti ông thường không trả lời câu hỏi mà lật ngược vấn đề về phía người hỏi để họ tự suy luận và t́m ra lời giải. Ông cho rằng “một trí năo thông minh là một trí năo luôn luôn học hỏi, chứ không bao giờ kết luận”.
Đức Dalai Lama gọi ông là “một trong những tư tưởng gia vĩ đại nhất của thời đại”
Bài tôi dịch dưới đây bạn có thể đọc nguyên bản Anh ngữ từ :
𝗞𝗿𝗶𝘀𝗵𝗻𝗮𝗺𝘂𝗿𝘁𝗶 𝗥𝗲𝗺𝗲𝗺𝗯𝗲𝗿𝗲𝗱- 𝗧𝘄𝗼 𝗣𝗲𝗼𝗽𝗹𝗲 𝗧𝗮𝗸𝗶𝗻𝗴 𝗦𝗵𝗲𝗹𝘁𝗲𝗿 𝗜𝗻 𝗧𝗵𝗲 𝗥𝗮𝗶𝗻 / 𝘉𝘺 𝘑. 𝘒𝘳𝘪𝘴𝘩𝘯𝘢𝘮𝘶𝘳𝘵𝘪, 𝘙𝘦𝘯é𝘦 𝘞𝘦𝘣𝘦𝘳
BlackHole
o0o
“Vĩ đại” là một từ mà tôi dùng rất giới hạn, như “Chúa” hay “t́nh yêu”. Tôi nghĩ một số từ giống như miếng bọt biển, chỉ có thể thấm được một số ư nghĩa nhất định trước khi chúng bị rách nát, hư hỏng và phải vứt đi.
Nhưng lần đầu tiên tôi đọc một tác phẩm của Krishnamurti, khoảng mười lăm năm trước, tôi biết ḿnh đang ở trong thế giới với sự hiện diện của sự vĩ đại. Đây là một nhà tư tưởng sâu sắc, người có mục tiêu là giải phóng nhân loại “hoàn toàn, vô điều kiện”. Ông t́m cách thực hiện điều này không phải bằng cách tụng kinh hay cầu nguyện hay bất cứ điều ǵ gần giống tôn giáo mà bằng cách nhấn mạnh rằng chúng ta phải đặt câu hỏi về những ư tưởng cơ bản nhất của ḿnh về bản thân, rằng chúng ta phải nhận thức sâu sắc về những điều kiện tâm lư ngăn cản chúng ta nh́n thấy những ǵ là thực.
Bài giảng của ông rất mạnh mẽ và nghiêm khắc; ông có thể mất kiên nhẫn với những người nghe không hiểu và — thật trớ trêu đối với một người tận tụy với nhân loại — đôi khi ông dường như thiếu ḷng trắc ẩn. Tôi chưa bao giờ thấy thoải mái với sự thờ ơ của ông đối với bất kỳ con đường nào dẫn đến chân lư ngoại trừ con đường “vô định” mà ông đă đi, nhưng chính hành tŕnh t́m kiếm trí tuệ không khoan nhượng của ông đă truyền cảm hứng cho tôi nhiều hơn hầu hết những nhân vật đương thời khác. Thật kỳ lạ khi rất nhiều người chưa từng nghe đến ông — hoặc, v́ cái tên Ấn Độ của ông, nghĩ rằng ông là một trong những vị đạo sư mà chính ông xem thường vị thế này, tin rằng họ cản trở sự tự do tâm linh đích thực.
Khi Krishnamurti qua đời vào đầu năm nay ở tuổi chín mươi, tôi muốn bày tỏ ḷng kính trọng ông trên tờ The Sun. Việc xuất bản cuốn Dialogues with Scientists and Sages: The Search for Unity (NXB Routledge & Kegan Paul, New York) của Renée Weber vào mùa thu năm nay đă mang đến cho tôi cơ hội này.
Chúng tôi đă trích lại một chương trong cuốn sách của bà — một “cuộc phỏng vấn không chính thức” khác thường và sâu sắc với Krishnamurti. Tiếp theo là những trích đoạn từ các tác phẩm của chính 2, đặc biệt là từ Think on These Things và Krishnamurti's Notebook .
Bài luận của Weber về Krishnamurti là một sự đưa vào một cách trớ trêu trong một cuốn sách cố gắng xây dựng những cây cầu nối giữa khoa học và chủ nghĩa thần bí, v́ Krishnamurti bác bỏ khoa học. Weber viết, “Tại sao Krishnamurti lại phải có mặt trong cuốn sách này? Có thể nào ông ấy đại diện cho nhà thần bí tuyệt đối, bản chất của những ǵ độc nhất đối với vị thế của tất cả các nhà thần bí qua các thời đại? Chắc chắn có một lập trường tuyệt đối ở đây mà tôi hiếm khi bắt gặp.”
Cuốn sách đầy tính thách thức và sâu rộng của Weber cũng bao gồm các cuộc phỏng vấn với nhà vật lư lượng tử David Bohm, Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng, nhà sinh vật học Rupert Sheldrake , nhà vật lư lư thuyết vũ trụ học Stephen Hawking của Cambridge và Linh mục Công giáo người Anh, tu sĩ ḍng Benedictine, Cha Bede Griffiths. Trong các cuộc tṛ chuyện với những nhà tư tưởng hiếm hoi này, bà đă khéo léo cố gắng ḥa giải “tâm linh” và “vật chất”.
Weber viết, “Một nguyên lư song song thúc đẩy cả khoa học và chủ nghĩa thần bí — giả định rằng sự thống nhất nằm ở trung tâm thế giới của chúng ta và con người có thể khám phá và trải nghiệm nó”.
The Sun Editor
____________________ _______________
𝓗𝓪𝓲 𝓝𝓰ườ𝓲 𝓣𝓻ú Ẩ𝓷 𝓣𝓻𝓸𝓷𝓰 𝓜ư𝓪
____________________ ________________
≋Đ≋ó là cuộc phỏng vấn thứ ba với Krishnamurti mà tôi đă thực hiện trong thập kỷ qua, và hóa ra lại là cuộc phỏng vấn thú vị nhất. Điều này một phần là do một diễn biến bất ngờ nhất và thực sự điên rồ đă chào đón tôi khi tôi đến nhà gỗ của Krishnamurti ở Rougemont, Thụy Sĩ, trong một cơn mưa phùn nhẹ vào giữa tháng 7 năm 1985. Trên thực tế, đó không phải là cuộc phỏng vấn nào cả v́ mặc dù chúng tôi đă thỏa thuận nhiều tháng trước, Krishnamurti vẫn không cho tôi ghi âm. Liệu ông ấy có đang đóng vai bậc thầy Thiền tông ẩn tu hay không — như tôi nghi ngờ — có những lư do khác, tôi không thể nói.
Gần như không thể cô đọng cuộc đời của Krishnamurti thành một bài viết ngắn về bối cảnh. Là một triết gia-nhà hiền triết người Ấn Độ, ông được biết đến trên toàn thế giới thông qua các bài giảng, sách và băng ghi âm của ḿnh. Lúc tôi gặp ông đă chín mươi tuổi, ông đă diễn thuyết ở phương Tây trong hơn năm mươi năm, đi du lịch khắp nơi, chia thời gian chủ yếu giữa Anh, Ấn Độ, California và Thụy Sĩ. Ông đă thu hút lượng khán giả khổng lồ trên toàn thế giới và ảnh hưởng đến các nhà văn như Aldous Huxley, Henry Miller và nhiều nghệ sĩ, trong số đó có nhà điêu khắc người Pháp Bourdelle, người đă tạc tượng bán thân của ông.
Sinh năm 1895 trong một gia đ́nh nghèo ở miền Nam Ấn Độ tại Madras, có một câu chuyện kể rằng Krishnamurti — với tất cả vẻ bề ngoài là một đứa trẻ b́nh thường — đang đi trên băi biển khi mới mười bốn tuổi th́ được CW Leadbeater, một nhà thấu thị, chú ư, sau đó ông nói rằng ông đă rất kinh ngạc khi thấy hào quang của cậu bé tiết lộ một con người hoàn toàn vị tha, một hiện tượng cực kỳ hiếm gặp. Được nuôi dưỡng và giáo dục bởi Tiến sĩ Annie Besant của Hội Thông Thiên Học- Theosophical Society (và ở một mức độ nào đó là Leadbeater), Krishnamurti đă được đào tạo trong một vài năm cho một vai tṛ tâm linh quan trọng. Ông đă trở thành một giáo viên toàn cầu, xung quanh ông đă h́nh thành nên một tổ chức quốc tế lớn. Nhưng vào năm 1927, Krishnamurti đă giải tán nhóm này, tuyên bố rằng chân lư không thể được tổ chức và các tổ chức là kẻ thù của đời sống tâm linh. Kể từ đó, ông luôn nhấn mạnh rằng "chân lư là một vùng đất không có lối vào" và phản đối mọi giáo lư, tôn giáo, chính quyền, hệ thống và tác phẩm truyền thống. Trong sáu mươi năm qua, ông đă dành thời gian để diễn thuyết và thảo luận với mọi người trên khắp thế giới. Dưới sự bảo trợ của nhiều Quỹ Krishnamurti ở Ấn Độ, Anh, Mỹ và Canada, ông đă thành lập các trường học từ tiểu học đến trung học.
Triết lư cơ bản của Krishnamurti có thể được tóm tắt trong vài câu: chân lư nằm ở bên trong, và mỗi người có thể và phải tự ḿnh khám phá ra nó. Không có cuốn sách hay thẩm quyền nào có thể giúp chúng ta t́m ra nó, nhưng nhận thức không ngừng nghỉ, nhất quán, liên tục về bản chất của chúng ta và cách chúng ta hoạt động sẽ đưa chân lư lên bề mặt. Để làm được điều này, chúng ta phải bắt đầu bằng sự quan sát và thực tế, chứ không phải lư thuyết, tưởng tượng hay h́nh ảnh có sẵn. Sống trong chân lư là sống trong khoảnh khắc, đồng điệu với nó một cách năng động mà không thu thập những ǵ c̣n sót lại mà ông gọi là thời gian — suy nghĩ, kư ức, quá khứ — và coi đó là sự dối trá. Sống trọn vẹn trong hiện tại sẽ hợp nhất người quan sát và những ǵ được quan sát, và trong đó ẩn chứa một trạng thái “mà cả thế giới đang t́m kiếm và khao khát”, như Krishnamurti đă từng nói. Mặc dù ông không muốn đặt tên cho trạng thái đó, nhưng đôi khi ông gọi đó là t́nh yêu, vẻ đẹp, trật tự, sự vô tận — một trạng thái tồn tại mà ông tuyên bố nằm ngoài cái chết. Nhiều ư tưởng trong số này được thảo luận chi tiết trong các cuốn sách của Krishnamurti, phần lớn trong số đó được thu thập từ các bài nói chuyện được ghi âm của ông. Đến nay đă có hai mươi mốt cuốn sách được xuất bản phải kể như Sự cấp thiết của sự thay đổi, Sự thức tỉnh của trí thông minh, Tự do khỏi những điều đă biết, Sự thật và thực tế, Sự toàn vẹn của cuộc sống và (cùng với David Bohm) Sự kết thúc của thời gian . . .
Khi tôi lên đường vào buổi chiều tháng 7 năm 1985 từ Saanen đến Rougemont, nơi Krishnamurti đang chờ tôi, tôi không thể lường trước được những biến chứng đang chờ đợi ḿnh. Trong nhiều ngày, đi bộ đường dài quanh những con đường ṃn gần Saanen và Gstaad, với tầm nh́n ngoạn mục ra dăy Alps và những thung lũng xinh đẹp của Bernese Oberland, ngập tràn muôn sắc hoa, tôi đă chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ, nghĩ về những cách mà tôi có thể giao lưu với Krishnamurti về chủ đề thiên nhiên và khoa học, hy vọng ông sẽ sẵn ḷng tập trung vào chủ đề này. Hy vọng, nhưng không mong đợi điều đó, v́ tôi biết từ những cuộc phỏng vấn trước đó của chúng tôi rằng Krishnamurti không quan tâm đến những kịch bản được sắp xếp trước và rằng ông, chứ không phải tôi, sẽ đi theo hướng mà chúng tôi bắt đầu. Tuy nhiên, không có ǵ trong những lần gặp gỡ trước đây của chúng tôi chuẩn bị cho tôi dự đoán về diễn biến của các sự kiện sắp diễn ra.
Một cơn mưa nhẹ bất ngờ, đều đặn trút xuống thung lũng Saanen vào ngày tháng 7 mát mẻ này, bao phủ những ngọn núi trong màn sương mờ đục đến mức chỉ c̣n nh́n thấy được thung lũng, tạo thêm bầu không khí bí ẩn cho khung cảnh vốn đă lăng mạn của nơi đây.
Đây là lần đầu tiên tôi đến Saanen và tôi đă bị mê hoặc bởi quang cảnh hùng vĩ và bầu không khí yên b́nh của nơi này. Tất nhiên, vào mùa hè, điểm thu hút chính của nơi này là các buổi nói chuyện của Krishnamurti, được tổ chức trong một chiếc lều lớn; chúng thu hút hàng ngh́n người từ khắp nơi trên thế giới. Krishnamurti là một cái tên quen thuộc ở đây; mọi hiệu sách đều trưng bày nổi bật ra phía trước các cuốn sách của ông bằng tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác. Mặc dù tôi đă đến sau khi các buổi nói chuyện kéo dài sáu tuần kết thúc, nhưng trong những chuyến đi bộ của ḿnh, tôi vẫn gặp những người đến đây chỉ để nghe các buổi nói chuyện của Krishnamurti. Khi tôi rời khách sạn của ḿnh ở phía trên Saanen để đến nhà gỗ của Krishnamurti ở Rougemont, tôi thấy những câu hỏi lởn vởn trong đầu: “Krishnaji [một thuật ngữ tôn trọng của Ấn Độ], một số người nói rằng ông không quan tâm đến khoa học và thậm chí có thể phản đối nó — điều đó có đúng không?” “Liệu nhà khoa học và nhà hiền triết có cùng t́m kiếm một điều theo những cách khác nhau của họ không?” “Ông cảm nhận thiên nhiên như thế nào?”
Khi tôi đến Rougemont chỉ sau một phần tư giờ, những điều này đă lùi vào trong tiềm thức của tôi, giờ đây đang đắm ch́m trong việc ghi lại những ấn tượng về ngôi nhà gỗ và môi trường xung quanh. Rougemont, nhỏ hơn và đơn giản hơn nhiều so với Saanen hay Gstaad thời thượng gần đó, thậm chí c̣n đẹp như tranh vẽ hơn. Đây thực sự là một ngôi làng nhỏ trên dăy Apls nằm giữa vùng nông thôn chăn nuôi ḅ sữa, vào mùa đông biến thành một khu nghỉ dưỡng trượt tuyết, được thống trị bởi Videmanette, đỉnh núi cao 2200 mét. Có một con phố chính nhỏ với các cửa hàng, đài phun nước của làng và một số ngôi nhà gọn gàng, chạm khắc bằng gỗ, trang trí bằng hoa nằm rải rác khắp thị trấn, trong thung lũng như khảm vào sườn núi. Đây là một ngôi làng từ những thế kỷ trước, mộc mạc, giản dị và xinh đẹp.
Krishnamurti sống trong một nhà gỗ ở tầng một ngoài phố chính nhỏ. Tôi gặp Mary Zimbalist, người bạn lâu năm và là bạn đồng hành của ông, người chăm sóc ông và là người mà các yêu cầu phỏng vấn thường phải thông qua. Bà điềm tĩnh và lịch sự khi dẫn tôi vào, bà tṛ chuyện với tôi về vấn đề này như những lần khác, khi chúng tôi chờ Krishnamurti đến. Nhưng không giống như những lần khác ở Ojai, California, nơi tôi ghi h́nh Krishnamurti, tôi sớm nhận ra rằng hôm nay sẽ có vấn đề, v́ bà Zimbalist đang bắt đầu chuẩn bị cho tôi.
Mặc dù thực tế là tôi đă có sự cho phép bằng văn bản từ lâu của Quỹ Krishnamurti của Anh để đưa cuộc phỏng vấn năm 1978 của tôi vào cuốn sách này và ghi âm một cuộc phỏng vấn mới, và rằng chính bà Zimbalist đă xem mục lục của tôi và giúp sắp xếp cho buổi ghi âm hôm nay, bà vẫn chất vấn tôi rất kỹ về toàn bộ dự án. Trên hết, bà muốn biết những nhân vật khác trong cuốn sách là ai. Tôi giải thích, nhưng bà không yên tâm, nói rằng Krishnamurti không quen xuất hiện trong một cuốn sách cùng với những người khác — vấn đề bắt đầu nổi lên như một trở ngại. Mặc dù tôi cố gắng đưa ra một số lập luận thuyết phục, bà vẫn tỏ ra nghi ngờ và gợi ư rằng tôi nên đặt tất cả những điều này trước Krishnamurti.
Mặc dù tôi bắt đầu có linh cảm, nhưng vẫn ngồi vào chiếc ghế bành sâu, tôi đặt máy ghi âm của ḿnh lên bàn cà phê, chiếc micro định hướng tốt được đặt gần nơi tôi cho là Krishnamurti sẽ ngồi, một chiếc ghế rất gần ghế của tôi. Khi ông bước vào pḥng, Krishnamurti ấm áp và hiếu khách, chào đón tôi bằng đôi tay dang rộng.
. . .
Bookmarks