Thi vận (vần của thơ)

Thanh, Vận, Điệu là 3 yếu tố chính tạo ra thi nhạc, và nhạc là yếu tố làm cho thơ khác văn. Đó là nói về tính chất, nói về nội dung. C̣n nói về h́nh thức th́ thơ khác văn do vận. Văn không vần nên gọi là Tản Văn. Thơ có vần nên gọi là Vận Văn.
Do đó trong ba yếu tố Thanh, Vận, Điệu. Vận chiếm địa vị quan trọng hơn cả.

Vận là ǵ ?
Sách xưa dạy:
Vận là những tiếng đồng âm với nhau, những tiếng khi phát âm nghe na ná như nhau.
Lưu Hiệp đời Lục Triều bên Trung Quốc, tác giả bộ Văn Tam Điêu Long, giải thích rằng:

Đồng Thanh tương ứng vị chi Vận

Giải như thế, Tàu cũng như Ta, có phần trừu tượng quá.
Thật chẳng khác hỏi một thiếu nữ nhà cô ở đâu, cô đáp :

Nhà tôi ở dưới đám dâu,
Ở trên đám đậu có cầu bắc ngang


Hoặc:

Nhà tôi trở mặt ra sân,
Ở xa có núi ở gần có sông


Đi t́m cho ra nhà cô ấy, tất phải mất nhiều công sức, nhiều th́ giờ, và không tránh khỏi lạc đường lạc nẻo.
Để giúp cho người làm thơ khỏi lạc đường và tới đích mau chóng, học giả Trung Hoa đă soạn nhiều bộ Thi Vận Tập Thành, thường gọi là sách quan vận, là vận thư. Đời Tùy có sách Thiết Vận, đời Đường có sách Đường Vận, Quảng Vận, đời Tống châm chước những bộ sách đời trước, soạn ra bộ Lễ Bộ Vận Lược, được triều đ́nh dùng làm chuẩn tắc cho thi vận trong việc khảo thí. Các đời sau cũng theo gương đời Tống, soạn ra những sách quan vận mới. Nhà Nguyên có sách Trung Nguyên Âm Vận, nhà Thanh có sách Bội Văn Vận Phủ, Trung Hoa Dân Quốc có Trung Hoa Tân Vận ...Sách Trung Hoa Tân Vận chưa được đem ra áp dụng. Được thông dụng nhất là Bội Văn Vận Phủ.

Theo quyển vận thư này th́ thi vận xếp theo ngũ thanh (thượng b́nh, hạ b́nh, thượng, khứ, nhập) và có tất cả 106 vận. Thượng b́nh có 15 vận là Đông (phương Đông). Đông (mùa Đông), giang, chi, vi, ngư, ngu , tề, giai, khôi, chân, văn, nguyên, hàn, san. Hạ b́nh có 15 vận là tiên, tiêu, hào (hỗn hào), hào (hào kiệt), ca, ma, dương, canh, thanh, chưng, vưu, xâm, đàm, diêm, hàm. Hai thanh B́nh hợp lại gọi là Bằng, vần Bằng. C̣n vần Trắc th́ gồm tất cả các vận trong các thanh Thượng, Khứ, Nhập, tất cả có 76 vận. Để khỏi bị lạc vận, cổ nhân thường học thuộc ḷng những chữ xếp vào b́nh thanh và khi cần, mở sách ra tra cứu.

Nước Việt Nam chưa có sách quan vận. Các cụ ngày xưa đều dùng sách Tàu khi làm thơ chữ Nôm cũng như khi làm thơ chữ Hán.

Chúng ta ngày nay không c̣n làm thơ chữ Hán, và cũng rất ít người đọc thông chữ Hán, lại thêm nhiều chữ đă theo thời gian mà biến âm thanh. (Ví dụ Đông là Đông phương, và Đông là mùa Đông, và hào là hào kiệt và hào là hỗn hào, chúng ta đều đọc là Đông là Hào mà chưa chia ra thành những vận khác nhau, và Đông này không áp vận cùng Đông kia được, Hào kia không hợp vận cùng Hào này được.
Đó là v́ Đông mùa và Đông phương, Hào này và Hào nọ, xưa kia đọc khác hẳn nhau, mà ngày nay th́ đọc giống nhau. Vậy cho nên những vận thư của Trung Hoa kể ra chỉ để các bạn thấy rằng cổ nhân rất xem trọng Vận, chớ không thể đem ra áp dụng cho việc t́m vần được nữa.

Thơ Nôm xuất hiện từ đời Trần, nhưng trên 700 năm nay chưa có một quyển sách nào nghiên cứu về thi vận. Các cụ ngày xưa th́ dựa vào Vận Thư của Trung Hoa, chúng ta th́ dựa vào những tác phẩm lưu truyền của các cụ. Đối với các cụ thơ Nôm chỉ là một món tiêu khiển trong chốc lát, nên Vận thơ có chỉnh hay không chỉnh, các cụ không mấy quan tâm . Do đó mà có nhiều bài thơ rất hay nhưng có đôi chỗ vần không “tương ứng” không “na ná” như nhau. Thí dụ:

Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn Vu hiu hắt khí Thu mờ

Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao xa

Trời Thu ngăn ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu


Đọc nghe thật không suông tai. Nhưng cũng lắm người bắt chước, v́ xưa bày nay làm và tin các cụ học rộng tài cao đă làm là phải đúng. Nhưng có đúng theo vận luật của Tàu không ? Không sai. Nhưng đối với những kẻ thẩm âm bằng đôi tai nghệ sĩ, th́ những vần gieo như thế nghe không hoàn hảo bao nhiêu.

Đă công nhận Vận là một yếu tố của thơ, th́ vần thơ phải cho chỉnh đốn.

Để gieo vần được chỉnh đốn, làng thơ quốc âm đă có chuẩn tắc truyền miệng cho nhau, và ai theo ai không theo tùy ư. Xin tŕnh bày ra đây để cùng các bạn nghiên cứu thêm:

Để biết tiếng nào đồng âm với tiếng nào, chúng ta lấy những mẫu tự khởi đầu làm tiêu chuẩn, và để biết tiếng nào đồng thanh với tiếng nào, chúng ta lấy những dấu Không, Huyền, Sắc, Nặng, Hỏi, Ngă làm tiêu chuẩn. Như trước đă nói, để biết những tiếng nào cùng một bộ vận với nhau, cố giáo sư Trần Cảnh Hảo đề xướng ra phép dùng Khuôn và Dấu.

Khuôn là ǵ ?

Là một nhóm chữ do một hay hai nguyên âm (voyelle) ráp với 1 hay 2 phụ âm (consonne) thành vần (syllabe), tự nó có thể thành một chữ.. Thí dụ trong chữ Ban, Kinh, Cương, Luôn ... th́ An, Inh, Ương, Uôn là khuôn.

Những chữ nào đồng một khuôn và đồng một thanh với nhau là đồng một bộ vận. Thí dụ những tiếng Ban, Bàn, Bán, Bạn, Bản, Băn là những tiếng đồng một khuôn, nhưng khác thanh. Nên Ban và Bàn đồng một bộ vận với nhau thuộc vần Bằng c̣n Bán Bạn Bản Băn thuộc vần trắc, tuy khác thanh nhưng vẫn cùng vần với nhau.

Nói tóm lại là vận có hai loại: loại vần bằng và loại vần trắc. Những chữ đồng một khuôn và có dấu huyền cùng không dấu thuộc vần Bằng và cùng một bộ vận với nhau. Những chữ đồng một khuôn và có các dấu Sắc, Hỏi, Ngă, Nặng là thuộc vần Trắc và cùng một bộ vận với nhau. Thí dụ: Ban, Bàn, Can, Càn, Dan, Dàn, Đan, Đàn, Gan, Gàn, Han, Hàn, Khan, Khàn, Lan, Làn, Man, Màn, Phan, Phàn, Quan, Quàn, Ran, Ràn, San, Sàn v.v... là đồng một bộ vận với nhau.

Đó là nói về loại vần Bằng. C̣n loại vần Trắc th́ khuôn giống nhau mà chữ này Thanh Thượng, chữ kia Thanh Khứ, cũng đều là đồng một bộ vận. Như Bán, Cán, Cạn, Đản, Đạn... đều đồng một bộ vận. Riêng những chữ về Nhập Thanh, tuy cùng thuộc loại vần Trắc, mà chữ có hậu phụ âm T tạo cho ḿnh một bộ vận riêng, chữ có hậu phụ âm P tạo cho ḿnh một bộ vận riêng. Những chữ có phụ âm C, CH cũng vậy. Những bộ vận này không thể lẫn lộn nhau và không thể nhập với những bộ vận về Thượng Thanh, Khứ Thanh.

Thơ Đường luật ít khi dùng vần Trắc cho nên không cần đi sâu.

Trong nhiều bài thơ vần Bằng được truyền tụng, chúng ta lại thấy có nhiều bài không theo quy tắc “đồng một khuôn”.
Thí dụ bài Không Chồng mà chửa của Bà Hồ Xuân Hương:

Trót lỡ ra rồi dám thở than
Riêng hiềm v́ nỗi má hồng nhan
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu ngược
Phận liễu sao đà nảy nét ngang
Gánh nợ trăm năm chàng trút cả
Khối t́nh ba kiếp thiếp riêng mang
Chị em nhắn nhủ đừng chê trách
Không có nhưng mà có mới ngoan


Than, Nhan, Ngoan thuộc khuôn An, Ngang, Mang thuộc khuôn Ang, mà lại ghép vần với nhau, như thế là sái là không đúng. Cách gieo vần như thế không phải là hiếm, Trần Tế Xương cũng thường vấp phải:

Trời không chớp bể với mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn
Bối rối t́nh duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông
Khăn khăn áo áo thêm bầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Bên chùa thằng trọc đă hồi chuông


Những vận thuộc khuôn Uôn ghép với những vận thuộc khuôn Uông. Nếu chúng ta chịu khó “lắng tai Chung Kỳ” th́ nhận thấy khi đọc lên, Ang cũng như Uông ngân dài hơn An và Uôn. Thi nhạc của những câu mà vần không có chữ G ở sau kém hơn các câu có G.

Nhưng thi vận chia làm hai thứ:
- Chính Vận (vần chính).
- Thông Vận (vần thông).
Chính Vận là những vận đồng một khuôn.
Thông Vận là những vận tuy không đồng một khuôn nhưng đọc lên nghe tương tợ, na ná như Nhan và Mang, Buồn và Chuông, Huông. Có nhiều địa phương đọc những chữ có G và không có G giọng giống in nhau. Chỉ những người từ Thanh, Nghệ, Tĩnh trở ra mới đọc đúng giọng và mới có thể phân biệt dễ dàng độ dài ngắn của những chữ có G và không G.

Do đó với những chữ có G và không G, làng thơ chia làm hai phái. Một phái nhận là Đồng Vận, một phái cho là Lạc Vận.

Chúng ta không nên cứng rắn quá, cũng không nên dễ dăi quá. Chúng ta chỉ nên ghép những vần có G với những vần không có G. Những vần không G với những vần có G, trong trường hợp “bất khả kháng”, nghĩa là chúng ta chỉ ép vận khi nào nhận thấy làm như thế tuy có phần thất về mặt âm vận nhưng thêm phần đắc về mặt t́nh tứ. Song nếu có thể tránh được th́ vẫn hơn.
Chúng ta nên tránh ghép những vần: UA, U, Ư vào Ô, O, Ơ như bài Than Thời Loạn của Vua Lê chúa Trịnh:

Lửa hồng từ dậy mái thành đô
Đ̣i chốn lầm than chuyện được thua
Xanh biếc thú quê người ẩn dật
Bạc đen đường thế khách bôn xu
Suy tường mỗi mỗi đau ḷng trí
Tính quẩn trần trần nát dạ ngu
Mong tới Vị Xuyên mà hỏi Lữ
Rằng Thương xưa cũng thế này ư


Bài thơ được truyền tụng là nhờ lời đẹp và phản ảnh thời thế, được các nhà làm sách thi tuyển thủ thứ là do ư thú, chớ không phải do âm vận. Những duyệt giả chuộng thanh điệu không thích bài này. Một bài thơ gồm được cả thanh điệu ư thú mới là hoàn hảo.

Chúng ta cũng thường gặp trong thơ xưa, những vần AO, ÂU, IU, EO ... ghép lại với nhau. Như trong bài Thu Vịnh của Nguyễn Khuyến:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào


Bài này là một danh tác, nên không mấy người dám chê vần Cao mà xuống vần Hiu nghe thật “chói tai". Chẳng những không dám chê mà c̣n khen hai vần đó đứng sát nhau gây nơi người đọc cái cảm giác “xa cách, rời rạc”, làm cho giác quan cảm thấy cảnh đă mênh mông thêm mênh mông, t́nh đă hiu quạnh thêm quạnh hiu. Cũng có người khen những vần Đô, Thưa, Xư, Ngư, Ư trong bài Than Thời Loạn ở trên là làm cho người đọc thêm thấy rơ cảnh loạn thời Lê Trịnh. Thấy rơ là nhờ sự lủng củng của vần gây nên.
Khen như thế thật chẳng khác nào anh chồng si t́nh khen vợ ḿnh nhờ chột một mắt mà trở thành tuyệt thế giai nhân.
Chúng ta không nên theo hùa.

Thơ là tiếng của ḷng (tâm chi thanh). Thơ phải có nhạc mới dễ truyền cảm. Mà vần là một yếu tố quan trọng để tạo nhạc. Vậy chúng ta phải cố tránh những vần ép như những vần trên đây. Nếu không dùng được những vần Chính th́ nên dùng những vần Thông gần nhau (cận vận), càng gần nhau bao nhiêu th́ càng quư bấy nhiêu.

Những Vần Thông gần nhau đi với những vần sau đây:

ai với oai - ôi với ơi – ơi với nơi – au với âu – ay với ây, oay – ia với uya - ui với uôi – yêu với êu, iêu, iu - âm với ăm - ăn với ân - ong với ông hay ung - anh với oanh, ênh, inh, uynh - yên với iên, uyên...v.v...

Chúng ta nên cẩn thận khi dùng những chữ đồng âm dị nghĩa như Trường là ruột và Trường là dài, Trường là chỗ nhiều người tụ họp (hội trường, trường học...). Bên Hán tự th́ mặt chữ khác nhau, bên quốc ngữ th́ khuôn giống nhau. Như thế bên Hán cũng như bên Việt đều là những chữ đồng vận và đều là Chính Vận. Nhưng không nên dùng gần nhau v́ dùng gần nhau sẽ kém nhạc, chẳng những kém mà c̣n hại là đằng khác:

Tầm phương bước lạc đến công trường
Thấy cảnh t́nh ai khỏi đoạn trường


Nghe thật không suông tai !

Đối với những tiếng đồng âm dị nghĩa trong thuần Việt cũng thế. Nếu không để chúng ở một “đầu sông tương”, một ở “cuối sông Tương”, như trong Thăng Long Thành Hoài Cổ của bà Huyện Thanh Quan, th́ ít ra phải để cách nhau ở một bến đ̣, nghĩa là có chen một vần khác ở giữa. Thí dụ như bài Cảm Tác (khuyết danh) sau đây:

Mấy chục năm qua gió bụi mờ
Tưởng rằng bớt đục hóa thêm nhơ
Mặt đành bôi mặt gà chung mẹ
Tay sẵn ngon tay gió phất cờ
Ruột đứt non sông chờ vận hội
Sầu vương cây cỏ đợi thời cơ
Đêm đêm dưới nguyệt gươm mài hận
Quang phục quê hương lật thế cờ


Nguyên tắc xếp vần về bên loại vần Trắc cũng như bên vần Bằng. Xin cử một bài thơ vần trắc của Học Lạc làm mẫu:

Vành mâm xôi oản đề thằng Lạc
Nghĩ ḿnh ti tiện không đài các
Văn chương vốn thiệt bợm mèo quào
Danh phận không ra cái cóc rác
Bởi thế bơ phờ thẹn núi sông
Dám đâu vúc vắc nhạo cô bác
Các thầy nếu chẳng biết ḷng cho
Trong có ông thần ngoài cặp hạc


Thơ gieo vận trắc nghe không du dương, uyển chuyển nên làng thơ ít ham thích, nhiều thơ vần trắc lưu truyền từ xưa đến nay không được bao lăm. Do đó các nhà thi học bảo rằng Luật Thi chỉ dùng vần Bằng, những bài dùng vần Trắc dù cho đúng niêm luật vẫn thuộc về cổ thể.

Thơ vần Bằng mà dùng chính vận c̣n lưu truyền không ít. Xin trích một bài Mùa Nực Mặc Áo Bông của cụ Tú Xương làm mẫu:

Bức sốt nhưng ḿnh vẫn áo bông
Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không
Một tuồng rách rưới con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
Đất biết bao giờ sang vận đỏ
Trời làm cho bỏ lúc chơi ngông
Gần chùa gần cảnh ta tu quách
Cửa phận quanh năm sẵn áo sồng


Bài thơ Tặng Vợ (Thương Vợ) của ông Tú sau đây vần gieo chính vận cũng thật là suông:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân c̣ khi quăng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đ̣ đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không


Vần gieo đă ḍn, t́nh lại thiết tha, giọng lại dí dỏm ! “Năm con với một chồng” có hai ư. Một là sáu miệng ăn, hai là năm con đó do một ông chồng sanh ra chớ không v́ “buôn bán ở mom sông” mà có nhiều con đâu ! Bà Tú mà nhận thấy cái hóm hỉnh này th́ cũng đấm cho ông ba cái đấm lưng là ít. Rồi lại nói “có chồng hờ hững cũng như không”. Cũng như không mà có đến năm con, vậy nếu “không như không” th́ bà Tú nuôi sao nổi ? Nội vẻ trào phúng kín đáo, và dễ thương đó, bài thơ cũng đủ có giá trị, huống c̣n t́nh tứ, c̣n văn chương mà vần chỉnh tề chiếm một phần quan trọng.

Chúng ta đọc thêm bài Thu Cảm của Tương An Quận Vương, một bài thơ gieo vần cũng thật khéo:

Bên cảnh bên t́nh khéo vấn vương
Sầu Thu đưa hạ chạnh trăm đường
Tiếng ve dày dặc nghe thêm thảm
Mặt nguyệt tṛn hin ngó dễ thương
Vàng thếp giếng ngô sa lá gió
Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương
Sầu chong trắng đĩa không yên giấc
Lăm phá thành sầu đă hết phương


Xúc cảnh mà sinh t́nh, rồi mượn cảnh nói t́nh. Văn chương trang nhă, hàm súc. Không cần đi sâu vào nội dung chỉ đọc năm vần Vương, Đường, Thương, Sương, Phương, cũng đă đủ khoái nhĩ. Thật là văn chương của bậc đại gia.

Xem những vần thơ được truyền tụng từ xưa tới nay, chúng ta nhận thấy các nhà thơ chân chính đều chú trọng sự gieo vần, và những bài thơ hay đều dùng chính vận.