Page 2 of 11 FirstFirst 123456 ... LastLast
Results 11 to 20 of 104

Thread: LƯ DO ĐEM DẠY LẠI CHỮ NHO KHÔNG ĐỦ THUYẾT PHỤC

  1. #11
    Phó thường dân
    Khách
    http://www.facebook.com/note.php?note_id=115 678205165951&id=1633 26713693967

    Việt Nam đă có chữ viết riêng từ thời Hùng Vương?
    by Lớp học vui vẻ on Monday, November 29, 2010 at 5:41am

    Ông Xuyền và những con chữ ông khảo cứu



    Vừa qua, nhà giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền (sinh năm 1937), hiện đang sống tại Việt Tŕ, sau một thời gian để công nghiên cứu đă bước đầu công bố công tŕnh hơn 50 năm trời nghiên cứu “Giải mă chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam. Để phản biện kết quả nghiên cứu của ông - một người ngoài ngành chungta.com tin rằng cần có một hội đồng chuyên gia đa ngành đánh giá và kết luận. Sơ bộ, đó là một thành quả nghiên cứu công phu, nghiêm túc, phản ánh sự lao động kiên tŕ, giàu nghị lực của tác giả và thành quả là một đóng góp có giá trị giúp chúng ta hiểu rơ hơn về cội nguồn lịch sử, văn hóa của dân tộc và có thể mở ra "cửa sổ mới" hết sức thú vị để chúng ta hiểu được các thư tịch cổ.



    Ông Xuyền đă từng làm hiệu trưởng trường cấp II đầu tiên của khu công nghiệp Việt Tŕ. Ngày ấy Việt Tŕ c̣n giữ được dáng vẻ nguyên sơ của một vùng đất cổ, kinh đô Văn Lang với những: Lầu Thượng, Lầu Hạ, Kẻ Lư, Thậm Th́nh, Mă Quàng... Khi học sinh trường đi lao động c̣n gánh về những Dao, Mác, Trống đồng, minh khí nhặt được; ông đă nghĩ nơi đây là một công trường chế tác đồ đá mới. Từ đó ông bắt đầu công việc t́m lại dấu vết của người Việt cổ.





    Thiên cổ Miếu, thôn Hương Lan, xă Trưng Vương, TP Việt Tŕ, nơi thờ hai vợ chồng thày giáo Vũ Thê Lang, thời vua Hùng.



    Sau nhiều năm nghiên cứu các Ngọc phả tại các đền thờ khác nhau rải rác khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, ông đă t́m ra 18 nơi thờ các thầy giáo, học tṛ từ thời An Dương Vương, Hùng Vương. Từ đó ông đưa ra một giả thiết ban đầu của ḿnh là trước năm 186 công nguyên là năm chữ Hán được đưa vào Việt Nam th́ dân tộc ta đă có chữ viết riêng - chữ Việt cổ, chữ viết đó được các thầy giáo thời Hùng Vương sử dụng.



    Giả thiết này hoàn toàn khác với điều đa số người Việt hiện nay vẫn cho rằng là trước khi bị Tàu đô hộ, nước Văn Lang (tức nước Việt) không có chữ viết riêng mà chỉ đến khi người Tàu qua xâm chiếm th́ người Việt mới bắt đầu dùng chữ Hán để viết.



    Qua nghiên cứu các thư viện và t́m đọc các thư tịch trong, ngoài nước của nhiều nhà nghiên cứu tiền bối đă đi sâu vào vấn đề này: Từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Kư, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... ông đều gặp may bởi họ đă khẳng định: Việt Nam xưa đă có chữ viết riêng.





    Bản đồ ông Xuyền ghi dấu những đền thờ thầy giáo, học sinh thời vua Hùng đến Hai Bà Trưng.



    Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ư: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con ṇng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đă cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu.



    Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”.



    Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rơ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”.



    Một lần trên đường đi t́m kiếm ông đă dừng chân bên ngôi miếu nhỏ của một xóm núi, đọc được một bản Ngọc Phả thời Trần Thái Tông với những ḍng chữ vang vọng tự hào: "Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa dấu".



    Như vậy thời Hùng Vương, dân tộc ta đă có chữ viết với tên gọi Khoa Đẩu, đó là điều có thể khẳng định chắc chắn.



    Chữ Việt cổ của cha ông



    Đây là loại chữ ông Xuyền cho là chữ Việt cổ



    Nhưng thứ chữ đó h́nh dạng ra sao? Cấu trúc thế nào? Ông luôn sẵn sàng lao vào t́m kiếm dù cho thiếu thốn, bệnh tật và đă có tuổi.



    Hơn một ngh́n năm Bắc thuộc, cuộc tận thu trống đồng của Mă Viện năm 43, cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15, cuộc đốt phá hết thư khố quốc gia và thư khố của các bộ (sau cuộc tấn công vào đồn Mang Cá) của Pháp năm 1875, liệu có c̣n sót lại những ǵ?







    Chữ Việt Cổ trên trống đồng Lũng Cú





    Trên bốn chiếc qua đồng Đông Sơn có chạm khắc 28 kư tự. Đó là những kư tự Việt cổ mà cho đến nay chưa giải mă được



    Ông đă t́m đến những nơi đồn là có chữ Việt cổ. Nhưng đôi khi thất vọng: Chữ khắc trên viên gạch ở Hoàng thành Thăng Long chỉ là chữ Chăm và những trang sách trên lá buông ở đỉnh Trường Sơn và ở Thư viện Nghệ An chỉ là chữ Lào cổ. Nhưng ông vẫn tin vào sự cất giấu lưu giữ của tổ tiên về chữ Việt cổ (như khi đi t́m dấu vết của các thầy giáo thời trước Hán).



    Ông Xuyền đến Sa Pa, trên tảng đá vùng Hầu Thảo, sau khi cạo lớp rêu phủ đă t́m được những chữ giống như chữ cái của Vương Duy Trinh, Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa. Trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, Vương Duy Trinh đă giới thiệu một số chữ lạ sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “V́ Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta c̣n lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”.





    Chữ cổ trên băi đá cổ Sapa





    Phải chăng đây là chữ Việt cổ (trích Thanh hóa Quan Phong)



    Giáo sư Hà Văn Tấn đă công bố công tŕnh nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh th́ khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đă dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc ḿnh”.



    Nhớ tới câu nói của Vương Duy Trinh: "V́ thập Châu là vùng biên viễn, nhân dân ta c̣n lưu giữ được thứ chữ ấy", ông hướng t́m ṭi lên vùng Tây Bắc, Việt Bắc, vùng khu 4 cũ, rồi lăn lộn lên cả Đông và Tây dăy Trường Sơn để t́m theo dấu vết.



    Để đi được dài ngày và đi xa, với số tiền lương hưu ít ỏi, ông đă phải tính đến việc ăn ngủ giản tiện nhất, đó là: một chiếc vơng bạt, một bi đông đựng nước, một ít bánh ḿ sấy khô và dăm gói ḿ tôm. Thế là ông "cầm cự" được hàng chục ngày để đi đến các vùng sâu vùng xa, quyết t́m cho ra chữ Việt cổ.



    Trong các tài liệu sưu tầm được, ông đặc biệt chú ư đến một bộ chữ lạ. Rất tiếc là những trang sách này đă bị nguỵ trang và khoá mă, mặc dù vậy nó đă tồn tại hàng mấy trăm năm mà không ai chú ư tới. Linh cảm mách bảo, ông đă thức nhiều đêm trắng để mày ṃ giải mă. Kiến thức tổng hợp và vốn ngoại ngữ đă giúp ông rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu chữ Việt cổ. Kết quả, ông đă khu biệt được loại kư tự này với các loại văn tự xung quanh, t́m ra được h́nh dạng, chức năng của từng chữ cái và cách cấu trúc của một loại kư tự mà người ta đă nhầm là chữ Mường, chữ Thái...





    Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi cả nước khởi nghĩa giành độc lập, mùa xuân năm 40, được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ





    Câu thơ được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ



    Qua công tŕnh nghiên cứu về ngôn ngữ người Việt cổ HauĐricourt, ông khẳng định được bộ kư tự này có từ trước công nguyên (loại kư tự bắt nguồn từ chữ Khoa đầu tượng h́nh chuyển sang chữ cái có ghép vần). Căn cứ vào ư kiến của giáo sư Lê Trọng Khanh: "Các dân tộc Bách Việt dùng thứ chữ này".



    Khi đă đọc thông viết thạo chữ Việt cổ, ông lại t́m đến các vùng người Thái, người Mường. Loại văn tự này có thể ghi được tiếng Thái, tiếng Mường nhưng không đầy đủ. Ông lại t́m đến các vùng quê Thái B́nh, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thanh Nghệ Tĩnh... để lắng nghe những người già phát âm.



    Thứ kư tự này đă giúp ông ghi lại đầy đủ giọng nói, âm vực của họ, giúp ông giải thích được tiếng nói khác nhau của từng vùng - gần như nó đă ghi lại nguyên tiếng nói người Việt cổ. Nó đă giúp ông giải thích được nhiều vấn đề c̣n thắc mắc. Ví dụ: V́ sao trong tờ Le Paria và tờ L'Humanité từ những năm 20 của lănh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chữ Nguyễn Ái Quốc được viết là Nguyễn ái Quấc. Và trong cuốn sách sổ sáng của Filíp Bỉnh viết ở Bồ Đào Nha năm 1822, chữ huyên được viết là huên, chữ ḍng được viết là dào.





    So sánh chữ Việt cổ với ngôn ngữ các nước quanh ta





    Một số bài thơ được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ



    Cũng như vậy ông có thể chứng minh được một nền văn tự có trước Hán và khác Hán, của giáo sư Hà Văn Tấn qua việc giải thích sự tồn ghi trong cuộc khai quật của bà Cô La Ni ở Lam Giận Hoà B́nh năm 1923. Tháng 9/2004, giáo sư Hà Văn Tấn đă mời ông về Hà Nội nghe ông kể lại quá tŕnh đi t́m chữ Việt cổ và khi được ông tặng bản Hịch của Hai Bà Trưng đă chuyển sang chữ Việt cổ, giáo sư đă cảm động nghẹn ngào: "Vấn đề lớn lắm. Chúng ta phải sớm báo cáo lên nhà nước".



    Dịp hè năm nay, nghe tin tỉnh Sơn La t́m được hàng ngh́n cuốn sách cổ có chữ lạ. Ông cầm vài tờ photo lên, đọc mà nước mắt ràn rụa. Như vậy điều dự đoán của các nhà khoa học trước đây đă được chứng minh: Thứ kư tự đặc biệt để ghi âm tiếng nói của người Việt cổ (thứ chữ dân tộc ta đă có từ thời đại Hùng Vương) đă được các dân tộc sử dụng chung và c̣n được lưu giữ bảo tồn ở vùng Tây Bắc cho đến ngày nay.



    Chữ Việt cổ có liên hệ ǵ với chữ Quốc Ngữ?!



    Những trang viết trong cuốn “song ngữ” La Tinh- Việt cổ do ông Xuyền biên soạn.



    Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ 17. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được.



    Khi đem bộ chữ Việt cổ đă được giải mă thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La” (1651) của Alexandre de Rhodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790-1820), thầy giáo Xuyền đă rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được.



    Chính từ việc này, thầy Xuyền đă đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công tŕnh hoàn toàn mới của Alexandre de Rhodes.



    Nhà truyền giáo người Bồ đă tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?!



    Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do ông giải mă có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về h́nh dạng mà thôi!



    Chính trong cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La”, Alexandre de Rhodes đă viết: “Đối với tôi, người dạy tài t́nh nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong ṿng 3 tuần, nó đă hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo ông Xuyền th́ “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ!



    Minh Bùi (Tổng hợp)

    Share
    ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Bài nghiên cứu trên có kèm theo h́nh ảnh chứng tích chữ Việt cổ . Đáng tiếc khi đưa lên diễn đàn th́ h́nh không thể lên theo được . Phó thường dân có kèm địa chỉ dán ở phía trên xin cô bác anh chị đăng lại có kèm theo h́nh để tiện tham khảo chung .

    Cám ơn

  2. #12
    Member Nguyễn Kiến-Hưng's Avatar
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    623

    Trả Lới Ông Sơn Hà (2)

    Quote Originally Posted by Son Ha View Post
    Thưa ông NK Hưng,

    tôi đă dùng những bài nghiên cứu của tác giả Đỗ Thanh nói riêng hay của những nghiên cứu khác nói chung về nguồn gốc văn hóa của Việt tộc với Hoa tộc bằng khoa khảo cổ của nhiều tác giả như Phạm Trần Anh hay của tác giả Du Miên Lê Thanh Hoa với tác phẩm "Việt Nam Suối Nguồn Văn Minh Phương Đông", hoặc như nhà sử học lừng danh Joseph Needham trong tác phẩm "Science and Civilization in China" hay tác giả Stephen Oppenheimer trong tác phẩm "Eden in the East" đă chứng minh văn minh của Trung Hoa ngày nay có cội nguồn văn hoá từ xa xưa của Việt tộc.
    Thưa ông Sơn Hà,

    V́ không thấy những điều khả tín trong các bài viết mà ông nêu ra nên tôi mới nhờ ông chỉ điểm xem trong các bài viết đó có tài liệu nào ông cho là khả tín nhất để khiến ông tin là chữ Nôm có trước. Và điều tôi cần không phải là lư luận mà là một tài liệu hiện hữu.

    Như vậy theo suy luận của ông th́ có phải là văn hoá nào có trước với ngôn ngữ, tư tưởng tức là có chữ trước không ?

    Vả lại, khi nói văn hoá nào đó có trước tức có nghĩa là tư tưởng của dân tộc đó đă có trước. Như Khổng Tử đă viết trong sách Trung Dung câu 10 : "Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo; Nam phương chi cường dă, quân tử cư chi. Nhẫm kim cách, tử nhi bất yểm : Bắc phương chi cường dă, nhi cường giả cư chi." có nghĩa "Độ lượng bao dung, lấy khoan hồng để giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ở đấy. Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường hào ác bá ở đó." Vậy th́ kết luận xuyên tạc của ông để đi gán cho tôi bảo là chữ viết có trước ngôn ngữ, tư tưởng để suy diễn như chữ Nôm có trước chữ Hán là điều nghịch lư không thể chấp nhận được, có cơ sở đúng không ?
    Tôi không đề cập tới văn hóa riêng dân tộc nào mà chỉ nói chung chung thôi. Điều tôi nói là từ khi xuất hiện trên trái đất, loài người, không cứ là dân tộc nào: Tàu, Việt, Ấn Độ, Ả Rập, hay Ăng Lê đều có sự liên lạc với nhau qua lời nói trước rồi sau đó mới lập ra chữ viết. Chứ không phải họ lập ra chữ viết trước rồi sau đó mới nghiên cứu xem chữ viết phải phát âm như thế nào và phải hiểu làm sao. Đây là lẽ tự nhiên. Bởi vậy, tôi không đồng ư điều ông nói "tiếng Việt là từ chữ Nôm". Khi ông nói câu này có nghĩa là theo ông th́ người Việt tạo ra chữ viết là chữ Nôm trước rồi tiếng Việt mới từ đó mà h́nh thành. Tôi cho đây là điều nghịch lư.
    V́ tiền nhân có câu : "tận tín thư bất như vô thư" nên đi tin vào tài liệu sách vở cho dù có xác thực đến đâu với đầy tính chất khoa học đi nữa th́ cũng như không, v́ cũng mới chỉ là đúng lư c̣n gọi là chí lư nhưng chưa phải là Chân Lư.

    Cho nên tôi đă nhắc lại điều mà tiền nhân đă nói "nhất lư thông" có nghĩa là điều kiện ắt có và đủ của quy luật tự nhiên để cho mọi sự được "đúng" đều phải có "nghĩa". V́ kinh điển có câu "thời thố chi nghi" có nghĩa là "thời được sắp đặt đúng lúc gọi là nghi" hay "tùy thời chi nghĩa" tức là "theo đúng thời gọi là nghĩa", cho nên trong chữ "nghi" mới có chữ "nghĩa". Do đó sự sắp đặt của tôi với văn hóa của Việt tộc có trước với tiếng Việt là chữ Nôm, th́ đó là điều kiện ắt có và đủ để kết luận là chữ Nôm có trước chữ Nho (là chữ Nôm được hệ thống hóa bởi hàn lâm) c̣n gọi là chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc.

    Nên với "nhất lư thông""thiên lư tại nhân tâm""tại cách vật", chứ không ở nơi tài liệu hay sách vở. C̣n những tài liệu tôi đă dẫn chứng mới là "dấu chỉ" cho ai muốn đi t́m sự thật là Chân lư, là Thiên lư, là Tâm lư với nghĩa mà tổ tiên nói là "nhân tâm thiên lư hồn nhiên nhất thể" . Chứ đừng suy diễn là tôi phun mực đen để chạy trốn, th́ chỉ nói lên sự u mê của ḿnh v́ không thấu hiểu được sự thật ở "trí tri tại cách vật" ! Cho nên tôi không dựa vào các sách giáo khoa từ xưa tới nay như ông nói để quả quyết "trong quá khứ Việt Nam không có chữ viết riêng phải mượn chữ Tàu", th́ có phải gián tiếp bảo tổ tiên ḿnh là đồ ngu không biết viết chữ để phải chờ đi mượn chữ Hán của Tàu ??!
    Nếu là thật th́ vẫn là sự thật. Người Mỹ, người Anh, người Pháp và biết bao nhiêu dân tộc khác trên trái đất dùng mẫu tự La-tinh của Ư để viết chữ vậy tổ tiên của họ đều là đồ ngu cả. Theo như ông Sơn Hà th́ những người soạn sách giáo khoa như TRẦN TRỌNG KIM, NGUYỄN VĂN NGỌC, ĐẶNG Đ̀NH PHÚC, ĐỖ THẬN, và chính phủ thuộc nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa chấp nhận cho dùng những sách giáo khoa đó cùng các bậc thầy cô đều cho là tổ tiên ngu hết?

    Trong Gia Huấn Ca của Nguyễn Trăi ở phần Khuyên Học Tṛ Phải Chăm Học, ông đưa ra toàn sách của Tàu để học tṛ Việt Nam học mà không có sách nào tác phẩm văn chương của người Việt Nam cả. Ông Sơn Hà cũng cho rằng Nguyễn Trăi ngầm chê tổ tiên chúng ta ngu không có ǵ đáng cho con cháu học hay sao!

    705. Đọc cho đến Trung dung, Đại học,
    Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
    Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
    Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
    Xem cho đến Bách gia, Chư tử,
    710. Bảy mươi pho sử đều thông,
    Sớm khuya ở chốn văn pḥng,
    Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay...



    Rồi ông lại đi sửa lưng tôi khi viết "Ông không c̣n ở tuổi con nít để có thể trả lời rằng "bố tôi nói vậy", hay "thầy giáo, cô giáo tôi như thế" mà phải tự biện hộ cho những điều mà ông tin là thật là đúng." , thế th́ ông đi tin vào sách giáo khoa để lư sự kiểu biện lư chứng, như vậy nếu không nói như tiền nhân là "cùng lư chi mụ" có nghĩa là lư sự cùn, th́ ông không thấy ông tự mâu thuẫn khi đi bảo tôi là con nít v́ đi tin "bố tôi nói vậy" sao ??!
    V́ tôi không dễ tin nên mới xin ông nêu ra những điều ông cho là khả tín mà tôi không thấy trong các tài liệu mà ông đưa ra. Tôi tin sách giáo khoa v́ tôi có tài liệu cụ thể và dẫn chứng rơ ràng, chứ không có ư bán cái cho sách giáo khoa.và rất mong ông cũng đưa ra được những tài liệu và dẫn chứng như tôi đă làm. Ngoài ra tôi vẫn luôn có cái nh́n khách quan và mong được t́m hiểu những khám phá mới để bổ túc cho sự hiểu biết có hạn của ḿnh. Trong bài viết trước đây tôi có nói là rất mong là ông chứng minh được chữ Nôm có trước. Điều này cho thấy tôi vẫn luôn cởi mở chỗ để đón nhận các khám khá và tư tưởng mới, nhưng phải hội đủ tiêu chuẩn căn bản th́ tôi mới chấp nhận. Việc này chẳng có ǵ mâu thuẫn cả. Tôi mong ông b́nh phẩm những tài liệu tôi đưa ra và đưa ra những tài liệu cụ thể như vậy sẽ có giá trị thuyết phục hơn.

    Nên điều đó lại càng chứng tỏ cho ai hiểu được "trí tri tại cách vật" là ông chẳng hiểu đúng sai dựa vào đâu cả mà lại đi bảo tôi "phải tự biện hộ cho những điều mà ông tin là thật là đúng". Biện hộ làm ǵ một khi ḿnh đă tin là đúng, khi mà ḿnh đă có "trí tri", khi mà ḿnh đă hiểu biết những tính chất "bản lai cố hữu" có từ nguyên thủy và c̣n tồn tại tới ngày nay qua tư tưởng, ngôn ngữ với ca dao tục ngữ, và phong tục tập quán của dân tộc, c̣n gọi là triết lư nhân sinh, và nhất là khi ḿnh tự tin ở ḿnh (hữu phu) để mới biết ḿnh (tri nhân tắc triết) th́ biện hộ để làm ǵ ??

    Nên tôi không có ǵ ngạc nhiên khi ông viết :


    Th́ chứng tỏ là ông đă không hiểu "nghĩa" chính là ngôn ngữ, tư tưởng phải có trước để mới biết thích "nghi" bằng chữ viết. Như tôi đă dẫn chứng ở trên theo lư luận của ông là ngôn ngữ, tư tưởng phải có trước chữ viết, là trong chữ "nghi" có chữ "nghĩa", chứ không thể ngược lại tức là trong chữ "nghĩa" không có chữ "nghi"!

    Do đó khi ông kết luận là "Ông Sơn Hà cho rằng chữ Nôm có trước chữ Hán là điều nghịch lư không thể chấp nhận được", th́ ai là người nghịch lư đây ???

    V́ vậy mà tôi mới bảo ông :

    "hăy tự t́m kiếm mà học hỏi để "chí tri", chứ tôi không thể cảm nghiệm cho ông thế nào là "trí tri tại cách vật", v́ là "dị giản nhi đắc thiên lư", và v́ sự đồng thuận hay không của ông không là vấn đề đối với tôi"
    .

    Sơn Hà
    Khi ông đưa ra vấn đề "tại sao tác phẩm nổi tiếng thế giới của Nguyễn Du là Đoạn Trường Tân Thanh (tức Truyện Kiều) lại viết bằng chữ Nôm mà không bằng chữ Nho hay chữ Hán", ông có nghĩ tới những vấn đề này không:

    1) Quá tŕnh lịch sử của dân Việt trải khoảng 4 ngàn năm mà tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh được viết bằng chữ Nôm ra đời vào thế kỷ cuối thế kỷ 18 hoặc đầu thế kỷ 19 (cách nay không quá 250 năm) th́ chứng minh được điều ǵ và tại sao cũng cùng thời đó ông Đặng Trần Côn viết bài Chinh Phụ Ngâm bằng tiếng Hán!
    2) Bài B́nh Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trăi viết bằng tiếng Hán.
    3) Bài Hịch Tướng sĩ của Trẩn Hưng Đạo viết bằng tiếng Hán.
    4) Bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà vang vọng trên bờ sông Như Nguyệt cũng viết bằng tiếng Hán.
    5) Bộ Luật Hồng Đức cũng viết bằng tiếng Hán.

    Ông Sơn Hà giải thích sao về các bản viết quan trọng này liên quan đến vận mệnh quốc gia lại viết bằng chữ Hán mà không viết bằng chữ Nôm! Mong ông đưa ra tài liệu để dẫn chứng.

    Trân trọng,

    Nguyễn Kiến-Hưng

  3. #13
    Member Nguyễn Kiến-Hưng's Avatar
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    623

    Tài Liệu Về Chữ Việt Cổ

    Cám ơn bài góp ư của ông Cả Thộn và Phó thường dân. Lời giải thích và tài liệu hai ông đưa ra rất có giá trị trong vấn đề này, nhất là những phám phá mới của ông Xuyền như một đột phá có thể làm lung lay quan niệm từ trước tới giờ là tổ tiên Việt Nam không có chữ viết riêng. Theo như ông Cả Thộn th́ trải qua hàng ngàn năm Bắc Thuộc, bọn người Hán đă cố phá hủy nền văn hóa của chúng ta và các tài liệu bằng chữ Việt cổ trong văn khố quốc gia (nếu có) cũng đă bị bọn chúng hủy hoại hoặc cướp đi; v́ vậy, việc sử dụng chữ Việt cổ đă bị cáo chung. Lời giải thích của ông CT rất phù hợp cho sự cáo chung của chữ Việt cổ (nếu có) và các tài liệu ông Xuyền đă khám phá ra; nhưng không đi ngược lại quan niệm chữ Nôm từ chữ Hán mà h́nh thành. Về công cuộc nghiên cứu và các khám phá của ông Xuyền tôi thấy vẫn cần thêm một chứng liệu nữa mới có thể khẳng định chữ cổ đó là của người Việt. Như tôi đă nêu ra trong bài mở đầu, chúng ta cần phải có một văn bản chữ cổ khi đọc lên người Việt nghe và hiểu được và nhất là trong văn bản đó, tĩnh từ đặt sau danh từ, một nét đặc thù cố hữu của tiếng Việt.

    Tôi mong một ngày gần đây sẽ t́m được một văn bản viết bằng chữ Việt cổ, đây cũng là một niềm hănh diện của dân Việt. Và nếu có ngày đó, ngay chính tôi cũng muốn học để t́m hiểu về cội nguồn của ḿnh. Tuy nhiên, việc khám phá ra chữ cổ của người Việt Nam và việc đem dạy lại chữ Nho vẩn chẳng thấy có liên quan ǵ với nhau. Xin các thành viên và bạn đọc cho ư kiến.

    Trân Trọng,

    Nguyễn Kiến-Hưng

  4. #14
    Phó thường dân
    Khách
    Việt học
    trần đại sỹ
    thử t́m lại biên giới cổ của việt-nam: bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống adn PDF In E-mail

    Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ.

    Giám đốc Trung-quốc sự vụ, viện Pháp-á


    Chúng tôi xin giới thiệu với độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây là bản dịch tiếng Việt của Tăng Hồng Minh. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA đă mời một số đông các học giả, trí thức và kư giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị.

    Xin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đă được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để t́m lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam.

    Chính với công tŕnh nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đă kết thúc cuộc tranh căi 90 năm qua biên giới cổ của Việt–Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đă đi lên phương Bắc thành người Hoa.

    Sau khi bài diễn văn này phổ biến (1991), có một số "học giả" v́ không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đă lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một tŕnh độ nào đó... v́ vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn t́m hiểu thêm có thể đọc công tŕnh nghiên cứu dưới đây:

    J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố năm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998. Tài liệu khẳng định rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Đông Á, do người Đông-Nam-á đi lên, chứ không phải do người Trung-hoa di cư xuống.

    ALBERTO-PIAZZA (đại học Torino, Ư): Human Evolution: Towards a genetic history of China, Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998.

    LI YIN, Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999.

    Về bài diễn văn này, từ năm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, đăng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ư lược đi, đôi khi cắt mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, đầy đủ. V́ vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua.

    Trong khi diễn giả tŕnh bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dơi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay v́ ghi ở cuối bài.

    Khi xuất bản lần thứ nhất², bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sư Trần, chúng tôi có cho trích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước đây.

    Paris ngày 10-10-2001

    Sở tu thư, viện Pháp-Á



    Kính thưa ông Viện-trưởng,
    Kính thưa quư đồng nghiệp,
    Kính thưa quư vị quan khách.
    Các bạn sinh viên rất thân mến,

    Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn đến tiếp diễn trong suốt cuộc đời, vô t́nh đă đưa tôi đến đây tŕnh bày cùng quư vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt.

    Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười v́ đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. C̣n tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quư-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt đời tôi, tôi có cảm tưởng tổ tiên đă trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết:

    "Trong lịch sử cổ kim nhân loại, nếu có người may mắn về phương diện nghiên cứu học hành, tôi đứng đầu. Nhưng nếu có người bất hạnh nhất trong t́nh trường tôi cũng đứng đầu".

    Hôm nay tôi tŕnh bày với Quư-vị về công cuộc đi t́m biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quư-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quư-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần đây, v́ chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 năm, khiến cho đất nước chúng tôi điêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới.


    I. SƠ TẦM VỀ TỘC VIỆT

    Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-b́nh dương (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi là một đại thần của triều đ́nh Đại-Nam (tức Việt-Nam).

    Chế độ phong kiến của nước tôi đă chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đại. Ngài vẫn c̣n sống ở quận 16 Paris.

    Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đ́nh Việt-Nam c̣n cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không c̣n chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng v́ muốn làm vui ḷng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa măn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây không ít th́ nhiều cũng đă học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đă thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học.

    Chương tŕnh giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh; không bằng một phần trăm những ǵ tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính v́ vậy tôi phải lần ṃ đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như:

    * Đại-Việt sử kư toàn thư (ĐVSKTT),
    * An-Nam chí lược (ANCL),
    * Đại-Việt thông-sử (ĐVTS),
    * Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM),
    * Đại-Nam nhất thống chí (ĐNNTC).

    Đại cương mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau:

    « Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng:

    « Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ».

    Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây th́ chia làm hai:

    1. Thần-Nông Bắc.

    * Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch)
    * Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch)
    * Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch)
    * Vua Du-Vơng (2752-2696 trước Tây-lịch).

    Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tư (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-kư, Tư-mă Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông.

    2. Triều đại Thần-Nông Nam.

    Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh-Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, v́ vậy người Việt tự hào rằng đă có năm ngh́n năm văn hiến. (1)

    [Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lư của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. C̣n như đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đây.]

    Xét về cương giới cổ sử chép:

    « Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương (2), đặt tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Động-đ́nh là Long-nữơ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lăm. Thái-tử Sùng-Lăm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua Kinh-Dương băng hà thái-tử Sùng-Lăm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang. Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đ́nh, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông giáp biển Đông-hải.)

    Cổ sử đến đây, không có ǵ nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép:

    « Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối.

    * Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Động-đ́nh. (Nay là Hồ-Nam, Quư-châu, Trung-quốc.)
    * Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận. (Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.)
    * Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành. (Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Đồng-nai.)
    * Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng Lăo-qua. (Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.)
    * Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải. (Nay là Quảng-đông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.)
    * Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm. (Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.)
    * Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam. (Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-b́nh.)
    * Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân. (Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-b́nh tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh.)
    * Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng Giao-chỉ. (Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.)

    Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết, để chầu hầu phụ mẫu ».


    Một huyền sử khác lại thuật:

    Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần »

    Các sử gia người Việt lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Động-đ́nh làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốc-mẫu. Cho đến nay Quư-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào:

    « Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên.
    Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ».

    Chủ đạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này.


    Ghi chú của Tăng Hồng Minh,

    Kư giả chuyên về Văn-minh Đông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: "Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam là nước theo chế độ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng như người Việt hải ngoại hay không?"

    Trả lời: "Những nhà lănh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lư Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ c̣n dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. V́ niềm tin này đă ăn sâu vào tâm năo người Việt. Những người lănh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội chiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-đạo của ḿnh. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như đă hơn ngh́n năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người đều tụ tập về đây để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng đă dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) v́ t́nh h́nh an ninh di chuyển khó khăn, v́ t́nh h́nh kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng năm đến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Kết quả là dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau."

    Ghi của Tăng Hồng Minh dành cho người Việt:

    Theo sự t́m hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lănh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam, đă viếng đền Hùng là:

    · Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962.

    · Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977.

    · Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978.

    · Thủ tướng Phạm Văn Đồng 6-2-1969. 27-8-1978.

    · Tổng bí thư Đỗ Mười 27-4-1993.

  5. #15
    Phó thường dân
    Khách
    Việt học
    trần đại sỹ
    thử t́m lại biên giới cổ của việt-nam: bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống adn. PDF In E-mail

    Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ.

    Giám đốc Trung-quốc sự vụ, viện Pháp-á



    (tiếp theo)

    IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

    Trong việc đi t́m nguồn gốc tộc Việt, tôi đă dùng phương pháp y-khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đây. Tôi đă được giáo sư Tarentino về khoa Anatomie của Ư và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch, lănh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan. Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc, phía Đông tới biển Nam-hải. Nghĩa là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Đông-dương.

    1. Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ.

    Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y-khoa là:

    « Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do »

    Biện chứng này đă giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đă tŕnh bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. V́ theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác:

    « Không có nguyên do, sao có chứng trạng? »

    V́ vậy tôi đă t́m ra rất nhiều điều lư thú. Tỷ dụ: Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An-Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng ngh́n mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi t́m ra sự thật. Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đă chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng t́m ra kích thước của ba mũi tên đồng của nỏ này.(4)

    Trước tôi đă có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ t́m được tại Trung và Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại Đồ-đá, th́ 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien, Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái th́ không thể kết luận rằng đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại t́m ra 32 xương sọ, thuộc thời đại Đồ-sắt (1000 năm trước Tây-lịch đến 300 sau Tây-lịch), th́ 22/27 thuộc chủng loại Mongoide. Với 32 cái th́ không thể kết luận rằng đó là toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoide.

    Những tác giả trên đă căn cứ vào chỉ số xương sọ để kết luận. Nhưng y học đă tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ để định nguồn gốc đă bị đánh đổ. Nguyên do: Khi con người di cư đến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống, bị thực phẩm làm thay đổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang sống của 35 ḍng họ tại Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những ḍng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi t́m ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận: lănh thổ Văn-lang, tới hồ Động-đ́nh. (5)

    Ghi chú của Tăng Hồng Minh:

    Một quan khách, nữ giáo sư khoa Thiên-văn học tên Madeleine Chevalier hỏi: "ADN là ǵ? Tôi nghe nói, cũng như đọc trên báo hoài, mà không biết rơ chi tiết cái hệ thống này?"

    Trần Đại-Sỹ: "Tôi xin nhường lời cho Giáo-sư Vareilla Pascale chuyên khoa về vấn đề này trả lời."

    Vareilla Pascale: "Cảm ơn Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đă cho tôi danh dự trả lời Giáo-sư Chevalier. ADN viết tắt của từ Acide désoxyribonucléique, tiếng Anh là Deoxyribosenucleic acide, viết tắt là DNA."

    (Phần này khá dài, khoảng 20 trang A4, chúng tôi không dịch hết, v́ quá chuyên môn, chỉ dành cho sinh viên y khoa. Vả phần này quí độc giả có thể t́m đọc trong bất cứ bộ tự điển Encyclopédie của Pháp hay Anh, Mỹ nào.)


    2. Những vấn đề.

    Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đă quá rơ ràng. Ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc qủa tới hồ Động-đ́nh, th́ ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba-thục và phía Đông phải giáp Đông-hải. Có thực như thế không?

    V́ vậy tôi đi t́m ranh giới phía Bắc.

    Dưới đây là huyền thoại, huyền sử mà tôi đă bấu víu vào để đi nghiên cứu. Tôi cần tra cứu cho ra:

    Vấn đề thứ nhất,

    Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đ́nh. Có thực như vậy không?

    * Truyền thuyết nói Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Đế-Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh-Dương sau thành Văn-lang.

    Núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh nay vẫn c̣n. Nhưng liệu có di tích ǵ chứng minh chăng? Tôi phải đi t́m Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh.

    Vấn đề thứ nh́,

    * Truyền thuyết nói: Sau khi vua Kinh-Dương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đ́nh hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi có chín vạn hoa tầm xuân nở. Tôi phải đi t́m núi Tam-sơn ở hồ Động-đ́nh. Liệu trên núi này có di tích ǵ về cuộc t́nh năm ngh́n năm trước chăng?

    Vấn đề thứ ba,

    * Truyền sử nói: Sau khi Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng: Mỗi năm về Tương-đài chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần.
    * Cổ sử nói: Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm một lần gặp nhau ở cánh đồng Tương.

    Cánh đồng Tương ở đâu? Nếu có cánh đồng Tương th́ cũng có thể kết luận rằng biên giới nước Văn-lang tới hồ Động-đ́nh. Tôi phải đi t́m.

    Vấn đề thứ tư,

    Chứng tích thứ nhất xác định:

    * Bộ Sử-kư của Tư-mă, Nam-Việt liệt truyện có thuật việc: vua nước Nam-Việt là Triệu-Đà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam-quận, Trường-sa (Mậu-Ngọ 183 trước Tây-lịch).

    Như vậy biên giới Nam-Việt (Tức Việt-Nam) với Hán (Tức Trung-quốc) ở vùng này. Ngày nay Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam, nằm ngay Nam ngạn sông Trường-giang.

    Vấn đề thứ năm,

    * Huyền sử nói rằng: trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng:

    o Khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường, Trần Thiếu-Lan đem quân đánh Trường-sa (39 sauTây-lịch), th́ nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang (sự thật đó là Tương-giang thông với hồ Động-đ́nh).

    o Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam và Hán (42 sau Tây-lịch). Tướng Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Động-đ́nh là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mă Viện, Lưu Long (40 sau Tây-lịch).

    Có thực thế không? Có hai trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh không? Nếu có th́ ranh giới thời Lĩnh-Nam (40-43 sau Tây-lịch) quả tới hồ Động-đ́nh.

    Vấn đề thứ sáu,

    Năm 42, sau Tây-lịch, ba tướng thống lĩnh Kỵ-binh thời vua Trưng là Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ-lăng thuộc Tượng-quận, v́ quân ít, thế cô, ba ông tự tử. Vậy Bồ-lăng ở đâu? Có trận này không? Nếu có trận này th́ ranh giới Lĩnh-Nam phía Tây quả tới Ba-thục (Tứ-xuyên.)


    Thưa Quư-vị,

    Nhưng các sử gia gần đây (1900-1975) đều đặt nghi vấn rằng: Làm ǵ biên giới thời Văn-Lang rộng như vậy? Nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Lại cũng có những người dốt nát (1975-1991), không đủ sách đọc, không theo kịp sự tiến triển của y học, họ chỉ đọc những tài liệu sai lầm, rồi họ như con ngựa kéo xe, chỉ biết có vậy, chúng tôi thấy họ ngu dốt quá, nên không trả lời, cũng như giải thích.

    Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên mà đi t́m nguồn gốc.


    V. ĐI T̀M BIÊN GIỚI NƯỚC VĂN- LANG.

    1. Núi Ngũ-lĩnh.

    Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc-kinh đi Trường-sa. Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Động-đ́nh, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều nằm ở tỉnh này.

    Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học Pháp-Hoa (CMFC). Có một sự hiểu lầm lớn, v́ trong thư giới thiệu các giới chức y-khoa chỉ xin được giúp đỡ cho tôi, nên khi tôi muốn tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên cứu sự cấu tạo h́nh thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều th́ giờ nghe thuyết tŕnh của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm nằm trên đại lộ Nhân-dân. Tôi mua cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi ṃ vào thư viện ty văn hóa, sở bảo vệ cổ-tích, đại-học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới.

    Đầu tiên tôi đêi t́m núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay đó là năm dăy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc

    * Một là Đại-dữu lĩnh.
    * Hai là Quế-dương, Kỳ-điền lĩnh.
    * Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh.
    * Bốn là Lâm gia, Minh-chữ lĩnh.
    * Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh.

    Về vị trí:

    * Ngọn Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảng-đông.
    * Ngọn Đại-dữu chạy từ huyện Đại-dữu (Nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Nam-hùng tỉnh Quảng-đông.
    * Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-nam tới Gia- huyện tỉnh Quảng-tây.
    * Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng-Đông.
    * Ngọn Quế-dương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-tây.

    Lập tức tôi thuê xe đi một ṿng thăm các núi này. Tôi đi mất mười ngày, trải gần 15.000 cây số.

    Như vậy là Ngũ-lĩnh có thật, nay có núi đă đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra: Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục mà lĩnh địa Việt tới hồ Động-đ́nh, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này:

    * Một là vua Minh tế trời ở trên núi Ngũ-lĩnh là nơi người gặp tiên rồi chia địa giớị Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh năm nên vua Nghi chỉ giữ từ Bắc ngạn mà thôị C̣n vua Kinh-Dương th́ sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đ́nh (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia.
    * Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đ́nh mới thuộc lănh địa Việt.

    Kết luận:

    « Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nơi phân chia lănh thổ Văn-Lang và Trung-Quốc khi xưa ».

    Ánh sáng đă soi vào nghi vấn huyền thoại.

    2. Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh.

    Tương truyền vua Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-dương, phân chia lănh thổ Lĩnh-Bắc tức Trung-Quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đài. Nhưng dăy núi Quế-dương có mấy chục ngọn núi nhỏ không biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào? Trên bản đồ không ghi. Sau tôi hỏi thăm dân chúng th́ họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương-giang. Điều này dễ hiểu, tỷ như ngày nay, du khách nh́n bản đồ sẽ không thấy địa điểm Sài-g̣n. Nhưng trong dân chúng, họ vẫn nhớ tên cũ.

    Tôi đi thăm Thiên-đài.

    Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tṛn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn nhưng không có người trụ tŕ. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị ṃn nhiều chỗ gần như lún sâu. Duy nền với cổng bằng đá là c̣n nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong cột kèo bằng gỗ đă nứt nẻ khá nhiều. Những câu đối, chữ c̣n, chữ mất.

    Tại thư viện Hồ-nam tôi t́m được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi:

    Thiên-đài di sự lục
    Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn soạn.

    Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào?

    Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không c̣n. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rơ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ tŕ từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1772). Chu Minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng, tôi chỉ được học loại văn đó vào hồi sáu, bảy tuổi th́ ông sẽ hết phục. Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc-Tục. Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, v́ vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn, Minh-Văn c̣n kể thêm:

    « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng ngh́n quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữơ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm đươc núi. Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ».

    Tôi biết vua Bà là vua Trưng, c̣n tướng Đào Hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-b́nh vương Đào Kỳ. Ngài Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư-mă thời vua Trưng. C̣n tướng Đào Hiển-Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Động-đ́nh, đă sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên-đài, đợi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đă không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây.

    Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối:

    Thoát thân Nam thành xưng sư tổ,
    Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật- kinh.

    Hai câu này ngụ ư ca tụng Thái-tử Tất-Đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi t́m lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.

    Tam bảo linh ứng, phong điều vũ thuận,
    Phật công hiển hách quốc thái an dân.

    Hai câu này là ngụ ư nói: Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió ḥa đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an.

    Nơi có dấu vết Thiên-đài, c̣n đôi câu đối khắc vào đá:

    Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc.
    Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường.

    Nghĩa là: Từ sau vụ vua Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao đời phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với gịng giống Việt-thường.

    Chỗ miếu thờ của Đào Hiển-Hiệu có đôi câu đối:

    Nhất kiếm Nam-hồ kinh Vũ-đế,
    Thiên đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long.

    Nghĩa là: Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đ́nh làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán. Ư chỉ nữ tướng Phật-Nguyệt đánh bại Mă Viện ở phía Nam hồ Động-đ́nh. Một ngh́n tay đao do Hiển-Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu Long.

    Kết luận:

    « Như vậy việc vua Minh tế cáo trời đất là có thật. V́ có Thiên-đài nên thời Lĩnh-Nam mới có trận hồ Động-đ́nh. Hai sự kiện đó chứng tỏ lănh địa thời vua Trưng cũng như Văn-Lang xưa qủa tới Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh ».



    3. Cánh đồng Tương,

    Nhắc lại: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương:

    * Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần.
    * Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi khắp bốn phương quy dân lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần.

    Tôi đoán:

    * Cả hai vị Quốc-tổ Kinh-Dương, Lạc-Long sau khi kết hôn đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đ́nh hưởng thanh phúc ba năm. Vậy th́ cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó trên hồ Động-đ́nh.
    * Phía Nam hồ Động-đ́nh là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 km, lưu vực tới 92500km2, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-tây. Vậy cánh đồng Tương sẽ nằm trong lưu vực Tương giang.


    Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi xuất phát ra Tương-giang là hồ Động-đ́nh, xuống Nam, qua Tương-âm, tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa Bạch-mă. Đây là địa phận quận Ích-dương.Vô t́nh tôi t́m ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ c̣n 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ tŕnh từ hồ Động-đ́nh trở xuống, trên cửa sông Tương cũng như hai bên bờ chim Âu bay lượn khắp nơi. Đặc biệt trên Âu-giang, Âu-hồ, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa thủ phủ của Hồ-nam rồi tới các quận lỵ Tương-đàm, Chu-châu, Hành-dương, Quế-dương.

    Không khó nhọc tôi t́m ra:

    * « Cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đ́nh, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-giang. Phía Tây là vùng Chiêu-dương, Lănh-thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ c̣n khu vực tứ giác: Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy, Thạch-khê-thủy ».


    Sau khi t́m ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu, tôi giải đoán như thế này:

    * « Quốc-tổ Lạc Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng v́ lâu ngày người ta không nhớ được tên ngài, nên đă lấy con chim Âu, rất hiền ḥa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đ́nh, Tương-giang mà gọi là Âu-Cơ (Cơ là vợ vua). V́ người ta gọi Quốc-mẫu là Âu-Cơ, th́ họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh đẻ. Khi chim Âu đẻ th́ phải đẻ ra trứng. C̣n con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con có nghĩa là tất cả dân ttrong nước đều là con Quốc-mẫu »

    Kết luận:

    « Đă có cánh đồng Tương, th́ chuyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài. Nay chứng cớ được kiểm điểm, th́ lănh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động-đ́nh ».



    4. Hồ Động-đ́nh và Tam-sơn

    Hồ Động-đ́nh nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nơi phát tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-bắc, tức đất Kinh-châu thuở xưa. Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-nam. Hồ Động-đ́nh nằm trong tỉnh Hồ-nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi đă lên đây ba lần. Tương truyền các các nữ tướng thời vua Trưng như Trưng-Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, v́ vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rơ phong cảnh, rồi tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê-di-hận (6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38,5 mét, về mùa nước lớn là 39,20 mét. Tra trong chính sử th́ quả hồ Động-đ́nh thuộc lănh địa Văn-Lang. Như trên đă nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Vơng th́ mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng-Đế. Sử gia Trung-Quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây phương th́ vua Du-Vơng gốc từ Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng ở phương Nam lấy hỏa làm biểu hiệu nên c̣n gọi là Viêm-đế. C̣n vua Hoàng-đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nhiệp giàu nhưng không giỏi vơ bị nên bị thua. Bộ Sử-kư của Tư-mă-Thiên, quyển 1, Ngũ-đế bản kỷ chép rằng:

    «...Thời vua Hoàng-đế, họ Thần-Nông (Bắc) đă suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Triều Thần-Nông không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng-Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. V́ vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu th́ Suy-Vưu mạnh nhất.

    Vua Du-Vơng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng-Đế. Vua Hoàng-Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mă, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Vơng ở Bản-tuyền, thành công.

    Suy-Vưu làm lọan, không tuân đế hiệu. Hoàng-Đế triệu tập chư hầu cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận vua Hoàng-Đế đem quân chinh phục.

    Lănh thổ của Hoàng-Đế, Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông. Phía Tây tới núi Không-động, Kê-đầu. Nam tới Giang, Hùng, Tương... »(7)

    Sông Giang đây tức là sông Trường-giang, Hùng đây tức là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi Nhân đời Tống lập giải Sử-kư nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa.

    Kết luận:

    « Từ chính sử, huyền-sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Động-đ́nh. Khi vua Hoàng-Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, th́ triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng c̣n kéo dài đến 2439 năm nữa. Lănh thổ Trung-quốc thời Hoàng-Đế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Phía Nam bao gồm Trường-sa, hồ Động-đ́nh vẫn thuộc Văn-lang.

    Khi chính sử ghi chép như vậy th́ việc Quốc-tổ, Quốc-mẫu với hồ Động-đ́nh, núi Tam-sơn không c̣n là huyền thoại nữa. Vậy chuyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử.

    5. Biên giới lĩnh địa tộc Việt thế kỷ 2 trước Tây lịch.

    Sử Hán là bộ Sử-kư của Tư-mă Thiên. Sử Việt như bộ Đại-Việt sử kư toàn thư, Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục, đều ghi rằng vào thế kỷ thứ nh́ trước Tây-lịch, thời Triệu Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn c̣n ở vùng Trường-sa, hồ Động-đ́nh.

    Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu Đà lập quốc ở lănh thổ Lĩnh-Nam. Tần Thủy- Hoàng sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận:

    * Nam-hải (Quảng-đông và một phần Phúc-kiến),
    * Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-nam và một phần Quí châu),
    * Tượng-quận (Vân-nam và một phần Quư-châu).

    Vua An-Dương sai Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung và Cao-cảnh hầu Cao Nỗ đem quân chống, giết được Đồ Thư và tiêu diệt nữa triệu quân Tần. Tuy vậy vua An-Dương cũng không chiếm lại vùng đất đă mất.

    Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mỵ-Châu, Trọng-Thủy mà chiếm được Âu-lạc lập ra nước Nam-Việt. Lănh thổ nước Nam-Việt bao gồm những vùng nào ? Không một sử gia nào chép rơ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lănh địa Nam-Việt là lănh địa thời Văn-lang.

    Trong khi Triệu Đà lập nghiệp ở phương Nam, th́ cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt. Hạng Vũ, Lưu Bang diệt Tần, rồi Lưu Bang thắng Hạng Vũ lập ra nhà Hán. Lưu Bang lên ngôi vua sai Lục Giả sang phong chức tước cho Triệu Đà. Đúng ra Triệu Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng thân thuộc, mồ mả của Triệu Đà đều ở vùng Chân-định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên lên mà phải lùi bước.

    Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà hán là Lưu Bang chết, Lă-hậu chuyên quuyền cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu Đà không thần phục nhà Hán, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận.

    Kết luận:

    « Trường-sa là quận biên cương của Hán. Vậy ít nhất lănh thổ Nam-Việt, Bắc tới Trường-sa. Nam quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, th́ biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam-ngạn sông Trường-giang ».

  6. #16
    Phó thường dân
    Khách
    Việt học
    trần đại sỹ
    lĩnh địa thời vua trưng PDF In E-mail

    6.1. Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng,

    Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc như Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam, Quư-châu và Tứ-xuyên... tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít th́ nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không t́m được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp năm tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà.

    Bấy giờ tôi lại t́m thấy ở Hồ-nam, nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ , tôi t́m thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật Nguyệt như sau:

    « Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầụV́ sơ ư hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giớị Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày th́ Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ư ngần ngừ không dám đị Ngọc-hoàng Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo.

    Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần vơ tướng đời Đông-Hán.

    C̣n hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Đặng Thi-Sách.

    Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Định giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trường-giang: Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hảị Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà.

    Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mă Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Động-đ́nh. Mă Viện, Lưu Long bị bạịVua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đ́nh, oán khí bốc lên tới trời.

    Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bạị Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Lai. Đức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bạị Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu.

    Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối:

    Tích trù Động-đ́nh uy trấn Hán,
    Phương lưu thanh sử lực phù Trưng

    (Một trận Động-đ́nh uy trấn Hán
    Tên c̣n trong sử sức phù Trưng).

    Bỏ ra ngoài những huyền hoặc về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của ḷng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lănh thổ cũ của người Việt c̣n sót lại. Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng.

    Kết luận:

    « Khi đă có nữ tướng Phật Nguyệt đánh trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh. Mà có trận hồ Động-đ́nh th́ lănh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam sông Trường-giang ».



    6.2. Quả có trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh năm 39 sau Tây-lịch,

    Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng: Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Động-đ́nh. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần triều Lư, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây t́m hiểu. Không khó nhọc tôi t́m ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đoạn chép:

    « Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá ».

    Tôi t́m tới nơi, th́ miếu chỉ c̣n lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn c̣n.(9)

    Kết luận:

    « Thời Lĩnh-Nam quả có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sa. Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận đánh này, th́ lănh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa, hồ Động-đ́nh ».



    6.3. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch,

    Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được vua Trưng trao cho trấn tại Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng v́ quân ít, thế cô, ba ông không chống lại với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông đă tự tận. Hiện tại đền thờ của ba ông có đôi câu đối:

    Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược,
    Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung.

    Nghĩa là:
    Trận Tượng-quận dương oai, rơ tài tướng giỏi.
    Bến Bồ-lăng tuẫn tiết, tỏ ra thần trung.

    Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô Thăng-long. Vả lănh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậy?

    Tôi không tin lư luận này. Tôi quyết có trận Tượng-quận. V́ sao? V́ ba ngài chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết th́ tuẫn tiết tại chỗ, có đâu rút từ Tượng-quận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy ngh́n cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm 1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long).

    V́ vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam, Trung-quốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride... Lợi dụng dịp nhầy, tôi quyết t́m cho ra sự thực.


    Ghi chú của Tăng Hồng Minh:

    Phái đoàn gồm:
    Trưởng-đoàn: Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ,
    Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie.) Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông Antoine Reynault, và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng.

    Trong chương tŕnh phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như: Chiêu-dương, Đông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Điền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris. Nhưng khi tới Đông-xuyên, giáo sư Trần Đại-Sỹ t́m ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rơ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Đoàn Dương của đại học Văn-sử, được giáo sư Đoàn cho biết: "Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lăng. Nay Bồ-lăng nằm trên lănh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngă ba sông Trường-giang và Ô-giang." Thế là giáo sư Trần Đại-Sỹ đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris.

    Trên đường từ Độ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam, sẽ qua... Bồ-lăng. Được đi chơi, dĩ nhiên phái đoàn mừng không sao tả siết!!!. Dĩ nhiên túi tiền của CMFC vơi đi 53.074 dollars nữa để chi cho phái đoàn.

    Theo tôi, với số tiền ấy, mà kết quả t́m được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này đồn đại ra ngoài, một Bác-sĩ Việt-Nam tên Trần L. (từng là bộ trưởng Y-tế hồi VNCH), viết thư cho ông bộ trưởng Văn-hóa Pháp, tố cáo Giáo-sư Trần Đại-Sỹ lợi dụng chức vụ trưởng đoàn công tác y khoa, để t́m di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả lời đại ư: "Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp, nên bộ không có thẩm quyền."

    Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu: "Ví dù Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộ Văn-hóa, mà t́m tư liệu làm giầu cho thư viện Pháp th́ là điều đáng khuyến khích. Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam, Ông (Trần L.) phải vui mừng mới phải chứ."

    Tăng Hồng Minh tôi là người Việt gốc Hoa, tôi xin tiết lộ một chi tiết này, để các vị độc giả Việt-Nam suy nghĩ!!!


    Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngă ba sông Ô-giang, Trường-giang th́ gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng.

    Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ c̣n lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất:

    Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
    Đoạn trường, trục Định, tiết... can vân.

    Nghĩa là:
    Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.
    Đuổi được Tô Định, nhưng đau ḷng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây.

    Tôi xin vào trong miếu xem, th́ bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đối.

    Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,
    Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung.

    Nghĩa là:
    Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng pḥ tá nữ chúa.
    Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.

    Ông chủ hộ th́ cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. V́ vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị vạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội:

    Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định,
    Bồ-lăng dương nộ lăng, nghĩa trọng phù Trưng.

    Nghĩa là:
    Ải Bắc yêu gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định.
    Bồ-lăng nổi bao đào, nghĩa nặng phù vua Trưng.

    Kết luận:


    Như vậy th́ quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận th́ biên giới Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay.



    7. Nghiên cứu những khai quật

    Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi đă giúp giáo sư Mẫu đọc, soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính v́ vậy tập tài liệu « Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10). Bấy giờ tôi c̣n trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc Việt-Nam, và bấy giờ những lư thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫu. Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó.

    Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Đông Vân-Nam, Quảng-Đông, Hồ-Nam, người ta đều t́m được những chiếc ŕu thiết diện h́nh trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ t́m được lọai ŕu thiết diện h́nh chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau.

    Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong thời gian này đă t́m được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mă (Thanh hóa). Sự thật trống đồng đă t́m thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-nam, Quư-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Nam-dương, Lào (13), Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau.

    * Đồng 53%,
    * Thíếc 15-16%,
    * Ch́ 17-19%,
    * Sắt 4%.
    * Một ít vàng bạc.

    Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường giang cho đến Trung Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Bây giờ dùng hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đă biện biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc.

    Kết luận,


    « Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động-đ́nh, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói ».



    8. Tổng kết,

    Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi t́m, tất cả đều c̣n đầy đủ di tích.


    Như vậy: Biên giới cổ của nước Việt-Nam, với các triều đại Hồng-bàng, Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Động-đ́nh, phía Tây giáp Tứ-xuyên.



    V. KẾT LUẬN:

    Thưa Quư-vị

    Quư-vị đă cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, cho tới tin học, y học để t́m về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt.

    Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rơ ràng nguồn gốc tộc Việt, nhưng cái nguồn gốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa, nên hoàn toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra, rằng người Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Đông Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á, hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán.

    Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất rơ biên cương nước Việt thời mới lập quốc.

    Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt, Đông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trăm họ hay trăm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc-Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14).

    Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang lấy mốc là hồ Động-đ́nh với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia đ́nh cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục ngh́n trang của Hoa, của Việt (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp năm sáu). Chính tôi cũng nh́n nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Nay tôi mới chứng minh được.

    Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp, tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà một già, một trẻ đă có hai cái nh́n khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà lại có một cái nh́n rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nh́n rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa ra. V́ vậy tôi đă sưu tầm tất cả những ǵ trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, v́ chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi Quư-vị.

    Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-g̣n, thuộc Việt-Nam cộng-ḥa đang là nước chống Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc t́m kiếm thêm tài liệu. Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp t́m kiếm lại di tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo, đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứụ Gần đây nhờ các đồng nghiệp dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương thời lập quốc của tộc Việt.

    Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng:

    * Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họ viết, dù ngày nay họ c̣n nghĩ như vậy.
    * Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản đi tứ phương.
    * Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay v́ lư do chính trị di cư xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số người Trung-hoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày nay người Việt di cư đi sống khắp thế giới.
    * Lại càng không có việc người Việt gốc từ ḍng giống Mă-lai như một vài người ngố ngếch đưa ra.
    * Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa, do giống người từ Đông Nam-á di lên. Những người Đông Nam-á lại đến từ châu Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước.
    * Người châu Phi đến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng 15.000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa.
    * Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống măi vịnh Thái-lan.
    * Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh Thái-lan, Đông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay.


    Đến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quư khách, các sinh viên cho tôi ngừng lời. Xin hẹn lại quư vị đến tháng 11-92 tôi sẽ tŕnh bày trước quư vị về nguồn gốc triết Việt.

    Trân trọng kính chào quư vị.

    Giáo-sư Trần Đại-Sỹ,
    Giám đốc Trung-quốc sự vụ



    Chú giải của Tăng Hồng Minh,

    (1) Tiêu biểu mới nhất là một nhóm thức giả do nhà văn Vương Kỳ Sơn đứng chủ biên, đă xuất bản cuốn Việt-Nam đệ ngũ thiên niên kỷ vào năm 1994 tại Hoa-kỳ.

    (2) Sau này được tôn thụy hiệu là Lục-Dương.

    (3). Như vậy vua Lạc-Long lấy con gái của anh con bác.

    (4). Độc giả có thể t́m đọc tài liệu nghiên cứu này bạt quyển 1. Anh-hùng Lĩnh-nam do Nam-Á Paris xuất bản 1987 mang tên « Bản phụ chú nghiên cứu về nỏ thần ».

    (5). Phương pháp mà các giáo sư Tarentino, Vareilla Pascale dùng để biện biệt những bộ xương khai quật trong cổ mộ vùng Hồ-nam, Vân-nam, Quảng-châu, Quư-châu không khác các chuyên viên Hoa-kỳ trong ủy ban t́m kiếm tử sĩ Hoa-kỳ tại Việt-nam đă xử dụng. Có điều, các chuyên viên Hoa-kỳ gặp nhiều khó khăn hơn, v́ phải đi vào chi tiết từng cá nhân, c̣n IFA chỉ phân chủng loại.

    (6). Xin xem Cẩm-khê-di-hận do Nam-Á Paris xuất bản 1992, để biết hai trận hồ Động-đ́nh. Một trận do Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Phật-Nguyệt, Đinh Bạch- Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách-Lăng đánh với Lưu-Long, Mă-Viện. Một trận do Hoàng Thiều-Hoa cùng với các tướng trên đánh với mười hai đại tướng quân Hán.

    (7). Tư-mă Thiên, Sử-kư, quyển 1, Ngũ-đế bản-kỷ, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959 trang 3-6.

    (8). Độc giả muốn biết chi tiết trận đánh lịch sử này, xin đọc Động-đ́nh hồ ngoại-sử, cùng tác giả, do Nam-Á Paris xuất bản (1990).

    (9). Xin đọc « Mùa xuân trên hồ Động-đ́nh tưởng nhớ Trưng-Vương » trong phần bạt Anh-hùng Lĩnh-nam, do Nam-Á xuất bản 1987.

    (10) Vũ Văn-Mẫu, Cổ luật Việt-nam và tư-pháp sử, quyển thứ nhất, tập thứ nhất, trang 9-51.

    (11). Chữ văn hóa Bắc-sơn ở đây chỉ có ư nghĩa rằng cuộc khai quật ở núi Bắc-sơn (Lạng-sơn), đă t́m thấy những cổ vật đồ đá. (Thời kỳ đồ đá)

    (12). Chữ văn hóa Đông-sơn chỉ cuộc khai quật ở Đông-sơn, đă t́m thấy đồ đồng (thời đồ đồng).

    (13). Hè 1992 sau khi cùng phái đoàn IFA du khảo về loại cây trị cholestérol ở Vân-nam, thời gian c̣n lại, Giáo-sư Trab Đại-Sỹ đi khảo cứu xương người cùng các khai quật ở Vân-nam, Quảng Đông (Trung-quốc), các tỉnh Bắc-thái như Nùng-khai, Thanon, U-bon, U-don Tha-ni. Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đă t́m lại được hai trống đồng thời vua Trưng, ở Quảng-đông, để trong bảo tàng viện địa phương. Ông đă mất rất nhiều tiền, cùng trăm ngàn khó khăn mới mua và đưa lọt về Paris.

    (14). Chữ trăm trong ngôn ngữ Việt có nhiều nghĩa.

    · Có nghĩa là đời người như:

    Trăm năm trong cơi người ta.
    Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau
    (Kiều)

    Trăm năm xe sợi chỉ hồng,
    Bắt người tài sắc buộc trong khung trời
    Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng,
    Hễ ai có bạc tôi bồng trên tay.
    (ca dao)

    · Có nghĩa là chết:

    Khi nào cụ tôi trăm năm đi rồi.

    Nhân sinh bách tuế vi kỳ
    (Người ta sinh ra lấy trăm năm làm hẹn)

    Trăm năm như cơi trời chung,
    Có nghề cũng phải có công mới thành.
    (ca dao)

    · Có nghĩa là tất cả:

    Trăm họ, hay trăm bệnh,

    Trăm hoa đua nở mùa xuân,
    Cớ sao cúc lại muộn buồn thế kia ?
    (ca dao)

    Trăm dâu đổ đầu tằm.
    (Tục ngữ)

    Trăm con trong huyền sử Việt hay Bách-Việt có nghĩa này.


    Tài liệu nghiên cứu chính:

    SÁCH CHỮ HÁN

    · Tư Mă-Thiên, Sử kư, Trung-hoa thư cục Thượng-hải xuất bản 1959

    · Ban-Cố, Tiền Hán thư, Trung-hoa thư cục xuất bản 1959

    · Phạm Việp, Hậu Hán thư, Trung hoa thư cục xuất bản 1959.

    · Hoài Nam Tử, quyển 18, Trùng Hoa thư cục Đài Bắc xuất bản, 1959.

    · Cố Dă-Vương, Địa-dư chí, Cẩm-chương thư cục xuất bản 1920.
    Trần Luân-Quưnh, Hải quốc kiến văn lục, cổ bản, thư viện Paris.

    · Lê Quư-Đôn, Phu-biên tạp lục, cổ bản của thư viện Paris.

    · Lê Quư-Đôn, Đại-Việt thông sử, cổ bản của thư viện Paris.
    Phan huy-Ích, Lịch triều biến chương loại chí, cổ bản của thư viện Paris.

    · Quốc-sử quán, Hoàng-Việt địa dư chí, bản của thư viện Paris.

    · Quốc-sử quán, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản của thư viện Paris.

    · Địa đồ xuất bản xă, Trung-hoa nhân dân cộng ḥa quốc phân tỉnh địa đồ tập, Bắc-kinh 1974.

    · Đại học văn khoa Hồ-nam, Hồ-nam lịch đại khảo chứng 1980.

    · Cùng rất nhiều tài liệu không tác giả, lưu trữ tại thư viện, bảo tàng viện Hồ-nam, Quư-châu, Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-Nam.

    SÁCH CHỮ PHÁP

    · Léonard Aurouseau. La première conquête chinoise des pays anamites, BEFEO XXIII

    · Claude Madrolle, Le Tonkin Ancien, BEFEO, XXXVII.

    SÁCH CHỮ VIỆT

    · Đào Duy-Anh, Nguồn gốc dân tộc Việt-nam, Hà-nội 1946.

  7. #17
    Michael Ng.
    Khách
    Goi Ong Nguyen Kien Hung:


    1) Xin ong lam sao chung minh la chu Han(nho) co truoc chu Viet Co? Neu nhu ong noi la chu Viet Co la do chu Han ma ra, thi xin ong lam sao cat nghia duoc trinh tu phat trien ngon ngu cua nguoi Viet thong qua lich su, van hoa theo thu tu nhu sau: nguoi Viet dung chu Han(nho) truoc roi, phat triẻn chu Viet Co roi sang chu Han va cuoi cung la chu quoc ngu ngay nay? Co logic nao? Hoac lich su bien minh cho su viec nhu tren?
    2) Dem tac pham van chuong binh dan,pho quat(luu truyen trong dan gian) va day tinh cach ngon ngu hoc(cach dung tu va dien dat tam tu tai tinh) cua cu Nguyen Du de so sanh voi nhung tac pham van chuong mang tinh cach han lam(chi cho tang lop phong kien, nho ban) hoac nhung bai Hich Lích su(dung trong giao tiep voi nhung tang lop quan lai hoac su gia cua giac) la su khac biet hoan toan ve muc dich su dung cua nguoi viet.
    Xin mo ngoac o day, toi thay neu muon so sanh ve ngon ngu hoc, nen dung nhung tac pham pho quat trong dan gian nhu tac pham Truyen Kieu cua cu Nguyen Du hon la dung nhung anh van chụng, chi biet den voi mot so tang lop. Dieu de hieu la vi nhung tac pham van chuong Nho hoc chi duoc xu dung trong mot giâi cap nao thoi.
    3) Dem dinh luat(bo de toan hoc) voi Dinh Ly de ma doi chung minh quy tac cua chu Viet co la mot sai lam lon, khi khong biet cau truc cua chu Viet co? Danh tu di truoc tinh tu la ngu phap cua chu quoc ngu ngay nay, co dam chac la chu viet co phai theo quy luat do khong? ong co biet tai sao nguoi viet xua mac ao dai voi khuy ao cai nguoc voi nguoi tau khong va ngay xua nguoi viet hay bo toc, xam minh? Do la de khac biet voi nguoi Han/ The thi ve ngu phap cua chu quoc ngu ngay nay co the khac voi chu Viet co ngay xua. Vi chu quoc ngu duoc thanh lap sau chu Nho(Han). Chua co bang chung chac la chu Viet co va Han Co phai co ngu phap khac nhau, nhat la neu chu Han phat sinh tu Viet co ma ra. Day la noi theo suy luan.

  8. #18
    Member Nguyễn Kiến-Hưng's Avatar
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    623
    Quote Originally Posted by Michael Ng. View Post
    Goi Ong Nguyen Kien Hung:


    1) Xin ong lam sao chung minh la chu Han(nho) co truoc chu Viet Co? Neu nhu ong noi la chu Viet Co la do chu Han ma ra, thi xin ong lam sao cat nghia duoc trinh tu phat trien ngon ngu cua nguoi Viet thong qua lich su, van hoa theo thu tu nhu sau: nguoi Viet dung chu Han(nho) truoc roi, phat triẻn chu Viet Co roi sang chu Han va cuoi cung la chu quoc ngu ngay nay? Co logic nao? Hoac lich su bien minh cho su viec nhu tren?
    2) Dem tac pham van chuong binh dan,pho quat(luu truyen trong dan gian) va day tinh cach ngon ngu hoc(cach dung tu va dien dat tam tu tai tinh) cua cu Nguyen Du de so sanh voi nhung tac pham van chuong mang tinh cach han lam(chi cho tang lop phong kien, nho ban) hoac nhung bai Hich Lích su(dung trong giao tiep voi nhung tang lop quan lai hoac su gia cua giac) la su khac biet hoan toan ve muc dich su dung cua nguoi viet.
    Xin mo ngoac o day, toi thay neu muon so sanh ve ngon ngu hoc, nen dung nhung tac pham pho quat trong dan gian nhu tac pham Truyen Kieu cua cu Nguyen Du hon la dung nhung anh van chụng, chi biet den voi mot so tang lop. Dieu de hieu la vi nhung tac pham van chuong Nho hoc chi duoc xu dung trong mot giâi cap nao thoi.
    3) Dem dinh luat(bo de toan hoc) voi Dinh Ly de ma doi chung minh quy tac cua chu Viet co la mot sai lam lon, khi khong biet cau truc cua chu Viet co? Danh tu di truoc tinh tu la ngu phap cua chu quoc ngu ngay nay, co dam chac la chu viet co phai theo quy luat do khong? ong co biet tai sao nguoi viet xua mac ao dai voi khuy ao cai nguoc voi nguoi tau khong va ngay xua nguoi viet hay bo toc, xam minh? Do la de khac biet voi nguoi Han/ The thi ve ngu phap cua chu quoc ngu ngay nay co the khac voi chu Viet co ngay xua. Vi chu quoc ngu duoc thanh lap sau chu Nho(Han). Chua co bang chung chac la chu Viet co va Han Co phai co ngu phap khac nhau, nhat la neu chu Han phat sinh tu Viet co ma ra. Day la noi theo suy luan.
    Xin Ông Michael Ng đánh dấu cho rơ ràng bài của ông để tránh hiểu lầm trước đă.

  9. #19
    Nguyễn Kiến-H ưng
    Khách

    Kính gởi ông Phó thường dân,

    Tôi cố gắng t́m hiểu nhưng không thấy có sự liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới nguồn gốc của chữ Việt Nam hay chữ Hán trong ba bài góp ư sau này (#14, 15, &16). Mong ông vui ḷng cho lời giải thích trên các tài liệu mà ông đă bỏ công sưu tầm.

    Nguyễn Kiến-H ưng

  10. #20
    Member Nguyễn Kiến-Hưng's Avatar
    Join Date
    30-08-2010
    Posts
    623

    Nguồn Gốc Chữ Nôm

    Gởi tặng ông Sơn Hà v à Michael Ng cùng các bạn bài trích từ CON ĐƯỜNG VIỆT NAM của Nguyễn Sĩ B́nh.

    Chống Hán hóa

    Ở thời kỳ Bắc thuộc, nhiều sự kiện và câu chuyện đă nổi bật tinh thần chống Hán hóa của người Việt. Khi nhà Đông Hán cai trị đổi tên Âu Lạc thành Giao Châu, Mă Viện cho dựng cột đồng ở nơi phân chia địa giới hai nước, khắc ḍng chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Người Giao chỉ đi qua, nhặt đá bỏ đầy xung quanh trụ, cao thành g̣. Trụ đồng bị chôn mất bởi g̣ đá cứ cao lên. Đó là một cách trả lời cho nhà Đông Hán biết phương thức tồn tại riêng của người Giao Chỉ mà không phải do phán quyết bên ngoài.
    Khác với người Hán, người Việt có những phong tục riêng được duy tŕ qua nhiều thế hệ: ăn trầu, nhuộm răng, búi tóc, xăm ḿnh, y phục, nhà cửa, tín ngưỡng, lễ hội, thờ cúng quốc tổ và thành hoàng, giao tiếp, ngôn ngữ, nghệ thuật, ẩm thực, cách đặt tên làng tên nước… Sau này, trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trăi cũng cho rằng “quốc nhân” (người trong nước) không thể học theo tiếng nói và trang phục của Trung Quốc, Chămpa, Lào… bởi v́ làm như vậy sẽ nhiễu loạn “quốc tục”. Ông cũng là người đích thân cổ vũ cho chữ Nôm trong rất nhiều tác phẩm xuất sắc.
    .
    .
    .
    Về y phục, áo dài ra đời tại Huế vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, xuất phát từ cải biến áo dài Chăm kết hợp với áo tứ thân, gửi gắm và thăng hoa những ư tưởng làm đẹp dành cho người phụ nữ. Áo dài đi liền với chiếc nón lá và đôi guốc mộc là h́nh ảnh rất quen thuộc, đi vào bao tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. V́ thế mà sườn xám Thượng Hải đă không thể chen vào sự lựa chọn y phục của phụ nữ Việt. Nguồn gốc chiếc áo bà ba là minh chứng chống Hán hóa nhưng lại biết giao ḥa. Trong những nhóm người kéo đến khai phá phương Nam, có cả người Việt lẫn người Hoa. Họ gặp những người Khmer và Chăm. Người Hoa mang theo loại áo mặc có hàng nút cài bên hông, may thường rộng, màu vải đen để nhớ thương quê hương phục Minh, cố quốc phương Bắc.
    Khi người con gái Việt lấy chồng là người Hoa, vừa tôn trọng truyền thống nhà chồng, cũng vừa muốn giữ cốt cách tinh thần riêng, đă chuyển hàng nút bên hông thành cài thẳng ở giữa ngực chia đều hai vạt. Áo vẫn áo không có cổ dựng nhưng thu hẹp sát người làm nổi rơ thân h́nh cân đối thon thả của con gái đồng ruộng, miệt vườn. Chiếc khăn rằn người Khmer hay quấn trên đầu được chuyển xuống chủ yếu quấn quanh cổ, tạo thêm “điểm nhấn” duyên dáng. Cùng với khăn áo ấy là chiếc nón lá và đôi guốc mộc thuần Việt. Thế là bộ bà ba độc đáo ra đời, rất Nam bộ, rất Việt Nam. Áo bà ba thêm lần nữa cho thấy người Việt chủ trương dung ḥa nhiều giá trị tạo ra nét mới, thay v́ triệt phá như người Hán.

    Tiếng Việt

    Trên vùng đất cư trú của ḿnh, những thế hệ người Việt đầu tiên đan xen giữa hệ ngôn ngữ Tày – Nùng với Môn – Khmer, thuộc ngữ hệ Đông Á. Ngày nay vẫn c̣n nhiều vùng tồn tại tiếng nói riêng trong 54 dân tộc khác nhau đă cố kết. Trước khi có chữ viết, người Giao Chỉ đă có hệ thống ngôn ngữ nói hoàn chỉnh, phong phú. Nó tồn tại không thành văn và mặc dù có dị bản, nhưng hầu hết đó là các giá trị ngôn ngữ b́nh dân được “chưng cất” qua nhiều đời: ngắn như ca dao, dân ca hay tục ngữ đều là những đơn vị văn bản kết cấu cố định, chắc chắn và dễ nhớ; dài như các truyện thơ, tích tuồng vẫn có thể nhớ được do sáng tạo ra lối diễn đạt lục bát hay đồng dao vần điệu đều đặn. Ngôn ngữ lại càng giàu tính nhạc khi kết gắn với các làn điệu dân ca theo các tiểu vùng văn hóa.
    .
    .
    .
    Khi chữ Hán xuất hiện, người Việt vay mượn làm ngôn ngữ viết, chiếm lĩnh vốn từ và ngữ nghĩa ở những khái niệm, lĩnh vực và cách diễn đạt có liên quan đến đời sống mọi mặt. Giáo dục thi cử thời xưa nổi bật nỗ lực này. Nhưng cũng song song với quá tŕnh đó, tầng lớp trí thức và người Việt nói chung đă làm phong phú đa nghĩa, sáng tạo tiếng Hán theo tư duy và t́nh cảm riêng.
    “Truyện Kiều” là một điển h́nh. Mặc dù lấy cốt truyện từ tác phẩm văn xuôi “Kim Vân Kiều truyện” đă có, nhưng thi phẩm lục bát của Nguyễn Du lại diễn đạt hoàn toàn mới lạ, trở thành “viên ngọc sáng” của tiếng Việt. Trong Kiều, chữ mà lại là họa, cảnh vật hiện lên sống động rơ ràng như chạm tay vào được khi Nguyễn Du tả Kiều ở Lầu Ngưng Bích với cửa biển, cánh buồm, hoa trôi man mác, băi cỏ ven bờ, chân trời mặt nước và sóng gành giận dữ… Hay Thuyết Thiên mệnh cũng được tóm gọn dễ hiểu dễ nhớ chỉ trong đoạn thơ ngắn dường như ai cũng thuộc:
    “…Ngẫm hay muôn sự tại Trời,
    Trời kia đă bắt làm người có thân.
    Bắt phong trần, phải phong trần
    Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
    Phải đâu thiên vị người nào
    Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
    Có tài mà cậy chi tài?
    Chữ tài liền với chữ tai một vần
    Đă mang lấy nghiệp vào thân
    Cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa…”
    Bao thế hệ từ vua chúa đến thường dân đều đọc Kiều. Những trí thức tốn nhiều giấy mực b́nh luận cái hay của tác phẩm đến người mù chữ cũng thuộc Kiều. Những thú chơi chữ tao nhă cũng h́nh thành: vịnh Kiều, bói Kiều, lẫy Kiều, đố Kiều, giải thích giai thoại trong Kiều… V́ thế mà Phạm Quỳnh từng cho tác phẩm này là một “quốc hồn quốc túy” của Việt Nam: “Truyện Kiều c̣n tiếng ta c̣n, tiếng ta c̣n nước ta c̣n”.
    Mặt khác, từ tiếp xúc với chữ Hán, người Việt cũng tạo ra loại chữ Nôm. Tương truyền thời Sĩ Nhiếp cai trị, chữ Hán xuất hiện và được dùng chủ yếu trong các gia phả, khế ước, văn tự, bài khấn, kê khai ruộng đất, thu thuế, các bộ kinh Phật… Chữ Hán phần lớn có mặt trong đời sống và hoạt động vương triều, giáo dục thi cử, văn học viết. Nhưng có những vấn đề đă không thể diễn đạt được bằng chữ Hán như: tên làng, tên người đặt theo cách của người Việt hay những sự việc, tính chất, hoạt động khái niệm, thói quen, kinh nghiệm… diễn tả từ trực quan đến tư duy trong hoàn cảnh và môi trường tại chỗ. Kèm theo đó là lối phát âm quen thuộc và cố định nhiều đời, chưa từng có tiền lệ hay yếu tố tương đồng trong chữ Hán. Đồng thời, xuất phát từ nhu cầu cần có ngôn ngữ viết, chữ Nôm ra đời vào thời nhà Lư thế kỷ X, phát triển mạnh trong văn học thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII.
    Nguyên tắc cơ bản của chữ Nôm là dùng một chữ Hán có âm gần giống âm tiếng Nôm, thêm vào các kư tự như: chữ khẩu nhỏ, dấu hai chấm, chữ khẩu đá thảo (bên trái), dấu nháy cá (bên phải) để nhận dạng riêng. Sau đó, người ta có thể đọc theo âm Hán – Việt nhưng hiểu theo nghĩa Nôm, đọc trại âm của từ Hán – Việt (giả tá), lắp ghép hội ư hai chữ Hán để ra nghĩa một chữ Nôm, hoặc hài thanh… Việc kư tự và đọc như vậy ngày càng nhiều mà không được điển hóa, lại theo kinh nghiệm cá nhân, lĩnh vực phản ánh, khu vực vùng miền khác nhau. Hạn chế và bất cập của chữ Nôm phát sinh: hiểu sao viết vậy, lắp ghép, gượng ép, lúc đơn giản, lúc rắc rối… Ngay cả “Truyện Kiều” cũng có nhiều bản chép tay bằng chữ Nôm khác nhau.
    Dù chưa hoàn chỉnh, nhưng nhiều vốn sống, lối sống và ứng xử, tâm tư t́nh cảm, kinh nghiệm lao động sản xuất… tạo thành vốn chữ Nôm khá phong phú. Văn học chữ Nôm cũng để lại nhiều tác phẩm giá trị, điển h́nh là “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trăi hơn 200 bài thơ, truyện nôm “Thiên Nam ngữ lục” hơn 8.000 câu… Thời vua Quang Trung, ông c̣n quyết định dùng chữ Nôm làm Quốc ngữ. Nh́n lại quá tŕnh đó để hiểu thêm một nhận định của nhà nghiên cứu ngôn ngữ học F.de Saussure: “Trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân tộc”.
    Năm 1625, một nhà truyền đạo người Pháp tên là Alexandre de Rhodes vào Việt Nam. Ông lấy tên là Đắc Lộ, tự học tiếng Việt, t́m cách phiên tiếng Việt ra cách phát âm và kư tự Latin. Nhưng v́ chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn bấy giờ, ông bị trục xuất và cũng nhiều lần trở lại. Lần sau cùng năm 1651, ông về nước Ư cho in cuốn tự điển Việt – Bồ – La nhằm hệ thống hóa lại quá tŕnh ghi âm nói trên, cùng với xuất bản cuốn “Phép giảng tám ngày” (lúc này c̣n có “Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha” của cha Gasspar de Amal).
    Ban đầu, tự điển chỉ để làm phương tiện phổ biến Kinh Thánh trong cộng đồng Kitô giáo Việt Nam. Về sau, mức độ sử dụng lan rộng ra nhiều lĩnh vực. Ngay cả những người từng tẩy chay “thứ chữ con giun của bọn người mắt xanh” cũng quay lại ủng hộ khi nhận ra tính tiện lợi và khả năng diễn đạt của nó. Trong “Văn minh tân học sách”, nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục lần đầu tiên gọi đây là quốc ngữ và vận động nhân dân nên học để hóa dân cường quốc: “Nguời trong nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên để trong một thời gian vài tháng, đàn bà trẻ con đều biết chữ… Đó thực là bước đầu để mở mang trí khôn vậy” [12]
    .
    Loại chữ mới này trở nên bác học hơn qua chương tŕnh giáo dục các trường của Pháp mở ở Việt Nam đào tạo quan chức cho cả khu vực Đông Dương. Một nhà nghiên cứu người Pháp nhận định sự xuất hiện chữ quốc ngữ đă tạo ra một “lợi khí giải phóng tinh thần và phổ biến văn hóa”. Những nhà văn hóa lớn bấy giờ như Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Nguyễn Khắc Hiếu… đă có công trong khai thác khả năng ngôn ngữ mới, diễn đạt tư tưởng và t́nh cảm ở nhiều lĩnh vực. Tính đến năm 1939, ở Việt Nam có 48 tờ báo, 68 tập san, gần 300 tác phẩm xuất bản đă hoàn thiện và phổ cập đáng kể quốc ngữ. Quốc ngữ cũng trong sáng và phổ cập b́nh dân hơn qua nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đi vào lĩnh vực chính trị nhiều hơn qua hoạt động của đảng phái và chính quyền các thời kỳ.
    So với ngôn ngữ các dân tộc Đông Nam Á, tiếng Việt là ngôn ngữ tiến bộ, có khả năng diễn đạt tất cả các loại văn bản, kể cả các văn bản chuyên ngành kỹ thuật và các đề tài nghiên cứu khoa học bậc cao. Trong trường hợp này, các nước khu vực phải mượn đến tiếng Anh. Ngôn ngữ mới cũng dung nạp các yếu tố văn hóa tiểu vùng trong nước, tiếp nhận giá trị trên nhiều lĩnh vực từ các dân tộc và các nền văn hóa khác mang đến. Alexandre de Rhodes đă có công bắt một nhịp cầu, tạo ra phương tiện chứa đựng và chuyên chở “thứ hàng hóa vô giá” là ngôn ngữ nói phong phú, đa dạng của người Việt nhiều đời, hoàn chỉnh đầy đủ ngôn ngữ từ nói đến viết, góp phần đưa người Việt đến với văn hóa văn minh hiện đại.
    Tiếng Việt phổ thông ngày nay là niềm tự hào của các thế hệ Việt Nam qua quá tŕnh lao động và chiến đấu, ǵn giữ và làm phong phú thêm bản sắc độc đáo:
    Chưa chữ viết đă vẹn tṛn tiếng nói
    Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ,
    Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa
    Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
    Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát
    Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
    Như gió nước không thể nào nắm bắt
    Dấu huyền trầm, dấu ngă chênh vênh,
    Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy,
    Một tiếng vườn rợp lá bóng cành vươn,
    Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối,
    Gió heo may gợi nhớ những con đường
    Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng
    Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta,
    Tiếng chẳng mất khi Loa Thành đă mất
    Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già…

    (Tiếng Việt – Lưu Quang Vũ)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 5
    Last Post: 13-09-2014, 06:39 AM
  2. Replies: 41
    Last Post: 17-03-2013, 12:27 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 12-04-2012, 10:05 PM
  4. Replies: 50
    Last Post: 27-02-2012, 04:26 PM
  5. Replies: 115
    Last Post: 25-04-2011, 08:47 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •