CƠI THƠ TÔ THÙY YÊN NGHE NẶNG TỪ TÂM LƯỢNG ĐẤT TRỜI..

Cho đến buổi chiều, khi chiếc trực thăng đổ quân xuống bên kia bờ Phá Tam Giang, chúng tôi mới chợt khám phá những lời thơ trong nhạc phẩm quen thuộc “CHIỀU TRÊN PHÁ TAM GIANG” của Tô Thùy Yên do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ thành ca khúc, có nhiều câu hay và hợp t́nh với cảnh ngộ chúng tôi lúc bấy giờ...

Giữa những tràng đại pháo bắn vào mục tiêu và đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đang chuẩn bị tiến vào Cổ Thành Quảng Trị.
Người lính vẫn điềm nhiên kiêu hùng lăng mạn:

... Chiều trên phá Tam Giang
Anh chợt nhớ em, nhớ bất tận...
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới hai hàng cây thẳng im ngủ...

Ở thành thị không khí chiến tranh chưa bị ô nhiễm, những người con gái có người yêu ngoài trận mạc chỉ thoảng chút lo âu, khắc khoải, đợi chờ
. Người lính vẫn nhớ tới em, nhớ tới cuộc t́nh hẹn ḥ đầy thơ mộng:

Giờ này có thể trời đang mưa
Em đi sát hàng hiên sướt mướt
Nh́n bong bóng nước chạy trên đường
Như những đóa hoa vụt chóng nở
Rồi có thể em vào quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa đám ghế bàn quen thuộc
Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh...

...Nghĩ tới những điều mà em sợ phải nghĩ tới
Và nghĩ tới anh,
... nghĩ tới anh.
Chúng ta không thể nào không biết đến những hàng lớp thanh niên ra ngoài trận chiến, mỗi giây phút phải đối đầu với những chuyện hiểm nguy.
Sự sống và nỗi chết không c̣n biên giới. Có thể tiếng cười thoạt mới rộn ră bỗng tắt lịm bởi một tràng đạn bắn lén của quân thù. Tâm trạng của người chiến sĩ ray rứt mông lung. Lớn lên, bỗng dưng phải chấp nhận cuộc chiến thật phi lư.
Nhiều khi đứng trên đỉnh đồi giữa khu rừng núi Khe Sanh - Ái Tử, dưới chân là ngổn ngang xác ta và địch sau một trận chiến ác liệt, màu da vàng, khuôn mặt trẻ thơ, nằm chết như ngủ say trên cỏ tranh, hiền ḥa không chút thù hận, ḷng ta bỗng gợn lên những xót xa.
Người từ phương Bắc xa xôi băng rừng lội suối tới.
Bạn ta từ phương Nam trực thăng vận ào ào lên đây, để rồi cùng bỏ thây trên đỉnh núi này
. Những con chốt thân phận nhược tiểu qua sông trên bàn cờ chính trị quốc tế thật đau ḷng.
Và cả hai đều cứ tưởng ḿnh chết để vinh danh Tổ Quốc Dân Tộc.
Trước mặt, những người lính c̣n lại vẫn an nhiên uống rượu với tử thần:
Ta chắt cho nhau giọt rượu sót
Tưởng đời sót chút thiếu niên đây
Giờ cất quân, đưa tay bắt
Ước cơi âm c̣n gặp để say...
(Anh Hùng Tận)
. Cồn xa cây vướng sáng mơ màng
Áo quan phong quốc kỳ oanh liệt
Niềm thiên thu đầm cổ xa tang
Quê ta không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa tận sơ sài đám lạnh tanh
Thêm một chút ǵ như hối hả
Người thân chưa khóc ráo thân t́nh...

(Qua Sông)
Cuộc chiến mỗi ngày bùng vỡ giữa hai ư thức hệ Cộng Sản và Tự Do. Hay nói khác hơn là cuộc chiến quyết liệt giữa hai ư niệm ác và thiện. Cái ác đầu độc tư tưởng sắt máu, hận thù, hiểm độc, ngụy taọ tuyên truyền giải phóng...
Với mục đích xâm lấn lănh thổ và triệt hủy văn hóa tự do, nhân bản! Cái thiện với bản chất nhân đạo, chống giữ bằng thái độ bao dung khoan ḥa và t́nh người.
Người lính Quốc Gia vừa cầm súng chiến đấu vừa yêu nhạc Trịnh Công Sơn và thích thơ Xuân Diệu, Huy Cận... một cách thoải mái
. Người lính phương Nam chiến đấu trong tư thế tự vệ. Đối diện với quân thù, nếu không chiến đấu sinh tồn sẽ tự sát.
Đơn giản thế thôi “...Họ vào sinh ra tử lúc nào cũng khơi khơi, coi cái chết như không, coi chuyện đời như phù vân, coi kẻ thù như một lũ khờ dại đáng thương, coi “Chính nghĩa” như chuyện nhảm nhí, chỉ có hạng mê muội mới hăng say...”
(VHMN-Tổng Quan-Vơ Phiến).
Buổi chiều uống nước gịng Ma-hư

Thằng Xuân bắn chết thằng Mang-Khinh
Hỡi ôi! Sống chết là mưa nắng
Gió tối mưa đêm chớ lạnh ḿnh...

(Thảo Khấu - Nguyễn Bắc Sơn)

Bậc thánh triết là những tay biếng nhác
Sống khề khà quanh bữa tiệc nhân sinh
Kết bạn bè cùng cây cỏ vô minh
Rất chán ghét những tṛ chơi thế sự...
(Đại Lăn - Nguyễn Bắc Sơn)
(Văn Học Miền Nam - Tổng Quan - Vơ Phiến).

Ở thủ đô đầy ánh sáng, người ta say mê với những điệu luân vũ hơn theo dơi những tin tức nóng bỏng từ chiến trường xa. Những chán nản ră rượi trước những nguồn tin phóng đi từ vô tuyến truyền thanh, từ báo chí trong và ngoài nước.
Lời tuyên dương Stanley Karnow khi nhận giải Pulitzer với lư do: Anh ta đă có công sưu tầm những tổ chức một cách xác thực đến đường giây buôn lậu quốc tế khủng khiếp đang xảy ra giữa ban ngày tại miền Nam và đă dùng ng̣i bút miệt thị tận t́nh để bôi đen h́nh ảnh hào hùng của Quân Đội VNCH.
Những lớp trí thức khác gục đầu lên những trang sách hiện sinh, nôn mửa của Camus, Sartre... như một kiểu cách thời thượng.
Đêm vẫn dày đặc, tỏa mù khói thuốc bên những chai Hennessy đắt tiền.
Bên những cô gái sặc sụa giọng cười như mảnh thủy tinh vỡ vụn, nhầy nhụa với âm thanh những lời ca lê thê năo nề, khuấy động tâm tư con người bi lụy trứơc cảnh tang tóc đau thương của chinh chiến.
Ai chết mặc ai. Người lính, chiến đấu trong cô đơn. Tuy nhiên những đoàn quân bảo vệ đất nước vẫn ngày đêm tiếp tục chiến đấu, hy sinh trong thầm lặng.
Xót xa từng trang sử máu đau thương. Cuộc chiến thiếu công bằng trong mắt nh́n của thế giới.
Tṛ chơi biển lận của những tên lái buôn chính trị đầy xảo quyệt. Chiến tranh bị xuyên tạc dối trá từ những hệ thống tuyên truyền tồi tệ đó, lan rộng khắp thế giới, tạo nên trạng thái tâm lư vô vọng, hầu như mọi người lính có lương tri và liêm sỉ đều biết.
Dĩ nhiên người lính, người thi sĩ, biểu hiện trí thức miền Nam Tô Thùy Yên cũng cảm thấy nỗi ưu tư dây chuyền sâu sắc của người lính nơi trận mạc.
Và Tô Thùy Yên đă cảm thông định mệnh oan nghiệt mà thế hệ cùng thời với ông đă nhận phận khổ đau:

...Bảo xác chết làm phân bón ḥa b́nh
Chúng nó giết người trong nhà ngoài ngơ
Chúng nó giết người như dọn rừng hoang
Một tiếng thôi tư bản hay vô sản
Không ai đứng ngoài cuộc báo thù này
Nát thân tôi đường mă tấu hai phe
Tôi ngă quỵ đôi bàn tay sạch sẽ...

(Ngoại Cuộc)

...Và tôi xử tử tôi
Giữa ngơ tắt đưa về định mệnh...
(Tội Trạng)
Thi sĩ Tô Thùy Yên đă thể hiện ư thức chán chườngqua những chặng sống thê thiết buồn bă xót xa
. Thực sự anh đă hoàn toàn đánh mất niềm tin, lịch sử đang bị bỏ quên trong huyệt mộ:
..Tôi chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng
Giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô...
Anh sống làm quen cùng cái chết
Liếm lấy mặn mà trên đau thương
Ch́m măi xuống em và mất tích
Như mặt trời ră trong nước loang...
(Hải Phận)
Sự phẫn nộ và nguyền rủa ư đồ của những kẻ đầy tham vọng gây chiến tranh của thi sĩ, như viên sỏi rơi ch́m trên mặt hồ trầm lắng của thế nhân.
Anh hét lớn trong thinh không như một niềm bi phẫn với trời đất “...Hú dài một tiếng lạnh về hư không!”
(Không Lộ)
Ta hỏi han hề Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ...
(Trường Sa Hành)
Chưa có nhà thơ quân đội nào đề cập đến h́nh ảnh người lính trong thơ tuyệt vời đến như thế, ngoại trừ Quang Dũng, Nguyễn Bắc Sơn, Luân Hoán, Cao Thoại Châu, Hà Huyền Chi, Lâm Hảo Dũng, Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư...
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm...

...Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mă gầm lên khúc độc hành...
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Như chuyện đă an bài, chiếc lá đă thả trôi theo gịng nước... Tô Thùy Yên cũng đành chấp nhận buông trôi theo với số phận an bài. Những dấu tích người lính ông đă chân thật ghi lại trong thơ. Những h́nh ảnh sinh động nhưng đượm buồn man mác:
Đ̣ nghẹn đoàn quân xa tiếp viện
Mưa lâu trời mốc buồn hôi xưa
Con đường đáo nhậm xa như nhớ...
..Tới đây toàn những tay hào sĩ
Sống chết không làm thắt ruột gan
Cũng không ai nhắc về thân thế
Có vợ con mà như độc thân...
Nỗi niềm chua chát thể hiện qua câu hỏi, qua nụ cười v́ cuộc chiến đang đến hồi thúc bách hiểm nguy:

Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc đời binh nghiệp. Ta cười bung:
C̣n mươi tháng nữa lên trung úy
Có thể ngày mai chửa biết chừng
(Anh Hùng Tận)
Tâm trạng hoang mang của người lính chiến gần như là nỗi hoang mang chung trong hầu hết hàng lớp thanh niên của thời điểm chiến tranh trước 1975.
Một giấc mơ b́nh thường chỉ mong cho cuộc chiến phi lư này sớm kết thúc trong ḥa b́nh thực sự, trở về sống an phận với cái thế giới riêng tây giữa cơi trời đất quê hương thanh b́nh:
.....Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày, cho hết đời ta...
..Ta ngồi cho đến khi trời trắng
Đồng ruộng xanh đông đúc tiếng người
Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi...
(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)

Giấc mộng con đơn giản đó, đă tắt lịm khi cơn băo lửa thổi về miền Nam. Những cánh rừng đă ngộp thở và bầy chim đă xao xác bay lên. Thi sĩ Tô Thùy Yên và những người lính trong đoàn quân bách chiến ở An Lộc, Cổ Thành Quảng Trị, Khe Sanh, Chu Phong, biên giới Việt Miên... đă bị bức tử một cách dă man và đẩy vào các trại cải tạo khắp rừng núi Cao Nguyên và Việt Bắc.
Không c̣n lư do nào hơn nhận chịu sự đau đớn tận cùng về thể xác hơn mười ba năm sau ba lần bị chính quyền Hà Nội bắt giam...
“Lần đầu Tô Thùy Yên bị bắt đi học tập cùng với Sĩ Quan QLVN và bị đưa đi các trại cải tạo tại miền Nam và miền Bắc trong hơn 10 năm. Tới năm 1988, Tô Thùy Yên lại bị bắt về tội vượt biên và bị giam gần bốn tháng.
Sau cùng vào tháng 11 năm 1990, Tô Thùy Yên bị bắt lần thứ ba bị kết những tội danh nặng nề hơn như... “tuyên truyền chống Xă Hội Chủ Nghĩa” và “Âm mưu lật đổ chính quyền”.
Tuy không bị đưa ra ṭa và kết án, nhưng ông bị đối xử tàn tệ, bị biệt giam nhiều tháng trong xà lim cho tới năm 1992 mới được thả về...”
(Tài liệu của Nguyễn Đức - Minnesota).

Với sự chịu đựng ṛng ră, cuối cùng ông đă bước ra khỏi những núi rừng khắc nghiệt kinh hoàng đó:
Hơn mười năm ông lăn lộn trong bao nhiêu nghịch cảnh của kiếp sống, những đảo điên liên tục của trùng trùng oan nghiệt, nhưng may thay ông đă giữ tâm thường trụ an b́nh. Cái Tâm Bát Nhă mênh mông lượng đất trời.
Chính ông khai mở chốn tuyệt cùng của Tâm Thức, cánh cửa Đại Từ đă tỏa sáng hào quang.
Hận thù như sương khói tan biến trước đôi mắt nhân ái bao dung tuyệt vời của thi sĩ. Thi sĩ hiện hữu với vai tṛ sứ giả tối thượng của Sự Sống đầy nhân bản của Tự Do, Ḥa B́nh.
Người thi sĩ dịu dàng mang đến mùa xuân, ngôn ngữ bằng âm điệu chim muông và nhạc suối an lạc ngàn đời.
Là lúc tâm trí ông tĩnh lặng cho dù băo đời vừa nghiệt ngă thổi qua:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đă v́ ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đă qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng…
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
...Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng ǵ nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm…
(Ta Về)
Chắc ông không bao giờ quên, đă có một lần Tô Thùy Yên “toan bỏ ra đi vĩnh viễn trước kỳ hạn...”
(Theo tin Thi Vũ) vào khoảng thời gian 1989 nhưng may cứu thoát kịp thời khi ông quyết định cắt cườm tay tự tử. Như một đối kháng của thi sĩ.
Lần này ông và gia đ́nh thực sự rời khỏi quê hương Việt Nam yêu dấu, tuy ông không chọn cách tự hủy, nhưng ông cũng cảm thấy xa rời nơi chốn sinh thành chẳng khác chi một loài cây bị bứng hết gốc rễ, như một lưu đày biệt xứ, nỗi đau cũng thấm thía khôn cùng.
Nhiều nhà văn nhà thơ đă viết về Tô Thùy Yên trước 75, cũng như sau 75 ở hải ngoại.
Trong phần “Thơ Miền Nam” tập một, nhà văn Vơ Phiến đă nhận định về Tô Thùy Yên “Gần như toàn bộ sự nghiệp thi ca của Tô Thùy Yên là một dấu hỏi khổng lồ nêu lên trước cái bí ẩn muôn đời của vũ trụ...”.
Với Thi Vũ trong Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam đă nói về Tô Thùy Yên “...Và biết đâu kẻ cứu tinh ṇi giống không là một thi sĩ? Không là ḍng thơ Tô Thùy Yên? Một Nguyễn Du khác:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời...

Khung đời nhị nguyên tan vỡ qua thế phận Kiều của “trăm năm trong cơi người ta.
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” vừa khép lại. Cùng với Tô Thùy Yên hiển hiện mối dung thông bất nhị lúc “NGHE NẶNG TỪ TÂM LƯỢNG ĐẤT TRỜI”.
Đến lúc cái tiểu ngă ḥa nhập vào cái đại ngă của tạo hóa, cái hữu hạn đă ḥa nhập vào cái vô cùng của vũ trụ, để nh́n thấy Chân Như Sắc Không Vi Diệu.
Điều mà thiền sư Đạo Hạnh mấy trăm năm trước đă ngộ:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không

Dù sao Tô Thùy Yên cũng đă đến nơi bằng hữu, đến nơi mà ông đă có lần hăm hở và tuyệt vọng ra đi.
Thế giới nào cho riêng ông một ước mơ khiêm cung bé nhỏ của tâm hồn người thi sĩ:
...Ở đây ta có dăm pho sách
Và một gịng sông, mấy cụm mây
Chúng ta ḥa nhập chia xẻ với Tô Thùy Yên cái thế giới âm điệu thanh thoát từ ái mà chúng ta cứ tưởng riêng tư thầm kín nào của ông. Đó chính là cái hơi thở phát tiết từ trí tuệ tỏa ngát hương trầm của truyền thống ngàn năm của tinh thần Lạc Việt. Yêu thương mà không mê muội.
Bao dung chứ không bao giờ bi lụy khuất phục. Ông mang tâm thức hùng tráng của bậc hành giả lên đường, khám phá những am mây đạo hạnh, khai mở những thảo nguyên an b́nh. Những ngọn đỉnh của T́nh Thương.
Khi tâm ông thực sự thăng hoa chuyện trở về như một cứu rỗi tha nhânTa về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay,
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
....Nhưng t́nh huống thực tế đẩy ông ra đi, nghịch lư nội tâm chắc đă làm cho nhà thơ nặng t́nh với quê hương vương chút bụi trầm luân. Âu cũng là định mệnh
Cho dù hoàn cảnh trôi theo không gian thời gian nào, hăy xin giữ cho Tâm là đường chim chứ đừng như gịng nước.
V́ nước đă từng quên ḿnh là suối khi ḥa nhập vào đại dương.
Chim cho dù ngàn dặm xa cũng c̣n hy vọng nhớ nguồn cội quay về.

Thái Tú Hạp