Results 1 to 6 of 6

Thread: Lễ tế cờ của Hồ Chí Minh

  1. #1
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    345

    Lễ tế cờ của Hồ Chí Minh

    Tài liệu về gian hùng Hồ Chí Minh
    Chủ nhật, 05 Tháng 12 2010 20:46 Đỗ Quốc Anh Thư Lịch Sử
    In PDF.




    Lễ Tế Cờ Của Hồ Chí Minh




    Trong các truyện Tàu, có một câu chuyện thật lư thú về lễ tế cờ như sau. Về cuối đời nhà Đường có một nhân vật giỏi vơ nghệ tên là Hoàng Sào muốn dấy binh để dựng nghiệp lớn. Khi nhận được bảo kiếm của thiên đ́nh trên trời do một v́ tiên mang xuống, Hoàng Sào mới định ngày làm lễ khai đao và tế cờ. Lúc đó Hoàng Sào tá túc trong một ngôi chùa cho nên hứa với vị lăo tăng trụ tŕ là không giết ai trong chùa cả và bảo các người trong chùa hăy lẩn tránh đi nơi khác. Đến ngày khai đao, Hoàng Sào đến một nơi vắng vẻ, rút bảo kiếm và chém vào một cây cổ thụ. Oái oăm thay, khi cây cổ thụ bị chém ngả th́ Hoàng Sào chợt nh́n thấy vị lăo tăng cũng bị chém theo cây! Th́ ra, v́ quá sợ nên vị lăo tăng đă ẩn núp trong bọng của cây cổ thụ đó, và không cố t́nh và không nhẩn tâm mà Hoàng Sào đă chém chết người dă nuôi nấng bảo bộc ḿnh. Hoàng Sào khóc mà than rằng: “Bản tâm tôi không định giết, tại sao lại trốn vào đây, thật là số trời, không sao tránh khỏi.” Đó là chuyện Lễ Tế Cờ trong truyện Tàu ngày xưa, Hoàng Sào chỉ chém vào cây cổ thụ mà thôi nhưng cũng phạm vào tội giết một nhân mạng. C̣n chuyện Lễ Tế Cờ của Hồ Chí Minh ngày nay th́ sao, xin mời quư bạn đọc.


    Mấy ngàn năm sau, vào mùa Thu năm 1945 trên đất Việt, Hồ Chí Minh kéo đồng đảng từ hang Pác Bó ở Cao Bằng về Hà Nội và đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ở vườn hoa Ba Đ́nh nguyên văn như sau: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ư nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do...”


    Trước quốc dân đồng bào th́ Hồ Chí Minh tuyên đọc như vậy, nhưng thật ra ông đă nhận lịnh từ KGB của Đệ Tam Quốc Tế, ngoài mặt mượn cớ đánh đuổi thực dân Pháp nhưng thực tâm chỉ để xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam và phục vụ Đệ Tam Quốc Tế của Stalin. V́ ác độc và vô cùng khát máu, giống như các bậc thầy Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông, nên Hồ Chí Minh đă chỉ đạo một cuộc Lễ Tế Cờ khủng khiếp có một không hai trong lịch sử, sát hại không biết bao nhiêu người vô tội gây ra cảnh thây trôi đầy sông, xác vất khắp đồng.


    Trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam, Lễ Tế Cờ của Hồ Chí Minh là tội ác diệt chủng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử và là Tội Ác Đầu Tiên Của Việt Cộng. Hồ Chí Minh, ngay từ Mùa Thu Lịch Sử 1945, đă đạo diễn một cuộc mở màn rất xứng đáng cho Trận Chiến Tranh đánh Dân Tộc kéo dài 30 năm gây năm, sáu triệu người chết, cả chục triệu người bị thương, và hơn một triệu người phải sống kiếp ly hương nơi xứ lạ quê người. Tiếp theo sau đó biết bao nhiêu là tội ác: Đấu Tố trong Cải Cách Ruộng Đất gây hai, ba trăm ngàn người chết, vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án oan khuất Xét Lại Chống Đảng, vụ Đàn Áp ở Quỳnh Lưu khiến 1000 nông dân bị giết và 6000 bị đày biệt xứ, vụ Tàn Sát ở Huế hồi Tết Mậu Thân 4000 người bị đập đầu chôn sống, bắn vào dân chạy loạn gây tử thương mười mấy ngàn người trên Đại Lộ Kinh Hoàng trong Mùa Hè Đỏ Lửa, Pháo Kích vào trường học ở Cai Lậy, dùng đại liên bắn vào xe đ̣ Sài G̣n-Lục Tỉnh để khủng bố mà thâu thuế...



    Lá cờ máu của Hồ Chí Minh được tế bằng máu của biết bao nhiêu người dân vô tội như vậy, thực sự chỉ là lá cờ của Đảng Cộng Sản hung tàn khát máu, chớ không bao giờ xứng đáng là lá quốc kỳ chính thức của Dân Tộc Việt Nam, một Dân Tộc có truyền thuyết Một Mẹ Trăm Con vô cùng thân thương, một Dân Tộc vượt cao trên bậc thang văn hóa của nhân loại v́ đă ưu ái dùng từ Đồng Bào để gọi những người dân trong cùng một nước. Nhưng than ôi! Chỉ trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc khởi nghĩa chống Pháp mà Hồ Chí Minh đă giết không biết bao nhiêu người là đồng bào của ḿnh như vậy, cho nên sau nầy có người gọi Hồ Chí Minh là người Nga gốc Việt, thật là đúng vô cùng và người Nga Hồ Chí Minh nầy đă quên mất gốc Việt của ḿnh rồi mà lại c̣n đánh mất cả nhân tính nữa. Thật đúng như vậy, bởi v́ khi Hồ Chí Minh đă đi hết biển và trở về cố hương để “làm việc”, th́ ông đă trở thành một Quốc Tế Ủy (Kominternchik), tức là một đảng viên ưu tú và trung kiên được đào luyện thấu đáo để cống hiến hoàn toàn cuộc đời ḿnh phục vụ cho Quốc Tế Cộng Sản (Komintern).


    Mỗi người Việt chúng ta, thắm nhuần t́nh tự dân tộc từ ngàn xưa, đều mang trong tâm những ư niệm nhân từ bác ái cứu nhân độ thế như: Cứu nhất nhân, đắc vạn phúc, hay Dầu xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người, hoặc Bầu ơi, thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn... Phát động một sát trường kết liễu mạng sống hàng vạn người dân vô tội trong tay không một tấc sắt để tự vệ - theo kiểu Hồ Chí Minh - chỉ là sách lược vô nhân thất đức của kẻ giết người cướp của mở đường cho chế độ độc tài đảng trị tham tàn khát máu, chớ nào phải thượng sách cứu quốc của những bậc chí sĩ làm cách mạng chân chính thực thi công bằng xă hội và mang lại tự do hạnh phúc cho toàn dân. Những nạn nhân về Lễ Tế Cờ của Hồ Chí Minh nhiều vô số, nhưng chúng tôi chỉ xin nêu ra đây những trường hợp điển h́nh đệ tŕnh trước ṭa án Lịch Sử để sau nầy Dân Tộc xét xử.

    Lưỡi Hái Tử Thần Từ Hang Pác Bó Do Hồ Chí Minh Mang Về
    Sử dụng chiêu bài Việt Gian, Cộng sản đă chém giết bừa băi rất nhiều thường dân vô tội. Nhiều người đă bị chặt đầu, mổ bụng chỉ v́ trong nhà có vài quyển sách giáo khoa bằng tiếng Pháp, hay quần áo có màu mè sặc sỡ, xanh, trắng, đỏ, vàng, v.v... Việt Minh Cộng Sản c̣n chụp cái mũ Việt gian lên đầu những kẻ có tư thù, hay những người yêu nước không cùng một đường lối cứu quốc với họ.


    Xin kể chuyện một cô gái 8 tuổi ở Hà Nội tản cư về quê trong thời kỳ đầu của cuộc tiêu thổ kháng chiến chống Pháp, trong quyển hồi kư của Nguyễn Thị Ngọc Dung Phượng Vẫn Nở Bên Trời Hà Nội (trang 107):

    “... làng So có nghề làm tương rất ngon, có lẽ v́ không xa làng Cự Đà chăng? Món rau diếp xanh tươi chấm cà chua chưng với tương, hành, mỡ béo ngậy, ăn hoài không chán. Nhưng phải cẩn thận, tránh đừng mua rau xanh, cà chua đỏ, đậu trắng để trong rổ cùng một lúc. Mấy cán bộ ta sẽ gán cho cái tội Việt Gian mang cờ Pháp. Dù mầu xanh rau là xanh lá cây, xanh cờ Pháp là xanh dương. Những người bạn dân đó sẽ cho mấy mắng, mấy bạt tay. Mất công lắm! Vậy cũng c̣n nhẹ. Một buổi chúng tôi theo mẹ đi chợ trời họp dưới chân đê làng bên, bất th́nh ĺnh máy bay Pháp tới quần bắn tứ tung. Mọi người kéo nhau chạy tán loạn vào ẩn núp dưới băi vải. Khi máy bay bỏ đi, êm ắng trở lại, các cán bộ răng đen, mă tấu hung hăng xông tới bắt các thanh niên nam nữ Hà Nội tản cư mặc quần áo trắng. Họ bị đánh đập tàn nhẫn đến vỡ đầu, bể mặt, máu chảy đỏ áo quần và vu tội làm chỉ điểm cho máy bay Pháp tới bắn phá. Hôm đó chúng tôi cũng mặc quần áo trắng nhưng c̣n nhỏ và mẹ lanh trí kéo chúng tôi nhanh chân chạy tuốt luốt một đường không kịp thở nên thoát.”


    Nhà họa sĩ và văn sĩ Tạ Tỵ, trong quyển hồi kư Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đă Đi Qua Đời Tôi (trang 95), cũng thuật một câu chuyện khác về đề tài Việt Gian. Lúc đó là khoảng mấy tháng đầu của cuộc kháng chiến và Tạ Tỵ đang phụ trách lớp dạy vẽ cho các cán bộ Thông Tin Tuyên Truyền ở làng Phù Lưu Tranh. Xin mời các bạn đọc:

    “Sau 2 giờ dạy, được nghỉ 15 phút giải lao. Một học viên cho tôi biết, sáng nay, hồi 10 giờ, sẽ có cuộc xử bắn hai tên Việt gian ở khu đất trống gần chân núi:

    -Thày có đi coi không?
    Tôi trả lời dứt khoát:
    -Không!


    Nói cho đúng, tôi vốn không thích cảnh chém giết, nhất là tội Việt gian! Cái tội này nó mơ hồ lắm. Nếu xét trong người có chiếc gương nhỏ soi mặt, bị ghép ngay vào tội dùng gương làm ám hiệu cho phi cơ thả bom! Nếu ai mặc áo sơ-mi may bằng vải popeline trắng, mép vải có hai lằn xanh đỏ, cũng là Việt gian v́ mang màu cờ của Pháp. C̣n nhiều nữa, bất cứ thứ ǵ, anh du kích xă thấy lạ mắt đều là các vật liệu dùng để liên lạc, do thám cho địch!
    Giờ giải lao vừa xong, các học viên vào chỗ ngồi, tôi chưa kịp giảng bài bỗng có những tiếng súng vọng lại. Thế là có hai mạng người đi sang thế giới khác. Kể từ giây phút đó, tư tưởng bị phân tán, tôi nói loạn xạ, mong cho chóng hết giờ để đi về. Sau khi dạy hết một khoá, tôi xin nghỉ, nại cớ bận sáng tác, sự thực trong tôi đă dấy lên niềm chán nản”.


    Trong quyển Trả Ta Sông Núi, tác giả Phạm Văn Liễu, thuộc thế hệ hào hùng tham dự trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn của VNQDĐ, tường thuật về t́nh h́nh ở miền Bắc như sau:

    “Suốt cuối tháng 8, đầu tháng 9-1945, những vụ ám sát, thủ tiêu, cắt cổ, mổ bụng, buộc đá thả sông (ṃ tôm) xảy ra như cơm bữa, từ thành thị tới thôn quê. Nạn nhân phần đông là những người có đôi chút tiếng tăm hay gia sản. Cán bộ Cộng sản chụp cho họ cái mũ “Việt Gian” để biện minh cho những vụ thảm sát vô nhân đạo này. Khi bị báo chí chất vấn về những vụ bắt bớ bừa băi, Phó Chủ Tịch Mặt trận Việt Minh kiêm Bộ Trưởng Tuyên Truyền Trần Huy Liệu trâng tráo đáp: “Tất cả những người bị bắt giữ đều là những người có tội với quốc dân.” Những tội nhân này, theo báo chí Cộng sản, có cả những cựu đồng chí VNQDĐ của Trần Huy Liệu như Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp, ông bà Đào Chu Khải, các tu sĩ Phật Giáo và một số linh mục, thày giảng, trùm đạo Thiên Chúa Giáo.


    Ngày 5-9-1945, Vơ Nguyên Giáp c̣n nhân danh Bộ NộiVụ chính phủ cách mạng lâm thời đặt đảng Đại Việt và các tổ chức Thanh Niên không nằm trong Mặt Trận Việt Minh ra ngoài ṿng pháp luật. Từ ngày này, các đội tự vệ, du kích địa phương đêm đêm gậy gộc, giáo mác, tăng cường bằng vài khẩu súng lục hay ngựa trời, kéo nhau đi bắt Việt Gian và gián điệp cho Tây. Tại miền Bắc, hàng trăm hàng ngàn người bị bắt, giết…”


    Những câu chuyện về Việt gian thật phổ biến trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến. Sau đây là những chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ trong quyển Việt Nam Máu Lửa (trang 128) với đầy đủ chi tiết hơn.

    “Số dân tản cư ngày mỗi nhiều. Quân đội Pháp càng ngày càng mở rộng mặt trận. Những người tản cư cũ lại xê dịch đi chút nữa và những người tản cư mới bắt đầu rời bỏ quê hương, cứ như thế măi. Dân chúng với cuộc đời vô định đă làm mồi dần cho muỗi độc, cho lam sơn chướng khí, cho bom đạn, cho các trận càn quét...

    Những bà đài các ở thành thị vui vẻ khi đặt quang gánh lên vai kĩu kịt thúng xôi chè hay trầm tĩnh bên gia tài chỉ c̣n vẻn vẹn một quán nước con con. Nhưng, tất cả sản nghiệp mất đi, chưa đủ, ngày ngày giơ đầu hứng bom và đạn, chưa đủ, ngày ngày lên cơn sốt rét, chưa đủ, người dân c̣n phải hứng một điều đau khổ về tinh thần trên sức chịu đựng: những vụ bắt bớ liên tiếp với lời sỉ vả Việt gian.


    Nếu quân đội Pháp có bắt được dân tưởng lầm là Việt Minh mà giết đi chăng nữa, sự chết đó cũng không đau ḷng lắm bằng theo Chánh Phủ mà Chánh Phủ lại xử bắn v́ tội…Việt gian. Thật là cay đắng, mỉa mai và chua xót!

    Những người bắt Việt gian thường khi chẳng phải là Công an mà cũng chỉ là dân như những người tản cư. Đấy là những dân quê giữ nhiệm vụ canh gác làng mạc và nếu mặt trận tràn tới, họ cũng sẽ lại tản cư để rồi cũng có thể bị những người dân vùng khác t́nh nghi và bắt bớ. Những cớ để bắt trên bước đường tản cư vô định của dân chúng thật là thiên h́nh vạn trạng:

    Cô tiểu thư vô t́nh cầm gương soi trong khi có tiếng động cơ máy bay tận phía chơn trời: đúng là Việt gian báo hiệu cho không quân Pháp đến bắn phá. Một cái mũ trắng đội trên đầu, một chiếc nón phe phẩy cho mát trên cánh đồng mênh mông, thậm chí một kẻ ngồi đại tiện trên góc quả đồi trơ trọi cũng bị nghi là Việt gian báo hiệu cho địch. Rồi một vài nén hương châm cắm vô t́nh trên phần mộ, rồi tờ giấy bạc của bao thuốc lá thơm ném bâng quơ trên băi cỏ; Việt gian, Việt gian tất… Một học sinh mang theo trong người chiếc bút ch́ nhiều mầu hay một cụ già mặc chiếc áo sa tanh cũ trong có mép vải viền tam tài: đấy là cờ của Pháp, đấy là dấu hiệu để Việt gian nhận nhau cho dễ.

    Kinh hoàng của người dân trước việc bắt bớ v́ lư do Việt gian lên đến tột bực. Hơn thế nữa, người dân c̣n luôn luôn bị hoảng hốt, tưởng tượng xung quanh ḿnh ai cũng có thể là Việt gian, có thể bất cứ lúc nào máy bay Pháp cũng nhờ được Việt gian chỉ dẫn bắn phá nơi ḿnh cư ngụ.

    Số nạn nhân Việt gian lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thế, dân quân du kích, Công an hay Ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc”.



    Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản của ông đă biến cuộc Cách Mạng Mùa Thu hào hùng của dân tộc thành Cơn Băo Mùa Thu khốc liệt quét phủ màn tang tóc lên khắp dải non sông thân yêu. Một nhân chứng khác là tác giả Vũ Trọng Kỳ trong quyển Bốn Đời Chạy Giặc đă phải bỏ nghề Kiểm lâm để mua một thuyền nan nhỏ buôn bán một ít đồ hàng trên sông ở khoản Đ̣ Lèn và đă chứng kiến (trang 187 sđd): “Bồng bềnh trên mặt nước, tâm thần tôi luôn luôn hồi hộp v́ thấy mạng con người buổi loạn ly như treo trên sợi tóc. Hàng ngày thấy những tử thi, đàn ông, đàn bà, con trẻ, nhiều cái không toàn thân, lơa lồ, mất đầu, hay cụt cẳng, có cái chân tay bị trói, hết thẩy chương, śnh, nổi lều bều, theo gịng nước cuốn, hoặc bị mắc vào đám bèo đám rong, quang cảnh thật hăi hùng”.


    Vụ Sát Hại Ḥa Thượng Thích Đức Hải


    Đúng ngay ngày 19-8-1945 Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, th́ ở Hà Đông sư phụ của Thầy Thích Quảng Độ là Ḥa thượng Thích Đức Hải bị xử tử.

    Ngày 19-8-1945, vào lúc 10 giờ sáng, Ḥa thượng Thích Đức Hải, trụ tŕ tại chùa Linh Quang, xă Thanh Sam, phủ Ứng Ḥa, tỉnh Hà Đông đă bị đánh đập dă man trước khi bị hành quyết tại băi cỏ trước đ́nh làng Bặt thuộc phủ Ứng Ḥa, tỉnh Hà Đông, cách chùa của ḥa thượng hai cây số. Trong bức thư gởi cho tổng bí thư Đỗ Mười ngày 19-8-1994, ḥa thượng Thích Quảng Độ tường thuật như sau:


    “Nhưng dù có bị giết chăng nữa th́ tôi cũng nói lên niềm tin vững chắc của tôi là chủ nghĩa cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài. Không phải bây giờ tôi mới có niềm tin ấy, mà nó đă nảy sinh trong tôi ngay từ lúc 10 giờ sáng ngày 19-8-1945 (hồi đó tôi 18 tuổi) khi tôi nh́n sư phụ tôi, hai tay bị trói bằng dây kẽm quặt về phía sau, cổ đeo hai tấm biển viết mấy chữ Việt gian bán nước, một tấm trước ngực một tấm sau lưng đứng giữa sân đ́nh làng Bặt, hai bên một đoàn người tay cầm gậy gộc giáo mác, cu liêm bồ cào đứng canh gác. Một nhóm người mệnh danh là quan ṭa của Ṭa án nhân dân đứng trên thềm đ́nh để xử án. Họ bắt sư phụ tôi qú xuống sân đ́nh và cúi đầu nghe ṭa luận tội. Nhưng sư phụ tôi đă không chịu làm thế. Một người từ trên thềm đ́nh bước xuống đứng trước mặt sư phụ tôi, nói: “ Mày là thằng Việt gian bán nước mà c̣n ngoan cố à?” Nói xong, họ đấm vào quay hàm thầy tôi mấy cái, một ḍng máu từ trong miệng sư phụ tôi ứa ra, chảy theo cằm nhỏ xuống thấm đỏ tấm biển Việt gian bán nước ở trước ngực. Lập tức họ tuyên án tử h́nh rồi đưa sư phụ tôi ra trước băi cỏ trước đ́nh, máu từ miệng sư phụ tôi tiếp tục chảy ra, thấm vạt áo dài, nhỏ xuống sân đ́nh. Khi đến băi cỏ, họ vật sư phụ tôi nằm nghiêng xuống rồi một người bắn vào màng tai sư phụ tôi ba phát súng lục, lại một ḍng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp và sư phụ tôi chết liền tại chỗ. Ḍng máu ấy với h́nh ảnh sư phụ tôi hai tay bị trói nằm chết trên băi cỏ máu me đầy mặt, hai tấm biển Việt gian bán nước thấm máu, vạt áo thấm máu, hai bàn chân thấm máu, máu vương trên băi cỏ, chỗ nào cũng thấy máu. Tất cả những h́nh ảnh ấy đến nay đă 49 năm rồi mà tôi vẫn c̣n nhớ như in và tưởng chừng như mới hôm nào đó thôi. Thật là một cơn ác mộng.


    Trong cơn đau đớn tột cùng và hai hàng nước mắt tuôn chảy, ngay từ giờ phút ấy, ngồi trên băi cỏ nh́n xác sư phụ tôi, tôi đă nghĩ cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài, lí do: cộng sản chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, đánh và giết người như thế là ác quá, mà cái ác th́ thường không bền, lịch sử đă chứng minh điều đó. Bởi lẽ, tâm lí người ta nói chung, tuyệt đại đa số đều yêu cái thiện ghét cái ác, mà cái người ta đă ghét th́ khó tồn tại lâu được. Bảy mươi bốn năm tồn tại (1917-1991) của chế độ cộng sản Liên sô không phải là một thời gian lâu dài nếu so với 215 năm tồn tại của triều đại nhà Lí tại Việt Nam mà, theo giáo sư Hoàng Xuân Hăn, là một triều đại thuần từ nhất trong lịch sử Việt Nam.”


    Bức thư ḥa thượng Thích Quảng Độ viết ngày 19-8-1994 gởi cho tổng bí thư Đỗ Mười là một bức thư lịch sử quan trọng vô cùng, bởi v́ đúng vào ngày 19 tháng tám 49 năm trước, tức là ngày 19-8-1945, máu vị chân tu Thích Đức Hải đă chảy thấm tấm biển Việt gian bán nước, để khởi đầu cho cơn Pháp Nạn do Cộng Sản vô thần gây ra. Trong bức thư lịch sử đó, ḥa thượng Thích Quảng Độ cũng tố cáo Cộng sản đă sát hại vị sư bá và sư tổ của ḿnh.

    Vị sư bá của hoà thượng Thích Quảng Độ (tức là đạo huynh của ḥa thượng Thích Đức Hải) là ḥa thượng Thích Đại Hải. Ngài trụ tŕ chùa Pháp Vân (chùa Dâu) thuộc tỉnh Bắc Ninh, cũng đă bị Cộng Sản bắt vào năm 1946 và sau đó đă chết v́ bị kết tội là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.

    Vị sư tổ của ḥa thượng Thích Quảng Độ pháp huư là Thích Thanh Quyết trụ tŕ chùa Trà Lũ Trung, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Năm 1954, Cộng Sản vào chùa bảo ngài có tội dùng tôn giáo chính là thuốc phiện đẻ ru ngủ nhân dân và sẽ bị qui định thành phần đưa ra đấu tố. Ngài quá sợ bèn thắt cổ chết để khỏi bị mang ra đấu tố.


    Vụ Sát Hại Ngô Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Huân, và Phạm Quỳnh

    Ở miền Trung, chỉ 4 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, lần này Việt cộng xử dụng thủ đoạn mời các nạn nhân đi họp rồi âm thầm thủ tiêu bằng cách lấy xẻng cuốc đập chết và vùi chôn xác ở một vùng của rừng Hắc thú thuộc tỉnh Quảng Trị.


    Viết về vụ sát nhân dă man nầy, chúng ta không khỏi không nhắc đến tên hai người khá nổi tiếng trong lịch sử cận đại có ít nhiều liên quan với trường Quốc Học Huế, người thứ nhất là Ngô Đ́nh Khả và người thứ hai là Nguyễn Kim Thành. Cụ Ngô Đ́nh Khả chủ trương khai dân trí bằng cách mở mang và đại chúng hóa nền giáo dục theo đường hướng kết hợp hai nền văn hóa Đông Tây. Cụ đă trở thành người rất tâm đắc của vua Thành Thái. Khi mới lên ngôi, nhà vua chỉ mới 10 tuổi, nhưng rất thông minh và giàu ḷng yêu nước. Khi vua Thành Thái đúng 18 tuổi (năm 1896) được tự quyết định việc triều chính, ngài đă triệu dụng và giao phó cho cụ Ngô Đ́nh Khả trách nhiệm tổ chức và điều hành một cơ sở Giáo dục cấp Quốc gia đúng theo đường lối và chủ trương của cụ. Trường Quốc Học Huế được thành lập từ đấy và cụ đă trở thành vị Chưởng Giáo (tức là hiệu trưởng) đầu tiên của trường. Sau nầy, khi dựng bia kỷ niệm trường, giáo sư Tôn Thất Sa có bài thơ ghi ở bia như sau:


    Trường Quốc Học ấy ai xây dựng
    Sáu mươi năm đứng vững giữa trời
    Đế Kinh nhắc nhở tên người
    Cụ Ngô Đ́nh Khả muôn đời tiếng thơm
    . . . . . . . . . . . . . . . . .
    Dựng bia kỷ niệm gọi là
    Ghi ơn người trước, nhắn lời người sau

    (trích Đặc san Tiếng Sông Hương)
    (c̣n tiếp)

  2. #2
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    345

    Lễ tế cờ của Hồ chí Minh

    (tiếp theo)

    Người thứ hai trong vụ án mạng giết người nầy là Nguyễn Kim Thành, học sinh trường Quốc Học vào thập niên 30. Tên th́ rất xa lạ, nhưng biệt hiệu Tố Hữu th́ không ai là không biết. Vào thời gian đó, Tố Hữu giữ chức Trưởng ban Cách Mạng ở Huế, và chính Tố Hữu đă nhận lịnh thủ tiêu ba nạn nhân nầy. Khi cụ Ngô Đ́nh Khả giúp nhà vua ái quốc Thành Thái thiết lập ngôi trường đầu tiên theo Tây học để nâng cao dân trí hầu theo kịp các nước Âu châu, và chính cụ đă có công điều hành trường trong hai năm đầu, theoT́nh Tự Dân Tộc Việt, cụ những tưởng ḿnh đă vun trồng cây đức để lại cho con cháu đời sau. Nhưng oan nghiệt thay! năm mươi năm sau, chính Tố Hữu, người học sinh thụ nhận nền học vấn của trường, đă ra lịnh hạ sát dă man Ngô Đ́nh Khôi và Ngô Đ́nh Huân là con và cháu của người đă sáng lập ra trường! Trong lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, nếu Hồ Chí Minh mang tội giết vợ, Trường Chinh mang tội giết cha, th́ Tố Hữu tránh sao khỏi tội hại thầy? Một phường phản tặc!

    Về cụ Ngô Đ́nh Khôi, tác giả Nguyễn Trân trong quyển Công Và Tội đă ghi vài hàng như sau (trang 29): “Sau khi Nhựt đảo chánh, cụ Ngô Đ́nh Khôi đă có nhiều buổi họp với một số nhân vật đế đô bàn định cách đối phó với t́nh h́nh mới. Tôi có dự mấy buổi họp ấy tại Gia Hội. Trong các người họp tôi c̣n nhớ có Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Kim Chi, Bác sĩ Thái Can và một số người nữa mà tôi không nhớ tên. Cụ Khôi được đề nghị đứng ra lập Chính phủ, nhưng cụ từ chối, nói cụ chỉ là một người của quan trường lại bị cách chức (v́ chống Pháp). Cụ nói ông Ngô Đ́nh Diệm là người cách mạng, đă nghiên cứu nhiều, có thể đảm đương trọng trách ấy.”


    Lúc đó, Ngô Đ́nh Huân là một thanh niên ưu thời mẫn thế đang t́m phương cách để giúp nước. Trong quyển Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu, tác giả Phương Lan đă ghi lại rằng Tạ Thu Thâu trên đường từ Nam ra Bắc có dừng chân ở Huế và có bàn luận việc nước với Ngô Đ́nh Huân. Chính nữ sĩ Song Thu đă tổ chức buổi hội ngộ nầy và bảo với Tạ Thu Thâu rằng Ngô Đ́nh Huân là một người rất tế nhị trong cách xă giao, có tấm ḷng ngưỡng mộ ông, đang thao thức về phong trào nhân dân hiện tại cũng như ở tương lai và muốn bàn luận để t́m thế cứu nước. Hai người đă gặp nhau trong bữa cơm chiều thân mật do Ngô Đ́nh Huân khoản đăi trong nhà một người thân ở An Cựu. Hai người yêu nước, Tạ Thu Thâu xuất thân là con một người thợ mộc nghèo khó ở tỉnh Long Xuyên và Ngô Đ́nh Huân là ấm tử của một danh gia vọng tộc nhất nh́ ở chốn cố đô Huế, hai người ưu tư v́ vận nước, đă t́m nhau để bàn cách thế cứu nước trong cuộc họp mặt lịch sử đó. Thật là một kỳ ngộ. Nhưng than ôi! chẳng bao lâu sau, cả hai đều bị Cộng Sản sát hại. Bây giờ, khi viết những ḍng chữ nầy, người viết vẫn ngậm ngùi khôn tả, khôn ngăn ḍng tâm lệ thương tiếc những người yêu nước yểu mệnh v́ bị Cộng Sản sát hại, và lại khóc cho vận nước điêu linh. Với ḷng thương cảm vô vàn khi ngoảnh nh́n lại lịch sử, người viết mơ tưởng với đầy hy vọng một Đại Kỳ Ngộ trong tương lai trên đất Việt của triệu triệu thanh niên Việt yêu nước, một Đại Kỳ Ngộ hướng tâm về cuộc Kỳ Ngộ Đầu Tiên ở An Cựu năm 1945 trên quê hương thân yêu lúc không c̣n bóng dáng của những Tam Cùng Tam Vô Bác Hồ Vĩ Đại Kominternchik...


    Sáng Đảng nhưng mù T́nh Dân Tộc, Hồ Chí Minh và đồng bọn đă phạm vô vàn tội ác đối với Dân Tộc. Nào phải đến thập niên 50 Việt Minh Cộng Sản mới thi hành chánh sách Trí Phú Địa Hào Đào Tận Gốc Trốc Tận Rễ đâu, mà ngay từ những ngày đầu tiên của năm 1945, khi quân đội Pháp chưa trở lại Việt Nam, th́ chúng đă bắt đầu sát nhân hàng loạt để loại trừ địch thủ rồi, và chính Hồ Chí Minh, lúc c̣n mang tên Nguyễn Ái Quốc đă học sách lược nầy từ Stalin hồi năm 1925 và được Đệ Tam Quốc Tế tuyển chọn, đào tạo, và ủy nhiệm trong chức vụ Kominternchik rồi!


    Trường hợp nhà đại học giả Phạm Quỳnh là một trường hợp đặc biệt vô cùng v́ Cộng Sản đă sát hại ông và sau đó v́ nhu cầu sống c̣n của đảng, họ c̣n bôi bẩn thanh danh ông và gạt bỏ công tŕnh lớn lao của ông trong văn học. Trong Tuyển Tập Giải Oan Lập Một Đàn Tràng, có bài của sử gia Trần Gia Phụng (trang 320): Giết xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc huỷ diệt luôn h́nh ảnh sáng chói nhà học giả Phạm Quỳnh. Cộng sản liền quy chụp cho Phạm Quỳnh tội phản quốc, làm tay sai cho Pháp. Gần 40 năm sau, trong từ điển văn học, gồm 2 tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm nhiều người viết, do Ủy Ban Khoa Học Xă Hội xuất bản tại Hà Nội, vẫn không có mục Phạm Quỳnh. Khi viết về các nhóm văn hóa, sách này không thể loại nhóm Nam Phong v́ nhóm này có khá nhiều tác giả nổi tiếng. Nói đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả Nguyễn Phương Chi trong ban biên tập từ điển, vẫn gọi Phạm Quỳnh là bồi bút, phản động. Hơn thế nữa, năm 1997, trong Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn Hoá Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế biên tập, mục Phạm Quỳnh trang 578-579, hai tác giả nầy viết: “Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên nhanh như diều gặp gió v́ gắn bó mật thiết với các quan thầy thực dân... Ngày 23-8-1945, Phạm bị các lực lương yêu nước bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử bắn ở làng Hiền Sĩ, tỉnh Thừa Thiên, hưởng thọ 53 tuổi”.


    Đó là những học giả văn nô trong nước viết theo lịnh đảng để ngụy tạo lịch sử, sự thật th́ Phạm Quỳnh không bị xử bắn ở làng Hiền Sĩ mà bị đập vở sọ bằng xẻng cuốc và chôn ở rừng Hắc Thú. Ở quốc ngoại, đảng cũng không tha Phạm Quỳnh nên đạo diễn cho tạp chí Đi Tới ở Canada ra số đặc biệt (tháng 9/1999) về chủ đề Phạm Quỳnh Văn Hào Và Chánh Trị: Công Hay Tội. Lập lờ đánh lận con đen như bản tính của Cộng Sản, tạp chí Đi Tới cho đăng 4 bài mà hết 3 bài của 3 tác giả thân cộng (giáo sư văn khoa Nguyễn Văn Trung, tiến sĩ khoa học Nguyễn Văn Tuấn và giáo sư sư phạm Nam Giao) cùng đứng chung ở vị trí đối kháng Phạm Quỳnh. Điểm đáng ghi nhận, là toà soạn đă tỏ thái độ trung dung tối thiểu đem đăng kèm bài báo của nhà văn Nhuệ Hồng (tức luật sư Nguyễn Hữu Thống) dành sự tán thưởng cho công tŕnh văn hoá ngày xưa của nhà học giả Phạm Quỳnh.


    Để có một sử quan trung thực về học giả Phạm Quỳnh, xin có Câu Chuyện Về Trang Giấy Trắng (của Hồ Chí Minh và của Phạm Quỳnh). Trong quyển hồi kư Hoa Xuyên Tuyết của Bùi Tín viết với bút hiệu là Thành Tín và xuất bản ở Paris, mùa thu 1991, tác giả Bùi Tín viết về “trang giấy trắng của Hồ Chí Minh” bằng ḍng chữ : “Gần như trên một trang giấy trắng, chúng ta đă đổ lên một lọ mực tầu đen và ngộ nhận đó là ánh sáng!” Cách ví von của Bùi Tín thật lư thú. Trang giấy trắng là Dân Tộc, lọ mực tầu là Tư Tưởng Mao Trạch Đông cùng những sách lược tẩy năo, chỉnh huấn, cải cách ruộng đất tai hại tàn phá đất nước. Đổ cả lọ mực tầu lên trang giấy trắng th́ c̣n ǵ là giấy! Mà ai đă làm đổ? Vào năm 1991 Bùi Tín viết là “chúng ta”, nhưng bây giờ chúng ta biết Thủ Phạm làm đổ mực là người đă phát biểu câu “Ai đó th́ có thể sai, chứ Stalin và Mao Trạch Đông th́ không thể nào sai được”. Chính là Bác Hồ vĩ đại đó! Bác đă làm đổ mực!

    Trang giấy trắng của Hồ Chí Minh đă đen màu mực Tầu như vậy hẳn là phải bị vất bỏ vào sọt rác! C̣n trang giấy của học giả Phạm Quỳnh th́ sao, xin mời quư bạn đọc tiếp (trích bài Trường Hợp Phạm Quỳnh của sử gia Trần Gia Phụng trong Tuyển tập Giải Oan Lập Một Đàn Tràng, trang 304): “Dân Việt Nam chúng tôi không thể ví như một trang giấy trắng được đâu. Chúng tôi là một quyển sách đầy chữ viết một thứ mực không phai. Quyển sách cổ ấy có thể đóng theo kiểu mới cho hợp thời trang nhưng không thể đem một thứ chữ ngoài in lên những ḍng chữ cũ được…”. Vào thời điểm đó, Phạm Quỳnh là một nhà báo trẻ tuổi ngoài 30, đúng ra ông đang là chủ bút tạp chí Nam Phong, được tháp tùng phái đoàn vua Khải Định sang Pháp, và được mời diễn thuyết ở Hàn Lâm Viện Pháp quốc ở Paris. Trước các nhà trí thức hàng đầu của Pháp quốc, học giả Phạm Quỳnh nói lên rằng Pháp quốc có thể đem “cái học thuật cao thượng đời nay” phổ biến chớ không thể nào huỷ diệt được truyền thống văn hóa của Dân Tộc.


    Trích từ quyển Hồi Kư Nguyễn Xuân Chữ

    Trong 5 vị thành lập Ủy Ban Kiến Quốc ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Văn An, Vũ Đ́nh Dy và Lê Toàn (Ngô Đ́nh Diệm làm lănh tụ, bác sĩ Chữ làm phó) th́ có 2 vị đă bị Cộng Sản sát hại: Vũ Đ́nh Dy bị Cộng Sản xử tử năm 1945 và qua năm sau 1946, Vũ Văn An cũng bị xử tử trong điều kiện tương tự (trang 18). Hai lănh tụ quan trọng Quốc Dân Đảng là Nguyễn Ngọc Sơn và Nguyễn Thế Nghiệp mà Bác Sĩ Chữ có được gặp mấy lần trong thời gian trước ngày Việt Minh đảo chính, đều bị cắt tiết ở Trèm Vẽ, xác trôi sông. Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng tường thuật cách giết người của Hồ Chí Minh vào thời gian đó như sau (trang 303 sđd): “Thời kỳ đầu, Việt Minh cầm chính quyền, cán bộ c̣n thiếu súng đạn. Chôn sống, cắt tiết, đành là những triệu chứng căm thù, cũng c̣n là những phương pháp tiết kiệm đạn. Ở đây, cắt tiết c̣n thêm moi gan trong những trường hợp giết v́ thù cá nhân. Lại c̣n một thủ đoạn nữa, tàn nhẫn bội phần, là lấy búa bổ lên đầu người, như đồ tể bổ vào đầu vật.”


    Những Vụ Sát Nhân Ở Miền Trung Do Tác Giả Nguyễn Trân Ghi Chép

    Một nhân chứng khác là cụ Nguyễn Trân, trong tác phẩm Công Và Tội, đă kể lại chuyện hành quyết người chết và khủng bố tinh thần người sống như sau:

    “Chỉ tiếng trống ngũ liên đánh từ sáng sớm đến tối đen trước cổng nhà giam cũng đủ làm đứng tim, trong lúc ba người bị đưa ra giết hai c̣n một trở vào kể chuyện cho nghe: một cụ già đầu bạc trắng phơ bị chém, đầu rơi xuống nhuộm máu đỏ; một anh Cao Đài không cho cột tay chân mà ngồi ṿng tay để cho chém, bảo giết được thể xác anh chớ không giết được linh hồn anh! Một gương anh hùng, lẫm liệt!


    Các địa chủ phú nông bị giết một cách thê thảm. Dă man nhất là khi chồng bị giết, vợ phải đưa tay lên hoan nghênh, cũng như con khi cha bị giết. Có người bị bắt nhốt trong cũi heo để dân chúng dưới sự kích thích hay hiệu lệnh của cán bộ Việt Minh dùng lao cao vót nhọn (chớ không phải gươm giáo) mà đâm cho chết, có người bị chôn vùi mà chưa chết lên tiếng cầu xin: Tôi chưa chết xin giết tôi đă. Đó cũng là số phận được dành cho những kỳ hào hay những người có uy tín mà Việt Minh sợ dân chúng nghe theo hay những người Việt Minh nghi ngờ có thể chống lại chúng. Đàn bà con gái phải cắt cụt tóc khi nghe lệnh truyền cấp tốc mà hiểu lầm là cắt tóc.”


    Ở trong Nam, nhà văn Xuân Vũ cũng tường thuật một vụ hiểu lầm v́ bản văn của quận gởi xuống làng không bỏ dấu nên đă gây ra nhiều cái chết oan ức của người dân. Trong quyển hồi kư Đường Đi Không Đến, nhà văn viết như sau: “Hồi kháng chiến ở làng tôi có một vụ động trời. Công văn đánh máy không có dấu. V́ trên quận muốn những cuộc bắt bớ xảy ra ban ngày để dân chúng khỏi sợ sệt nên dặn kỷ là - có bắt ai th́ chỉ bắt ban ngày nhưng v́ máy không có dấu nên thành ra bat ban ngay. Rồi ở dưới xă đọc là bắt bắn ngay. Cho nên công an cứ bắt lôi ra khỏi cửa là bùm liền. Có đến cả chục vụ như vậy ở trên quận mới hay. Th́ đă muộn rồi.”


    Những Vụ Sát Nhân Do Giáo Sư Lê Xuân Khoa Ghi Chép

    Cũng ở miền Nam, công cuộc giết người yêu nước và dân lành vô tội trong Lễ Tế Cờ của Hồ Chí Minh thật vô cùng khủng khiếp như lời ghi chép của Giáo Sư Lê Xuân Khoa như sau trong quyển Việt Nam 1945-1995 (trang 69):
    “Tại miền Nam, chiến dịch diệt trừ đối lập cũng được thi hành song song với miền Bắc ngay từ sau Cách Mạng Tháng Tám 1945. Những thủ lănh Đệ Tứ Quốc Tế như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Lương Đức Thiệp, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch đều bị thủ tiêu. Nhiều lănh tụ chính trị không cộng sản của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất (thành lập ngày 14 tháng Tám) như Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Dương Văn Giáo, và hai vợ chồng bác sĩ Hồ Vĩnh Kư cũng bị giết, mặc dù đă kết hợp với Việt Minh để lập thành Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ (4 tháng Chín). Bùi Quang Chiêu, lănh tụ đảng Lập Hiến, năm đó đă 72 tuổi và không c̣n hoạt động chính trị, bị bắt cùng bốn người con trai đem đi thủ tiêu, đứa con út chỉ mới 16 tuổi. Cuộc truy lùng và diệt trừ đối lập ở miền Nam c̣n tiếp tục sau khi các lực lượng đảng phái quốc gia ở miền Bắc đă bị quyét sạch. Đáng kể nhất là các vụ tàn sát các chức sắc, tín đồ và binh sĩ của đạo Cao Đài và Phật Giáo Ḥa Hảo. Theo tài liệu của hai tôn giáo này, tổng số người bị giết lên đến hai chục ngàn người. Giáo chủ Phật giáo Ḥa Hảo Huỳnh Phú Sổ bị bắt cóc và thủ tiêu năm 1947. Phối sư Thượng Vinh Quang Trần Quang Vinh Tổng Tư Lệnh quân đội Cao Đài, bị bắt tháng Mười 1945 nhưng trốn thoát tháng Giêng 1946, sau đó tham gia vào chính phủ Nguyễn Văn Xuân (1948), Ngô Đ́nh Diệm (1954) và Thượng Hội Đồng Quốc Gia (1965). Theo tin tức của thân nhân tị nạn ở Hoa Kỳ, Phối Sư Trần Quang Vinh bị chính quyền cộng sản bắt và xử tử vào tháng Chín 1975.”


    Ở Huế: Đụng Đâu Bắt Đó, Hai Hàng Lụy Rơi

    Những vụ khủng bố, bắt bớ, và thủ tiêu ở Huế được Nguyễn Minh Cần trả lời hăng thông Tấn VNN do Vơ Triều Sơn phỏng vấn như sau: “Quả là sau cuộc khởi nghĩa, ở Huế và Thừa Thiên đă xảy ra một số vụ khủng bố của Việt Minh. Nói chung, người ta giấu rất kín các vụ này... Các vụ bắt bớ đều rất bí mật, ít ai được biết, nhưng chắc cũng đă gây ra bầu không khí hoảng sợ trong dân chúng. Tôi suy luận như thế, v́ hồi năm 1946 t́nh cờ chính tôi cũng có nghe câu vè truyền khẩu ở Huế, đại loại như:
    …Xe xanh, cờ đỏ, sao vàng
    Đụng đâu bắt đó, hai hàng luỵ rơi…
    Hồi đó, xe của công an Trung bộ sơn màu xanh có cắm cờ đỏ sao vàng, đối với dân chúng Huế, là biểu tượng không mấy hiền lành.”


    Nạn Nhân: Một Anh Tài Trong Hoàng Tộc

    Trong quyển tạp bút Một Thời Hoàng Tộc của tác giả Bảo Thái, ông có thuật vụ một Mệ trong hoàng tộc là nạn nhân của Lễ Tế Cờ như sau (trang 70): “Mệ Bửu Tuyển là em hàng thúc bá với nội tổ của tôi, cũng là con cháu thuộc Phủ Vĩnh Tường. Là con nhà vệ sĩ, chính Mệ là người đứng ra thành lập hội Quyền Anh Thừa Thiên vào thập niên 1940. Môn đệ của Mệ có hàng trăm người trong đó có những người nổi tiếng như các vơ sĩ Vĩnh Tiên, Thạch Mai, La Kim Thân, Trần Đ́nh Thêm, Thạch Sơn, Mă Siêu Tử... Chính Mệ cũng là người mở trường dạy tiếng Nhật trước phong trào học tiếng Nhật lên cao ở Huế vào dạo ấy. Sau khi cướp chính quyền, Việt Minh bắt Mệ đi mất tích. Về sau nầy gia đ́nh được biết Mệ đă bị chúng đem thủ tiêu tại Nghệ An.”


    Lưỡi Hái Tử Thần Đi Qua Quảng Ngăi

    Về Lễ Tế Cờ ở tỉnh Quảng Ngăi được tác giả Nguyễn Văn Thiệt thuật lại trong bài Tôi Thấy Tạ Thu Thâu Chết, đăng trong tuần báo Hồn Nước số 7 ngày 30-7 và số 8 ngày 7-8-1949. Bài viết nầy được tác giả Đặng Văn Long sưu tầm trong quyển Người Việt Ở Pháp 1940-1954 (trang 477):

    “Ai đi ngang Quảng Ngăi vào khoảng tháng 9 năm 1945, cũng biết đến không khí hăi hùng của cái thành phố tự cho ḿnh có tinh thần cách mạng cao ấy. Các tín đồ Cao Đài, các nhà trí thức, các nhà phú hộ, các nhà cách mạng quốc gia, tất cả những hạng người ấy cùng với vợ, con, anh em họ được Việt Minh cẩn thận chém giết, chôn sống, thiêu cháy, mổ bụng v.v…mỗi ngày theo chính sách Tru di tam tộc để trừ hậu họa. Người chết nhiều đến nỗi độ ấy ở Hà Nội, tờ báo Gió Mới của Tổng Hội Sinh Viên, một tờ báo rất thiên Việt Minh đă phải lên tiếng rằng ở Quảng Ngăi, ngày ngày đầu người rụng như sung”.

    Cũng trong bài Tôi Thấy Tạ Thu Thâu Chết, tác giả Nguyễn Văn Thiệt nói về cái chết của bạn anh tên Lê Xán như sau:
    “Anh Lê Xán, bạn tôi, một đồ đệ của cụ Phan Bội Châu, bị Pháp đày Lao Bảo vừa được thả ra th́ bị Việt Minh Quảng Ngăi bắt lại và bị xử tử.”

    Nguyễn Văn Thiệt cũng thuật chuyện ba người con trai của Tổng Đốc Nguyễn Hy bị bắt v́ tội “trong thời kỳ cách mạng toàn dân mà trong nhà chứa đờn và bà́ ca ủy mị”. Cả ba người đó đă bị xử tử một tuần lễ sau khi anh Thiệt đến.



    V́ Sao Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Từ Bỏ Kháng Chiến

    Về tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người thành lập Đệ Nhị Cộng Ḥa năm 1965, th́ 20 năm trước, tức năm 1945, ông cũng tham gia cao trào toàn dân kháng chiến chống Pháp, và v́ có tài về quân sự, nên ông đă được đảm nhận chức Huyện Đội Trưởng. Nhưng sau đó, ông từ bỏ hàng ngũ kháng chiến bởi v́ cán bộ Việt Minh đă ám sát những thành phần đối lập và triệt tiêu hội đồng bô lăo trong làng của ông (trang103, quyển Cuộc Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ của Stephan B. Young, Nguyễn Vạn Hùng chuyển ngữ).



    Vụ Sát Hại Tín Đồ Cao Đài Ở Quảng Nam Và Quảng Ngăi

    Trích từ Bạch Thư Cao Đài Giáo do Giáo Hữu Ngọc Sách Thanh phổ biến ở California, Hoa kỳ, ngày 9-4-1999, các tín hữu Cao Đài ở những tỉnh phía nam Trung phần đă gánh chịu tai ách về Lễ Tế Cờ của Hồ Chí Minh như sau:
    “Trong suốt ba tuần lễ từ 19-8-1945, chỉ riêng trong phạm vi tỉnh Quảng Ngăi, đă có 2.791 Chức Sắc, Chức Việc và Tín Hữu Cao Đài đă bị những người Cộng Sản Việt Nam sát hại bằng đủ mọi cách, như chém đầu, chôn sống, thả biển, và cả h́nh thức tùng xẻo như thời trung cổ. Trong đó có các vị Chức Sắc cao cấp như Đức Liễu Tâm Chơn Huỳnh Ngọc Trác, Giáo Sư Lê Đức, Giáo Sư Ngọc Thành Thanh, các Giáo Hữu Nguyễn Trân, Lê Đường, Lê Quang Viện, Nguyễn Sử, Nguyễn Kỉnh, Bùi Phụng, Nguyễn Thống, Trần Lương Hiếu, v.vân…Giáo Sư Nguyễn Hồng Phong cùng năm nhân sĩ khác bị giết tại Làng Bầu, Quảng Nam.


    Việc sát hại tập thể người Cao Đài này v́ lẽ họ không chối bỏ đức tin Thượng Đế, Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền. Đây là lệnh của Hồ Chí Minh ban ra cho Nguyễn Chánh, Phạm Văn Đồng thi hành sự chém giết tại Quảng Ngăi; c̣n Hồ Nghinh, Hoàng Minh Thắng thi hành tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Hơn thế nữa, họ c̣n tiêu diệt chôn sống nhà trí thức nổi tiếng Tạ Thu Thâu, quư Nhân Sĩ chân chánh quốc gia như các ông Cao Văn Trung, Hồ Hóc, Hồ Nhản, Hồ Hồng, và hàng loạt những người bất đồng chánh kiến khác cũng bị giết hại tại Quảng Ngăi vào tháng 8 năm 1945.”



    Vụ Thiên An Môn Ở Cần Thơ

    Biến cố Thiên An Môn Cần Thơ xảy ra vào ngày 8-9-1945 (chỉ 6 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập ở Hà Nội!). Đó là Tội Ác do Việt Minh Cộng Sản xả súng bắn vào những tín đồ Ḥa Hảo biểu t́nh bất bạo động đ̣i hỏi Trần Văn Giàu phải dân chủ hóa trong công cuộc kháng chiến chống Pháp chớ không được độc quyền yêu nước. Đó là hậu quả tất nhiên gây ra do việc Trần Văn Giàu cướp chính quyền ngày 25-8-1945, thành lập Lâm Ủy Hành Chánh gồm 9 ủy viên, trong đó 8 ủy viên là cộng sản và thân cộng, để gạt ra ngoài Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất.


    Xin nhắc lại sau khi Mỹ thả trái bom nguyên tử xuống Hiroshima ngày 6-8-1945, nội các Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 7-8-1945, và Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 15-8-1945, để đối phó với t́nh trạng vô chính phủ, các tổ chức tranh đấu ở miền Nam hợp lại thành lập 4 Sư Đoàn Dân Quân và Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất ra đời. Mặt Trận tượng trưng cho sự đoàn kết của các tổ chức tranh đấu và đảng phái nên uy thế rất mạnh được sự ủng hộ nhiệt liệt của quần chúng khắp miền Nam. Chính Trần Văn Giàu cũng xin gia nhập và Mặt Trận đă chấp nhận sự tham gia của Trần Văn Giàu để có sự đoàn kết rộng răi hầu đối phó hữu hiệu với thời cuộc. Rồi bỗng nhiên, không tham khảo ư kiến của những vị lănh đạo trong Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, Trần Văn Giàu cùng đám Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản ngang nhiên thành lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ tập trung tất cả quyền hành vào trong tay ḿnh để khởi đầu cho nền độc tài chuyên chính vô sản và một màn chém giết thủ tiêu đối lập rùng rợn khắp cả miền Nam. Nếu Tội Ác có thể nẩy nở lây lan như loài vi khuẩn, th́ Thiên An Môn Ở Cần Thơ chính là Tội Ác Mẹ đẻ ra vô số Tội Ác Con được tường thuật sau đây.


    Thật đúng vậy, khi các tín đồ Ḥa Hảo kéo đến ṭa hành chánh Cần Thơ để chống Độc Tài Đảng Trị và đ̣i dân chủ hóa trong công cuộc Kháng Chiến Chống Pháp, họ bị vu cáo là “Nổi Loạn Chiếm Tỉnh Cần Thơ” trong khi họ biểu t́nh bất bạo động và không mang vũ khí. Ba người đại diện của họ vào ṭa Hành Chánh để thương thuyết là Huỳnh Thạnh Mậu bào đệ Đức Giáo Chủ, Trần Văn Hoành trưởng nam ông Trần Văn Soái, và Nguyễn Xuân Thiếp tức thi sĩ Việt Châu, cả ba người đều bị bắt cầm tù. Không thả ba người đại diện vào thương thuyết, Việt Minh Cộng Sản mà cốt lơi là Cộng Sản Đệ Tam, lại c̣n xả súng bắn vào những người biểu t́nh bất bạo động.


    Tác giả quyển Ma Đầu Hồ Chí Minh là Hoàng Quốc Kỳ viết lại lời khoe của một tay súng cộng sản như sau:

    “Trong khi Hồ Chí Minh tuyên bố Tự Do Tôn Giáo th́ một cán bộ cộng sản tên Nguyễn Văn Nghệ, một tay súng tiểu liên đầu đàn của Việt Minh tường thuật lại thủ đoạn của y và đồng đội với tín hữu Ḥa Hảo như sau: “Tụi Ḥa Hảo gan cùng ḿnh. Lớp này ngă xuống, lớp khác tiến lên, cả đàn bà con nít cũng vậy. Bóp c̣ đến run cả tay, máu loang hết cả mặt đường mà chúng nó vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đă tản thần, nhưng lệnh bắt phải bắn tiếp…”


    Một nhân chứng là Vy Thanh, lúc đó là một học sinh vừa đậu bằng Tiểu học và đang học lớp Đệ Nhứt Niên ban Trung học, lén cha mẹ chạy theo đám biểu t́nh để xem. Về sau, khi tỵ nạn trên đất Mỹ, Vy Thanh là tác giả quyển Lớn Lên Với Đất Nước đă viết về những điều anh chứng kiến cùng với những tài liệu của Đảng viết để ngụy tạo lịch sử như sau (trang 419):

    “Con số bị thương và chết v́ súng đạn hôm đó thực sự không ai biết chắc (ngoài các người cộng sản chỉ huy trận tàn sát ngày 9-9-1945). Nhưng căn cứ theo tài liệu của Bộ Chỉ Huy Quân Sự tỉnh Cần Thơ, người đọc hẳn thấy cộng sản đă ghi lại “sự thật” qua mấy chữ “không thật” trong ngoặc đơn “3 người chết, 27 người bị thương, không ai bị vết đạn nào, toàn là gươm giáo đâm lẫn nhau và chết đuối!”


    Nhân chứng Vy Thanh viết tiếp rằng trước mắt anh hôm đó ngoài bốn người trúng đạn súng liên thanh chết tại chỗ, c̣n thấy một người cơng người đă chết ngă quỵ v́ bị đạn ở chân. Khoảng một tháng sau, vào ngày 7-10-1945, ba vị đại diện Ḥa Hảo bị đem ra xử tử tại vận động trường Cần Thơ. Đi t́m chân lư trong lịch sử, Dân Tộc sẽ ghi nhận tên tuổi của ba vị Huỳnh Thạnh Mậu, Trần Văn Hoành, và Nguyễn Xuân Thiếp là những chiến sĩ hy sinh đầu tiên trong công cuộc chống Độc Tài Đảng Trị ngay khi Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế vừa nắm được chánh quyền ở miền Nam (chỉ có hơn 40 ngày kể từ 25-8-1945 ngày Trần Văn Giàu cướp chánh quyền và Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ ra đời đến 7-9-1945 ngày xử tử ba Đại Diện Phật Giáo Ḥa Hảo).


    Sau khi Việt Minh Cộng Sản xử tử 3 vị đại diện PGHH, th́ mức độ nồi da xáo thịt ở miền Hậu Giang tăng gia mănh liệt. Tác giả bác sĩ Trần Ngươn Phiêu viết như sau trong quyển Những Ngày Qua (trang 118): “Cộng Sản sau đó đă khủng bố dữ dội các tín đồ vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Trà Vinh, Sa Đéc… Hơn 10 ngàn người đă bị giết và chôn tập thể ở các cánh đồng xa xôi trong Đồng Tháp Mười. Những người c̣n sống sót nay đă bắt đầu tố cáo các việc nêu trên và chỉ điểm các nơi chôn. Phản ứng của Ḥa Hảo cũng rất mănh liệt và cán bộ Cộng Sản cũng bị giết hại không ít.”



    Những Vụ Sát Nhân Do Nguyễn Long Thành Nam Ghi Chép

    Tường thuật phong trào sát nhân hàng loạt ở miền Nam, trong quyển Phật Giáo Ḥa Hảo Trong Ḍng Lịch Sử Dân Tộc, tác giả Nguyễn Long Thành Nam đă làm sống lại thời gian khủng khiếp đó như sau: “Giết Việt gian là một phong trào có chánh sách, có chủ trương. Đối với dân chúng, đó là áp lực để mọi người phải tuân lịnh trung thành với Việt Minh. Đối với lănh tụ và cán bộ đối lập, đó là phương cách tiêu diệt trừ hậu hoạn.

    Có thể nói chánh sách“Việt gian” tại miền Nam khởi đầu từ bản thông cáo của Trần Văn Giàu được đăng tải trên các báo sáng ngày 8-9-1945:


    ĐÂY LÀ THÔNG CÁO CHÁNH PHỦ LÂM THỜI

    Chánh phủ Lâm thời Nam bộ đang dự bị lập Ủy ban điều tra mỗi tỉnh, mục đích là xem xét và tố cáo bọn phản quốc. Bọn nầy sẽ bị ṭa án nhân dân trừng trị, và tài sản của họ bị tịch thu, ruộng đất của họ bị lấy lại mà cho dân nghèo.


    Tác giả Nguyễn Long Thành Nam thuật tiếp rằng sau thông cáo đó, phong trào bắt giết Việt gian được phát động khắp nơi, những ai đối lập với Cộng Sản là bị thủ tiêu. Trước hết là nhóm Đệ Tứ, rồi đến những ai biết bề trái của Trần Văn Giàu, rồi mới đến những người đối lập bị khép tội Việt gian. Trong đợt tàn sát đầu tiên từ khi chiến sự bùng nổ ở miền Nam, những lănh tụ tên tuổi sau đây đă bị giết: Dương Văn Giáo, Hồ Văn Ngà, Hồ Vĩnh Kư, Nguyễn Thị Sương, Bùi Quang Chiêu, Lê Kim Tỵ, Lâm Ngọc Đường, Trương Lập Tạo… và các lănh tụ Đệ Tứ. Ngoài ra các cán bộ trung cấp của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất cũng bị hạ sát rất nhiều, con số 2.500 của ông Trịnh Hưng Ngẫu đưa ra không xa sự thật.

    Theo tác giả Nguyễn Long Thành Nam th́ số người bị giết trong hai tôn giáo Cao Đài và Phật Giáo Ḥa Hảo năm 1945 lên đến trên mười ngàn, nhưng v́ xảy ra tại các vùng nông thôn hẻo lánh, cho nên báo chí không đăng và dư luận trong nước ngoài nước không khám phá ra được.



    Tác Giả Hứa Hoành Tường Thuật


    Bằng cách thu thập tài liệu theo lời kể của những nhân chứng ở miền Nam vào lúc đó, Hứa Hoành trong bài Việt Minh Cộng sản Cướp Công Kháng Chiến chống Pháp ở Miền Nam thuật lại những thủ đoạn ám sát khủng bố như sau: “Từ ư nghĩa cuộc chiến tranh Vệ quốc, chống lại kẻ thù trở thành xâm lăng là Pháp, bọn Cộng sản chỉ hô hào, tuyên truyền để giành lấy chính nghĩa, rồi đêm đêm t́m cách bắt những người nào chống lại chúng, thủ tiêu. Ban ngày chúng mời đến họp, thành lập ủy ban, ban đêm chúng gỏ cửa dẫn đi mất. Mấy ngày sau, xác nạn nhân śnh thối trôi nổi trên sông. Thời kỳ đó Việt Minh khủng bố c̣n hăi hùng hơn cả thực dân. Chúng bắt người bỏ vào bao bố, trấn nước cho chết gọi là ṃ tôm, hoặc bắt người mổ bụng dồn trấu, với tội danh mơ hồ Việt gian, hoặc không bao giờ kết tội ǵ cả.”

    Cách giết người gọi là ṃ tôm trên đây, có lẽ phổ biến khắp nước. Ở miền Bắc, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ nghe chuyện một người học tṛ lớp y tá của ông tṛ chuyện với các bạn học rằng: “Thày mà Quốc Dân Đảng, cũng tôm cả thày.”

    Hầm Chôn Người Tập Thể Ở Mỹ Tho Năm 1945

    Luật sư H́nh Thái Thông, bạn học của Tạ Thu Thâu ở trường Bổn Quốc, sau có du học ở Pháp, cũng là nạn nhân Lễ Tế Cờ của Hồ Chí Minh. Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ viết chỉ vài ḍng ngắn ngủi: “Thông làm trạng sư ở Sài G̣n sau về Mỹ Tho, rồi bị giết hại trong Phong Trào Thanh Niên Tiền Phong, 1945, chôn tập thể một hầm gần 100 người tại Quởn Long (Chợ Gạo Mỹ Tho), năm sáu năm sau mới t́m thi hài ra được.” Bà góa phụ H́nh Thái Thông sau là giáo sư dạy Pháp văn trường Trung học Nguyễn Đ́nh Chiểu ở Mỹ Tho, các học sinh vào thập niên 1950 đều có học Pháp văn với bà.


    Mang Súng Vào Lớp Xử Tử Học Sinh Đang Học Ở Sài G̣n.

    Câu chuyện do một nhân chứng vốn là học sinh và sau nầy là đại tá Nguyễn Văn Ánh thuật lại và do giáo sư tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm là cựu hiệu trưởng của trường Trung Học Petrus Trương Vĩnh Kư ghi chép trong quyển Trường Trung Học Petrus Kư Và Nền Giáo Dục Phổ Thông Việt Nam (trang 56):

    “Một học sinh Petrus Kư bị xử tử ngay trong lớp học trước sự ghê sợ của giáo sư và học sinh của trường... Hồi năm 1950, một buổi chiều, khoảng 2 hay 3 giờ, trong giờ Pháp văn của giáo sư Nguyễn Văn Hai, có 6 người lạ mặt xông vào trường Petrus Kư. Hai người đi thẳng vào lớp Troisième Année B. Mấy người c̣n lại đứng canh chừng ở bên ngoài. Hai người vào lớp kêu tên hai học sinh của lớp nầy. Họ bắt một trong hai học sinh đó lên trên chỗ vách tường gần bàn giáo sư. Họ đọc to bản án tử h́nh cho mọi người nghe. Sau khi đọc xong bản án, một trong hai tên nầy dùng súng lục bắn chết anh học tṛ kia ngay trước sự chứng kiến của giáo sư Hai và tất cả học sinh của lớp Troisième Année B. Sau khi thi hành xong thủ đoạn cả bọn cùng chạy ra đường Cộng Ḥa vừa hô to khẩu hiệu Việt Nam Độc Lập muôn năm. Người bị xử tử tên là Minh, mà theo đại tá Ánh th́ là một học sinh học hành rất chăm chỉ và là người có phẩm hạnh không có ǵ đáng chê trách... Bản án kết tội anh Minh là làm mật thám cho Pháp. Dù có hay không, việc xử tử công khai một học sinh ngay tại lớp học, ở trong một trường học lớn, trước sự chứng kiến của giáo sư và học sinh, vẫn là một hành động khát máu và hoàn toàn trái ngược với luân lư giáo dục.”


    Thà Giết Lầm Hơn Tha Lầm

    Những trường hợp sát nhân trong Lễ Tế Cờ vừa kể xảy ra trên cả 3 miền Bắc Trung Nam và bao gồm đủ các loại nạn nhân: từ những bậc chân tu, đến những người yêu nước khác chính kiến, cho đến học sinh tuổi vị thành niên, Hồ Chí Minh không bỏ sót ai cả, v́ thà giết lầm c̣n hơn tha lầm. Đến bây giờ, vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, sau hơn 50 năm, đọc lại Bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà Hồ Chí Minh tuyên cáo cùng quốc dân ngày 2-9-1945 đồng thời phát động chiến dịch sát nhân hàng loạt như trong Lễ Tế Cờ, chúng ta đă thấy Hồ Chí Minh nói một đàng mà làm một nẻo. Nào đâu quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, nào đâu mọi người sinh ra đều có quyền b́nh đẳng như trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập đọc ở vườn hoa Ba Đ́nh!?

    Theo lời kể của cụ Nguyễn Trân, th́ số nạn nhân bị sát hại trong đại họa Lẽ Tế Cờ của Hồ Chí Minh là 8000 người trong ṿng 40 ngày. Theo giáo sư Stephen Morris thuộc Viện Nghiên Cứu Đông Á (Institute of Asean Studies), trường Đại học U. C. Berkeley, th́ chỉ trong ṿng 6 tháng cuối năm 1945 và đầu năm 1946, Cộng Sản Việt Nam đă tàn sát đến 10 ngàn người của phía Quốc Gia và phe Đệ VI Quốc Tế (chi tiết nầy được trích từ quyển Việt Nam, Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia-Cộng Sản của Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử ở Santa Clara, California, một quyển sách đáng đọc để hiểu rơ lịch sử cận đại một cách trung thực. Nhưng nếu chúng ta làm bản tổng kết của các tác giả vừa tường thuật trên đây, th́ số nạn nhân về Lễ Tế Cờ của Hồ Chí Minh không thể dưới con số 20.000 người được.


    Cuộc Cách Mạng Mùa Thu 1945 ở Việt Nam là bản sao của Cuộc Cách Mạng Tháng Mười ở Nga năm 1917. Hồ Chí Minh đă học phương cách giết người để khủng bố và loại trừ đối lập từ bậc thầy Lenin của ông. Lễ Tế Cờ của Lenin ở Nga, theo tác giả Minh Vơ khi nghiên cứu Hắc Thư Về Chủ Nghĩa Cộng Sản, đă viết như sau:

    “Tác giả Nicolas Werth, thực hiện phần 1 (của Hắc Thư), cho biết chỉ trong 2 tháng năm 1918, số nạn nhân bị giết của tân chế độ Lenin là từ 10,000 đến 15,000. Con số này lấy từ báo cáo của Mật vụ Chika, sau khi tác giả ghi lạicác huấn thị của chính Lenin về việc phải trừng phạt những kẻ bất phục tùng được gọi là những tên Gulaks. Dù vậy, số người bị giết ở mức ước lượng tối thiểu trong chỉ 2 tháng dưới chế độ Lenin đă nhiều gấp hơn 10 lần so với số nạn nhân của chế độ Nga Hoàng trọn năm 1906 là năm đàn áp dữ dội nhất. Theo tác giả trong ṿng gần một thế kỷ dưới chế độ Nga Hoàng kể từ 1825 đến 1917, tổng số người bị giết chỉ có 6,321 nạn nhân.”


    Trong văn chương Việt Nam, muốn diễn tả sự lường gạt của bọn con buôn đầu đường xó chợ, chúng ta có câu Treo đầu dê bán thịt chó. Nhưng bọn hàng thịt treo đầu dê bán thịt chó th́ thật sự chỉ lường gạt được một số ít nạn nhân, mà người mua lầm thịt chó c̣n có quyền đem trả để đ̣i tiền lại hoặc đổi lấy đúng thịt dê mang về. C̣n Hồ Chí Minh xưng tụng cách mạng trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam với Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ và Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Và Dân Quyền của Pháp, nhưng nhất nhất đều làm y theo chủ thuyết Mác-Lê-Stalin của Nga và tư tưởng Mao Trạch Đông của Tàu. Hồ Chí Minh đă làm chuyện Treo Đầu Dê Bán Thịt Chó Trong Chính Trị. Hồ Chí Minh đă rao món hàng Cách Mạng theo Âu Mỹ mà lại bán cho dân tộc món Xă Hội Chủ Nghĩa với Cải Cách Ruộng Đất Chủ Thuyết Tam Vô Đấu Tranh Giai Cấp đẫm máu của Nga Tàu. Hồ Chí Minh đúng là kẻ gian xăo đă lường gạt cả Dân Tộc.


    Trong một xă hội lương thiện, không ai dung thứ những gian thương làm ăn theo kiểu treo đầu dê bán thịt chó. Hồ Chí Minh đă làm chách trị theo kiểu treo đầu dê bán thịt chó không những gian xăo để lường gạt dân tộc, mà c̣n tàn nhẩn và khát máu giết hại biết bao nhiêu triệu người. Nhất thời th́ ông đại thành công, nhưng về lâu về dài, dân tộc đă phát giác những âm mưu đen tối của ông và do đó xác nhận ra đích danh kẻ gian xăo đê hèn độc ác đệ nhất hạng trong Lịch Sử Việt Nam đúng là Hồ Chính Mi. Dân tộc Việt quyết không chấp nhận xă hội chủ nghĩa Mác-Lê-Xít-Mao-Hồ. Dân tộc Việt không nhận đúng món hàng mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản rao bán th́ sẽ đứng lên làm cuộc Cách Mạng Dân Tộc Chân Chính với Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc Chân Thật. Phải Đứng Lên Thôi! Đă Trễ Lắm Rồi!


    Viết tại Sydney, Úc Châu
    Mùa Xuân 2007
    Nhóm Tâm Việt Sydney

  3. #3
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    345

    Hồ chí Minh gây nội chiến , chiến tranh trường kỳ

    HCM gây nội chiến

    và chủ trương chiến tranh trường kỳ

    Gs. Hứa Hoành

    15.01.2007

    Đến đây (1949) cuộc kháng chiến chống Pháp, không c̣n là kháng chiến nữa. Nó trở thành cuộc đấu tranh giai cấp trường kỳ...

    “Kháng chiến chống Pháp là h́nh thức cao rộng của đấu tranh giai cấp, nghĩa là cuộc đấu tranh lớn lao trên thế giới giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”. (Tổng Bí Thư Trường Chinh)

    “Ông Hồ cứ đổ vạ cho người khác (Pháp) trong khi chính ông chủ trương gây nội chiến và trường kỳ kháng chiến để nắm quyền hành và làm cách mạng vô sản”.

    Khác với những tài liệu, sách báo do Việt Cộng viết ra “...Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn ḥa b́nh. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh nầy chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách. Chúng tôi tha thiết với nền độc lập... Nước Việt Nam cần kiến thiết, Nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm th́ chúng tôi sẽ làm...”. (“Bác Hồ, những ngày tháng Chạp 1946”, báo Nhân Dân số ra ngày 15/12/1986).

    Tất cả sách báo bên nhà viết ra đều theo đúng lập trường như trên. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu lư thuyết Mác Lênin và những hoạt động của Lênin hồi cách mạng vô sản tháng 10/1917 tại Nga, th́ chúng ta nhận ra một sự thật trái ngược. Ông Hồ không những không muốn tránh chiến tranh, mà c̣n cám ơn Pháp đă xâm lăng Việt Nam, để ông có cơ hội cho đảng CS nắm chặt quyền bính, cũng như ông đă chủ trương gây nội chiến để triệt hạ tất cả những thành phần đối lập, thuộc giai cấp tiểu tư sản.

    Bằng mọi thủ đoạn lừa dối, gian xảo, một nhóm đảng viên CS vô nghề nghiệp (thực chất lúc đó chỉ có 8 người), tụ tập giữa rừng sâu (Tân Trào), tự phân chia vai vế với nhau (16/8/1945), âm thầm kéo về Hà Nội vào ban đêm (24/8/1945), dùng báo tuyên truyền bịa đặt chuyện “Quốc Dân Đại Hội Tân Trào” bầu ra chính phủ lâm thời. Vừa nắm chính quyền bất hợp pháp, ông Hồ thi hành một chính sách hai mặt:

    1. Về công khai, ông kêu gọi mọi người “đoàn kết với Việt Minh” để ủng hộ chính phủ lâm thời do ông lănh đạo.

    2. Trong bí mật, ông thi hành một chính sách khủng bố dă man, dùng như sách lược của Lênin trong thời cách mạng vô sản ở Nga. Chính sách đó là “bắt cóc, ám sát, thủ tiêu, mổ bụng, cắt tiết, buộc đá thả trôi sông, xảy ra như cơm bữa từ thành thị đến thôn quê” (Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, trang 88, Văn Hóa xuất bản 2002).

    Những tháng kế tiếp, các ban ám sát Việt Minh đêm ngày lùng sục bắt bớ những cán bộ các đảng phái yêu nước theo chủ nghĩa Dân tộc, những người có chút tiếng tăm hay gia sản. Việt Minh chụp cho họ cái mủ “Việt Gian” để biện minh cho những vụ thảm sát vô nhân đạo ấy”.
    HCM gây nội chiến.

    Xin quư độc giả nhớ rơ một điều lúc nào Việt Cộng cũng xưng tụng “Chủ tịch HCM là một người học tṛ trung thành nhất của Lênin, mới rồi báo Nhân Dân c̣n ca tụng “Sự nghiệp vĩ đại của Lênin c̣n sống măi”. Những ǵ Lênin đă làm cho Dân tộc Nga hồi cách mạng vô sản 1917, đều được ông Hồ đem áp dụng vào trường hợp Việt Nam.

    “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và Nhân dân Việt Nam không những là cái cẩm nang thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà c̣n là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa Cộng Sản”. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, các trang 126 - 127).

    Ngay từ khi mới chiếm được chính quyền, quan niệm của Lênin rất rơ: “Phe Bolchevik cướp được và giữ được chính quyền là điều ưu tiên lớn nhứt, mọi việc khác đều phụ, đều là thứ yếu, đều vặt vănh...” (Thành Tín, Về Ba Ông Thánh, trang 54). C̣n ông Hồ ? Tưởng Vĩnh Kính, trong tác phẩm nghiên cứu “HCM tại Trung Quốc”, sau khi phân tích tỉ mỉ, đă đưa ra nhận xét: “Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó (1945/1946) đă không phải là vấn đề: có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không, mà chính là vấn đề bản thân của Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không ?”. (Tưởng Vĩnh Kính, sách đă dẫn, trang 356-357).

    Hồi đó (1917 - 1918) vừa nắm chính quyền, Lênin liền tiến hành “chiến tranh giai cấp, tiến hành nội chiến để tiêu diệt kẻ thù giai cấp”. (Thành Tín, sách đă dẫn, trang 56). C̣n trong “Mác Anghen tuyển tập, NXB Sự Thật, Mátxcơva 1978, tập I, trang 555 th́ nói rơ: “Cuộc đấu tranh cho giai cấp vô sản, dù về mặt nội dung không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước ḿnh trước đă” (Dẫn lại của LS Nguyễn Văn Chức). Như vậy buổi đầu mới nắm chính quyền, ông Hồ ngụy trang trong mặt trận Việt Minh để mọi người lầm tưởng họ không phải là cộng sản. Tuy nhiên trong hành động, th́ Việt Minh hiện nguyên h́nh là “đấu tranh giai cấp” dùng bạo lực để củng cố chính quyền.”

    Liền sau khi tuyên bố độc lập (2/9/1945) một chiến dịch khủng bố bắt đầu:

    Trước đó một ngày 1/9/1945, VM đem quân đánh một căn cứ Đại Việt ở Ninh B́nh.

    Ngày 5/9/1945, kư sắc lệnh giải tán các đảng Quốc Gia Xă Hội, Thanh Niên Ái Quốc, Đại Việt Quốc Dân Đảng.

    Ngày 6/9/1945 bắt thủ lănh Thanh Niên Ái Quốc Vơ Văn Cầm. Cùng ngày này trong Nam cũng xảy ra khủng bố, bắt cóc.

    Ngày 10/9/1945, Trần Huy Liệu họp báo thanh minh: “Đó không phải là khủng bố, v́ bị bắt bao giờ cũng là những kẻ do sự điều tra, nhận thấy có phương hại đến chính quyền của Nhân dân.”

    Ngày 12/9/1945 bắt nhiều cán bộ, các đảng quốc gia: Bùi Trần Thường, Đào Chu Khải, Lê Ngọc Vũ...

    Ngày 13/9/1945 bắt hai lănh tụ VNQDĐ Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp, bắt hụt Nhượng Tống... sau đó cắt tiết hai ông Sơn và Nghiệp ở Chèm Vẻ, thả trôi sông.

    Ngày 15/9/1945, ông Hồ kư sắc lệnh an trí những người nguy hiểm cho cách mạng... (Xem Chính Đạo. Việt Nam Niên Biểu, tập 1A, từ trang 255 tới 261).

    Như vậy những ǵ ông Hồ đă làm chính là sao chép cái phương pháp của Lênin đă áp dụng cho Dân tộc Nga.

    Nếu quư vị là thành viên hay lănh tụ các đảng phái yêu Nước theo chủ nghĩa Dân tộc, bị khủng bố như vậy, liệu quư vị có phản ứng lại hay không ? Các đảng phái của những người yêu Nước theo chủ nghĩa Dân tộc buộc ḷng phản ứng lại, chống lại Việt Minh để sinh tồn, tức nội chiến xảy ra. Ai gây ra nội chiến ?

    Để thấy những việc làm của ông Hồ chính là cái bản sao của Lênin trong thời gian mới chiếm được chính quyền ở Nga, xin nhắc thêm: “Nhiều giấy tờ, chỉ thị mang bút tích của Lênin đều xác nhận chính Lênin chủ trương “tiến hành nội chiến” để “tiêu diệt kẻ thù giai cấp”. Điều này cũng đúng với lư thuyết của Mác Anghen như đă dẫn ở trên.

    Chúng tôi xin dẫn chứng thêm trên báo Cờ Giải Phóng, cơ quan tuyên truyền cổ động trung ương đảng CS Đông Dương, xuất bản tại Hà Nội ngày 5/10/1945, có đăng bài “Kỷ Niệm Lần Thứ 28 Cách mạng tháng 10” đă cổ vơ nội chiến như sau: “Giữa cơn băo lửa gầm thét khắp năm châu, Lênin, ... lên tiếng. Những lănh tụ vô sản này đă kêu gọi quần chúng Nhân dân các Nước quay súng lại, bắn vào đầu bọn tư bản trong Nước, đổi “chiến tranh chống đế quốc ra nội chiến”. Như vậy thâm ư của ông Hồ thay v́ chuẩn bị kháng chiến chống xâm lăng, chống đế quốc Pháp, th́ ông quay ra gây nội chiến trước, đúng sách lược của Lênin. Và như vậy, thực dân Pháp chỉ là kẻ thù phụ, thứ yếu, c̣n kẻ thù chính là giai cấp tiểu tư sản mà ông Hồ phải “tiêu diệt đương nhiên và trước hết.”

    Trong việc đấu tranh giai cấp để giành giật chính quyền, ông Hồ có mô phỏng cái phương pháp lừa dối của Mao Trạch Đông hay không ?

    Nên nhớ, từ năm 1938 - 1941, ông Hồ phục vụ trong Hồng quân Trung Quốc. Ông khoe đă học được kinh nghiệm ấy như sau: “Nếu muốn giới thiệu những kinh nghiệm của đảng CS Trung Quốc, ngay những ngày (tôi) ở tại Diên An thôi, th́ dù có dùng đến vài cây số giấy, cũng không thể viết hết được”. (Tưởng Vĩnh Kính, sách đă dẫn, trang 152). Mà kinh nghiệm đó là ǵ ? Là nhờ Nhật xâm lăng, để CS Trung Quốc hô hào kháng chiến chống Nhật, không phải đánh Nhật, mà nhằm làm tiêu hao lực lượng chính phủ Quốc Dân Đảng để nắm quyền... Trong cuộc hội kiến lần đầu tiên với TT Nixon ngày 21/2/1972, Mao thú nhận: “Nhật Bản đă làm một việc có lợi cho đảng CS Trung Quốc là tấn công vào Trung Quốc hồi thế chiến thứ hai, tạo nên sự hợp tác giữa Quốc Dân Đảng và CS, làm cho đảng CS mở rộng được thanh thế về sau giành thắng lợi lớn.”

    “Đến tháng 9/1972, Mao tiếp thủ tướng Nhật Bản Kakuei Tanaka tỏ lời xin lỗi về cuộc xâm lược của Nhật Bản, Mao liền đáp lại là chính nhờ vào việc tấn công ấy mà đảng CSTQ giành được thắng lợi, để bây giờ có cuộc gặp lịch sử nầy.” (Thành Tín, Về Ba Ông Thánh, trang 120).
    Rập khuôn theo sách lược của Mao, ông Hồ dựng cờ chống Pháp buổi đầu, không phải thực sự chống Pháp, mà bí mật hợp tác với Pháp để tiêu diệt những đảng phái yêu Nước khác Việt Minh. Có thể nói ông Hồ cám ơn Pháp, v́ nhờ có cuộc xâm lăng ấy, nên Việt Minh mới có cơ hội kháng chiến, mới có chính nghĩa để nắm quyền, mới thi hành chính sách “đấu tranh giai cấp”, mới tiến hành “nội chiến” để tiêu diệt “kẻ thù giai cấp”, đúng như chỉ thị của học thuyết cách mạng vô sản”... Đương nhiên và trước hết giai cấp vô sản phải thanh toán giai cấp tư sản Nước ḿnh trước đă” (Sách đă dẫn ở trên).

    Nhờ đánh nhau với Pháp, ông Hồ mới có dịp “dựng cờ độc lập”, để vận động quần chúng ủng hộ Việt Minh. Thời gian từ năm 1938 - 1941, ông Hồ được CS quốc tế phái về hoạt động tại Diên An, rồi lần xuống Quảng Tây, Vân Nam. Ông là một thành viên của đảng CS Tàu, rút được ư nghĩa thật sự của chiêu bài “Kháng Nhật cứu quốc”, mà mưu đồ thật sự của họ không phải đánh Nhật, mà làm tiêu ṃn lực lượng của chính phủ Quốc Dân Đảng, để cho lực lượng của ḿnh lớn mạnh lên. Cũng giống như vậy, khi lập “Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam”, với chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, thật sự không phải để đánh Mỹ, mà nhằm phân hóa, lôi kéo các phần tử bất măn chính phủ VNCH gia nhập MTDTGPMN. Đối với Pháp, ông Hồ cũng áp dụng cái công thức đó, cho nên buổi đầu ông chỉ tuyên bố đánh Pháp hùng hỗ bằng... miệng, nhưng lại bí mật tiếp xúc với Pháp, xin cộng tác. Kết quả của sự cộng tác ấy là “Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/46”. Ngày nay theo các tài liệu lưu trữ có thể thấy rơ hơn, hai điều sai lầm bỉ ổi nhứt của phái Bolchevik hồi ấy (1917), là “làm mọi cách để Nước Nga thua trận”, đi ngược lại nguyện vọng của Nhân dân và tổ quốc Nga, đâm đao vào lưng người lính Nga đang chiến đấu gian nan chống đế quốc Đức bành trướng, rắp tâm thổi phừng lên ngọn lửa nội chiến...” (Thành Tín, sách đă dẫn, trang 37).

    Điều này cũng được ông Hồ áp dụng tại VN:

    Thứ nhất ông cố tránh giao chiến với Pháp, rồi c̣n kư hiệp ước “thân thiện rước quân đội Pháp vào VN...” là một sự đầu hàng nhục nhă, bị dân chúng Hà Nội biểu t́nh, lên án, gọi ông Hồ là “Việt gian bán Nước”. Ông Hồ cho lính đàn áp, phản biểu t́nh vào lúc 4 giờ chiều trước Nhà hát lớn, tuyên bố “Tôi thà chết chứ không bao giờ bán Nước”. (Chính Đạo, VN Niên Biểu, tập 1A, trang 319). Đó là một thủ đoạn, gây đau khổ tang tóc cho đồng bào, nhưng ông vẫn cam tâm chấp nhận miễn có lợi cho đảng CS.

    Thứ hai, trong lúc Nhân dân, chiến sĩ Nam Bộ chiến đấu đẫm máu, hy sinh nhiều sinh mạng để chống Pháp trở lại xâm lăng, th́ ông Hồ lại “ḥa với Pháp”, ông c̣n đưa nội dung nghị tŕnh cho quốc hội (3/4 là Việt Minh) thảo luận chấp thuận:

    Bảo vệ sinh mạng và tài sản của người Pháp sống ở VN.

    Nhân dân VN không có thù oán ǵ với công dân Pháp (đang sống ở VN).

    Để biện hộ cho hành động phản quốc này, Việt Cộng cho rằng kư hiệp ước 6/3/1946 là để “nhằm mục tiêu tạo điều kiện đi tới một cuộc thỏa hiệp với Pháp. Mục đích trước mắt và ngay sau đó chưa phải đấu tranh cho một nền độc lập hoàn toàn”. (Hoàng Văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, trang 274). Một lư do ngụy biện khác nữa là để chuẩn bị công cuộc kháng chiến (?). Theo Vơ Nguyên Giáp “để đuổi quân Trung Hoa...” mà sự thật th́ Pháp Hoa kư hiệp ước 28/2/1946, để quân Trung Hoa rút về !.

    Tóm lại, những điều VC ngụy biện chối tội, đều hoàn toàn không có cơ sở. Lư do chính của việc thương thuyết với kẻ thù, thông đồng với giặc Pháp, phản bội tổ quốc của ông Hồ là để tiến hành cuộc nội chiến, tiêu diệt các đảng đối lập, tiêu diệt kẻ thù giai cấp.”

    Sau này tôi c̣n nghe vài dư luận về phía Việt Cộng biện hộ hành động bán Nước bằng “hiệp ước 6/3/1946” ô nhục, chống chế, cho rằng “cần chịu thiệt để có thời gian củng cố lực lượng, chấn chỉnh hàng ngũ cách mạng”. Sự thật mà họ đưa ra là “đây không phải đầu hàng, không phải phản quốc, mà là sự cần thiết để cúu chế độ Xô Viết vừa mới thành lập.”

    Qua đó, chúng ta thấy rằng thay v́ yêu Nước, tận dụng mọi khả năng chuẩn bị tổ chức kháng chiến chống xâm lăng, th́ ông Hồ nhứt định gây nội chiến. Từ đó ông thà chịu “gạt bỏ ḷng yêu Nước chân chính, danh dự quốc gia và khái niệm về nhân đạo” để lao vào tội ác khủng khiếp đối với Dân tộc. Đối với ông, ḷng yêu Nước, nếu có phải đặt dưới mục tiêu cách mạng vô sản. So sánh hai cuộc đời của hai lạnh tụ Lênin và HCM cũng có điểm giống nhau: sau 30 năm bôn ba làm tay sai cho kẻ thù, cho cộng sản quốc tế, th́ đến năm 1945, ông Hồ trở lại Hà Nội với cương vị Chủ tịch Nước, để nh́n thấy tận mắt đồng bào của ông bị xiềng xích trói chặt, bị khủng bố dă man bởi chính đồ đệ của ông và chính mệnh lệnh của ông. Từ đó, những người làm cách mạng vô sản chuyên nghiệp chẳng c̣n nghĩ ǵ đến quyền lợi Nhân dân và Đất nước. Đối với họ chỉ có quyền lợi của quốc tế cộng sản. CS đă nắm tất cả quyền lực để đè bẹp tất cả mọi đối thủ.

    Hồ Chí Minh chủ trương chiến tranh trường kỳ

    Tất cả những lạnh tụ CS tốt nghiệp một trường: trường dậy phản bội tức “Học viện thợ thuyền Đông phương” (thành lập 4/1921) tại Nga, và thuộc nằm ḷng những huấn thị của CS như một thứ kinh thánh. Họ nhắc nhở cho nhau phải thực hiện cho kỳ được. Cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp là một sách lược của “đấu tranh giai cấp”, của học thuyết CS. Đấu tranh giai cấp là một cuộc chiến trường kỳ, dai dẳng không ngừng nghỉ, cho đến bao giờ thắng lợi hoàn toàn, tức xây dựng được thế giới đại đồng. Mấy chữ “cuộc thánh chiến” được dùng trong chiến tranh chống Pháp (1945 - 54) cũng là mô phỏng cuộc cách mạng vô sản ở Nga năm 1917. Đó là kế hoạch do Stalin đệ tŕnh cho chính quyền Bolchevik để đối phó với ngoại xâm. Tất cả những ǵ ông Hồ mô phỏng để thực hiện việc cướp chính quyền và giữ chính quyền đều được đảng CS ca tụng “đi theo con đường cách mạng tháng 10 Nga”. C̣n nói về sự giả bộ hợp tác với các đảng yêu Nước theo chủ nghĩa Dân tộc khác (Quốc Dân Đảng, Đồng Minh Hội) th́ trong “HCM toàn tập, tập 4 Lênin có nói: “Đối với kẻ thù khi cần phải hợp tác th́ cứ hợp tác, và người CS không được tỏ ra ngại ngùng trước chuyện phản bội.”

    Một chỗ khác, cũng do sự nghiên cứu, đă đưa ra nhận xét: “Người CS kể cả VC, khi cùng đối phương liên hiệp, không bao giờ chịu tôn trọng địa vị của đối phương, mà chỉ biết lợi dụng đối phương làm công cụ của họ. Họ cũng không muốn thế lực của đối phương tồn tại hoặc phát triển, v́ mục đích tối hậu của họ chỉ nhằm tiêu diệt đối phương”. (Tưởng Vĩnh Kính, HCM tại TQ, trang 206)

    Chủ nghĩa CS xuất hiện là một thảm kịch của nhân loại. Từ lúc nó ra đời (1917), cho đến khi giẫy chết (1991), đă có hằng trăm triệu nạn nhân đă chết v́ nó. Gần đây một quyển sách mới xuất bản “Sổ đen của chủ nghĩa CS: tội ác, khủng bố, đàn áp” do một tập thể tác giả gồm những học giả danh tiếng như Stephane Courtoire, Nicolas Werth, Jean Louis Pane, Andrej Paverkowski... vạch trần tội ác của CS: riêng tại Liên Xô đă có trên 20 triệu người bị giết. Nếu tính toàn thế giới, có đến 85 triệu sinh linh bỏ mạng v́ nó, cao hơn số người chết trong hai trận thế giới đại chiến cộng lại. Sở dĩ CS thắng được trong một thời gian dài, là nhờ kỹ thuật tuyên truyền lừa bịp. Cán bộ CS, khi mở miệng th́ nói toàn “ḥa b́nh, độc lập tự do, hạnh phúc, no ấm...” nhưng khi hành động th́ làm ngược lại.

    Sau đây là một vài thí dụ để chứng minh. Khi mới kéo về Hà Nội, cái chính phủ tự phong của ông Hồ trong rừng, liền quảng cáo: “Khắp trong khu Việt Bắc ai cũng hiểu rằng UBND là chính quyền do dân chúng lập ra, để tự cai trị lấy ḿnh. Ai cũng hiểu rằng nhờ có Việt Minh chỉ bảo, mà dân chúng mới lập được chính quyền dân chủ ấy. “Ngay khi chính quyền của giặc Pháp bắt đầu tan ră, tổ chức của Việt Minh ở địa phương liền đứng lên hiệu triệu quần chúng già trẻ, trai gái hội họp để bàn các công việc, rồi bầu ra UBND xă. Các thứ thuế cũ của giặc Pháp đặt ra, để bóp cổ dân chúng đều băi bỏ”. (Cứu Quốc, Đi thăm các UBND tại chiến khu” số ra ngày 27/8/45). Sự thật đối với những lời tuyên truyền ấy ra sao ?

    Ông Tưởng Vĩnh Kính viết trong “HCM tại TQ”, do Thượng Huyền dịch, trang 329:
    “Sau khi thành lập chính quyền địa phương (UBND), Việt Minh dùng chính sách khủng bố để thống trị. Các phần tử của các đảng khác, hoặc không thuộc đồng đảng, hoạt động trong phạm vi thế lực của ḿnh, đều bị Việt Minh giết hại thê thảm. Những người bị thảm sát, đều bị Việt Minh gán tội “Việt gian”, “làm gián điệp cho địch”, hoặc “thân Nhựt”...Cái cách thức đó của Việt Minh cũng lại hoàn toàn giống với Trung Cộng trong “khu giải phóng” của họ.” C̣n khi tuyên truyền về cái chính phủ “được quốc dân đại hội Tân Trào (bịp) “bầu ra” th́ ông Hồ viết: “Tóm lại trái với chính phủ của bọn thực dân, là chính phủ áp bức bốc lột dân chúng, nên dân chúng chỉ đợi cơ hội để lật đổ đi, c̣n chính phủ Nhân dân (tức cái chính phủ ông Hồ tự phong trong rừng kéo về) mưu độc lập, tự do hạnh phúc cho dân chúng... dân chúng nhiệt liệt ủng hộ, thiết tha âu yếm như người mẹ đối với đứa con yêu, có thể cùng chết cùng sống với đứa con đó...” (Báo “Cứu Quốc” số ra ngày 27/8/45, bài “Chính quyền nhân dân”).

    C̣n cùng một vấn đề, những kẻ khác th́ làm xấu xa, CS làm th́ đúng. Thí dụ như “sự chuyên chính (dùng bạo lực) th́ “Chuyên chính của tư bản là chuyên chính của thiểu số người, đi áp bức bốc lột, đè nén số đông Nhân dân , để duy tŕ chế độ người bốc lột người. Trái lại chuyên chính vô sản là chính quyền của số đông Nhân nhân, dựa vào vơ lực để đàn áp sức phá hoại của đám người đi áp bức bốc lột vừa bị lật đổ. (Báo “Cờ giải phóng”, cơ quan tuyên truyền cổ động của trung ương đảng CSĐD, xuất bản tại Hà Nội ngày 11/11/1945).

    Muốn thấy rơ ư đồ thầm kín chủ trương chiến tranh trường kỳ của ông Hồ, chúng ta nh́n qua vài điểm căn bản của chủ thuyết Mác xít. Duy vật biện chứng pháp chủ trương t́m hiểu mọi tiến tŕnh giải quyết mâu thuẫn để tiến bộ. Theo mô thức ấy, xă hội tư bản có hai mâu thuẫn lớn, giai cấp tiểu tư sản (TTS) và vô sản. Giai cấp vô sản phải làm cuộc cách mạng lật đổ TTS để tiến tới thiên đường CS. Trong cuộc cách mạng bằng bạo lực ấy, giai cấp vô sản là tiền phong, lănh đạo cuộc đấu tranh giai cấp liên tục, không ngừng nghỉ, cho đến khi đạt tới thắng lợi. Như vậy chủ thuyết của Mác xít trong cứu cánh, đâu có “độc lập”, “tự do”, “ḥa b́nh” ? Những từ ngữ đó chỉ là “sáng kiến riêng của ông Hồ”, để vận động quần chúng làm cuộc cách mạng ấy. Nói theo chữ nghĩa của VC “Đảng ta chớp được thời cơ” là việc Pháp trở lại xâm lăng hồi cuối năm 1945, và ông Hồ liền “dựng cờ độc lập”, rồi dùng chiêu bài “giải phóng” để lừa bịp toàn Dân. Như vậy, đối với ông Hồ, Pháp không phải là kẻ thù chính, mà là ân nhân, đă giúp đảng CSĐD có cơ hội “làm cách mạng vô sản để nắm chính quyền”. Như vậy, nếu Pháp xâm lăng, là kẻ thù của Dân tộc VN, th́ với ông Hồ, là đồng minh. Trong thâm tâm, ông Hồ đă cảm ơn Pháp làm cuộc xâm lăng nầy. Đó là cơ hội ngàn năm một thuở để đảng CSĐD làm cuộc cách mạng vô sản, nhưng lại ngụy trang dưới h́nh thức “cuộc kháng chiến chống xâm lược”. Nhờ đó đảng mới khoác áo chính nghĩa, mới được toàn Dân ủng hộ. Nhưng tất cả một Dân tộc bị đảng lừa dối. Cả một Dân tộc bị đảng đem làm bia đỡ đạn, đem hy sinh, để thực hiện chỉ thị của quốc tế cộng sản.

    V́ thế khi cuộc kháng chiến thành công rồi (1954), hay sau 30/4/1975, CS đâu có dừng lại đó, để xây dựng Đất nước. CS phải thực hiện mục tiêu tối hậu, tiến lên tiêu diệt thế giới tư bản. Cuộc chiến tranh đánh sang Campuchia, được đảng mệnh danh là “làm nghĩa vụ quốc tế”, với trên 50.000 quân hy sinh trên chiến trường.

    Mỗi khi gặp khó khăn, CS đổi chiến thuật, mục tiêu vẫn giữ y nguyên: Các chính phủ lâm thời (16/8 và 2/9/1945), chính phủ liên hiệp (2/3/1945), giải tán đảng CSĐD (11/1945), tái lập đảng Lao Động (1/1951), lập MT Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (1960), rồi những năm gần đây (thập niên 1990) có “phong trào thống nhứt Dân tộc và xây dựng dân chủ”, rồi “Ḥa hợp, ḥa giải”... rồi “đổi mới” (đổi mới nhưng không đổi màu).

    Hiện nay cuộc đấu tranh giai cấp đang tiếp diễn. Không có kẻ thù cụ thể, “đảng ta” phải “sáng tạo ra kẻ thù”, các thế lực thù địch, “diễn tiến ḥa b́nh”... để hù dọa, bắt dân chúng phải sống trong nỗi sợ hăi. VC luôn luôn dùng những tập họp từ ngữ “sự độc lập của ta đang bị đe dọa”, quyền lợi của Nhân dân đang bị thử thách...” để răn đe, chụp mũ, khủng bố những cá nhân hay đoàn thể nào muốn tranh đấu cho Tự do Dân chủ, hay tự do Tôn giáo. Các vị lănh đạo các tôn giáo như Ḥa thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lư, cụ Lê Quang Liêm (Ḥa Hảo), cùng rất nhiều vị khác đang tranh đấu cho Dân tộc được hưởng chút tự do đă được đảng long trọng ghi lên hiến pháp từ nửa thế kỷ qua, nhưng không thi hành. Đó là các ông: Hà Sĩ Phu, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Vũ B́nh, Lê Chí Quang... đang trở thành tù nhân của chế độ.

    Ở Trung Quốc, sau khi chiếm được chính quyền rồi (1950), không c̣n kẻ thù xâm lăng nữa, Mao sáng tạo ra phong trào “Trăm hoa đua nở”, “cải cách ruộng đất”, “Bước nhảy vọt”, rồi “cuộc đại cách mạng văn hóa...” tất cả chỉ là những thủ đoạn dùng bạo lực củng cố quyền hành. Hồi xưa, trong lịch sử các chế độ phong kiến, những bạo chúa hành xử ra sao, các lănh tụ CS làm giống hệt như vậy, chỉ có khác là những tên gọi các hành động ấy. Nhân dân bị lừa, bị họ tráo “tội đồ Dân tộc” bằng “công lao với Nhân dân, quần chúng”. Những ǵ Mao làm cho Dân tộc Tàu, cũng như Lênin, Stalin làm cho Dân tộc Nga đều được ông Hồ làm cho Dân tộc VN.

    Hồi năm 1945 - 1946..., ông Hồ cũng biết nhiều thuộc địa cùng hoàn cảnh như VN, khôn ngoan thương thuyết giành độc lập không đánh nhau, hay chỉ đánh nhau vài ba năm (Indonésia)... nhưng ông cứ một mực “trường kỳ kháng chiến” giành độc lập, tự do... chứ không chịu thương thuyết. Ông luôn luôn che giấu ư đồ nuôi dưỡng chiến tranh, và nói ngược lại: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn ḥa b́nh, và nếu người ta (Pháp) buộc chúng tôi phải làm (chiến tranh), th́ chúng tôi sẽ làm” (Bác Hồ những ngày tháng Chạp 1946), Nhân Dân số ra ngày 15/12/86). Ông cứ đổ vạ cho người khác, trong khi sự thực th́ chính ông và đảng của ông chủ trương gây chiến tranh trường kỳ để nắm chính quyền, để làm cuộc cách mạng vô sản. Ông biết trước cuộc chiến tranh với Pháp sẽ khốc hại, nhưng ông sẵn sàng đưa dân tộc VN ra chịu đựng, rồi c̣n giả vờ ngây thơ tuyên bố “thà chết chứ không chịu mất Nước”.

    C̣n nói về vấn đề độc lập cho VN, xin nhắc lại những sự kiện chính:

    Ngày 8/3/1949, tổng thống Pháp Vincent Auriol kư hiệp định Elysée với quốc trưởng Bảo Đại, trả độc lập cho VN từ Nam Quan tới Cà Mau.

    Ngày 20/7/1949, Pháp kư hiệp định trao trả độc lập cho vương quốc Lào.

    Ngày 8/11/1949, Pháp kư hiệp định trao trả độc lập cho vương quốc Cao Miên. Như vậy cả 3 nước Đông Dương đều độc lập trong năm 1949. Tuy nhiên ông Hồ không nhận, v́ nếu nh́n nhận nước VN độc lập từ 8/3/1949, CS không c̣n lư do ǵ để kháng chiến nữa. Mà không kháng chiến th́ làm sao nắm giữ chính quyền và làm cách mạng vô sản ? Mời độc giả nghe nguyên văn hai câu tuyên bố của ông Hồ và Trường Chinh về cái gọi là “kháng chiến” như sau: “Kháng chiến là một bộ phận của mặt trận dân chủ Nhân dân (tức CS) thế giới, do Liên Xô lănh đạo” (HCM).

    C̣n Trường Chinh th́: “Kháng chiến là một h́nh thức cao rộng của đấu tranh giai cấp, nghĩa là cuộc đấu tranh lớn lao trên thế giới, giữa tư bản thế giới và vô sản thế giới tức QTCS”. (Nguyễn Kỳ Nam, Tài liệu lịch sử 1945 - 1954, trang 83).

    Tới đây chúng ta thấy mục tiêu kháng chiến không c̣n đi tới “độc lập”, “Tự do” nữa, mà trở thành cuộc đấu tranh giai cấp do QTCS lănh đạo. Cuộc kháng chiến VN không phải để đánh Pháp nữa, mà trở thành một bộ phận của “mặt trận dân chủ Nhân dân” (mấy chữ mới ám chỉ QTCS) do Liên Xô lănh đạo. Nói ngắn gọn, cuộc kháng chiến chống Pháp không phải của VN đánh đuổi Pháp, mà Nhân dân VN nhận chỉ thị của Liên Xô để làm cách mạng vô sản !

    Từ ngày nước Pháp kư hiệp định long trọng trao trả độc lập cho VN là 8/3/1949 đến ngày CS chiến thắng trận Điện Biên Phủ (7/5/1954), ông Hồ phải liên tiếp chiến đấu 6 năm ṛng, hy sinh hàng triệu binh sĩ, đồng bào vô tội, tài sản vật chất khổng lồ, nhưng rồi ông Hồ vội vă kư hiệp định Genève 20/7/54, để nhận một nửa VN độc lập (VN chia đôi, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới), đó là thiệt hại lớn lao của Dân tộc nhưng là “thắng lợi riêng cho đảng CSĐD của ông Hồ... Người bàng quan, lấy công tâm nhận xét, cũng như người quốc gia, thấy chuyện “Kháng chiến, hy sinh xương máu do ông Hồ chủ trương quá vô lư, nhưng người CS thấy nó chí lư, v́ đảng CSĐD “đă thắng lợi” là giành được quyền thống trị phân nửa nước VN, để đưa toàn dân vào quỹ đạo CSQT sau đó.

    Đối với CS không có độc lập, tự do. Những ǵ họ nói chỉ là tuyên truyền lừa bịp, mị dân. Với CS cũng không có quốc gia, Dân tộc, chỉ có quốc tế vô sản. Từ đó CS đâu có tranh đấu cho quốc gia Dân tộc, mà chỉ tranh đấu cho quyền lợi quốc tế vô sản. Khi đảng của họ lâm nguy, họ kêu gào “Đất nước lâm nguy”, “tự do Dân tộc bị lâm nguy”... rồi kêu gào mọi người “cứu Nước” tức cứu đảng CS ! @

    Hứa Hoành

  4. #4
    Member
    Join Date
    12-08-2010
    Posts
    200

    Thuật lại cho đúng

    Trích :

    Vụ Sát Hại Ngô Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Huân, và Phạm Quỳnh
    Ở miền Trung, chỉ 4 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, lần này Việt cộng xử dụng thủ đoạn mời các nạn nhân đi họp rồi âm thầm thủ tiêu bằng cách lấy xẻng cuốc đập chết và vùi chôn xác ở một vùng của rừng Hắc thú thuộc tỉnh Quảng Trị.
    Với tư cách là người chứng kiến vào thời điểm, t́m ra xác của Ông Ngô Đ́nh Khôi và Ông Phạm Quỳnh, tôi xin thuật lại cho đúng .

    Xác của Ông Ngô Đ́nh Khôi và của Ông Phạm Quỳnh đă được t́m ra tại Hiền sĩ, thuộc Phong điền, Tỉnh Thừa thiên, sau khi Ông Ngô Đ́nh Diệm về chấp chánh .
    Đó là công của Hoàng Ngọc Trợ, Quân trưởng Quận Phong điền .
    Đám tang đuợc cử hành tại tư gia của Ngô đ́nh Cẩn ở Phú Cam Huế và do Ông Vơ Như Nguyên nguyên Giám đốc Công an Trung Kỳ tự nguyện đứng thay trưởng nam cho Ông Ngô Đ́nh Khôi .

  5. #5
    Xía vô
    Khách

    THẰNG CON BẤT HIẾU

    Quote Originally Posted by HienNguyen View Post
    Trích :



    Với tư cách là người chứng kiến vào thời điểm, t́m ra xác của Ông Ngô Đ́nh Khôi và Ông Phạm Quỳnh, tôi xin thuật lại cho đúng .

    Xác của Ông Ngô Đ́nh Khôi và của Ông Phạm Quỳnh đă được t́m ra tại Hiền sĩ, thuộc Phong điền, Tỉnh Thừa thiên, sau khi Ông Ngô Đ́nh Diệm về chấp chánh .
    Đó là công của Hoàng Ngọc Trợ, Quân trưởng Quận Phong điền .
    Đám tang đuợc cử hành tại tư gia của Ngô đ́nh Cẩn ở Phú Cam Huế và do Ông Vơ Như Nguyên nguyên Giám đốc Công an Trung Kỳ tự nguyện đứng thay trưởng nam cho Ông Ngô Đ́nh Khôi .
    Vậy ông công an Trung Kỳ Vơ Như Nguyện này là một con người vô liêm sĩ, nịnh bợ thằng đại Việt gian NGÔ Đ̀NH DIỆM cuồng tín quá. Tại sao NGÔ D̀Nh DIỆM đúng vai tṛ người con không làm mà hắn làm. Đúng là hai người con bất hiếu là NGÔ D̀NH DIỆM và VƠ NHƯ NGUYỆN

  6. #6
    Xía Vô
    Khách

    Dánh lận con đen !!!

    Quote Originally Posted by Xía vô View Post
    Vậy ông công an Trung Kỳ Vơ Như Nguyện này là một con người vô liêm sĩ, nịnh bợ thằng đại Việt gian NGÔ Đ̀NH DIỆM cuồng tín quá. Tại sao NGÔ D̀Nh DIỆM đúng vai tṛ người con không làm mà hắn làm. Đúng là hai người con bất hiếu là NGÔ D̀NH DIỆM và VƠ NHƯ NGUYỆN
    Xía vô v thường hoàn toàn khác hẳn Xía Vô V HOA, LUÔN LUÔN TÔN TRỌNG CỐ TỔNG THỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM....

    Xía Vô.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. 90 năm lời Nói của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
    By TuyetNhiNguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 12
    Last Post: 20-05-2012, 10:22 PM
  2. Replies: 4
    Last Post: 05-02-2012, 11:50 PM
  3. Hồ Chí Minh và cái chết của Nông thị Xuân
    By Phó thường dân in forum Hồ Chí Minh
    Replies: 4
    Last Post: 01-06-2011, 06:49 AM
  4. Replies: 23
    Last Post: 07-10-2010, 04:57 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •