1000 NĂM THĂNG LONG

Chúng tôi (tác giả Vĩnh Nhất Tâm) kính gửi Trang Nhà: VIỆT-QUỐC phổ biến một phần thi sử: PHÁ TỐNG B̀NH CHIÊM của Nhà Lư do Tể Phụ tứcThái Úy LưThương Kiệt thống lănh đại binh ở vào thời Nhà Hậu Lư, sau 76 năm đời đô của Hoàng-đế Lư Thái Tổ, vào mùa Thu năm Canh Tuất (1010).

Kính,
Vĩnh Nhất tâm
.....
Kế Hoạch Nhà Tống Xâm Lược
Vương An Thạch181 với ư đồ vùng vẫy,
Tâu Thần Tôn182 về chiến lược: Nam chinh.
Đại Việt ta, triều Lư chẳng để yên,
Lư Thường Kiệt liền ra quân, phá địch.
Ngài chinh Bắc và đă từng tung hịch183
Kể tội rằng: -Vương An Thạch hại dân.
Đại Việt ta mượn cớ: “Phải cứu nhân!”
Sau một trận, phá mưu đồ xâm lược.

Mưu Chước Của Vương An Thạch
Vương An Thạch cứ bày ra mưu chước184,
Dân Tống nghèo v́ triều cống185 hàng năm,
Cho Bắc Liêu, Tây Hạ. Nén hờn căm,
Nuôi tham vọng thành bá quyền đế quốc.
Mộng bành trướng, lo t́m phương cướp nước,
Quả hồ đồ, nào đâu khác thời Chu.
Trong sử Tầu từng khuếch đại “chư hầu”:
Những bộ lạc186, tự xưng ḿnh “thiên tử”.

Phá Kế Hoạch Xâm Lăng Của Nhà Tống
(18-1-1076 -1-3-1076)
Triều nhà Lư đă tính đường sinh tử,
Dẫu thế nào cũng dứt khoát một phen.
Không để cho bọn giặc Tống chen chân,
Theo kế hoạch Nam chinh ḥng xâm lấn.
Lư Thường Kiệt và Tướng quân Tôn Đản,
Liền xuất binh thủy, bộ đánh ba Châu:
Khâm, Liêm, Ung bao quân địch rơi đầu,
Bày thế trận, Nhị Tướng hùng đại náo.

Đánh Ung Châu
Quân đường bộ chia ra làm ba ngă187:
Từ Quảng Nguyên tiến vào trại Thái B́nh.
Mặt Quảng Lăng dùng đến cả đại binh,
Phần c̣n lại tiến sâu vào Tô, Mậu188.
Quân Đại Việt tiến nhanh như vũ băo,
Tướng điều quân do Tôn Đảncầm đầu.
Trong bảy ngày đă vây hăm Ung Châu,
Khiến quân giặc, cả thành Ung nao núng.

Thái Úy Lư‎ Thường Kiệt
Mặt đường thủy, đánh tiền phương nhà Tống,
Từ Đồ-Sơn189, Lư Thường Kiệt tiến công.
Theo hoạch trù, phá căn cứ Quảng Đông,
Là cứ điểm sẽ dàn quân xâm lược.
Nên triều Lư đă liệu bề tính trước,
Tấn công thành, th́ Lưỡng Quảng190 mới hay.
Khâm, Liêm, Ung: quân Lư sẳn trận bày.
Vương An Thạch đă hết thời thao túng.

Tống Triều Viện Binh
Tin cấp báo khiến Lưu Di191 lúng túng,
Liền viện quân sang trấn giữ Ung Châu.
Đến Côn Luân, Lư Thường Kiệt chận đầu,
Trương Thủ Tiết192 phải liều thân, bỏ mạng.
Tướng Tôn Đản, bốn mươi (40) ngày vây hăm,
Thành Ung Châu, giặc không thể thoát thân.
Khiến Tô Giam193 can đảm chết theothành…
Cờ điếu phạt: Lư triều reo chiến thắng.

Quân Tống Thất Bại
Tống đại bại: Sử xưa ghi rơ lắm,
Khâm, Liêm, Ung đều tan vỡ thành tŕ.
Tống Thần Tôn mê sảng đến vô tri,
Qua một trận tung hoành y khiếp chí.
Lư Thường Kiệt với ngón đ̣n tâm lư,
Khiến Tống triều thêm rối trí, phân tâm.
Đă chận ngay, giặc Tống vốn hung hăng,
Cùng hai nước194, mặt Tây Nam tiến đánh…

Lư Triều Đánh Nhà Tống
Việc đánh Tống, nhằm ngăn ngừa quốc biến,
Nên Lư triều ra tay trước là hơn.
Phá cho tan cuồng vọng, Tống Thần Tôn,
Nuôi mộng tưởng: Nam chinh làm bá chủ.
Việc Bắc tiến viết lên trang đại sử
Rất oai hùng, chận đứng bước xâm lăng.
Khiến Tống vương, sau trước cũng tan tành,
Mộng thống trị, đă hoàn toàn tay bó.

Triều Lư Pḥng Bị
Xong trận mạc, lui quân195 về thế thủ,
Cần pḥng xa - tránh cuộc chiến lâu dài.
Việc phục thù của giặc Tống nay mai,
Tránh mối họa, phải trường kỳ chống giặc.
Lư Thái Úy196, bậc tài ba lỗi lạc,
Lúc sơn hà nguy biến giữa rừng gươm.
Bọn Quách Quỳ197, hàng danh tướng Bắc phương
Sang trả đũa, quyết một phen hơn thiệt.

Trận Như Nguyệt
Trận kịch chiến bên bờ sông Như Nguyệt198,
Tống quân thua, thây bỏ mạng hơn ngh́n.
Nên Quách Quỳ bèn lập tức lui binh,
Điểm quân số, đến Phú Lương chống cự.
Lư Thường Kiệt đă điều binh án ngữ199.
Cả đôi bên ngang ngửa, chửa hơn thua
Thuyền quân Nam tổn thất cũng không vừa,
Lư “Tể Phụ” phải bày mưu, tính kế.

Thuật Tâm Lư
Bọn giặc Tống t́m trăm phương ngàn kế,
Nhưng không sao phá nổi cách điều binh.
Dù, Quách Quỳ đang thống lĩnh đại quân,
Cũng không dễ phá hùng binh Đại Việt.
Lư Thường Kiệt, bậc mưu thần quán triệt,
Đem biệt tài tâm lư thúc ba quân.
Bốn câu thơ ĐỘC LẬP qủa như thần,
Chờ đêm xuống bước vào đền Trương Hát200:

Tuyên Ngôn Độc Lập
Quân Đại Việt nghe vang lời thanh thoát,
Tiếng thơ ngâm; gây nhuệ khí như cồn.
Không cách nào, quân Tống vượt qua sông,
Đành cố thủ, chưa phân đường thắng bại:


Nam-quốc sơn-hà, Nam đế cư,
Tiệt-nhiên định phận tại thiên thư.
Như-hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Dịch Nôm:

(Sông núi nước Nam Nam đế ở,
Rơ ràng phân định tại sách trời.
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Cứ thử làm xem, chuốc bại nhơ!)

Chân Lạp Và Chiêm Thành
Quân hai nước, mặt Tây Nam khựng lại,
Cả Chiêm Thành lẫn Chân Lạp ch́m sâu.
Để cuối cùng phải chuốc lấy… bể dâu,
Sao địch nổi tài mưu cao, tướng dũng?
Lư Thường Kiệt đă dự trù rất đúng,
Chiến sách tuyệt vời: Bắc phạt, Nam chinh .
Tay vung gươm v́ sông núi tri hành:
Trừ giặc Tống, b́nh Chiêm, yên vận nước.
......
Chú thích:

181Vương An Thạch: Từ nhà Đinh, nhà Lê trở đi, tuy Tầu không sang cai trị nước ta nữa, nhưng vẫn cứ lăm le có ư muốn xâm lược. Đến khi vua Thần Tôn nhà Tống (1068-1078) có quan tể tướng là Vương An Thạch. Đặt ra phép mới để cải tổ chính trị nước Tầu…Vương An Thạch làm một sớ tâu rằng: nếu không đánh lấy Giao Châu th́ về sau thành ra một điều lo cho nước Tầu.
(Theo Việt Nam Sử Lược – Nhà Lư của Trần Trọng Kim. Quyển I, trang 102 & 103).
182Thần Tôn: Chỉ Tống Thần Tôn, vua nhà Tống.
183 Hịch: Trước đó, Lư Thường Kiệt đem quân sang đánh nhà Tống, có làm bài lộ bố (bài hịch kể rơ tội ác của biên dịch và nêu nghĩa vụ ḿnh phải đi đánh dẹp để cứu dân). (xin xem ở phần phụ lục trích dẫn #178).
184Mưu chước:Trầm Khởi nhận lĩnh ư chí Vương An Thạch dặn bảo, chuyên để ư tấn công quấy rối nước ta. Khi Trầm Khởi bị băi, Lưu Di lên thay, biên xét hộ tịch các dân ở khê động, sửa qua thuyền, để mưu sang lấn cướp. Nhà Tống lại nghiêm cấm các châu, các huyện không được trao đổi mua bán với ta. Nhà vua đưa thư sang Tống, th́ Lưu Di lại d́m đi. Ngài giận lắm, sai Lư Thường, Tôn Đản thống lănh 10 vạn quân, chia đường sang đánh Tống. (Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục.Chính Biên – Quyển Thứ III.Tập I, trang 351) (Xin xem thêm ở phần phụ lục, chú thích # 184)
185Triều cống:Triều cống: Nguyên nhà Tống bấy giờ bị nước Bắc Liêu và nước Tây Hạ ức hiếp, hằng năm phải đem vàng bạc lụa vải sang cống hai nước ấy. Mà trong nước th́ không có đủ tiền để chi dụng. Vua Thần Tông (nhà Tống) mới dùng ông Vương an Thạch làm Tể tướng để lo mọi việc. (Theo Việt Nam Sử Lược – Nhà Lư của Trần Trọng Kim. Q.I, trang 102)
186Bộ lạc: Nhà Chu nguyên là chư hầu ở phía Tây của nhà Thương. Tuy vua cuối của Thương là Trụ tàn ác, chư hầu phân tán, một số chư hầu Chu Văn vương, nhưng Văn vương vẫn trung thành với Trụ. Đến khi Văn vương chết, con là Chu Vơ vương quy tu được 800 bộ lạc (mà sử Tàu khuếch đại là 800 chư hầu – VNSNVMPD) đánh thắng vua Trụ diệt nhà Thương lập nên nhà Chu và đóng đô ở đất Cảo (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây). (Trích từ Việt Nam Suối
Nguồn Văn Minh Phương Đông của tác giả Du Mên Lê Thanh Hoa)
(Xin xem thêm ở phần phụ lục của chú thích #186)
187Ba Ngă:
1) Từ Quảng Nguyên theo bờ sông Tả tiền đánh trại Thái B́nh.
2) Từ hai châu Tô, Mậu vượt núi qua Lộc Châu, Cổ Vạn, Tư
Lăng, Thượng Tứ.
3) Từ châu Quảng Lăng tiến qua Thái B́nh, BằngTrường, Tư
Minh và trại Vĩnh B́nh. Đại binh đi đường này. (xin xem ở phần phụ lục theo chú thích #187)
188Tô, Mậu: Tức Tô Châu và Mậu Châu. (Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mực)
189Đồ Sơn: Lư Thường Kiệt liền tập trung quân Đại Việt ở Đồ Sơn (Vịnh Hạ Long) theo phía sau các núi đá mà tiến vào Khâm Châu (thuộc căn cứ quân sự của Tống tại Quảng Đông). (Theo Việt Sử Tân Biên – Nhà Lư của Phạm Văn Sơn. Tập I, trang 374).
190Lương Quảng: Chỉ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
191Lưu Di: Lưu Di là quan của nhà Tống được Tống Thần Tôn thay thế Thẩm Khởi. (Xin xem ở
phần phụ lục vể việc Tống Thần Tôn cất chức Thẩm Khởi, và đưa Lưu Di lên thay thế, ở chú thích #181).
192Trương: Chỉ Trương Thủ Tiết, quan Đô-giám Quảng-tây đem binh lại cứu Ung-châu, bị Lư thường Kiệt đón đánh ở Côn-lôn quan (gần Nam-ninh) chém Trương thủ Tiết ở trận tiền. (Theo Việt Nam Sử Lược – Nhà Lư của sử gia Trần Trọng Kim. Q.I trang 104)
193Tô Giam: Đản vây thành Ung-châu hơn 40 ngày, quan tri-châu là Tô Giam kiên cố giữ măi. Đến khi quân nhà Lư hạ được thành th́ Tô Giam bắt người nhà tất cả là 36 người chết trước, rồi tự đốt mà chết. (Theo Việt Nam Sử Lược – Nhà Lư của Trần Trọng Kim. Q.I trang 103)
194Hai nước: Tống triều được tin quân nhà Lư sang đánh phá ở châu Khâm, châu Liêm và châu
Ung, lấy làm tức giận lắm, bèn sai Quách Quỳ làm Chiêu-thảo-sứ. Triệu Tiết làm phó, đem 9 tướng quân cùng hội với nước Chiêm-thành và Chân-lạp chia đường sang đánh nước ta. (Theo Việt Nam Sử Lược – Nhà Lư của sử gia Trần Trọng Kim. Q.I trang 104).
195Lui quân: Tháng 3 năm Bính Th́n (1076) quân nhà Lư rút ra khỏi đất Tống v́ cần đề pḥng sự phục thù của Tống triều có thể đánh lén hậu phương của ḿnh. Và theo Hoàng Xuân Hăn
trong tác phẩm của ông là cuốn Lư Thương Kiệt. Chính Vương An Thạch có ư này, nhưng khi đem ra bàn y gặp nhiều chính kiến bất đồng, khi đó Vương lại lâm vào thế cô nên việc này bỏ
lại cho tới khi họ Vương chán nản xin từ chức. (Theo Việt Sử Tân Biên – Nhà Lư của Phạm Văn Sơn. Tập I, trang 379).
196Lư Thái Úy: Chỉ Lư Thường Kiệt. (Xin xem ở phần phụlục về Thái úy Lư Thường Kiêt,chú thích # 196)
197Quách Quỳ: Đối với các tướng lănh bấy giờ, Quách Quỳ vào hạng có giá trị như Địch Thanh. Quỳ được đem các bộ thuộc tướng quen dùng của ḿnh ở các châu Phú Điền tại Hà Đông, Thiểm Tây đi theo trong đó có tới 12 tướng đă lừng danh ở các chiến trường Tây Bắc. Trong số 12 tướng của Quách Quỳ, ba tướng được ở lại coi miền Bắc. (Theo Việt Sử Tân Biên- Nhà Lư của Phạm Văn Sơn.Q.I, trang 380). Xin xem thêm ở phần phụ lục #197
198Như Nguyệt: Nhà vua sai Lư Thường Kiệt đón đánh đến sông Như Nguyệt.Thường Kiệt cả
phá được địch: quân Tống chết đến hơn ngh́n người, phải rút lui. (Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Chính Biên – Quyển Thứ III. Tập I, trang 353) Xin xem thêm ở phần phụ lục về trận Như Nguyệt theo chú thích #198

200Trương Hát: Đền thờ, hai anh em Trương tướng quân, anh tên là Khiếu, em là Hát, đều là tương giỏi của Triệu Việt Vương. (Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư) Mời xem thêm ở phần phụ lục về Nhị Tướng quân theo chú thích #200.
_______________
nhattam1@aol.com