HỒN TỬ SĨ


Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.
Chinh phụ ngâm.

Câu chuyện xảy ra rất nhiều năm về trước, khi tôi c̣n là một người đàn bà rất trẻ, chưa quá 25 tuổi. Sau khi Miền Nam Việt Nam mất vào tay cộng sản. Chồng tôi bị bắt đi học tập cải tạo (đó là những danh từ mỹ miều mà họ đặt ra để đánh lừa mọi người chứ thật ra phải gọi là đi tù mới đúng). Chồng đi tù, tôi về nương náu nhà cha mẹ với đứa con gái chưa đầy 2 tuổi. Thật là ‘nửa thầy, nửa thợ”v́ tôi chẳng biết làm ǵ để sống, mà dù có muốn đi làm cũng chẳng ai cho đi.Tôi thử nạp đơn xin làm lại ở một ngân hàng mà ngày trước tôi đă từng làm, cách Đalat chừng 30 cây số và dĩ nhiên là bị từ chối.Tôi rất lấy làm áy náy cho hoàn cảnh bi đát của gia đ́nh cha mẹ tôi thuở bấy giờ.
Nhà có 4 người con trai th́ đi tù hết 3 người chỉ c̣n thằng em út 12 tuổi và một đám con gái chưa đứa nào có chồng (trừ tôi có chồng đi tù th́ cũng kể như không). Chúng tôi sống nhờ sự lanh lẹ của mẹ tôi, dù trứơc kia ba tôi là công chức mẹ chỉ làm việc nội trợ. Sau 75, cả nhà thất nghiêp mẹ tôi bắt buộc phải ra chợ, mới đầu là bán đồ đạt trong nhà sau đó những người hàng xóm gởi đồ đạt nhờ bán giùm, dần dần mẹ tôi trở thành một người buôn bán chợ trời bất đắc dĩ. Mẹ tôi cũng chẳng được tự do để hành nghề, bởi mấy bà tổ trưởng, tổ phó trong xóm gặp mẹ cứ nói xa nói gần những lời sặc mùi xă hội chủ nghĩa đại khái như: bà Bảo (tên ba tôi) chưa chấp hành tốt đường lối của nhà nước ta nên c̣n mua bán linh tinh. Bà Bảo không biết hưởng quyền lợi chính trị cuả nhân dân mà nhà nước đă ban cho (nghĩa là không chịu đi họp tổ dân phố mỗi đêm). Bà Bảo chưa biết giáo dục con cái tốt theo đường lối của nhà nước ta (nghĩa là con cái không đứa nào có việc làm) Mà trời hỡi! Việc có đâu mà làm, ai cho đi làm với cái lư lịch gia đ́nh “nặng nề” như gia đ́nh chúng tôi.
Mỗi lần nghe bọn họ chiếu cố nhiều đến gia đ́nh chúng tôi mẹ chỉ cười trừ rồi nói giả lả cho qua chuyện:
- Tụi nhỏ cũng đang kiếm việc làm ngặt nổi lư lịch gia đ́nh tôi không “trong sạch” mấy nên cũng có đôi chút khó khăn.
- Bà Bảo không quán triệt đường lối của nhà nước ta rồi, nhà nước ta bao giờ cũng khoan hồng cả, ai làm tội người ấy chịu. Các con trai của bà mắc tội với nhân dân th́ phải đi học tâp cải tạo, càng học nhiều càng tốt chứ có sao đâu! C̣n các con gái bà th́ có ảnh hưởng ǵ đâu, mà nói bà đừng buồn chứ các cô ấy c̣n bị ảnh hưởng đời sống phồn hoa giả tạo của Mỹ Ngụy nhiều quá cần phải được giáo dục thêm.
Mẹ tôi nhịn hết nổi nên dằn giọng:
- Bà nói vậy nghĩa là sao, các con gái tôi làm ǵ xấu xa mà bà nói tôi cần giáo dục thêm, tụi nó làm ǵ mà ảnh hưởng đời sống phồn hoa giả tạo cuả Mỹ ngụy.
Thật sự mà nói mẹ tôi là một người đàn bà cương nghị và mấy bà trong tổ phụ nữ cũng dư biết điều đó, họ ghét mẹ tôi nhưng chẳng làm ǵ được. Mẹ tôi như con gà mái lúc nào cũng xù to đôi cánh để bảo vệ con cái và lũ chúng tôi nấp sau lưng bà như đám gà con tội nghiệp. Thấy mẹ tôi nổi sùng bà tổ trưởng làm ḥa:
- Chẳng qua là lối ăn mặc của các cô ấy không phù hợp với thời buổi kinh tế mới là mấy.
Mẹ tôi cười khẩy:
- Bà muốn nói tới mấy cái quần tây, mấy cái quân din (jeans) tụi nó hay mặc đó hả. Có ǵ tụi nó mặc đó, không có việc làm lấy tiền đâu mà mua quần đen bộ bà tưởng vải đen rẻ lắm sao? Mặc ǵ th́ mặc miễn không hở hang th́ thôi. C̣n người Liên Xô, họ cũng là nước xă hội chủ nghĩa đàn bà họ cũng mặc quần din đó th́ có sao đâu?
- Họ khác ḿnh khác.
- Chẳng có ǵ khác cả, cũng anh em vô sản chuyên chính với nhau thôi!
Mẹ tôi về nhà hay kể chuyện cải lư với mấy trong hội phụ nữ cho chúng tôi nghe, tụi tôi đứa nào cũng khen mẹ tôi rối rít những lúc đó ba tôi thường hay la rầy:
- Mẹ con tụi bây nhiều chuyện quá. C̣n bà coi chừng có ngày bà cũng vô nhà đá mà nằm thôi( phường tôi trước kia có một cái villa bằng đá cuả người Pháp xây từ lâu rồi, sau 75 chính quyền cộng sản trưng dụng làm nhà tạm giam và điều tra những thành phần phản động trong phường ấp). Trong gia đ́nh này đi tù chừng đó người chưa đủ hay sao? Ăn thua làm chi với bọn trở cờ, gió chiều nào chúng theo chiều đó, chấp nhất ǵ bọn tiểu nhân.
Mẹ tôi nói:
- Bọn đó mới là đáng ghét nhất.Tôi nói thật với ông, có cho vô nhà đá tôi cũng chẳng sợ đâu. Bữa hôm đi thăm thằng B́nh nghe nói tụi nó bắt con tôi làm trâu ḅ kéo cày ḷng tôi đau đớn quá, c̣n thằng Phan, thằng Lễ nữa. Trời ơi tôi đâu có muốn sống đâu, ngặt nỗi c̣n lũ con gái này, tôi mà chết th́ tụi nó ra sao đây. C̣n mấy đứa cháu nữa, khổ quá trời ơi là trời!
Rồi mẹ tôi khóc ̣a lên làm bọn tôi cũng khóc theo, ba tôi chặc lưỡi:
- Bởi vậy tôi mới khuyên bà là phải nhường nhịn chúng nó. “Sông có khúc người có lúc”bà à, vận nước gặp cảnh tang thương ai ai cũng khổ chứ có riêng ḿnh đâu!
Tôi nhớ có lần theo mẹ đi ra chợ trời, tôi mang bán mấy cái áo dài và áo đầm v́ không c̣n dịp để mặc nữa. Mẹ căn dặn tôi phải trông coi cho kỹ không thôi bọn gian sẽ đánh cắp và khi bán phải biết nói thách để cho họ mặc cả. Tôi hể nói giá nào là bán giá đó nên không ai thèm mua. Tôi đi theo mẹ được vài ngày th́ bà kết luận: con thật thà quá không buôn bán được đâu, đă vậy tôi c̣n mắc cở nữa, cứ cúi mặt dưới nón lá chẳng dám nh́n lên. Mẹ tôi khuyên:
- Không có ǵ phải xấu hổ, ḿnh không đi ăn cắp th́ tại sao phải mắc cở. Nh́n mẹ nè, có ǵ xấu xa đâu.
Tôi dạ dạ, vâng vâng nhưng thấy làm sao ấy, ḿnh lại đang lê la ở nơi cầu thang chợ. Nơi mà những ngày xưa ḿnh hay qua lại dạo chơi, có lần tôi đang loay hoay giữa chợ th́ gặp thầy Nguyễn Bào là giáo sư toán của tôi hồi học lớp Đệ Nhị đi qua, thầy tṛ nh́n nhau ngỡ ngàng. Thầy hỏi:
- Ai đây?
Tôi trả lời:
- Cô Chiêu !
Th́ thầy nhớ ngay. Thầy hay gọi học tṛ nữ là cô Chiêu, và học tṛ nam là cậu cậu Ấm. Thầy hỏi tôi về hoàn cảnh gia đ́nh rồi thở dài. Gặp thầy xong tôi thấy tủi thân muốn khóc.
Tôi không c̣n gặp thầy lần nào nữa từ đó.Tôi có hân hạnh được làm học tṛ của những thầy khá nổi tiếng như thầy Đàm Quang Hưng giáo sư toán hay hát bài Cô lái đ̣ cho cả lớp nghe. Thầy Tạ Kư giáo sư việt văn đă qua đời, thầy đọc thơ tuyệt hay bằng giọng Quảng Nam rất đặc biệt. Thầy Phạm Kế Viêm giáo sư toán có đôi mắt đẹp như tài tử Cinema. Thầy Đào Quang Huy giảng Truyện Kiều cả lớp chăm chú nghe quên cả giờ ra chơi v́ thầy giảng quá hay …
Tôi đi chợ trời được vài lần rồi thôi v́ mẹ nói tôi không có duyên bán hàng. Mẹ nói cũng không đúng lắm, v́ sau này khi chồng đi tù về tôi có thêm một đứa con nữa rồi chúng tôi gảy đổ. Một nách hai đứa con tôi cũng phải lăn xả vào đời để nuôi con. Chuyện vợ người tù cải tạo của riêng tôi nó c̣n cái đoạn hậu tràn đầy nước mắt ít ai b́ kịp.
Khi chồng đi tù hơn một năm th́ có lệnh của phường đưa xuống: tất cả phụ nữ có chồng đang học tâp cải tạo trong thành phố Đalat (tôi chỉ biết về Đalat chứ những địa phương khác th́ tôi không biết) được làm đơn bảo lănh chồng về (thật ra đây cũng là một tṛ trấn an và lừa đảo của bọn họ thôi, mà sau này tôi mới hiểu bởi v́ sau đó 7, 8 năm chồng tôi vẫn chưa về). Tất cả chị em mừng rỡ rủ nhau qua phường nạp đơn. Nạp đơn xong th́ họ cấp cho mỗi người một bản kê khai lư lịch, khai lư lịch cũng chẳng có chi là khó nhưng đến tiết mục: “so sánh đời sống của gia đ́nh hiện nay với đời sống trước năm 1975” th́ tôi bí. Tôi bèn hỏi ông Sáu Lắm là tổ trưởng tổ dân phố: cho biết ư kiến viết làm sao cho chồng mau được về. Ông Sáu Lắm nói:
- Chẳng có ǵ là khó, cháu cứ nói sự thật thôi!
- Sự thật như thế nào hả chú?
- Sự thật là sự thật như thế này: gia đ́nh tôi trước khi giải phóng rất khó khăn về kinh tế từ sau giải phóng th́ nhờ ơn đảng và nhà nước đời sống có phần dễ chịu và no ấm hơn nhiều!
À ra là vậy mà tôi ngu quá không hiểu. Trong buổi làm đơn bảo lănh cho chồng tôi quen chị Mai Linh (cũng có chồng đi tù như tôi). Chị ăn nói có vẻ nhỏ nhẹ, trí thức, chị hỏi tôi làm ǵ rồi khuyên tôi nên vào tổ hợp thêu mà làm với chị cho vui.Trong các tổ hợp họ không chú ư đến lư lịch nhiều, lương tiền không bao nhiêu nhưng tránh đươc những đôi mắt cú vọ của mấy bà phụ nữ trong xóm. Trướcnăm 75, gia đ́nh tôi hầu như không biêt ai cả v́ nhà tôi ở trên một con đồi nhỏ khá xa với làng xóm bên dưới. Sau này, khi vào tổ dân phố th́ gia đ́nh tôi có nhiệm vụ phải sinh hoạt với mọi người trong xóm và trong những buổi sinh hoạt đó là những dịp tốt cho họ ḍm ngó và phê b́nh gia đ́nh tôi. Có nhiều lần họ c̣n đề nghị cho gia đ́nh tôi đi Kinh Tế Mới dù cha mẹ tôi có nhà cửa đàng hoàng và đă trú ngụ gần 40 năm ở Dalat. Lần đó ba tôi phản ứng mạnh, ông nói thà chết chứ không bỏ cơ ngơi mà ông đă gầy dựng bao nhiêu năm cho người khác hưởng. Thấy ba tôi cương quyết quá họ đành chịu thua.
Chị Mai Linh nói đúng, vào tổ hợp thêu Phong Lan rồi th́ tôi sáng sớm 7 giờ ra đi chiều 7giờ về nên không bị ḍm ngó nhiều nữa, tôi lại lấy cớ là hằng ngày có hưởng quyền lợi chính trị trên tổ hợp thêu rồi (họp hành) nên thỉnh thoảng có thể từ chối quyền lợi ở địa phương.
Mỗi buôỉ sáng, tôi phải dậy sớm đón xe lam đi ra phố và từ phố lên đến tổ thêu mất chừng 15 phút. Nói nghe th́ vô lư nhưng tất cả là sự thật: đi làm mỗi tháng được chưa đến 50 đồng mà tiền xe lam đă gần 100 đồng rồi, nếu làm đủ sản phẩm th́ được 12 kư gạo mua theo giá nhà nước. Tôi cố gắng làm cho đủ chỉ tiêu để lănh gạo phụ với mẹ tôi nuôi con và nuôi cháu, anh tôi đi tù chị dâu cũng dẫn mấy đứa cháu nội về ở chung trong nhà (mẹ tôi thỉnh thoảng c̣n phải đi thăm tù nữa thật là: đoạn trường ai có qua cầu mới hay). Chỉ cái việc dành một chỗ trên xe lam buổi sáng cũng quá khó khăn, chẳng c̣n ai biết lịch sự và lễ độ nữa, mạnh ai nấy dành, mạnh ai nấy chen lấn, nếu người nào lịch sự th́ chỉ có nước đứng ở bến xe cả ngày. Nh́n xung quanh mọi ngườ́ đều không che dấu được sự nghèo đói khó khăn, từng khuôn mặt biểu lộ niềm lo âu, khắc khoải, trong khi đó chiếc loa phóng thanh gắn trên mấy cái cột đèn cứ ra ră nói về thắng lợi của vụ mùa đông xuân, mùa hè thu. Giọng những người xướng ngôn viên gằn gằn từng câu nịnh bợ, ca ngợi xă hội chủ nghĩa, ca ngợi bác và đảng. Lâu lâu tin tức ngừng lại nhường thời gian cho các giọng ca the thé với những âm điệu thật chói tai trong mấy bài hát đượm mùi tử khí như bài: Cô gái vót chông, bài có cái câu “c̣n giặc Mỹ cọp beo có c̣n giặc Mỹ cọp beo…” nghe mà phát khiếp. Họ có biết đâu dân miền Nam đă chán họ đến đầu đến cổ, ngướ dân t́m an ủi hạnh phúc khi lén nghe đài ngoại quốc và kể chuyện vượt biên.
Thành phố Đalat, một thành phố du lịch nổi tiếng đẹp và thơ mộng bỗng trở thành héo hắt với những dăy phố đóng cửa im ĺm. Nhiều hôm đang đi giữa phố ḷng tôi bỗng quặn đau, thương nhớ những ngày vui xưa. C̣n đâu khu Ḥa B́nh với những chàng sinh viên trường Vơ Bị trong y phục muà đông màu rêu đậm khi loài dă quỳ bắt đấu thắp vàng trên những ngọn đồi trong thành phố. Hàng cây anh đào ven hồ Xuân Hương trổ hoa hồng thắm và phiên chợ mùa đông dập d́u tài tử giai nhân trên Domaine de Marie …Phố xá vui tươi nhộn nhịp với muôn ngàn màu sắc, những nữ sinh trường Bùi Thị Xuân hai má ửng hồng trong màu áo len màu xanh dịu dàng, nữ sinh trường Việt Anh với màu tím hoa cà e ấp. Những thiếu nữ Lycée Yersin với những bộ cánh tây phương sang trọng hợp thời. Học sinh nội trú ở Couvent des oiseaux, Franciscan, Nazareth, Lasan D’ Adran, sinh viên trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị , trường Chính Trị Kinh Doanh…Mọi người đổ xô ra khu phố Ḥa B́nh, Café Tùng, Mékong, nhà Thủy Tạ, Đồi Cù trong những ngày cuối tuần tạo cho Dalat một sắc thái dặc biệt tây phương mà không có một thành phố nào ở Việt Nam có được.
Bây giờ không c̣n ǵ nữa cả, Đalat trở nên đói nghèo khốn khổ, cầu thang chợ lầu trở thành tụ điểm cuả dân chợ trời, mọi người rủ nhau ra đó để mua bán kiếm ăn qua ngày, công an xua đuổi nơi này họ chạy đi nơi khác, họ trở nên lam lũ tội nghiệp không sao tả được. Tôi đi qua phố Đalat nghèo nàn héo hắt đó mỗi ngày và nhiều lần tôi phải cúi đầu để dấu giọt nước mắt xót xa thương cho thành phố quê hương của tôi, thương cho thân phận bất hạnh cuả ḿnh. Trong niềm tiếc nuối vô biên cho phố xưa lời thơ bỗng vang vọng trong tôi:
Tôi nhớ thành phố xưa
Đôi ta qua nhiều lần
Nắng vàng trong phố ấm
Ôi thương thuở đời xanh.

Trong tổ thêu Phong Lan đa số là chị em có chồng đi tù cải tạo hoặc những học sinh, sinh viên học hành dang dỡ và có lư lịch xấu nên không t́m được việc làm tốt. Trong hợp tác xă cũng có thành phần theo cách mạng, có lập trường vững vàng, trung thành với đảng và nhà nước ta, tuy nhiên đa số cũng có đôi chút chữ nghĩa nên dù sao cũng đỡ hơn thành phần tạp nham ở phường ấp. Sau này nghĩ lại thớ kỳ đi thêu tôi mới thấy rằng không xă hội nào bóc lột sức lao động bằng xă hội chủ nghĩa. Mỗi ngày làm 9, 10 tiếng, mỗi tuần làm 6 ngày, thêu hàng xuất khẩu muốn mù mắt, tiền lương tháng độ 50 hay 60 đồng không đủ để mỗi ngày uống một ly sữa đậu nành (sữa đậu nành lúc ấy 2 đồng một ly) và tôi không hiểu sao tôi có thể sống sót được trong cái môi trường eo hẹp, thiếu thốn đó cho đến được ngày thoát ra được. Phải công nhận là quả thật con người có một sức chịu đựng vô cùng phi thường.
Rồi pḥng Công Thương Nghiệp đưa chỉ thị xuống cho các tổ hợp và hợp tác xă phải thi đua công tác lao động xă hội chủ nghĩa. Chúng tôi phải góp tiền mua dây khoai lang, đọt ḿ để đi khai đất trồng trọt (đúng là nghèo mà gặp cái eo). Vùng trồng trọt hoa màu khá xa thành phố, chúng tôi phải đi qua hồ Xuân Hương, xuống gần thác Prenn rồi rẽ vào phía trong núi Đầu Voi, nơi đó có những cánh đồng tranh hoang vu, đất khô như đá đang chờ những cánh tay yếu ớt của chúng tôi để biến thành những vùng hoa màu tươi tốt! Khoai sắn đó là của tất cả chúng tôi, ăn không hết th́ đem bán hay đổi thực phẩm khác và những đợt thi đua lao động đó đă biến chúng tôi thành những con ngướ tốt đẹp của xă hội mới…vân vân và vân vân … Bao nhiêu là danh từ hoa mỹ, bao nhiêu là ư kiến, bao nhiêu là góp ư, rồi tập hợp đọc diễn văn, giăng biểu ngữ, rồi hoan hô vang dậy trời đất. Nhất trí. Nhất trí và cuối cùng là kéo nhau đi vào trong chân núi để trồng khoai, trồng sắn cho lũ heo rừng phá (ba tôi nói trước như vậy, v́ trồng trọt mà không có ai trông nom th́ làm sao mà thu hoạch được).Tuy nhiên điều đó chẳng nên bận tâm, miễn sao có bằng cớ báo lên cấp trên là được rồi, rồi cấp trên sẽ báo cho cấp trên nữa. Kết luận hợp tác xă Phong Lan ngoài việc thi đua làm hàng xuất khẩu c̣n tranh thủ trồng hoa mầu để cải tổ đời sống thêm no ấm.
Một đám đàn bà con gái vừa đi vừa nói chuyện inh ỏi trang bị nón lá, giày bata quần vải ú đen, cuốc thuổng và gô đựng cơm trưa đi qua phố Ḥa B́nh làm cho mọi người đứng lại ngơ ngác nh́n. Trông chẳng giống ai. Vài ba câu chửi bới vu vơ, vài ba lời chọc ghẹo mỉa mai cái tṛ hề của bọn muốn lập công nên vẽ chuyện hành người. Nếu dùng hai tiếng “lao động” th́ ngồi trước khung thêu cũng là lao động rồi, đâu cần phải vát cày, vát cuốc đi vào rừng vào rẫy mới là lao động thật sự. Ở đời có người làm việc nọ, kẻ làm việc kia chứ. Tuy nhiên nếu lúc đó có ai đưa ra ư kiến th́ sẽ bị kết tội là phản động, đi ngược lại chính sách của đảng đề ra. Cho nên mọi người chỉ c̣n có cách là im lặng cho đời sống dễ dàng hơn.
Khi xuống hết dốc Prenn, rẽ vào con đường đất đỏ dẫn vô rừng th́ đám đông thưa dần, bởi v́ kẻ đi trước người sau không c̣n hàng ngũ ǵ nữa. Tôi đi với Hương, người bạn gái nhỏ hơn tôi nhiều tuổi, Hương đang học Trung Học th́ miền Nam mất vào tay cộng sản, tuy gia đ́nh không dính dáng đến chế độ cũ nhiều nhưng Hương chán nản bỏ học đi làm thợ thêu. Nhà ở gần nhau tôi nên sáng hôm đó Hương lên rũ tôi cùng đi. Chúng tôi đi hơi chậm cho nên khi vào sâu trong rừng thông th́ ngó trước nh́n sau chỉ c̣n hai chị em vừa đi vừa tṛ chuyện. Buổi sáng trong rừng thật là tuyệt vời không khí trong lành, mát dịu thoảng thoảng mùi thơm của lá thông và những loài hoa dại không tên, gió thổi nhè nhẹ trên những ngọn cây, lá cỏ và nắng buổi sáng óng ả chan hoà trên vạn vật. Ai đă từng ở Đalat, đă từng đi dạo trong những buổi sáng nắng ấm, từng đắm ḿnh trong cái không gian vàng óng như tơ, trong bầu không khí mát lạnh hiền ḥa của vùng cao nguyên và bên tai là tiếng ŕ rào bất tận của ngàn thông trong gió sớm mới cảm nhận được cái đẹp tuyệt hảo nơi thành phố du lịch này. Tôi và Hương trong giây phút như tạm quên đi nổi đày đọa, nổi đau đớn của đời sống hiện tại. Rừng thông bao la tắm ḿnh trong nắng lụa, tôi ngửa mặt lên thở thật sâu cái không khí trong lành của rừng núi và hạnh phúc bất chợt đến trong phút giây không hẹn:
- Buôỉ sáng đẹp quá chị Phương nhỉ?
- Thật là tuyệt vời, hai đứa ḿnh cứ tà tà rồi đến đâu hay đó hơi sức nào mà vội vàng, dễ ǵ hưởng được một buổi sáng đẹp như hôm nay phải không Hương?
Hương gật đầu tán thành:
- Có lẽ chị em ḿnh là hai kẻ đi sau cùng đó.
- Đường nào cũng đến La Mă, lo ǵ.
- Đường nào cũng đến “lao động là vinh quang” chứ.
Tôi và Hương cười phá lên, tiếng cười thật thoải mái, tự do v́ xung quanh chúng tôi chẳng có ai cả. Chúng tôi tiếp tục oang oang chuyện trên trời dưới đất, chân bước lời ra nên chẳng thấy mệt mơi chi cả. Đến một khúc quanh con đường đất đỏ bỗng mở rộng ra và bên ven đường ngỗn ngang những thân cây to nằm la liệt. Có lẽ người ta hạ cây mà chưa kịp chuyên chở đi, mặt đất có nhiều nơi c̣n hằn dấu vết của bánh xe be (một loại xe chở gỗ).
Đang vui câu chuyện chúng tôi bỗng nghe có tiếng nói chuyện ồn ào cuả một đám đông sau lưng, không quay lại tôi cũng đoán họ rất là đông chắc phải trên mười người hay có thể c̣n hơn nữa Có người đồng hành trên quăng đường vắng này cũng hay tuy nhiên không ai bảo ai tôi và Hương đều hạ giọng thấp xuống. Đám đông càng lúc càng đến gần chúng tôi, họ toàn là đàn ông v́ tôi không nghe giọng nữ. Chắc là một tổ hợp tác nào cũng đi lao động như tổ thêu chứ ǵ, họ tṛ chuyện ầm ĩ, tôi và Hương cố gắng đi thật mau nhưng đàn bà con gái dễ ǵ đi mau bằng đàn ông con trai, khi đến gần chúng tôi vài người trong số họ buông vài lời trêu ghẹo bâng quơ. Tôi không dám quay lại v́ dù là đă có chồng, có con nhưng cũng không tránh khỏi sự ngượng ngùng với những người khác phái, nhất là họ rất là đông nữa. Con đường đất đỏ đưa sâu dần về phía chân núi trước mặt và đoàn ngướ phía sau vẫn nối gót chúng tôi thật là lâu, họ vẫn không ngớt bàn căi những vấn đề ǵ đó, có lúc cười đùa vang trời, rồi lại có lúc giận dữ la lối om ṣm.Tôi nghĩ rằng họ đều c̣n rất là trẻ.
Khi đám đông phía sau đến rất gần chúng tôi, gần đến độ tôi có cảm tưởng rằng chân họ sắp dẫm vào gót chân tôi th́ không hẹn trước tôi và Hương cùng dừng lại và đứng qua một bên để nhường lối cho họ. Tôi cũng ṭ ṃ muốn biết họ thuộc tổ hợp nào, già trẻ như thế nào mà ồn ào dữ vậy. Nhưng thật là bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của tôi và của Hương nữa, phía sau chúng tôi chẳng có ai cả, chỉ là con đường đỏ quạch trống vắng giữa khu rừng xạc xào tiếng gió. Tôi và Hương thảng thốt nh́n nhau, khuôn mặt Hương trở nên trắng bệch, hai c̣n mắt thất thần hoảng hốt v́ sợ hăi, đôi môi giựt giựt một cách kỳ lạ. C̣n tôi th́ nổi gai ốc khắp người và cảm thấy một luồng khí lạnh chạy dài xuống xương sống. Chúng tôi nắm chặt tay nhau, một sự im lặng đột ngột bao trùm xung quanh hai đứa. Tiếng tṛ chuyện năy giờ vẫn theo gót chúng tôi đă im bặt, thế nghĩa là sao?
Giọng Hương run run:
- Họ đông lắm mà, họ đâu cả rồi!
Tôi ú ớ:
- Không biết nữa, chị nghe họ gần sát chân ḿnh nên tránh ra cho họ vượt lên.
- Em cũng vậy thôi, họ c̣n chọc ghẹo tụi ḿnh nữa chị có nghe không?
Tiếng tôi bỗng như tắt nghẹn lại:
- Dĩ nhiên là có nghe như Hương vậy, có một người nói giọng
Huế, không phải Huế đặc mà Huế pha Nam.
Hương tiếp lời:
- Em nghe giọng Bắc nữa, có tiếng người Nam càu nhàu điều ǵ đó.
- Họ sau lưng tụi ḿnh rất là lâu nên chị không nghĩ là ḿnh giàu tưởng tưởng đâu!
- Tưởng tưởng sao được, chuyện rành rành ra đó, đâu phải một người nghe cả hai chúng ta mà!
Đột nhiên hai đứa cùng thốt lên:
- Vậy là đúng rồi, họ là ma chứ là ǵ nữa!
- Mà sao ma lại hiện ra ban ngày nhỉ!
Hai chúng cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng và thỉnh thoảng nh́n lại phía sau xem họ có đuổi theo không? Chẳng c̣n ai nữa cả cho đến khi tôi và Hương đến tụ điểm th́ đă có đông đủ mọi người ở đó. Tôi và Hương vừa thở không ra hơi, vừa kể cho mọi người nghe câu chuyện ở khúc quanh đường rừng. Mọi người chăm chú nghe và góp ư:
- Hay là gió đưa đến tiếng nói của một nhóm người nào đang ở đâu đó trong rừng thông.
- Cũng có lư, nhưng tại sao tất cả lại ngừng bặt khi chúng tôi khám phá là không có ai ở đằng sau cả, không lẽ tiếng vọng lại dừng lại đúng lúc vậy sao?
Hương tiếp lời:
-Em cũng nghĩ như chị Phương.
Một ngướ hỏi:
- Hai bạn có nghe tiếng chân họ đi không, tiếng chân nện trên đất đó, v́ chỉ con người thật đi mới có âm thanh.
Tôi và Hương nghệt mặt ra v́ thật sự hai đứa không chú ư đến điều đó mà thật ra có ai để ư đến những điều vớ vẫn như thế bao giờ cho đến khi mọi việc kỳ lạ đă xảy ra. Một lát sau chị Thu là Chủ Nhiệm của hợp tác xă gọi tôi và Hương cùng vài chị em khác đến dưới một gốc cây thông nói:
- Chuyện xảy ra không biết thực hư như thế nào, tôi không nghĩ Phương và Hương bày chuyện tuy nhiên chúng ta không nên để câu chuyện này lan xa cho mọi người biết. Phương và Hương nên quên tất cả đi v́ nếu nó đến tai các anh chị trên pḥng CôngThương Nghiệp th́ sẽ có ảnh hưởng không tốt đến công tác trồng hoa màu của chúng ta. Họ sẽ nghĩ chúng ta mê tín, dị đoan hay là muốn phá hoại việc thi hành trồng mầu của pḥng đề ra. Các chị em khác sẽ hoang mang, lo sợ khi phải đi qua quăng đường rừng này, mong chị em thông cảm cho.
Tôi và Hương ấm ức, lủi thủi nhập vào đám đông để cuốc đất nhổ cỏ, làm việc nhưng đầu óc tôi vẫn bị ám ảnh v́ những sự việc đă xảy ra ban sáng. Tôi không thể giải thích được hiện tượng lạ lùng ấy, Hương bên tôi cũng đượm vẽ suy tư, trầm lặng. Nắng càng lên cao trời trở nên nóng nực, ngướ nào cũng đổ mồ hôi nhễ nhại, tôi cảm thấy quá mơi mệt nhưng vẫn cúi đầu làm việc mặc dầu lưỡi cuốc h́nh như không ăn sâu xuống đất mà chỉ phơn phớt trên mặt thôi. Tôi biết chắc rằng ḿnh là một kẻ lao động tồi nhất ở đây nhưng tôi không có sự lựa chọn nào khác hơn là im lặng vung, hạ cán cuốc lên xuống mặc cho thời gian trôi đi trong vùng núi non hoang vu này.
Đến trưa mọi người được nghỉ ngơi để ăn uống, tôi và Hương đến một chỗ vắng dỡ gô cơm mang theo vừa ăn vừa bàn tiếp câu chuyện ban sáng, càng bàn càng không thể giải thích được thêm ǵ cả. Chị chủ nhiệm ngồi đằng xa thỉnh thoảng đưa mắt nh́n hai đứa.Tôi rũ Hương:
- Chị em ḿnh xuống dưới đồi chơi, chị thấy có mấy cái cḥi dưới kia ḱa.
Hương tán thành ngay:
- Phải đó em cũng thấy khát nước nhiều, tụi ḿnh đi xin nước uống đi, buổi chiều c̣n làm mà nước gần hết rồi chị ạ!
Tôi và Hương xuống con dốc ngắn với đám cỏ tranh mọc thật dầy, một con suối hẹp chắn ngang và bên kia là căn cḥi bé xíu với mảnh sân nhỏ đằng trước. Chúng tôi đi qua khúc cây bắt ngang con suối, một con chó ở đâu đó nhảy phóc ra sủa lên ầm ĩ làm hai đứa phải tháo lui, người đàn ông bước ra la chó và hỏi to:
- Các cô cần ǵ?
Tôi và Hương đi vào sân, tôi nói:
- Chúng tôi đi xin nước uống. Người đàn ông đến gần nh́n tôi ḍ xét rồi la to lên:
-A, cô Phương, cô Phương phải không?
Tôi đang ngạc nhiên th́ bỗng nhận ra đó là anh Tiến, anh của Kim Chi một người bạn gái đă có thời gian làm ở tổng đài điện thoại với tôi.
Tôi cũng mừng rỡ la lên:
- Anh Tiến hả? Sao lại ở đây c̣n chị Thuỷ đâu?
- Cô ta ở nhà c̣n tôi coi rẫy ở đây, mời cô vào nhà chơi rồi nói chuyện.
Tôi theo anh Tiến vào nhà, nói là nhà chứ thật ra chỉ là một mái lá đơn sơ với cái sạp để trong góc, cái bếp ở góc đối diện với vài ba cái nồi và một cái ấm đen thui v́ khói bếp. Anh Tiến đem mấy cái ghế đóng bằng gỗ thông thấp lè tè ra mời chúng tôi ngồi. Anh nh́n tôi chăm chú rồi cười:
-Cô trông có vẽ tiến bộ đó!
Tôi trả lời:
- Thấy vậy chứ không phải vậy đâu, vẫn c̣n lạc hậu lắm lắm.
- Cô đi đâu mà lạc lơng chốn khỉ ho c̣ gáy này.
- Đi lao động xă hội chủ nghĩa với tổ hợp thêu ở trên kia.
Anh Tiến gật gù:
- À ra vậy, thỉnh thoảng tôi có gặp mấy ngướ đi lao động như cô, họ trồng trọt quanh đây nhưng không bao giờ thấy họ thu hoạch hoa mầu cả.
- Sao vậy?
- V́ trồng rồi bỏ thí đó cho lũ thú rừng phá th́ lấy đâu mà thu hoạch. Tôi ở đây canh chừng luôn luôn mà c̣n không trị nổi mấy con heo rừng, làm c̣n chưa có ăn huống chi …
Hương góp chuyện:
- Họ bắt đi th́ ḿnh phải đi thôi chứ làm sao mà căi được anh.
- Th́ đúng là vậy đó! Thời buổi khó khăn biết nói sao đây!
Tôi hỏi anh Tiến:
- C̣n anh sao không phụ với chị làm bánh kẹo mà vô đây chi cho khổ vậy?
Hồi sau 75, tôi đến nhà Kim Chi chơi thấy anh Tiến phụ vơí chị Thuỷ là vợ anh làm bánh kẹo bỏ mối cho mấy cửa hàng ở Đalat, tôi nghĩ anh chị sống cũng được. Anh Tiến là Trung Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đóng ở Qui Nhơn, anh từng bị bắt làm tù binh và đươc thả trong một cuộc trao đổi giữa hai bên, anh vẫn c̣n bị ám ảnh nặng nề về những năm tháng trong nhà tù cộng sản.
Anh Tiến nhún vai:
- Ở đây dĩ nhiên là buồn nhưng ít thấy mặt mấy ông bà cán bộ cán cuốc trong xóm, thấy họ hoài ḿnh chẳng vui mà họ cũng chẳng thích thú ǵ.
Tôi cười:
- Anh đă từng ở tù không lẽ họ bắt đi tù nữa sao mà sợ?
- Thôi cô ơi ḿnh có hồn th́ giữ lấy hồn, một ngày đẹp trời nào đó họ thấy ḿnh gai mắt quá nên kêu đi tŕnh diện bên phường th́ mệt lắm.
- À ra vậy, c̣n chị vẫn làm bánh kẹo chứ?
- Chứ không lấy ǵ mà sống, lâu lâu biếu xén cho họ một chút để yên thân mà nuôi lũ nhỏ cô ơi.
Tôi thở dài chép miệng:
- Ai cũng khổ cả.
- C̣n cô chồng con ra sao?
- Đang ở Suối Máu Biên Hoà, em đi thăm được một lần cách đây hai tháng cũng chẳng biết chừng nào họ thả. Năm ngoái họ cho qua phường làm đơn bảo lănh cho chồng về, em cũng làm rồi nhưng ngày về ai mà biết được anh Tiến!
Anh Tiến thở dài:
- Thôi th́ cũng phải ráng mà sống chứ cô, cả miền Nam chứ đâu phải riêng ḿnh. Tôi thấy cô c̣n đỡ hơn mấy ngướ khác nhiều lắm, họ trông vô cùng thảm thương Phương ạ.
Tôi cười buồn:
- Nói đúng ra em cũng c̣n có gia đ́nh, cha mẹ để nương nhờ chứ nếu không th́ cũng chẳng biết thân phận ḿnh ra sao nữa.
Tôi nh́n ra vuông sân chan ḥa ánh nắng trước mặt và nương rẫy chạy dài gần đụng chân đồi, cảnh trí trông vắng vẻ, buồn thiu. Tôi hỏi:
- Anh ngủ lại đây à?
- Thỉnh thoảng thôi, với mấy người quen xung quanh đây, chúng tôi tụ họp lại chia phiên nhau mà ngủ có khi thức sáng đêm tán dóc rồi ban ngày th́ ngủ bù, ngủ một ḿnh có ngày cọp tha đi mất!
Tôi trố mắt:
- Ở đây có cọp à?
- Tôi nghĩ vậy thôi, ai biết đâu được! Thường th́ tôi về nhà, về đến nhà cũng tám, chín giờ tối rồi hàng xóm chẳng ai thấy mặt. Sáng tờ mờ tôi đă ra đi, vậy mà khỏe cô ơi, tâm hồn tôi b́nh an hơn là thấy mấy ông bà cán bộ, cán cuốc trong tổ, trong phường. Ở chốn núi rừng này cũng có cái hạnh phúc của nó, chẳng ai ḍm, ai ngó. Cả ngày không có ai nói chuyện nên đôi khi tôi nói một ḿnh, lâu ngày thành thói quen tôi cứ lẩm bẩm khi về nhà làm bà xă và các em sợ tôi bị khùng.
Rồi anh Tiến cười khằn khặc:
- Mà nói cho cùng sống với quân này riết rồi ai cũng khùng cả.
- Khùng đă phước, chỉ sợ điên không ra điên khùng không ra khùng mới là mệt đó.
Tôi nh́n quanh hỏi nhỏ:
- Ở một ḿnh chốn đèo heo hút gió này anh không sợ sao?
- Sợ ǵ?
- Th́ sợ đủ thứ …như ăn cướp, như ma chẳng hạn.
Anh Tiến cười ngặt nghẻo:
- Tôi có cái ǵ mà sợ bị ăn cướp, tôi không ăn cướp của người ta th́ thôi chứ ai thèm ăn cướp của tôi. C̣n ma hả, cô có tin là tôi sợ Việt Cộng hơn là sợ ma không?
Tôi nhăn mặt:
- Em định kể anh nghe chuyện này nhưng sợ anh không tin, em và Hương vừa gặp ma.
- Vây sao?
Anh Tiến cười cười, có lẽ anh ta tưởng tôi nói đùa.
- Em không biết nữa và cũng chẳng giải thích được.
Rồi tôi kể cho anh Tiến nghe những ǵ đă xảy ra với chúng tôi sáng nay, nghe xong anh hỏi lại:
-Chỗ khúc quanh có nhiều cây bị đốn nằm la liệt phải không?
Tôi và Hương cùng gật đầu:
- Đúng vậy, đúng vậy.
Anh Tiến nói:
- Tại các cô không biết đó thôi, chứ những người làm rẫy ở đây ai cũng biết chỗ đó có rất nhiều chuyện lạ, buổi chạng vạng qua đó người ta nói hay gặp nhiều bóng người lăng văng.
- Ai lăng văng? họ là ai vậy?
-Tôi nghe nói, nghe sao tôi kể lại như vậy thôi nghe! Tin hay không là quyền của các cô, cũng như những điều các cô đă kể ra tin hay không là do sự suy nghĩ của mỗi người. Vào khoảng năm 1967,1968 có một số sinh viên trường Vỏ Bị Quốc Gia và lính đi kích nơi đó đă đụng độ với việt cộng, trận chiến làm chết rất nhiều người của cả hai bên. Từ đấy, mấy ổng hay hiện ra nơi khúc quanh, tôi đoán rằng mấy ông lính đó rất là trẻ, đa số chưa vợ con nên thấy mấy cô là đàn bà con gái bèn ra trêu chọc vậy mà.
Tôi và Hương hét lên:
- Anh nói ghê quá! Người chết rồi mà c̣n chọc gái à?
- Chứ sao, họ chết khi c̣n quá trẻ với những ước mơ khao khát chưa thực hiện được, nên họ c̣n lang thang, lẩn quẩn ở đó. Tội nghiệp lắm, mà có khi họ không biết ḿnh đă chết nữa cũng không chừng.
- Nhưng tại sao họ lại xuất hiện ban ngày, đó đâu phải là thời gian của họ?
Hương hỏi lại.
Anh Tiến cười hề hề:
- Ngày đêm ǵ, thấy mấy cô gái đẹp mấy ổng quên cả luật lệ của cơi âm nên chạy ra chọc ghẹo, đàn ông con trai mà!
- Anh nói làm tụi em muốn nổi da gà, lần sau cho vàng tụi em cũng không dám đi một ḿnh qua chỗ đó nữa. Mà anh Tiến ơi, anh nói thật chứ? Khúc quanh ấy có ma à?
- Ai cũng biết điều vậy, hai cô cũng biết rồi đó!
Tṛ chuyện một lát, chúng tôi kiếu từ anh Tiến để trở lên đồi, anh đưa chúng tôi ra đến con suối rồi nh́n tôi ái ngại:
- Thôi hai cô lên làm việc đi kẻo họ mong mà Phương này, cô cũng chẳng nên làm chi cho quá sức v́ không có thu hoạch đâu, mà thật ra cũng chẳng có ai chờ sự thu hoạch - kể cả họ và cô – chán lắm! Dù sao cô cũng ráng mà sống vui, ráng mà phấn đấu “sông có khúc người có lúc” cô ạ!

Anh Tiến đoán đúng, sau lần đó, chúng tôi c̣n đi thêm nhiều lần nữa rồi thôi. Trên pḥng cũng không ai nhắc đến ngày thu hoạch hoa mầu, dù h́nh ảnh của phong trào đi lao động xă hội chủ nghĩa vần treo tùm lùm trong cơ quan, trong hợp tác xă. Đúng là “đầu voi đuôi chuột”. Những lần đi sau tôi và Hương đều cố gắng theo kịp đám đông khi rẽ vào b́a rừng, nhất là qua khúc quanh có những thân cây nằm ngổn ngang kia! Tôi rất sợ nếu phải gặp “họ” thêm một lần nữa, dù thật ra họ chẳng làm hại ǵ tôi chỉ là những câu trêu chọc b́nh thường cuả đàn ông, con trai khi gặp người khác phái. Tuy nhiên sự khác biệt của hai thế giới đă làm cho tôi e sợ, tôi mong là họ sẽ hiểu điều đó, thông cảm mà đừng nhác tôi nữa.

Kỷ niệm về những ngày lao động trong chân núi Voi thường mang đến cho tâm hồn vốn đa cảm của tôi nhiều xúc động. Một người phụ nữ c̣n quá trẻ xa chồng, cô đơn và lạc lơng giữa một xă hội giả dối tráo trở, sự sợ hải lo âu luôn đè nặng trên hai vai, con người thiếu thốn từ tinh thần đến vật chất. Những buổi chiều mệt lả người trở về từ một ngày đày đọa thân xác, qua những đồi thông vàng óng ánh nắng hoàng hôn bỗng dưng vang vọng đâu đó giọng ca của Tôn Thất Niệm trong bản Chiều Vàng cuả Nguyễn văn Khánh. “Trên đồi thông chiều đă xuống rồi, mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng. Riêng ḿnh ta ngồi ngắm quanh trời ngậm ngùi nghe tiếng chim chiều gọi đàn, buồn xa vắng buồn ḷng thầm nhớ đến người chiều vẫn trên đồi cùng ta …Ta nén đau thương gắng bước hoài, chiều chiều nhớ ai khôn ḷng nguôi!
Ai đă từng ở Dalat chắc không thể nào quên giọng ca Tôn Thất Niệm, một giọng ca trầm ấm, truyền cảm mà khó có ca sĩ nào b́ kịp dù ông là một ca sĩ tài tử của đài phát thanh Đalat. Khi đă nghe ông hát bài Chiều Vàng rồi th́ tôi không muốn nghe bất cứ ca sĩ nào hát nữa. Tiếng hát Tôn Thất Niệm ḥa quyện, lăng đăng với tiếng gió vi vu qua đồi thông, với sương mù bay bay những sáng mai lạnh cóng hay những đêm co ro trong chiếc áo manteau trong khu phố Ḥa B́nh. Tiếng hát tuyệt vời đó đă ra đi không bao giờ trở lại sau cuộc đổi đời của miền Nam và Đalat nói riêng. Nếu Tôn Thất Niệm biết chúng tôi -dân Đalat - đă yêu giọng ca ông như thế nào! Tôi không c̣n được thưởng thức tiếng hát một thời của thành phố mù sương và cái đời sống với đầy bất trắc trước mắt hằng đêm xô đẩy tôi vào những cơn mộng dữ và tôi đă phải sống như thế: tuyệt vọng, mỏi ṃn đau đớn cho đến một ngày.
Những năm tháng dài u uẩn đó rồi cũng ra đi như gịng sông chạy băng băng cuốn theo rác rưới nhọc nhằn. Bây giờ th́ tôi đă quá xa Đalat, xa những chiều vàng trên đồi rong chơi hay là những chiều ră rời mệt mơi, thất thểu trở về sau một ngày lao động, tiếng hát ngày xưa bây giờ ở nơi nao. C̣n tôi người đàn bà trẻ thơ ngày ấy giờ tóc đă bạc màu. Người tù cải tạo năm nào, người đă trao tặng cho tôi những ngày tháng cô đơn, đau đớn, tuyệt vọng trong chờ đợi mơi ṃn rồi cũng như một loài chim trời cất cánh bay đi t́m một vùng trời nào đó không cần sự có mặt của tôi. Không hiểu rồi người có t́m được những ǵ người muốn t́m, không hiểu người có hạnh phúc như người vẫn mong. C̣n tôi, nhiều tháng năm bất hạnh trong một nhà tù rộng hơn những nhà tù cải tạo đă ám ảnh, dằn vặt tôi không nguôi. Tôi như kẻ bị đánh cắp môt thời tuổi trẻ ḿnh và không thể bắt đầu lại trong những tan hoang đỗ vỡ của đời sống, trong sự tan nát một mái gia đ́nh, dù rằng tôi đă ra đi, đă chối bỏ cái nơi chốn mà đáng ra ḿnh phải yêu thương và bám víu cho đến hơi thở sau cùng: đó là quê hương.
Khi tôi viết những gịng chữ này, tháng Tư sắp trở về với mọi người trên trái đất này, tháng Tư oan khiên, tàn khốc sắp trở về với dân tộc Việt Nam. Tháng Tư tang thương đă xô đẩy con người vào hỏa ngục trần gian trong đó có tôi, người đàn bà vô danh tiểu tốt trong hàng triệu người dân của miền nam Việt Nam. Tôi, một trong những người bất hạnh chịu nhiều hệ lụy trong cuộc dâu bể tang thương cuả đất nước, tôi đă sống một thời gian rất dài h́nh như không có nụ cười thật sự - nếu cười không có nghĩa là một động tác nhe răng ra. Những buổi sáng mở mắt ra đă thấy buồn co thắt con tim và những ngày dài thất thỏm lo sợ triền miên. Cái quá khứ đau khổ ấy vẫn ám ảnh tôi một cách dai dẳng, sâu đậm dù thật là nhiều năm tháng đă trôi qua và tôi vẫn tự nhủ: hăy quên đi, hăy quên đi và hưởng lấy những hạnh phúc mà ḿnh đang có. Có thể ḿnh đang có những cái mà nhiều người đang ao ước mà không được, ḿnh đang hạnh phúc, nhưng có thể nào ḿnh sẽ chôn vùi tất cả vào nấm mộ không tên rồi mặc cho thời gian mang tất cả vào hư vô, quên lăng, rồi cũng xong một kiếp người.
Nấm mộ không tên tôi đă vô t́nh vùi lấp mấy chục năm qua sao sắp đến tháng Tư nay ḷng tôi bỗng bồi hồi xao xuyến khi nhớ lại. Cái cảm giác đau đớn, cô đơn xưa trở về bất chợt, tôi đang đi trong phố xưa Đalat, thành phố im ĺm câm nín và những con người qua lại với những khuôn mặt thất thểu, lo âu. Nỗi sợ hăi không tên bao trùm mọi cảnh vật. Giọng hát nào the thé cất lên làm không gian tê tái nhuốm thêm màu sắc thê lương chán chường. Rồi con đường đi sâu vào khu rừng thông trong những ngày lao động xă hội chủ nghĩa, những buổi chiều trở về mệt mơi ră rời, những buổi họp dân phố ban đêm với từng khuôn mặt hằn nét thù hận, giọng điệu ch́ chiết đanh thép. Họ đă nói ǵ, họ đă tuyên truyền những ǵ tôi không c̣n nhớ hay chẳng cần phải nhớ.
Trong nỗi đau xưa xin cho tôi được một lần thắp nén hương ḷng hoài niệm những linh hồn tử sĩ trên quăng đường trong khu rừng thông ngày đó. Họ đă chết rất trẻ, khi những ước mơ, khao khát riêng tư chưa trọn vẹn. Có những người chưa biết đến ṿng tay hay nụ hôn của một người t́nh. Có thể rằng họ chưa biết rằng họ đă chết như ngày nào anh Tiến đă nói, dù sao họ cũng không bao giờ già đi, c̣n tôi người phụ nữ trẻ mà có lần họ đă buông lời trêu ghẹo nay tóc đă pha sương. Đứa con trai mà tôi đă sanh sau ngày chồng tôi đi tù về nay đă xấp xỉ tuổi họ. Đứa con trai tôi may mắn hơn họ v́ đă lớn lên trên một đất nước giàu mạnh chưa biết mùi vị của chiến tranh. Nhưng con trai tôi hoàn toàn giống họ với những mơ ước, khát khao của tuổi trẻ và nhất là ḷng ưu ái, thích thú khi gặp người khác phái. Nh́n con, tôi càng cảm thương hơn những người lính trẻ miền Nam đă hy sinh, đă đổ máu cho nền tự do của quê hương, những người trẻ đă nằm xuống ở khúc quanh trong khu rừng thông xưa không ai biết đến, linh hồn họ h́nh như c̣n vất vưỡng đâu đó và những hoài vọng của họ, những ước mơ của họ cũng chẳng ai hay, cũng chẳng ai cần biết.
Bao nhiêu năm tháng trôi qua, bao nhiêu nước chảy qua cầu, bao nhiêu thay đổi, đổi thay kể từ ngày đó. Người mẹ với cánh tay bao dung đă che chắn đời tôi trong những ngày trầm luân gió băo giờ cũng đă nằm yên nghỉ trên một ngọn đồi tĩnh lặng trong thành phố quê hương, bên cạnh ba tôi, người đàn ông đă chia xẻ với mẹ 60 năm trên con đường trần gian buồn nhiều hơn vui này. Anh em chúng tôi mỗi người một ngả trong những xứ sở xa lạ nào đó, chưa một lần đoàn tụ dưới mái nhà xưa. Mái nhà có dàn hoa tím trước cổng và cây hoa ngọc lan hương thơm ngan ngát, mái nhà tôi vào ra suốt thời tuổi nhỏ và là nơi tôi về nương náu quăng đời giông tố trong trái tim yêu thương của mẹ hiền. Tôi chưa trở về Đalat lần nào để thăm viếng. Nhiều người nói với tôi Đalat bây giờ thay đổi nhiều và đẹp lắm, nhưng cũng có nhiều người nói những lời hoàn toàn ngược lại: bây giờ Đalat nhà cửa xây cất vô trật tự, thiếu thẫm mỹ và không c̣n vẻ đẹp thiên nhiên như ngày xưa nữa. Đồi Cù đă trở thành một nơi cho những kẻ có tiền c̣n dân nghèo th́ đừng ḥng bén măng đến. Tôi không biết tin ai, tôi chỉ nhớ ngày tôi ra đi Đalat vô cùng nghèo nàn, héo hắt như con đường Phan Đ́nh Phùng śnh lầy, nước đọng sau những cơn mưa.
Dù sao tôi cũng muốn về Đalat một lần, đi trên đồi thông để hồn ch́m lắng trong giọng ca dĩ văng trữ t́nh cuả Tôn Thất Niệm với Chiều Vàng, Nổi Ḷng, Tạ Từ … Đi qua vùng bờ hồ để nhớ những ngày giông băo, đọa đầy cũ. Tôi ước mong sẽ có một lần trở lại khúc quanh xưa nơi có những oan hồn lẫn quẫn, để thắp lên một nén hương hoài niệm, tạ ơn những anh hùng vô danh đă hy sinh cho nền tự do của miền Nam Việt Nam. Trong đó có những oan hồn, yểu tử cuả phía bên kia th́ cũng cầu xin cho họ sớm siêu thoát, v́ dù sao họ cũng chỉ là nạn nhân của một chủ nghĩa đầy tham vọng, không tưởng mà thôi. Trong thế giới người chết chắc chẳng c̣n thù hận, oán hờn nữa. Họ đă chết thế là xong, chỉ trách cho những người c̣n sống đă từng thấy, đă từng đi qua con đường thê lương, đổ nát đọa đầy của một dân tộc mà vẫn mang tâm trạng mù ḷa hay làm như đă quên đi tất cả hay tệ hại hơn c̣n muốn sơn phết lại, tân trang lại những thối rữa cuả quá khứ mà đă có một thời họ đâm đầu chạy trốn.
Có những kỷ niệm quá đau thương, quá tàn nhẫn tôi biết phải chôn lấp chúng nơi đâu trong kư ức. Xin một lần nữa được ngậm ngùi đọc lên một đoạn thơ trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Nữ Sĩ Đoàn thị Điểm và xin trang trọng gởi một chút tâm sự mộc mạc đến những ai vẫn c̣n mang trong tâm hồn vết hằn đau thuở nọ để gọi là chút duyên tri kỷ của những người đồng điệu:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.

MIMOSA

Berryhill, TN. Tháng ba 2008