Trong những bài thơ tác giả ẩn danh hoặc kư tên nhưng không biết rơ người ấy là ai, Hai sắc hoa ty gôn và TTKh là một huyền thoại lăng mạn đă gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ yêu thơ.

Câu chuyện bắt đầu cách đây 70 năm, ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 174 xuất bản tại Hà Nội, có đăng truyện ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối t́nh tan vỡ của đôi trai gái ngày trước đă ḥ hẹn dưới giàn hoa ty gôn. Ít lâu sau, có người đàn bà trẻ, dáng dấp bé nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến ṭa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một phong b́ dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, kư tên TTKh. Bài thơ Hai sắc hoa ty gôn được đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó c̣n ba bài nữa cũng kư tên TTKh được gửi bằng đường bưu điện đến ṭa soạn:

- Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
- Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
- Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).

Bài thơ thứ nhất xuất hiện sau Hai sắc hoa ty gôn gần một tháng, và Bài thơ cuối cùng đăng tám tháng sau.
Ngay khi Hai sắc hoa ty gôn ra đời, giới văn nghệ sĩ đă xôn xao, thi sĩ J. Leiba, người cùng tâm sự với TTKh và là tác giả hai câu thơ nổi tiếng “Người đẹp vẫn thường hay chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai”, chép lại nguyên văn bài Hai sắc hoa ty gôn trên Ngọ Báo với lời mở đầu:

Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
Yên ủi anh và để tặng em.

Nguyễn Bính sau khi đọc Bài thơ thứ nhất đă viết bài Ḍng dư lệ để tặng TTKh, in lại trong tập Lỡ bước sang ngang và Thâm Tâm có ba bài Màu máu ti gôn, Dang dở và Gửi TTKh, và nhiều thế hệ sau c̣n có những bài thơ khác sụt sùi thương cảm cho số phận TTKh. Vậy TTKh là ai?

Giọt lệ tương tư mới

Hai sắc hoa ty gôn mở đường cho một lối lăng mạn khác với lăng mạn Đông Hồ, Tương Phố. Có thể nói Hai sắc hoa ty gôn là giọt lệ tương tư mới, nơi TTKh, không phải là giọt lệ khóc chồng của Tương Phố, khóc vợ của Đông Hồ, mà là giọt lệ khóc cho t́nh yêu; hơn thế nữa, khóc người t́nh ngoài hôn nhân, một đối tượng tự do, phóng khoáng, vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo thời bấy giờ. Và lần đầu tiên hai chữ người ấy được chính thức đưa vào thi ca, sau này nó sẽ trở thành “cổ điển”, trở thành ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ:

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh ḷng.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng:”Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ t́nh ta cũng vỡ thôi!”
Thuở ấy, nào tôi đă hiểu ǵ
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp:”Màu hoa trắng
Là chút ḷng trong chẳng biến suy.”
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá ! – Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…
Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Ḷng tôi c̣n giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”.
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !
Tôi nhớ lời người đă bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi…
Đến nay tôi hiểu th́ tôi đă,
Làm lỡ t́nh duyên cũ mất rồi !
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đ̣.
Nếu biết rằng tôi đă lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ?

Người ấy
Trong văn xuôi Việt Nam, hai chữ người ấy đă được Nguyễn Trọng Quản dùng để chỉ người t́nh trong truyện ngắn Thày Lazaro Phiền từ 1887. Vậy Nguyễn Trọng Quản là người đầu tiên đưa danh từ Người ấy vào trong văn Việt. Và Thanh Châu xướng lên h́nh ảnh hoa ty gôn trong truyện ngắn đăng trước bài thơ của TTKh một tháng, trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy.

Nhưng TTKh là người đầu tiên sử dụng hai chữ “người ấy” và h́nh ảnh “hoa ty gôn” vào thơ, như một h́nh tượng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định về người t́nh và cuộc t́nh tan vỡ. Về mặt tâm lư xă hội, người đàn bà có chồng những năm 36 – 37, mấy ai dám nói đến người t́nh một cách công khai ? TTKh đă viết nên những lời tâm sự của bao nhiêu người đàn bà cùng cảnh ngộ ngang trái, sống trong xă hội Khổng Mạnh đầu thế kỷ:

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng “một người”.

TTKh là ai?

Trong Bài thơ thứ nhất, in sau Hai sắc hoa ty gôn hai tháng, có những yếu tố xác định rơ hơn về cuộc t́nh này:

Ở lại vườn Thanh có một ḿnh
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.

và nhất là hai câu cuối:

Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

Vườn Thanh và chồng nghiêm là hai yếu tố gây tranh luận về nơi xẩy ra cuộc t́nh và tên người chồng. Vườn Thanh ở đâu? Có phải ở Thanh Hóa không? Và người chồng của TTKh tên là ǵ? Có phải là Nghiêm không?

Đến bài thơ thứ ba, bài Đan áo cho chồng, lời thơ xa xót đầy nước mắt:

Ngoài trời mưa gió xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời.

Và Bài thơ cuối cùng có những câu gần như khó hiểu:

Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết t́nh em được ích ǵ?

Bởi nếu TTKh là người đem chuyện của ḿnh ra viết thành thơ, th́ tại sao nàng lại trách ai ? Vậy ai đây là ai ? Nàng trách chính nàng hay nàng trách người yêu? Nhất là đoạn sau, lời hờn giận càng thêm gay gắt:

Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết ḍng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.

Tất cả những lời trách móc u uẩn này với nhịp điệu du dương, lời thơ tha thiết, gắn bó, làm cho toàn bộ tác phẩm trở thành huyền thoại.
Nếu so sánh 4 bài thơ kư tên TTKh và 3 bài thơ “trả lời” của Thâm Tâm in trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy sau đó, người ta có thể mở được những nấc cửa đầu tiên vào những bí ẩn này. Bài Gửi TTKH của Thâm Tâm có những câu sau đây:


Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời!
Miệng chồng, Khánh gắn trên môi
H́nh anh, mắt Khánh sáng ngời c̣n mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
Nàng c̣n gỡ măi trên tay,
Th́ tơ duyên mới đă thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao c̣n đan nối những câu tâm t́nh?
Khánh ơi c̣n hỏi ǵ anh?
Lá rơi đă hết mầu xanh màu vàng.”
….
Thâm Tâm nhắc đến người yêu tên Khánh. Vậy TTKh là ǵ ? Có phải là những chữ Thâm Tâm – Khánh, viết tắt ? Hay là Tuấn Tŕnh – Khánh (v́ Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Tŕnh). Hay TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm?

Có thể nói hầu hết những nhà biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt Nam (1940), Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1965), Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (1968) … và gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932-1945 Tác Giả và Tác Phẩm do Lại Nguyên Ân và Ư Nhi tập hợp phát hành năm 1992, tất cả đều đánh dấu hỏi về TTKh.

Sự xác định của Nguyễn Vỹ và câu chuyện t́nh

Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàig̣n, th́ ông đă đưa sự thực về Thâm Tâm và TTKh ra ánh sáng, qua một câu chuyện t́nh như sau:

Trần Thị Khánh là một cô học tṛ lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử.

Thanh Giám là một thắng cảnh Hà Nội, đă liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lư, tu bổ cho tới đời nhà Lê, h́nh chữ nhật, xung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước Đền th́ ở trong cùng, trước đền có Hồ Tṛn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có cổng tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán “Hạ mă” và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn ḥ tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là Pagode des corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử Temple de Confucius, Đền Khổng Tử.

Cùng thời có một hoạ sĩ trẻ, đẹp trai tên là Nguyễn Tuấn Tŕnh, bút hiệu Thâm Tâm. Tuấn Tŕnh có một người cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Tŕnh -tên gọi hồi đó- mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Tŕnh mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất hiện.

Sau một vài tháng theo dơi, Tuấn Tŕnh làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, t́nh yêu chớm nở như cành hoa antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô.

Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam nhiều người gọi là hoa nho. Có hai loại : hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống h́nh trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều ở chợ Đồng Xuân, cũng như ở Chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để pḥng khách, nó buông ra một vẻ lăng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa ty gôn. Ở phố Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn th́ không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.

T́nh yêu của Tuấn Tŕnh và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone vừa hé nụ, và chết giữa mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem lại chút thỏa măn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Tŕnh.

Chính lúc này Tuấn Tŕnh lấy bút hiệu là Thâm Tâm. Một vài bài thơ t́nh thức đêm làm tặng cô Khánh. Những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà đều kư là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn kư Tuấn Tŕnh. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của gia đ́nh, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với t́nh yêu tha thiết của Tuấn Tŕnh Thâm Tâm.

Trong lúc những cặp t́nh nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô, th́ Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: “Thầy mẹ em nghiêm lắm, gia đ́nh em nghiêm lắm.” Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.

Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám. Tuấn Tŕnh đă chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cả hai cũng không nói được ǵ, Khánh run sợ. Tuấn Tŕnh bối rối, tất cả những lời lẽ bay bướm đă sắp sẵn, bây giờ quên hết. Cuối cùng lại trách móc nhau v́ những chữ “Thầy mẹ em nghiêm lắm” và rồi Khánh cũng vội vă chạy về nhà.

Lần thứ hai, vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều người nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. H́nh như Khánh muốn nói với Tuấn Tŕnh một điều ǵ, nhưng ngại ngùng không nói. Rồi nàng buồn bă hỏi: “Anh định bao giờ đến xin thầy mẹ cho chúng ḿnh ?” Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: “Anh chưa nghĩ đến việc ấy, v́…” Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây cho đến khi từ giă.

Hai người vẫn thư từ với nhau cho đến một hôm… Tuấn Tŕnh nhận được bức thư của người yêu, không, của người đă hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học tṛ, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học tṛ rất thông dụng lúc bấy giờ).

Đại khái trong thư Khánh nhắc lại t́nh yêu “thơ mộng” của cô với “người nghệ sĩ tài hoa son trẻ”, đó là những chữ cô dùng trong thư. T́nh yêu rất đẹp, nhưng v́ thầy mẹ của cô rất “nghiêm” theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi nhưng cô vẫn có “bổn phận phải giữ tṛn chữ hiếu”, cô than thở đời cô khổ nên t́nh duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v… Cuối thư kư tắt Kh.

Tuy Khánh không viết ǵ về vị hôn phu và ngày cưới, nhưng sau ḍ hỏi, Tuấn Tŕnh được biết chồng Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa vợ và không có con. (Trong câu thơ bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng và tuổi vị thành niên của Khánh). Tiệc cưới rất linh đ́nh, rước dâu bằng 10 chiếc Citroën mới. Cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh.

Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại ṭa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai quế lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.

Trái với mọi dự đoán, Khánh rất hạnh phúc với chồng. Người đau khổ là Tuấn Tŕnh Thâm Tâm. Vừa nhớ thương đơn phận, vừa bị mặc cảm của người nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại c̣n bị mấy thằng bạn chế nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.

V́ một chút tự ái văn nghệ, Tuấn Tŕnh đă thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, kư tên TTKh, với thâm ư cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm ra để thương tiếc mối t́nh tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Tŕnh nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán kín bao thơ và nhờ cô này mang thư đến ṭa báo.

Tất nhiên là giọng thơ lăng mạn của Tuấn Tŕnh hoàn toàn khác với lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Khánh báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn Tŕnh, cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm. Sau khi nhận được bức thư cuối cùng của Khánh, trong thư Khánh tỏ ư không bằng ḷng Tuấn Tŕnh đă mượn tên cô để làm thơ kể chuyện t́nh duyên cũ trên báo, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong lá thư phản đối đó, Khánh xưng tôi chứ không xưng em nữa.

Thâm Tâm lấy lại những lời, những chữ trách móc giận dữ của Khánh trong thư để làm Bài thơ cuối cùng kư tên TTKh, với những câu:

Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết t́nh em được ích ǵ ?
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết ḍng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hăy bán thơ anh
C̣n để yên tôi với một ḿnh

Rồi để đáp lại Bài thơ cuối cùng, Thâm Tâm làm bài Dang dở tặng TTKh, cũng là bài thơ kết thúc niềm đau của mối t́nh dang dở:

Nhưng anh biết cái ǵ xưa đă chết,
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.

Huyền thoại Hai sắc hoa ti gôn, sở dĩ được những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đương thời phụ hoạ và đứng vững lâu dài trong ḷng người đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của một người t́nh, dù viết dưới bàn tay trá h́nh Thâm Tâm. Và cũng nhờ tài năng của Thâm Tâm mà chúng ta có được hai h́nh tượng mới: người ấy và hoa ty gôn. Tính mơ hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm khốc của Antigone ẩn trong một chùm hoa nhỏ, xinh như mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng của t́nh yêu, liệm thêm sự bí mật của những chữ TTKH