Page 1 of 5 12345 LastLast
Results 1 to 10 of 49

Thread: Cổ Học Tinh Hoa

  1. #1
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Cổ Học Tinh Hoa

    Đôi ḍng của nguời post:
    Cổ Học Tinh Hoa là một trích tuyển các mẩu chuyện rất lư thú trong các sách nổi tiếng của Trung Hoa xưa xuyên suốt từ trên 2000 năm nay! Tuy xuất bản đă 86 năm, nhiều quan niệm và triết lư trong Cổ Học Tinh Hoa vẫn c̣n hấp dẩn chúng ta ngày nay!
    Tôi thuộc thế hệ thứ 1, nói theo ngôn ngữ bây giờ. Trường tôi học khi tôi c̣n trẻ có 1 giờ luân lư mỗi tuần. Trong giờ luân lư đó các thầy dạy cho chúng tôi cách … học làm người! Chúng tôi được chỉ dạy từ những chuyện nhỏ nhặt như cách thức cầm chén đủa, cách thức dùng thức ăn trong các bửa tiệc v.v... cho đến những chuyện lớn lao về đạo lư làm người!
    Bao nhiêu chuyện về đạo lư làm người, theo ư tôi, các thầy đều dựa vào các sách như Cổ Học Tinh Hoa, Luân Lư Giáo Khoa Thư, Quốc Văn Giáo Khoa Thư v.v… Khi đó sách vở không dồi dào như bây giờ và các thầy khi giảng về đạo lư làm người cũng thường không nói rơ chuyện hôm nay thầy kể là ở trong sách nào! Với cách học như thế nên về sau, lúc đang là sinh viên đại học khi thấy bảng quảng cáo tuồng cải lương "Tây Thi, gái nước Việt" tôi cứ tưởng người đẹp Tây Thi là người Việt Nam ḿnh! Măi về sau này tôi mới rơ Tây Thi là 1 trong tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa trong quá khứ và cái nước Việt nói trong bảng quảng cáo là nước Việt ở tận bên Tàu!
    Mục đích khi post Cổ Học Tinh Hoa
    Hồi gần đây có dịp đọc trọn bộ 244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa, tôi thấy có nhiều truyện đối vối tôi thực là mới mẻ (v́ lúc nhỏ đâu có cơ hội đọc hay nghe kể hết mọi chuyện trong đó) và tạo rất nhiều thích thú cho ḿnh! Bèn có ư nghĩ post lên đây để bạn đọc thuộc thế hệ thứ 1 như tôi có dịp được đọc trọn bộ 244 tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa. Đọc để t́m lại những xúc động của thuở học tṛ khi học đạo lư làm người. Đọc để ôn cố mà tri tân? Và đọc … cho vui!
    Đới với thế hệ thứ 2, nếu các cháu ṭ ṃ đọc hết Cổ Học Tinh Hoa, các cháu sẽ có những khái niệm căn bản về những ǵ thế hệ cha ông của các cháu đă được giáo dục về đạo lư làm người như thế nào!
    Đới với các bạn đọc chủ trương "thoát Á", “bài Á” trong diễn đàn này, nếu các bạn đọc kỹ hết Cổ Học Tinh Hoa, có thể lập trường của các bạn có thể thay đổi chăng?
    Với các đọc giả thích "chơi" sách, các bạn có thể copy Cổ Học Tinh Hoa về computer của ḿnh để có được 1 bản Cổ Học Tinh Hoa với nhiều thông tin nhất từ trước cho đến nay!
    Nội dung sẽ được post
    Trọn bộ 243 tiểu phẩm và 3 bài “Tiểu tự”, “Danh ngôn danh lư” và “Bạt” trong Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1) sẽ được post.
    Tiểu phẩm “244. Mă Viện” không có trong sách Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1); bài này sẽ được post dựa theo tài liệu tham khảo (3).
    Nội dung các truyện, hay bài viết, và nội dung các LỜI BÀN sẽ theo đúng từng dấu chấm, dấu phẩy trong bản in của Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1).
    Nội dung trong các GIẢI NGHĨA th́ có khác biệt. Sau đây là 1 số ví dụ về các chú thích trong phần GIẢI NGHĨA:
    1). Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu Hi.
    2). Nghiêu: vua đời Đường; vua Nghiêu. (Xin xem thêm Nghiêu ở Phụ Lục C).
    3). Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    4). Sử Kư: c̣n được gọi bằng tên "Sách của ông Thái sử" là cuốn sử của Tư Mă Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông sống. (Chú thích này được trích từ Phụ Lục D; xin xem thêm Tư Mă Thiên ở Phụ Lục C).
    5). Thiên phương bách kế: mưu này, chước khác xoay đủ trăm ngh́n cấp. (2)
    Chú thích trong phần GIẢI NGHĨA được trích từ các nguồn Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1), Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (2), Phụ Lục C và Phụ Lục D.
    Ví dụ 1: sau chú thích không có (2) hay các chữ … Phụ Lục C, Phụ Lục D có nghĩa là chú thích “Tử Hoa Tử: một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu Hi.” được trích từ Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1).
    Ví dụ 2: trong chú thích “Nghiêu: vua đời Đường; vua Nghiêu. (Xin xem thêm Nghiêu ở Phụ Lục C).”, phần “Nghiêu: vua đời Đường; vua Nghiêu” được trích từ Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1). Phần trong ngoặc đơn là phần lưu ư bạn đọc xem thêm bài đọc Nghiêu trong Phụ Lục C.
    Ví dụ 3: chú thích “Khổng Tử: xin xem Khổng Tử ở Phụ Lục C” cho thấy Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1) không có chú thích về “Khổng Tử”, nên xin bạn đọc xem Khổng Tử ở Phụ Lục C.
    Ví dụ 4: chú thích về “Sử Kư” không có trong Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1), nên chú thích này được trích từ Phụ Lục D và xin bạn đọc xem thêm Tư Mă Thiên ở Phụ Lục C.
    Ví dụ 5: chú thích “Thiên phương bách kế: mưu này, chước khác xoay đủ trăm ngh́n cấp. (2)” không có trong Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (1); con số (2) cho biết chú thích này được trích từ Cổ Học Tinh Hoa theo tài liệu tham khảo (2).
    Với chủ trương các chú thích phải đi liền với các bài viết nên nhiều chú thích được lập đi lập lại nhiều lần; điều này khác với trong sách in, các chú thích trùng lặp chỉ được in một hay hai lần.
    Nội dung các Phụ Lục
    Ngoài nội dung các tiểu phẩm, nội dung các LỜI BÀN và nội dung các GIẢI NGHĨA, các Phụ Lục A, B, C và D cũng sẽ được post. Sau đây là nội dung các phụ lục:
    Phụ Lục A: Vị trí các nước được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa so với bản đồ Trung Hoa hiện nay.
    Phụ Lục B: Niên biểu các triều đại cai trị Trung Hoa từ trước cho đến nay.
    Phụ Lục C: Các danh nhân Trung Hoa được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa.
    Phụ Lục D: Các tác phẩm Trung Hoa được trích dẩn trong Cổ Học Tinh Hoa.
    Các Phụ Lục A, B, C và D được biên soạn nhằm mục đích giúp cho việc t́m hiểu Cổ Học Tinh Hoa được sâu sát hơn.
    Trong các sách in trên giấy, thường các Phụ Lục được in sau cùng. Ở đây v́ “in” trên không gian ảo internet nên các Phụ Lục sẽ được post trước.
    Ư tưởng làm các phụ lục nêu trên không có ǵ là mới mẻ. Tám mươi sáu năm trước đây, năm 1925, khi cho in Cổ Học Tinh Hoa, trong lời nói đầu “Tiểu tự” hai cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Từ An Trần Lê Nhân đă có nói rơ ư tưởng này:
    “Những tên người, tên đất, muốn cho tinh tường, đáng lẽ phải có một cái biểu liệt đủ tên những tác giả cùng những người nói trong chuyện và một bức địa đồ Trung Hoa trải qua các thời đại. Nhưng việc ấy xin để nhường những nhà chuyên về Bắc sử sau nầy, đây chúng tôi chỉ chua qua để cho độc giả đủ biết cái đại cương mà thôi.”
    Biết ḿnh tài mọn sức kém chỉ là một độc giả tài tử, không phải là “nhà chuyên về Bắc sử” như hai cụ mong muốn, nhưng nhờ dựa lưng vào 1 câu thơ của cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
    “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tà́”
    nên tôi mới bạo dạn góp sức. Dù không đủ Tài nhưng cũng xin đóng góp chút ít bằng cái Tâm!
    Nếu có ǵ không như ư, xin hai cụ ở bên kia thế giới và bạn đọc ở … bên này thế giới lượng xá cho.
    San Jose, tháng 7/2011
    Trực Vơ

    Tài liệu tham khảo:
    (1). Cổ Học Tinh Hoa do Nhà Xuất Bản T.P. Hồ Chí Minh in năm 1988. (Sách in trên giấy).
    (2). Cổ Học Tinh Hoa do website THƯ VIỆN EBOOK (TVE) đăng:
    http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?t=13114
    (3). Bài viết “Mă Viện” trong Cổ Học Tinh Hoa do website Nhạn Môn Quan đăng:
    http://www.nhanmonquan.net/vbulletin...?t=2530&page=3
    (4). Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt: http://vi.wikipedia.org/wiki/

  2. #2
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục

    Phụ Lục A: Vị trí các nước được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa so với bản đồ Trung Hoa hiện nay.
    (Các thông tin trong phụ lục này được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/)



    BĐ1: bản đồ Trung Hoa hiện nay
    (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_Qu%E1%BB%91c)

    Chu: hay Châu, là một nước chư hầu cổ thời Xuân Thu, kinh đô ở Cảo Kinh, nay là huyện Trường An tỉnh Thiểm Tây.
    Đằng: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc là huyện Đằng tỉnh Sơn Đông bây giờ.
    Hàn: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc. Lănh thổ của nước Hàn trải rộng trong khu vực ngày nay là miền nam tỉnh Sơn Tây, miền bắc tỉnh Hà Nam. Phía tây giáp với Tần, phía bắc giáp Ngụy và Triệu, phía đông giáp Tề, phía nam giáp Sở. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
    Hồ: tức là Hung nô ở phía bắc nước Trung Hoa hay vào nhiễu loạn nước Trung Hoa.
    Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ Nam ngày nay. Xin xem thêm nước Sở.
    Kinh: cũng là tên nước Sở, một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. Xin xem thêm nước Sở.
    Kỷ: nước nhỏ thời Xuân Thu; thời kỳ đầu, nước Kỷ có kinh đô tại khu vực đất Kỷ, ngày nay là huyện Kỷ của tỉnh Hà Nam, sau đó di dời tới khu vực ngày nay là huyện Tân Thái trong tỉnh Sơn Đông, rồi lại dời tới Duyên Lăng, ngày nay là huyện Xương Lạc, tỉnh Sơn Đông và cuối cùng là tới Thuần Vu, ngày nay là huyện An Khâu, tỉnh Sơn Đông.
    Lỗ: một nước chư hầu nhỏ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lănh thổ của nó chủ yếu nằm ở phía nam núi Thái Sơn, ở khu vực trung tâm và miền tây nam của tỉnh Sơn Đông ngày nay cùng một phần các tỉnh An Huy, Hà Nam và Giang Tô bây giờ.
    Lương: xin xem nước Ngụy.
    Ngô: tên nước thời Xuân Thu nằm ở khu vực cửa sông Dương Tử, phía đông nước Sở. Kinh đô của nước Ngô là Cô Tô Tô Châu ngày nay. Lănh thổ nước Ngô tương đương với tỉnh Giang Tô ngày nay.
    Ngụy: một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc; lănh thổ của nước Ngụy bao gồm các khu vực ngày nay là bắc Hà Nam, nam Sơn Tây và phần lớn các tỉnh Hà Bắc, Thiểm Tây. Sau khi dời đô từ An Ấp (nay ở phía tây bắc huyện Hạ tỉnh Sơn Tây) tới Đại Lương (nay là Khai Phong) trong thời kỳ trị v́ của Ngụy Huệ Thành vương (369 TCN-319 TCN), th́ nước Ngụy c̣n được gọi là Lương. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
    Sở : một nước lớn thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam, ở nơi hiện nay là phía nam Trung Quốc. Ban đầu nước này được gọi là Kinh và sau đó là Kinh Sở, cũng c̣n gọi là Kiểm. Ở thời hùng mạnh nhất, Sở chiếm nhiều vùng đất rộng lớn, gồm các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Trùng Khánh, Hà Nam, Thượng Hải, và nhiều vùng thuộc Giang Tô, Quư Châu ngày này. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
    Tấn: một nước mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ (Hà Bắc) bây giờ.
    Tần: là một nước chư hầu thời Xuân Thu và Chiến Quốc ở Trung Quốc, tức là tỉnh Thiểm Tây bây giờ. Tần là nước chư hầu mạnh nhất ở Trung Quốc trong nhiều thế kỷ trước khi nó tiêu diệt toàn bộ sáu nước chư hầu c̣n lại (Tề, Sở, Hàn, Yên, Triệu, Nguỵ) và thống nhất đất nước dưới quyền cai trị của Hoàng đế đầu tiên là Tần Thuỷ Hoàng, có nghĩa là Hoàng đế thứ nhất. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
    Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc. Suốt thời Xuân Thu và Chiến Quốc, nước Tề là một nước chư hầu mạnh do khả năng đương đầu với những kẻ thù lớn bên cạnh như Sở và Tần. Kinh đô nước này đóng tại Doanh Khâu (nay là trấn Lâm Truy của quận Lâm Truy, địa cấp thị Truy Bác, tỉnh Sơn Đông). Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
    Thục : tức là Thục Quân ở vào vùng Thành Đô về đất Tứ Xuyên bây giờ.
    Tiên Ti: tên một nước cũ, tức một bộ phận phía đông Nội Mông Cổ bây giờ. Người Tiên Ti sau này tản mát và bị đồng hóa hay hỗn huyết để trở thành người Hán, người Mông Cổ cùng các dân tộc khác tại phương bắc Trung Quốc
    Tiết: tên một nước nhỏ thời Chiến Quốc, sau bị nước Hồ lấy mất, nay là huyện Đằng, tỉnh Sơn Đông.
    Tống: một nước chư hầu thời Xuân Thu, sau bị nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thuợng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ. Xin xem thêm bản đồ BĐ4.
    Trần: tên một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào một phần đất thuộc miền đông tỉnh Khai Phong (Hà Nam) và một phần tỉnh Bạc Châu (An Huy) ngày nay.
    Triệu: một nước thời Chiến Quốc. Lănh thổ của nước Triệu bao gồm các khu vực ngày nay thuộc Nội Mông Cổ, nam Hà Bắc, trung Sơn Tây và đông bắc Thiểm Tây. Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
    Trịnh: nước nhỏ thời Xuân Thu, ở vào huyện Tân Trịnh, một phần đất phủ Khai Phong tỉnh Hà Nam ngày nay.
    Từ: tức quận Đông Hải thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay.
    Vệ: tên một nước thời Xuân Thu ở vào miền nam tỉnh Trực Lệ (Hà Bắc) và miền bắc tỉnh Hà Nam bây giờ.
    Việt: tên nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ. (Không nên nhầm lẫn với nước Việt Nam).
    Yên: một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc. Thời kỳ đầu Chiến Quốc, lănh thổ của Yên tương ứng với miền trung và miền bắc các tỉnh thành phố ngày nay là Bắc Kinh và Hà Bắc, do vùng đất phong tại Yên sơn, v́ thế mà nước này được gọi là Yên. Kinh đô của nước Yên đặt tại Kế Thành (nay là khu vực trấn Lưu Ly Hà thuộc quận Pḥng Sơn, Bắc Kinh). Xin xem thêm bản đồ BĐ2.
    Chú thích:
    Chư hầu là một từ xuất phát từ chữ Hán, trong nghĩa hẹp của chữ Hán dùng từ thời Tam Đại (nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu) để chỉ vua chúa phong kiến cấp dưới bị phụ thuộc, phải phục tùng và được một vua chúa phong kiến lớn, mạnh hơn làm thiên tử thống trị tối cao và sắc phong cho các vua chúa thuộc các nước và xứ lân bang yếu hơn.
    Xuân Thu: là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. Tên của nó bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu (Biên niên sử Xuân Thu), một cuốn sử mà theo truyền thống thường được coi là của Khổng Tử. Ở giai đoạn Xuân Thu, quyền lực được tập trung hoá. Giai đoạn này xảy ra rất nhiều các trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Sự sụp đổ dần dần của giới thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành; trí thức gia tăng lại thúc đẩy tự do tư tưởng và tiến bộ kỹ thuật. Tiếp sau giai đoạn này là thời Chiến Quốc.
    Ở thời điểm đó Trung Quốc vẫn chưa được coi là một đế quốc. Và tới tận khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần (Tần Thủy Hoàng), và cũng là vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc lên ngôi th́ nước này mới bắt đầu giai đoạn phong kiến. Dưới thời nhà Chu, trung tâm của quyền lực nằm trong tay (hay được cho là như vậy) vị vua nhà Chu.
    Cần lưu ư rằng vua và hoàng đế không phải hoàn toàn như nhau. Vị vua nhà Chu nhận được đồ cống nạp từ các quư tộc cai trị tại những vùng đất mà họ được thừa kế từ tổ tiên. Các vị tổ tiên được phong làm quư tộc hay công tước tại các nước chư hầu thường là các quan chức có công lao lớn đối với nhà vua và triều đ́nh cai trị, trong trường hợp này là nhà Chu. Vị vua nhà Chu không trực tiếp kiểm soát các tiểu quốc chư hầu của ḿnh. Thay vào đó, sự trung thành chung của các quận công và quư tộc tạo nên quyền lực cho ông ta. Khi ḷng trung thành giảm đi, quyền lực của nhà vua cũng giảm sút. Vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc thấy rằng hệ thống phong kiến cuối cùng sẽ dẫn tới một vị vua ít quyền lực và một t́nh thế hỗn loạn. V́ vậy, ông đă dựng lên một Trung Quốc với một thể chế tập trung mạnh mẽ không dựa vào ḷng trung thành của các quận công địa phương.
    (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Xu%C3%A2n_Thu)
    Chiến Quốc: Thời đại kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. Thông thường nó được coi là giai đoạn thứ hai của nhà Đông Chu, tiếp sau giai đoạn Xuân Thu, dù chính nhà Chu đă kết thúc vào năm 256 TCN, 35 năm trước khi kết thúc giai đoạn Chiến Quốc. Tương tự như giai đoạn Xuân Thu, vị vua nhà Chu chỉ đơn giản là một vua bù nh́n. Tên gọi Chiến Quốc xuất phát từ cuốn Chiến Quốc sách được biên soạn đầu thời nhà Hán. Bộ Chiến Quốc sách này c̣n được gọi là Trường Đoản Như của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc. Điểm khởi đầu thời Chiến Quốc hiện vẫn c̣n tranh căi. Trong khi thông thường mọi người sử dụng năm 475 TCN (tiếp sau thời Xuân Thu) th́ năm 403 TCN – năm mà nước Tấn bị chia thành ba – cũng thỉnh thoảng được coi là năm bắt đầu của thời kỳ này.
    Thời Chiến Quốc, trái với thời Xuân Thu, là một giai đoạn mà các lănh chúa địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để củng cố quyền lực. Quá tŕnh này đă bắt đầu ở thời Xuân Thu, và tới thế kỷ 3 TCN, bảy nước lớn nổi lên chiếm vị trí áp đảo. Bảy nước lớn thời Chiến Quốc gồm có Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ và Tần.
    (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_Qu%E1%BB%91c)

    Bản đồ một số nước ở Trung Hoa trong một số thời kỳ



    BĐ2: bản đồ thời Chiến Quốc năm 260 TCN
    (Qin: Tần, Chu: Sở, Han: Hàn, Wei: Ngụy, Qi:Tề, Zhao: Triệu, Yan: Yên)
    (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_Qu%E1%BB%91c)




    BĐ3: bản đồ Tam Quốc năm 262
    (Đỏ: Ngụy, Vàng: Ngô, Xanh: Thục)
    (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_Qu%E1%BB%91c)





    BĐ4: bản đồ nước Tống và các nước xung quanh, thế kỷ 12
    (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A...c_T%E1%BB%91ng)
    Last edited by Truc Vo; 31-07-2011 at 09:04 AM.

  3. #3
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục

    Phụ Lục B: Niên biểu các triều đại cai trị Trung Hoa từ trước cho đến nay
    (Các thông tin trong phụ lục này được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/)

    Lịch sử Trung Quốc
    CỔ ĐẠI
    Tam Hoàng Ngũ Đế (2852 - 2205 TCN)
    Nhà Hạ (2205–1767 TCN)
    Nhà Thương (1766–1122 TCN)
    Nhà Chu (1122–256 TCN)
    • Nhà Tây Chu (1122-770 TCN)
    • Nhà Đông Chu (770 - 249 TCN)
     Thời đại Xuân Thu (771- 401 TCN)
     Thời đại Chiến Quốc (5 – 221 TCN) - Xem bản đồ BĐ2.
    TRUNG ĐẠI
    Nhà Tần (221–206 TCN)
    Nhà Hán (206 TCN–220 CN)
    • Nhà Tây Hán (206 TCN - 8 CN)
    • Nhà Tân (8-23 CN)
    • Nhà Đông Hán (23–220 CN)
    Tam Quốc (220–280) - Xem bản đồ BĐ3.
    Ngụy (220-265), Thục (220-263) & Ngô (229 - 280)
    Nhà Tấn (265–420)
    • Nhà Tây Tấn (265–420)
    • Nhà Đông Tấn (265–420) Ngũ Hồ thập lục quốc (304–439)
    Nam Bắc Triều (420–589)
    Nhà Tùy (581–619)
    CẬN ĐẠI
    Nhà Đường (618–907)
    (Nhà Vũ Chu 690–705)
    Ngũ Đại Thập Quốc (907–960)
    Nhà Liêu (907–1125)
    Nhà Tống (960–1279) - Xin xem bản đồ BĐ4.
    • Nhà Bắc Tống (960-1127) Nhà Tây Hạ (1032-1227)
    • Nhà Nam Tống (1127- 1279) Nhà Kim ( 1115 - 1234)
    Nhà Nguyên (thuộc Mông Cổ) (1271–1368)
    Nhà Minh (1368–1644)
    Nhà Thanh (thuộc Măn Châu) (1644–1911)
    HIỆN ĐẠI
    Trung Hoa Dân Quốc (1912–1949)
    Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa (1949–nay)
    Trung Hoa Dân Quốc (tại Đài Loan) (1949–nay)

    (Tài liệu tham khảo: http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB...g_Qu%E1%BB%91c)

  4. #4
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục C

    Phụ Lục C: Các danh nhân Trung Hoa được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa
    Tiểu sử vắn tắc của 134 danh nhân Trung Hoa được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa được ghi trong các phần GIẢI NGHĨA ở mỗi bài viết trong Cổ Học Tinh Hoa. Số danh nhân được nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa nhiều hơn con số 134, nhưng v́ có một số danh nhân các tác giả không có chú thích nên ở đây sẽ không nêu tên số danh nhân không có chú thích này. 55 trong số 134 danh nhân, được đánh dấu (PLC), với tiểu sử có nhiều thông tin hơn sẽ được ghi trong phụ lục C. Các thông tin trong phụ lục C này hoàn toàn được trích từ "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt", http://vi.wikipedia.org/wiki/.
    Phần trích từ Wikipedia đưa vào Phụ Lục C có thể là toàn bộ hay chỉ là các phần chủ yếu; tỉ lệ trích dẩn hoàn toàn do cảm tính.
    Các tiểu phẩm trong Cổ Học Tinh Hoa được đánh số từ 1 đến 244. Các số theo sau các tên danh nhân sau đây là số thứ tự của các truyện, hay bài viết, trong Cổ Học Tinh Hoa nói đến danh nhân có tên ở trước dăy số.
    Bản các danh nhân Trung Hoa đưọc nói đến trong Cổ Học Tinh Hoa
    STT/ Tên danh nhân – Các số thứ tự của các tiểu phẩm nói đến danh nhân

    1/ Án Tử - 17, 18, 27, 62, 103, 158, 173, 207
    2/ Âu Dương Tu – 24, 100, (PLC)
    3/ Bá Di - Thúc Tề - 129, (PLC)
    4/ Bàng Công (Bàng Đức Công) – 146
    5/ Băo Phác Tử - 178
    6/ Bảo Thúc – 44
    7/ Biển Thước – 214, (PLC)
    8/ Biện Trang - 79
    9/ Cao Dao – 97, 105
    10/ Cao Tổ (Hán Cao Tổ) - 192
    11/ Chu Công – 117, (PLC)
    12/ Chương Nghi - 234
    13/ Cổ Tẩu – 39, 117
    14/ Công Minh Tuyên - 75
    15/ Công Nghi Hưu - 41
    16/ Công Sách - 164
    17/ Công Tôn Diễn - 234
    18/ Di Tử Hà – 19, 20
    19/ Dương Chu – 2, 161, 169, (PLC)
    20/ Dương Hổ - 165
    21/ Dương Phủ - 193
    22/ Dương Tử - 111, 194
    23/ Dự Nhượng – 236, (PLC)
    24/ Đan Chu - 117
    25/ Đái Danh Thế - 187
    26/ Đặng Tích - 11
    27/ Điền Mănh Lược - 163
    28/ Điền Tử Phương - 168
    29/ Đông Phương Sóc – 109, (PLC)
    30/ Đông Quách tiên sinh – 32, 216, 224
    31/ Đường Bá Hổ - 130, (PLC)
    32/ Gia Cát Lượng – 217, (PLC)
    33/ Hải Tiều Tử - 176
    34/ Hàn Bá Du - 133
    35/ Hàn Phi (Hàn Phi Tử) – 8, 10, 13, 20, 28, 32, 33, 37, 53, 85, 94, 180, (PLC)
    36/ Hạng Vũ - 192
    37/ Hoa Hâm - 43
    38/ Hoàn Ôn – 144, (PLC)
    39/ Hồ Quyển Tử - 117
    40/ Hứa Do – 127, 128, (PLC)
    41/ Hứa Doăn - 143
    42/ Hứa Kính Tôn - 167
    43/ Huệ Tử (Huệ Thi) – 48, 57, 182, 208
    44/ Khấu Chuẩn - 73
    45/ Khổng Tử - 1, 6, 16, 19, 25, 28, 38, 39, 60, 61, 66, 70, 81, 99, 104, 105, 107, 115, 119, 121, 123, 131, 164, 170, 171, 199, 209, 230, (PLC)
    46/ Khuất Nguyên – 71, (PLC)
    47/ Kiềm Lâu - 238
    48/ Kiệt – 17, 115, 117, (PLC)
    49/ Lă Bất Vi – 9, 11, 29, 69, 96, 106, 107, 150, 202, (PLC)
    50/ Lă Đông Lai - 122
    51/ Lă Sử Không - 158
    52/ Lăo Tử (Lăo Đam ) - 41, 140, 148, 227, 230, 232, (PLC)
    53/ Lệnh Hồ Đức Phân – 65, 154, 168
    54/ Liễu Hạ Huệ - 107, (PLC)
    55/ Liễu Tôn Nguyên – 30, 184, 197
    56/ Loan Doanh – 231
    57/ Lỗ Trọng Liên – 154, 235
    58/ Lương Khưu Cứ - 158
    59/ Lưu Biểu – 146, (PLC)
    60/ Lưu Cơ (Lưu Bá Ôn) – 34, (PLC)
    61/ Lưu Linh – 186, 187 (PLC)
    62/ Lưu Ngưng Chi - 118
    63/ Mao Linh Ḥa - 163
    64/ Mă Viện – 244, (PLC)
    65/ Mặc Tử (Mặc Địch) – 5, 56, 57, 64, 212, 222, 223, (PLC)
    66/ Mạnh Thường Quân – 52, 102, 145
    67/ Mạnh Tử - 93, 98, 113, 124, 132, 155, 201, 205, 211, 229, 234, (PLC)
    68/ Nghiêu – 18, 22, 90, 105, 117, 127, 128, (PLC)
    69/ Ngô Khởi (Ngô Tử) – 97, 152, 198, (PLC)
    70/ Ngũ Tử Tư (Ngũ Viên)– 82, 189, (PLC)
    71/ Ngưu Hoằng - 137
    72/ Ngụy Văn Hầu – 86, 117
    73/ Nguyễn Tịch - 187
    74/ Nhan Chi Thôi – 183, (PLC)
    75/ Nhan Uyên (Nhan Hồi) – 6, 81, (PLC)
    76/ Phạm Trọng Yêm – 195, (PLC)
    77/ Pḥng Huyền Linh – 142, (PLC)
    78/ Phùng Huyên - 102
    79/ Quản Thúc - 117
    80/ Quản Trọng – 44, 101, 105, (PLC)
    81/ Quư Trát - 59
    82/ Roăn Thuần - 136
    83/ Sào Phủ – 128, (PLC)
    84/ Tả Khưu Minh – 199
    85/ Tăng Tử (Tăng Sâm) – 39, 75, 92, 99, 131, 238, 239, (PLC)
    86/ Tân Viên Diễn - 154
    87/ Tây Môn Báo - 21
    88/ Tây Thi (Tây Tử) – 15, (PLC)
    89/ Tề Cảnh Công – 17, 18, 123, 158, 173, (PLC)
    90/ Tề Hoàn công – 44, 101, 105, 158, 160, 226, (PLC)
    91/ Tề Linh Công – 158, (PLC)
    92/ Tề Thái Công (Lă Vọng Khương Tử Nha) – 129, 158, (PLC)
    93/ Tề Trang công – 27, 83, 150, 158, (PLC)
    94/ Thang (Thành Thang) – 115, 117, (PLC)
    95/ Thanh Lê Tử - 54, 214
    96/ Thạch Chử - 106
    97/ Thẩm Lân Sĩ - 118
    98/ Thân Bao Tư - 82
    99/ Thi Tử - 231
    100/ Thôi Trữ - 27, (PLC)
    101/ Thuấn – 18, 22, 39, 117, (PLC)
    102/ Thúc Tề - 129
    103/ Tô Tần – 50, 52, 153, (PLC)
    104/ Tô Thức (Tô Đông Pha) – 181, 118, (PLC)
    105/ Tôn Măi Đức - 163
    106/ Tôn Tẫn – 97, (PLC)
    107/ Tôn Thúc Ngao - 185
    108/ Tống Liêm – 74, (PLC)
    109/ Trang Tử - 15, 88, 91, 95, 114, 125, 127, 160, 166, 169, 182, 213, 228, 240, (PLC)
    110/ Trành Hoằng - 230
    111/ Trần Hằng - 203
    112/ Trần Kế Nho – 218
    113/ Trần Nghiêu Tư - 100
    114/ Triệu Giản Tử - 165
    115/ Tŕnh Di - 136
    116/ Trụ – 17, 117, 129, (PLC)
    117/ Trương Hoành Cừ - 241
    118/ Trương Nghi – 149, (PLC)
    119/ Trương Ngô Quư - 163
    120/ Tuân Tử - 7, 80, 99, (PLC)
    121/ Tượng - 117
    122/ Tử Cống – 28, 81, 104, 121, 166
    123/ Tử Hoa Tử - 3, 23, 89
    124/ Tử Kích - 168
    125/ Tử Lộ - 38, 81, 171
    126/ Tư Mă Thiên (Long Môn Tử) – 4, (PLC)
    127/ Tử Sản – 199, 200, 233, (PLC)
    128/ Tử Xa - 23
    129/ Từ Tuân Minh - 163
    130/ Uy Hậu - 210
    131/ Văn Công (Tấn Văn công ) – 55, 151, (PLC)
    132/ Vũ (Chu Vũ Vương) – 117, 129, (PLC)
    133/ Vương Thông - 163
    134/ Y Doăn – 97

    Sau đây là các danh nhân với nhiều thông tin hơn các thông tin ghi trong các chú thích của Cổ Học Tinh Hoa:

    1
    Âu Dương Tu (1007 - 1072): có tên tự là Vĩnh Thúc hiệu "Tuư Ông" là nhà thơ thời Tống ở Trung Quốc. Quê Âu Dương Tu ở Lư Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc). Năm 1030 đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri chính sự... Dưới thời vua Tống Thần Tông làm Binh bộ Thượng Thư, khi mất được đặt tên thụy là Văn Trung.
    Âu Dương Tu là một nhà văn nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm Từ xuất sắc. Ông là người khai sáng ra thể loại "thi thoại" (b́nh luận và ghi chép lại các cuộc bàn luận của các thi nhân,...), cuốn "Lục Nhất thi thoại" là cuốn thi thoại đầu tiên của Trung Quốc. Ông c̣n viết những bài rất nổi tiếng như Tuư Ông đ́nh kí, Mai Thánh Du thi tập tự , Thu thanh phú, Bằng đảng luận. V́ thế, Âu Dương Tu tự xưng ḿnh là "Lục nhất cư sĩ" (cư sĩ với 6 cái "một": một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ, một bầu rượu và một thân già).

    2
    Bá Di, Thúc Tề: Bá Di là con vua nước Cô Trúc - quốc gia chư hầu nhà thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông cùng người em là Thúc Tề nổi tiếng v́ sự trung thành với nhà Thương bị nhà Chu tiêu diệt.
    Theo Sử kư sách ẩn, Bá Di là con trai lớn nhất của Á Vi - vua nước Cô Trúc thời vua Trụ nhà Thương. Vua cha muốn lập người em thứ 3 là Thúc Tề. Sau khi cha mất, Thúc Tề nhường lại ngôi vua cho Bá Di nhưng ông không nhận, nói rằng phải theo mệnh lệnh của cha và bỏ trốn.
    Thúc Tề thấy ông bỏ khỏi nước Cô Trúc cũng đi theo ông. Người trong nước bèn lập Á Bằng - người em của Bá Di và anh của Thúc Tề lên ngôi.
    Nghe tin Tây Bá Cơ Xương (vua Chu Vũ vương sau này) là người trọng đăi hiền sĩ, anh em Bá Di t́m đến. Nhưng khi hai người đến nơi th́ Cơ Xương đă qua đời, con là Cơ Phát lên thay, mang quân đánh vua Trụ tàn bạo. Bá Di cùng em đến trước ngựa của Cơ Phát can rằng:
    Cha chết không chôn lại gây việc can qua có thể gọi là hiếu không? Là bầy tôi giết vua có thể gọi là nhân không?
    Cơ Phát không nghe. Những người hộ vệ của Cơ Phát định giết anh em Bá Di nhưng Khương Tử Nha ngăn lại và đỡ anh em ông dậy và cho đi nơi khác.
    Cơ Phát mang đại quân cùng các chư hầu đánh và diệt được vua Trụ. Cơ Phát lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. Bá Di và Thúc Tề xấu hổ về việc đă can ngăn vua Chu diệt bạo chúa, bèn cùng nhau thề không ăn thóc nhà Chu.
    Bá Di và Thúc Tề lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn qua bữa. Rau vi không thể nuôi sống được, cuối cùng ông và Thúc Tề đều chết đói tại núi Thú Dương.

    3
    Biển Thước (~ 401TCN- 310 TCN): tên thật là Tần Hoăn tự Việt Nhân, vốn người châu Mạc, Bột Hải (nay là huyện Nhiệm Khâu, tỉnh Hà Bắc - thời Chiến quốc thuộc nước Triệu).
    Cơ duyên với nghề thầy thuốc
    Thời c̣n trai trẻ, Tần Việt Nhân vốn là chủ một quán trọ, và sống bằng nghề này. Lúc đó có một lương y biệt danh là Trường Tang Quân thường trọ tại quán của Việt Nhân. Việt Nhân rất kính trọng vị lương y này, nên đă phục vụ rất chu đáo và không lấy tiền. Để đáp lại, Trường Tang Quân nhận Việt Nhân làm học tṛ và truyền hết sở học cho ông. Khi tay nghề đă thành thạo, Việt Nhân chuyển hẳn sang nghề thầy thuốc này, dần dần trở nên nổi tiếng, được dân chúng nước Triệu tặng cho biệt hiệu "Biển Thước tiên sinh" (tương truyền Biển Thước là một "lang băm" sống vào thời thượng cổ ở Trung Quốc).
    Hành nghề cứu người
    Lúc bấy giờ ở Trung Quốc, thuật đồng bóng đang lan tràn, nghề y bị lạnh nhạt; nhiều người mắc bệnh không chịu uống thuốc mà cứ rước đồng bóng về để "đuổi quỉ, trừ tà". Thậm chí nhiều nước chư hầu c̣n đặt ra các chức quan "đại chức", "tư vu" để chuyên lo việc này. Biển Thước rất ghét thói mê tín ấy, thường xuyên đấu tranh chống lại nó một cách kiên tŕ, và thông qua hoạt động chữa bệnh có hiệu quả của ḿnh để vạch trần tṛ hề mê tín của đồng bóng. Căn cứ vào kinh nghiệm dân gian và kinh nghiệm nhiều năm làm nghề của ḿnh, Biển Thước đúc kết thành "tứ chẩn" trong phép khám và điều trị là nh́n, nghe, hỏi và bắt mạch. Ngoài việc vận dụng thành thạo "tứ chẩn" để đoán bệnh, Biển Thước sử dụng nhiều biện pháp trị liệu như châm kim đá, châm cứu, xoa nóng, xoa bóp, mổ xẻ, cho uống thuốc v.v... Theo "Hán thư ngoại truyện", có lần Biển Thước dẫn năm người học tṛ đến nước Quắc (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây) để làm thuốc, nghe nói thế tử nước Quắc bị bệnh qua đời đột ngột, ông cảm thấy đáng ngờ, bèn xin được vào xem. Quan sát một hồi, thấy cánh mũi "người chết" c̣n động đậy, hai chân c̣n ấm, Biển Thước chẩn đoán kỹ rồi kết luận: thế tử mắc chứng "thi quyết" (chết giả), có thể cứu sống được. Ông bèn châm kim các huyệt chủ yếu, tiếp theo sai học tṛ Tử Minh làm ngải cứu, Cốc Tử đổ thuốc, Tử Dung xoa bóp không ngừng tay. Hồi lâu, quả nhiên "người chết "dần dần tỉnh lại. Biển Thước lại dùng thuốc dán dưới hai nách, bệnh nhân ngồi dậy được ngay. Vua nước Quắc hết sức vui mừng, không tiếc lời khen ngợi. Người xem Biển Thước như thần tiên, cho rằng ông có thuật "cải tử hoàn sinh ". Biển Thước khiêm tốn giải thích: "Không phải tôi cứu sống người chết, mà người bệnh vốn chưa chết, tôi chỉ cứu người bệnh khỏi cơn hấp hối mà thôi".
    Về tài dùng mắt đoán được bệnh, có một giai thoại về Biển Thước sau đây đă được sử gia Tư Mă Thiên ghi lại trong bộ "Sử Kư "và người đời sau nhắc lại một lần nữa trong bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc (ở hồi thứ 32). Chuyện như sau: Một hôm Biển Thước sang nước Tề gặp Tề Hoàn Công, thấy khí sắc vua Tề không tốt, bèn tâu: "Quân hầu, trong da và chân lông ngài đă có gốc bệnh, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh sẽ nặng thêm ". Tề Hoàn Công thờ ơ đáp: "Ta cảm thấy trong người rất khỏe, chẳng có bệnh tật ǵ cả ". Biển Thước lui ra, sau đó năm ngày lại vào yết kiến, nh́n sắc diện rồi khẳng định một lần nữa với vua Tề: "Bệnh của ngài đă vào đến nội tạng rồi, phải chữa ngay đi". Hoàn Công tỏ vẻ khó chịu, không trả lời. Sau khi Biển Thước đi khỏi, ông mới bảo với mọi người: "Thầy thuốc chỉ khéo vẽ vời, hù dọa người ta. Ta chẳng có bệnh ǵ mà ông ta dám bảo là bệnh nặng. Thật vớ vẩn! ". Năm ngày sau nữa, Biển Thước lại vào yết kiến, chỉ mới nh́n mặt vua Tề, đă quay bước, bỏ đi thẳng. Hoàn Công sai người chạy theo hỏi, Biển Thước nói:"Bệnh ở da, thịt th́ c̣n xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch th́ c̣n tiêm thuốc được, nay bệnh đă vào đến xương tủy rồi th́ trời cũng không cứu được nữa, bởi vậy tôi mới bỏ đi ". Mấy ngày sau quả nhiên Hoàn Công phát bệnh. Ông vội cho người đi t́m Biển Thước, nhưng vị "thần y" đă đi sang nước Tần rồi. Bệnh Hoàn Công ngày càng trở nặng, chẳng bao lâu vị bá chủ chư hầu này tạ thế.
    Lại có một giai thoại khác nữa về vị "thần y": Một hôm có một phụ nữ khá đẹp đến gặp Biển Thước, xin một toa thuốc độc, có thể giết người mà không để lại dấu vết. Đối tượng mà người phụ nữ định đầu độc chính là chồng của chị ta, v́ chị này vốn đă có t́nh ư với một người đàn ông khác. Biển Thước sợ nếu ḿnh từ chối, sẽ có người khác giúp chị đàn bà hoàn thành tâm nguyện, nên giả vờ nhận lời. Ông dặn: về mua khoai mài (hoài sơn) gọt vỏ nấu với lươn cho chồng ăn, mỗi ngày một lần, ít lâu sẽ chết. Người đàn bà hớn hở về làm đúng như lời hướng dẫn.
    Khoảng tháng sau, chị này mang lễ vật đến tạ ơn Biển Thước, báo tin chồng đă chết. Ông rất đỗi ngạc nhiên, chẳng hiểu sao khoai mài nấu cháo lươn là một món rất bổ dưỡng mà ăn vào lại chết. Biển Thước cảm thấy lương tâm cắn rứt, lại hoài nghi về kiến thức y học của chính ḿnh, nên thề giải nghệ, không chữa cho bất kỳ ai. Ông c̣n lấy ch́a khóa tủ sách thuốc nhà ḿnh vứt xuống sông cạnh nhà.
    Sau đó ít lâu, một hôm vừa thức dậy, Biển Thước thấy một chàng trai trẻ làm nghề đánh cá đến van xin ông làm phước cứu vợ anh ta đang bị sanh khó. Biển Thước nhớ lại lời thề dạo trước nên không thèm trả lời chàng trai, chỉ lớn tiếng bảo người nhà: "lấy nước rửa mặt" (cho ông)! Chàng ngư phủ lại ngỡ đó là lời vị danh y mách bảo cho ḿnh, bèn ba chân bốn cẳng chạy về nhà làm đúng như thế. Quả nhiên vừa rửa mặt xong th́ vợ anh ta đẻ được ngay.
    Vài hôm sau, chàng trai đánh bắt được một con cá lớn, nhớ ơn thầy thuốc cứu vợ con ḿnh, bèn kính cẩn đem con cá đến biếu. Một lần nữa, Biển Thước rất ngạc nhiên, mới hỏi: "Tôi có ơn huệ ǵ với anh đâu, mà anh đem cá tạ ơn?". Chàng trai đáp: "Nhờ ơn thầy dạy, tôi lấy nước rửa mặt cho vợ tôi th́ vợ tôi sinh được ngay một thằng con trai rất cứng cáp, dễ thương, nên có chút quà này, mong thầy nhận cho". Biển Thước không sao lư giải được hai trường hợp hy hữu trên, cho là tại thời vận hên xui.
    Sau khi chàng đánh cá về, người nhà đem cá ra mổ làm món nhắm cho nhà danh y uống rượu. Lại một sự không ngờ thứ ba xảy đến: khi mổ bụng cá, thấy chùm ch́a khóa, lại chính là ch́a khóa tủ sách thuốc mà Biển Thước đă ném xuống sông lúc trước. Ông tự nghiệm rằng: "Thiên mệnh" đă đặt cho ḿnh nghề làm thuốc để cứu người, không thể chối bỏ (Từ đó ông ra sức nghiên cứu sâu thêm về y thuật, cứu được rất nhiều bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên ông vẫn chưa hiểu do đâu có tác dụng ngược lại của củ mài và nước lạnh.
    Một hôm có người đem lươn lại bán. Một ư nghĩ chợt nảy ra trong đầu. Biển Thước bảo người bán lươn đổ cả giỏ lươn xuống đất, thấy trong đám lươn chỉ có một con ngóc đầu lên cao, c̣n lại đầu rạp sát đất. Biển Thước mua con lươn ngóc đầu ấy đem làm thịt nấu cho chó ăn th́ chó chết. Bấy giờ Biển Thước mới hiểu cái chết oan uổng của chàng trai có vợ lăng loàn là do ăn phải thứ lươn ngóc đầu lên chứ không phải tại khoai mài. C̣n nước lă giúp vợ chàng đánh cá đẻ mau, v́ chị ấy quá mệt, không c̣n sức rặn. Khi đem nước lạnh rửa mặt, sản phụ cảm thấy sảng khoái, sức mạnh tăng thêm nên sinh được dễ dàng chứ không có ǵ bí hiểm cả.
    Đến cuối đời, danh tiếng Biển Thước ngày càng lớn, càng khiến cho nhiều người ganh ghét, trong đó có một viên quan thái y nước Tần tên Ủy Hề. Hắn vốn là kẻ bất tài, thấy y thuật Biển Thước hơn người, sợ một ngày nào đó có thể thay vị trí của hắn. V́ vậy năm 310 trước Công Nguyên, khi Biển Thước đến hành nghề ở nước Tần, hắn sai người lén đâm chết ông. Nhân dân ở nhiều địa phương rất thương tiếc, đă cho dựng mộ, bia và thờ Biển Thước ở Thiểm Tây, Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam v.v...

    4
    Chu Công: tên thật là Cơ Đán, là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ Vương (Cơ Phát) lập ra nhà Chu (1122 - 256 trước Công nguyên), giành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương. Sau khi Chu Vũ Vương chết, Cơ Đán đă giúp vua mới là Chu Thành Vương xây dựng và phát triển nhà Chu thành một nước mạnh mẽ và có công xây dựng nên nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ trong quá khứ. Công lao to lớn của Cơ Đán với sự phát triển của văn hóa Trung Hoa khiến người ta gọi ông bằng chức vụ là Chu Công (quên đi cái tên Cơ Đán), khiến cho nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông.

    5
    Dương Chu: sống vào thời Chiến Quốc, tự Tử Cư , được người đời sau kính trọng gọi là Dương tử, là một triết gia Trung Quốc. Ông đề ra thuyết "v́ ḿnh". Nổi tiếng với quan niệm: "Không v́ cái lợi lớn của thiên hạ mà chịu mất đi một sợi lông chân của ḿnh". Thuyết của ông cùng với Mặc tử là hai thuyết thường bị Mạnh tử đả kích.
    Không ai biết đích xác ông sinh, mất năm nào, sống vào khoảng nào.

    6
    Dự Nhượng: là một người nước Tấn sống vào cuối thời Xuân Thu tại Trung Quốc. Dự Nhượng được người đời sau biết tới trong vai tṛ thích khách nổi tiếng bậc nhất của thời Xuân Thu Chiến Quốc. Truyện Dự Nhượng kiên tŕ ám sát Triệu Tương tử để trả thù cho Trí Bá Dao đă được Tư Mă Thiên ghi lại trong tác phẩm Sử kư của ông.
    Sách Sử kư ghi lại, Dự Nhượng vốn là người nước Tần đến nước Tấn. Trước ông theo hầu họ Phạm, sau lại thờ họ Trung Hàng nhưng đều chỉ là bậc khách thường, không ai biết tới. Họ Phạm và họ Trung Hàng bị diệt, Dự Nhượng tới thờ Trí Bá Dao, người đứng đầu họ Trí có quyền lực lớn nhất ở nước Tấn, và được Trí Bá Dao hết mực khoản đăi như bậc thượng khách.
    Năm 455 TCN, Trí Bá đem quân đánh họ Triệu, một gia tộc lớn khác ở nước Tấn, nhưng bị Triệu Tương tử lập kế liên kết cùng họ Hàn và họ Ngụy đánh cho đại bại. Họ Trí bị diệt, phần đất của họ Trí bị ba họ c̣n lại chia nhau lập nên Tam Tấn, riêng Trí Bá Dao bị Triệu Tương tử giết rồi lấy đầu lâu sơn lại để làm đồ đựng rượu v́ oán hận Trí Bá Dao.
    Dự Nhượng biết tin chủ bị giết đành phải trốn vào núi và thề trả thù cho họ Trí, Sử kư đă ghi lại lời của ông như sau:
    “Than ôi! Kẻ sĩ chết v́ người tri kỷ! Người con gái làm dáng v́ kẻ yêu ḿnh. Nay Trí Bá biết ta, ta phải liều chết báo thù để đền ơn, có thế hồn phách ta mới khỏi xấu hổ!”
    Quyết tâm trả thù, Dự Nhượng thay tên đổi họ rồi xin vào làm người hầu trong cung, trong người luôn mang theo chủy thủ để t́m cơ hội hành thích Triệu Tương tử. Tuy nhiên Triệu Tương tử cảm thấy bất an bèn bắt Dự Nhượng tra hỏi và phát hiện ra âm mưu báo thù của ông, coi Dự Nhượng hành động như vậy là kẻ hiền, Triệu Tương tử tha chết cho ông và thả cho Dự Nhượng đi.
    Không chịu bỏ cuộc, Dự Nhượng tự hủy hoại dung nhan và giọng nói khiến cho đến vợ ông cũng không thể nhận ra chồng khi Dự Nhượng giả làm ăn xin ngoài chợ. Biết tin Triệu Tương tử ra khỏi cung, Dự Nhượng giả dạng ăn mày nấp dưới cầu định thừa cơ hành thích, tuy nhiên khi xa giá của Tương tử tới nơi th́ con ngựa của Tương tử bất chợt sợ hăi, Triệu Tương tử đoán ngay rằng đây là Dự Nhượng đang định hành thích ḿnh. Dự Nhượng bị bắt, khi Triệu Tương tử hỏi ông rằng tại sao đă thờ ba đời chủ mà vẫn hết ḷng trả thù cho Trí Bá Dao như vậy, Dự Nhượng đáp:
    “Tôi thờ họ Phạm và họ Trung Hàng, họ xem tôi là hạng người thường nên tôi báo đáp họ theo lối người thường. C̣n như Trí Bá đối đăi với tôi như người quốc sĩ, nên tôi phải báo thù theo lối quốc sĩ.”
    Triệu Tương tử nghe vậy biết rằng ḿnh không thể lung lay quyết tâm báo thù của Dự Nhượng nên đành phải cho quân sĩ giết ông. Trước lúc chết, Dự Nhượng xin Tương tử đưa áo đang mặc để ông đâm vào đó cho thỏa ḷng báo thù, chết khỏi ân hận. Tương tử đưa áo, Dự Nhượng bèn đâm vào đó mấy lần rồi đâm cổ tự vẫn. Kẻ sĩ nước Triệu nghe chuyện Dự Nhượng chết ai nấy đều không khỏi bùi ngùi.
    Trong thời gian đi sứ ở Trung Quốc, Nguyễn Du đă sáng tác tới hai tác phẩm trong tập Bắc hành tạp lục lấy đề tài về truyện Dự Nhượng, đó là một bài hành có tên Dự Nhượng kiều chuỷ thủ hành (Bài hành về chiếc chủy thủ cầu Dự Nhượng) và một bài thơ lấy tên Dự Nhượng kiều.
    (C̣n tiếp)

  5. #5
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục C

    (Tiếp theo)
    7
    Đông Phương Sóc (khoảng 154 TCN - 93 TCN): là một học giả nổi tiếng ở tỉnh Sơn Đông, cùng thời với Tư Mă Thiên và dưới thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Ông là một người ḱ trí đa mưu, tinh thông văn sử, đă giúp cho Hán Vũ Đế diệt trừ các thế lực đen tối ở hậu cung; đồng thời đánh bại các chư hầu âm mưu chia rẽ đất nước. Bên cạnh đó, Đông Phương Sóc c̣n đưa ra nhiều kế sách được người đời xem như là Y Quốc Mật Phương.Với tài năng thiên phú, Đông Phương Sóc luôn được Hán Vũ Đế trọng dụng nhưng tuyệt nhiên không được phong chức đề bạt. Bản tính hiên ngang, không sợ chết, ông thường dùng những câu chuyện hài hước để châm biếm, đă kích bọn quan tham ô lại. Cũng chính v́ thế mà Đông Phương Sóc luôn trở thành cái gai trong mắt bọn quan tham, và chúng đă âm mưu hăm hại ông bằng cách xàm tấu với vua để liệt ông vào dạng lộng thần.

    8
    Đường Bá Hổ (1470 - 1523): tức Đường Dần là một danh hoạ, một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh. Đường Dần tự là Tử Uư, Bá Hổ (nên c̣n được gọi là Đường Bá Hổ), hiệu là Lục Như cư sĩ, Đào Hoa am chủ, tự xưng là Minh triều Giang Nam đệ nhất phong lưu tài tử. Ông quê ở Ngô huyện (nay là thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô). Đường Dần xuất thân trong một gia đ́nh thương gia giàu có, cha là Đường Quảng Đức, mẹ là Khâu Thị. Đường Bá Hổ tuổi nhỏ rất chăm chỉ học hành và sớm đỗ Giải Nguyên phủ Ứng Thiên, sau đó lên kinh thi hội nhưng do bị liên can đến án thi cử gian lận nên bị ngồi tù, ra tù Đường Dần t́m đến phủ Ninh Vương Châu Thần định nương náu ở đây nhưng phát hiện Châu Thần có ư mưu phản nên lại bỏ về Tô Châu. Sau đó không c̣n ham hố con đường làm quan nữa mà tập trung vào viết thư pháp, vẽ tranh và làm thơ.

    9
    Gia Cát Lượng (181–234): là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả. Trong quân sự, ông đă tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (H́nh vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mă (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền ông c̣n là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.
    Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc), tự Khổng Minh, Gia Cát là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài ḿnh như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự ḿnh cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
    Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan.
    Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam.
    Khi Lưu Bị ở Tân Dă, có đến Tư Mă Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mă Đức Tháo có nói: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên." Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.
    Khổng Minh đă giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyên, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một ḷng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông ḥa Tôn Quyền, phía nam b́nh Mạnh Hoạch.
    Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đă muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đă tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đ́nh, thất bại ở Tỷ Quy.
    Lưu Bị trước khi chết đă uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Phi (con trai Tào Tháo, lúc này là vua nước Ngụy) gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được ǵ, mong ông giúp đỡ c̣n như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị c̣n để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.
    Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đă đem quân xuống phía nam để b́nh định bọn nổi loạn. Gia Cát Lượng ra quân không lâu đă bắt sống được Mạnh Hoạch. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm ḷng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.
    Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.
    Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn vơ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.

    10
    Hàn Phi: (khoảng 280 - 233 TCN) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia, tác giả sách Hàn Phi Tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ.
    Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc ḍng dơi quư tộc nước Hàn (được gọi là "công tử"), thích cái học "h́nh danh." Gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lăo Tử. Hàn Phi có tật nói ngọng, không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách.
    Hàn Phi và Lư Tư đều học với Tuân Tử. Lư Tư tự cho ḿnh kém Hàn Phi, nhưng Hàn Phi và Lư Tư đều đóng vai tṛ trong việc giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Cả hai đều theo pháp gia (hoặc pháp trị), chịu ảnh hưởng của Mặc Tử. Mặc Tử trước kia đă chủ trương "thượng đồng", nghĩa là bắt dân phải tán đồng lẽ phải với người trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên. Không ai được có chủ trương riêng khác với chính sách của triều đ́nh.
    Hàn Phi không được nước Hàn tin dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử.

    11
    Hoàn Ôn (312–373): là đại tướng nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc, người Long Cang, Tiêu Quốc.
    Cha Hoàn Ôn là Hoàn Lân, thái thú Tuyên thành (An huy). Ngày Hoàn Ôn chưa đầy 1 tuổi, có người bạn thân của Hoàn Lân là Ôn Kiều (về sau là đại thần phụ chính thời Tấn Minh đế, tước Thạch an công) tới chơi, tỏ ra rất quư Hoàn Ôn. V́ vậy Hoàn Lân liền đặt tên con theo họ của bạn là Hoàn Ôn.
    Tương truyền trên mặt Hoàn Ôn có 7 nốt ruồi đen, được coi là quư tướng.
    Năm 317, Hoàn Ôn mới lên 5 tuổi. Hoàn Lân bị bộ tướng của quyền thần Tô Tuấn là Hàn Hoảng đồng mưu với Giang Bác giết chết. Hoàn Ôn căm phẫn, nuôi chí báo thù.
    Năm 320, Hoàn Ôn lên 8 tuổi. Giang Bác bệnh chết. Ba người con trai Giang Bác trong lúc chịu tang cha phải mang vũ khí bên ḿnh v́ sợ Hoàn Ôn trả thù. Tuy nhiên, Hoàn Ôn vẫn cải trang, giấu kín dao trong tay áo, lọt vào đám tang và lần lượt tiếp cận giết được cả 3 anh em con của Giang Bác.
    Khi chuyện đó truyền đi, ai cũng thán phục ḷng quả cảm của ông. Từ đó Hoàn Ôn đă bắt đầu nổi tiếng. Ông càng nỗ lực học tập, rèn luyện vơ nghệ để lập nghiệp.
    Hoàn Ôn lớn lên khi miền bắc Trung Quốc bị các tộc người Hồ ở phương bắc tràn xuống xâm chiếm, gọi là hoạ Ngũ Hồ, nhà Tấn phải chạy xuống miền Giang Nam. Miền bắc lúc đó có các nước Thành Hán, Hậu Triệu và Tiền Yên.
    Hoàn Ôn nổi danh, được Tấn Minh Đế gả công chúa Nam Khang và trở thành pḥ mă nhà Tấn rồi được phong làm pḥ mă Đô uư. Sau đó, ông lần lượt giữ chức thái thú Lang Nha, thứ sử Từ châu.
    Nắm binh quyền trong tay, Hoàn Ôn quyết chí tiêu diệt Ngũ Hồ ở phương bắc.
    Năm 347, Hoàn Ôn tiêu diệt nước Thành Hán. Sau khi diệt Thành Hán, uy tín của Hoàn Ôn rất cao. Ông tiếp tục nuôi chí bắc phạt để giành lại trung nguyên.
    Tháng 6 năm 349, tướng Hậu Triệu là Vương Giáp dâng thành Thọ Xuân cho Đông Tấn. Tấn Mục đế sai Ân Hạo dẫn quân bắc phạt chứ không cử Hoàn Ôn. Ông biết triều đ́nh muốn dùng Hạo để khống chế ḿnh nên rất không bằng ḷng.
    Ân Hạo bất tài, đánh trận thua liên tục. Hoàn Ôn không ḱm chế được, đầu năm 354, ông viết sớ tâu lên vua Tấn kể tội Ân Hạo, xin cách chức Hạo. Vua Tấn không có cách nào khác đành cách chức Hạo và giao binh quyền cho ông.
    Tháng 2 năm 354, Hoàn Ôn dẫn quân từ Giang Lăng đi đánh nước Tiền Tần (thành lập năm 350 từ sự tan vỡ của Hậu Triệu). Hoàn Ôn đi đánh địch hành quân xa, lương thảo vận không kịp. Ông định gặt lúa ngoài đồng th́ Tần vương Phù Kiện đă sai quân đi đốt hết lúa ngoài đồng trước khi rút lui, khiến quân Tấn bị đói. Tháng 6 năm 354, Phù Kiện chỉnh lại đội ngũ được 8 vạn quân, bắt đầu phản công. Quân Tấn thiếu lương không ở lâu được, Hoàn Ôn đành phải rút quân, trên đường về tới Đồng Quan bị quân Tần tập kích, bị thiệt hại nặng.
    Năm 356, Hoàn Ôn được phong làm chinh thảo đô đốc, dẫn quân đi đánh nước Yên.
    Tuy việc bắc phạt khi thắng khi thua nhưng Hoàn Ôn đă nắm quyền hành rất lớn trong triều đ́nh với uy thế khiến vua Tấn lo ngại.
    Tháng 3 năm 369, ông tự điều thứ sử các châu Từ, Lương, Duyện và Thọ Xuân theo đường thuỷ đi đánh Yên. Ông liên tiếp thắng quân Yên ở Hoàng Hư (Hà Nam) và Lâm Chử (Tân Trịnh – Hà Nam).
    Vua Yên vội sai Lạc An vương Mộ Dung Tàng ra đánh cũng bị thua liền mấy trận, phải chạy sang cầu cứu Tiền Tần.
    Vua Tần điều 2 vạn quân cứu Yên. Quân Tần chưa đến mà quân Yên đă bất ngờ phản công, đánh bại quân Tấn ở Phương Đầu. Hoàn Ôn bị mất 2 tướng, lại bị thiếu lương thảo, nên phải rút về nam. Nghe tin quân Tần sắp tới đánh sáp lại, ông vội rút lui, bị quân Yên đánh gấp, thiệt hại nặng.
    Tuy Hoàn Ôn thua trận nhưng v́ ông có quyền lớn triều đ́nh, không ai dám truy trách nhiệm. Hoàn Ôn vốn có chí lấy ngôi nhà Tấn nên hay muốn bắc phạt để lập công, nhưng c̣n e ngại một bộ phận quan lại trung thành với nhà Tấn. Việc bắc phạt gặp bất lợi, sợ bị mất uy tín, để ra uy với nhà Tấn, ông t́m cách phế vua Tấn là Tư Mă Dịch. Hoàn Ôn truyền ra câu đồng dao rằng vua Tấn có tật bị liệt dương nên phải nhường ngôi.
    Hoàn Ôn bèn phế Tư Mă Dịch, chọn lập một người cao tuổi và nhu nhược là Tư Mă Dục lên ngôi, tức là Tấn Giản Văn đế. Theo sử sách, khi được đưa lên ngôi, Giản Văn đế lo sợ bị hại như Tư Mă Dịch nên nước mắt giàn giụa, c̣n bản thân Hoàn Ôn cũng lo lắng sợ mọi người chống lại, không nói được lời nào.
    Kết quả không ai dám phản đối Hoàn Ôn. Ông càng ra tay thanh trừng nhiều quan lại không cùng cánh.
    Tháng 3 năm 373, Hoàn Ôn lâm bệnh, tới tháng 7 ông mất ở Cổ Quách, thọ 62 tuổi.
    Khi ông mất, con trai là Hoàn Huyền c̣n nhỏ. Ba mươi năm sau, Hoàn Huyền nối chí cha lại trở thành quyền thần nhà Đông Tấn, thực hiện việc cướp ngôi nhà Tấn, lập ra nhà Sở trong một thời gian.
    Theo các sử gia Trung Quốc, Hoàn Ôn sống thường nhật giản dị, tiết kiệm, có tài; nhưng tính t́nh kiêu ngạo, dă tâm giành ngôi quá lộ liễu (với việc bắc phạt lập công để uy hiếp triều đ́nh) nên hay bị các phe phái khác t́m cách ngăn trở, không hợp tác khi ông tác chiến và hành động trong triều. Do đó, không những việc bắc phạt không thành công, tâm nguyện của ông cũng không thực hiện được.
    Câu nói nổi tiếng của Hoàn Ôn: “Đại trượng phu nếu không thể lưu tiếng thơm th́ cũng có thể để lại tiếng xấu cho đời sau.”

    12
    Hứa Do, Sào Phủ: là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ và Hứa Do. Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu.
    (C̣n tiếp)

  6. #6
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục C

    (Tiếp theo)
    13
    Khổng Tử ( 27 tháng 8 âm, 551 TCN– 479 TCN): c̣n gọi là Khổng Phu Tử là một nhà tư tưởng, nhà triết học xă hội nổi tiếng người Trung Hoa, các bài giảng và triết lư của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Đông Á.
    Triết học của ông nhấn mạnh trên sự tu dưỡng đức hạnh cá nhân và cai trị bằng đạo đức: "tu thân, tề gia, b́nh thiên hạ", sự chính xác của các mối quan hệ xă hội, đạo đức và quy phạm làm người, "Đạo Trung Dung" và các đức tính "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín". Các giá trị đó đă có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Đạo gia trong suốt triều đại nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đă được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo.
    Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Luận Ngữ, một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời do các học tṛ của ông ghi chép lại. Trong gần 2.000 năm ông được cho là người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu (Kinh Nhạc đă bị Tần Thủy Hoàng đốt mất nên c̣n lại Ngũ Kinh).
    Tiểu sử
    Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 trước Công nguyên, vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, tại ấp Trâu, làng Xương B́nh,nước Lỗ (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Nhiều sử sách ghi rằng ông sinh trong một gia cảnh nghèo, nhưng thực tế gia đ́nh ông có ông tổ ba đời vốn thuộc ḍng quư tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ. Cha của Khổng Khâu, Thúc Lương Ngột (cháu 13 đời của Vi Tử Diễn, anh của vua Trụ nhà Thương) là quan vơ thuộc ấp Trâu, đến 70 tuổi mới lấy Nhan thị mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha, lớn lên, phải làm lụng vất vả để nuôi mẹ, nhưng rất ham học. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho chuyên quản lư kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lư nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lư việc xây dựng công tŕnh. Năm 22 tuổi, ông mở lớp dạy học. Học tṛ gọi ông là Khổng Phu Tử, hay gọi gọn hơn là Khổng Tử. 'Tử' ngoài ư nghĩa là 'con' ra c̣n có nghĩa là "Thầy". Do vậy Khổng Tử là Thầy Khổng.
    Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học tṛ đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và t́m người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại tư khấu (coi việc h́nh pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, gièm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa.
    Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học tṛ đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho b́nh dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại. Ông mất tháng 4 năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.
    Dạy học
    Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi ḿnh là một "người truyền đạt lại cái đă có mà không phát minh ra thứ ǵ khác". Ông rất nhấn mạnh trên tầm quan trọng của sự học, và chương mở đầu Luận Ngữ cũng đề cập tới việc học. V́ thế, ông được người Trung Quốc coi là vị Đại Sư. Thay v́ t́m cách xây dựng một lư thuyết mang tính hệ thống về cuộc sống và xă hội, ông muốn các môn đồ của ḿnh phải suy nghĩ sâu sắc cho chính ḿnh và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như Kinh Xuân Thu) hay những t́nh cảm của nhân dân trong quá khứ (như Kinh Thi).
    Ở thời đại của sự phân chia, hỗn loạn và những cuộc chiến tranh không dứt giữa các nước chư hầu, ông muốn tái lập Thiên Mệnh để có thể thống nhất "thiên hạ" và mang lại ḥa b́nh, thịnh vượng cho nhân dân. V́ thế Khổng Tử thường được coi là người đă đề xướng chủ nghĩa bảo thủ, nhưng khi xem xét kỹ những đề xuất của ông ta thấy ông đă sử dụng (và có thể cố ư bóp méo) những định chế và lễ nghi trong quá khứ nhằm đặt ra một hệ thống chính trị mới của riêng ḿnh: sự khôi phục một vương quốc thống nhất mà những vị vua phải được lựa chọn theo đạo đức, không phải theo ḍng họ, những người cai trị phải hành động v́ nhân dân, và họ phải đạt tới mức hoàn thiện. Một vị vua như vậy có thể dùng đạo đức của ḿnh giáo hóa nhân dân thay v́ áp đặt mọi người bằng pháp luật và quy định.
    Một trong những giáo lư sâu sắc nhất của Khổng Tử, một trong những điều khó hiểu nhất từ quan điểm phương Tây, có thể là việc ông sử dụng những câu chuyện cách ngôn chứ không giảng giải trực tiếp cách cư xử cho các môn đồ. Đạo đức của ông có thể được coi là một trong những kiểu đạo đức cao nhất. Cách dạy "gián tiếp" này được sử dụng rất nhiều trong các bài giảng của ông thông qua những lời ám chỉ, nói bóng gió, và thậm chí là sự lặp thừa. Điều này giải thích tại sao khi nghiên cứu cần đặt các bài giảng của ông vào đúng ngữ cảnh.
    Có lẽ bài giảng nổi tiếng nhất của ông là Quy tắc vàng:
    Tử Cống hỏi: "Có một chữ nào có thể dẫn dắt hành xử trọn đời không?"
    Thầy đáp: "Có lẽ là chữ Thứ 恕 chăng? Cái ǵ mà ḿnh không muốn th́ đừng làm cho người khác (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân)?" (sách Luận ngữ)
    (Điều ḿnh không muốn đừng bắt người phải chịu th́ gọi là Thứ)
    Khổng Tử cũng nhấn mạnh trên cái mà ông gọi là "lễ và nhạc", coi hai thứ đó là những trụ cột của sự cân bằng cho trật tự và sự hài hoà. Lễ là các yêu cầu và quy phạm trong việc đối nhân xử thế; c̣n âm nhạc là để thống nhất mọi con tim cùng chung vui, cũng là để giữ ǵn đức hạnh. Ông nói thêm rằng lễ không chỉ là cúng tế, và âm nhạc không chỉ là âm thanh của dùi đánh vào chuông. Cả hai c̣n là cách truyền đạt giữa ḷng nhân của một người và hoàn cảnh xă hội của anh ta; cả hai yếu tố đó đều tăng cường các mối quan hệ xă hội, như ngũ luân (năm mối quan hệ chủ yếu): quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (vợ chồng), huynh đệ (anh em) và bằng hữu (bạn bè). Các trách nhiệm luôn được cân bằng, và nếu một thần dân phải tuân lệnh vua, th́ thần dân cũng phải nói ra khi nhà vua sai lầm.
    Khổng Tử chú trọng vào sự tu dưỡng đạo đức cá nhân: "Tu thân, Tề gia, B́nh Thiên hạ" và cai trị thiên hạ bằng ḷng nhân từ. Ông nhấn mạnh vào Ngũ thường: "Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín"; Nhân là ḷng từ thiện, Nghĩa là việc nên làm, Lễ là yêu cầu và quy phạm trong việc đối nhân xử thế với người trên và dưới, Trí là trí tuệ, Tín là ḷng thành thật. Người ta phải giữ năm đạo đó làm thường, chẳng nên để rối loạn.
    Những bài giảng của Khổng Tử sau này được các môn đồ của ông biến thành một bộ văn bản tỉ mỉ về những quy định và cách thức thực hiện nghi lễ. Nhiều thế kỷ sau khi ông đă qua đời, cả Mạnh Tử và Tuân Tử đều viết những cuốn sách quan trọng, và lúc ấy, một triết lư đă được tạo dựng đầy đủ, gọi là Khổng giáo.
    Triết học
    Dù Khổng giáo thường được người Trung Quốc tin theo như một tôn giáo, vẫn tồn tại những cuộc tranh luận về việc liệu đó có phải là một tôn giáo không, bởi Khổng giáo ít đề cập tới các vấn đề thần học hay duy linh (quỷ thần, kiếp sau, vân vân).
    Khổng Tử đề cao mối quan hệ gia đ́nh, thờ cúng tổ tiên, trẻ kính trọng già, vợ tôn trọng chồng, và gia đ́nh là căn bản cho một chính phủ lư tưởng. Ông đă tuyên bố rơ nguyên tắc nổi tiếng, "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (cái ǵ ḿnh không muốn th́ đừng làm cho người khác).
    Đạo đức
    Lư thuyết đạo đức của Khổng tử dựa trên ba quan niệm chính:
    Khi Khổng tử trưởng thành, lễ được xem là ba khía cạnh sau trong cuộc đời: hiến tế cho thần thánh, thiết chế chính trị và xă hội, và hành vi hàng ngày. Lễ được xem là quy phạm đạo đức và hành vi mà Thiên thượng (Trời) chế định cho con người, lấy đó mà biết việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
    Đối với Khổng tử, nghĩa là nguồn gốc của lễ. Nghĩa chính là cách hành xử đúng đắn. Trong khi làm việc v́ lễ, vị kỷ cá nhân chưa hẳn đă là xấu và người cư xử theo lễ một cách đúng đắn là người mà cả cuộc đời dựa trên trí. Tức là thay v́ theo đuổi quyền lợi của cá nhân ḿnh, người đó cần phải làm những ǵ là hợp lẽ và đạo đức. Trí là làm đúng việc v́ một lư do đúng đắn. Nghĩa dựa trên quan hệ qua lại. Một ví dụ sống theo nghĩa là tại sao phải để tang cha mẹ ba năm sau khi chết. Lư do là v́ cha mẹ đă phải nuôi dưỡng chăm sóc đưa trẻ toàn bộ trong suốt ba năm đầu đời, và là người có trí phải đền đáp lại bằng cách để tang ba năm.
    Cũng như lễ xuất phát từ nghĩa, th́ nghĩa cũng xuất phát từ nhân (仁). Nhân là cách cư xử tốt với mọi người. Nhân được coi là điều cao nhất của luân lư, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân th́ lễ mà làm ǵ? Người không có nhân th́ nhạc mà làm ǵ?" (sách Luận ngữ).
    Đức hạnh theo Khổng tử là dựa trên việc sống hài ḥa với mọi người.
    Ông áp dụng nguyên tắc trên như sau: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Cái ǵ mà ta không muốn th́ đừng làm cho người khác".
    Chính trị
    Tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng "lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con người, chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đă giải thích điều đó tại một trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: 1. "Dùng mệnh lệnh, pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng h́nh phạt để quản lư dân, làm như vây tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhă khi phạm tội, mà c̣n cam tâm t́nh nguyện sửa chữa sai lầm của ḿnh tận gốc từ mặt tư tưởng." Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi trước hành động xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong h́nh thức luật pháp của Pháp gia.
    Trong khi ủng hộ ư tưởng về một vị Hoàng đế đầy quyền lực, có lẽ v́ t́nh trạng hỗn loạn ở Trung Quốc thời kỳ đó, các triết lư của Khổng Tử chứa đựng một số yếu tố hạn chế quyền lực của những nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ phải luôn ngay thật; v́ thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu. Thậm chí trên nét mặt, phải luôn thể hiện sự trung thực. Khi bàn luận về mối quan hệ giữa thần dân và nhà vua (hay giữa con và cha), ông nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự tôn trọng của người dưới với người trên. Điều này đ̣i hỏi người dưới phài đưa ra lời khuyên cho người trên nếu người trên có hành động sai lầm. Tư tưởng này được học tṛ của ông là Mạnh Tử phát triển thêm khi nói rằng nếu vua không ra vua, ông ta sẽ mất Thiên mệnh và sẽ phải bị lật đổ. V́ thế hành động giết bạo chúa là đúng đắn bởi v́ kẻ bạo chúa giống một tên trộm hơn là một vị vua.
    Tác phẩm
    Theo truyền thuyết, ông được cho là người biên soạn hay hiệu đính Ngũ Kinh. Ngũ Kinh là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Ngũ Kinh gồm có:
    1. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về t́nh yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người t́nh cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rơ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi th́ không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
    2. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
    3. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy tŕ và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ th́ không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
    4. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
    5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời b́nh, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ư nói những sự việc xảy ra. Tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc, thời Xuân Thu, bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu này.
    Các tác phẩm nổi tiếng của Khổng Tử ngoài bộ Ngũ Kinh c̣n có Luận Ngữ. Về Luận Ngữ: xin xem Luận Ngữ ở Phụ Lục D.

    14
    Khuất Nguyên (340 TCN - 278 TCN): tên B́nh, biệt hiệu Linh Quân là một chính trị gia, một nhà thơ yêu nước nổi tiếng của Trung Quốc. Ông là người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương. Ông học rộng, nhớ dai, giỏi về chính trị, lại có tài văn chương. Lúc đầu ông được vua yêu quư, sau có quan lại ganh tài ông, t́m cách hăm hại. Vua Sở nghe lời gièm pha nên ghét ông. Ông âu sầu, ưu tư viết thiên Ly Tao để tả nỗi buồn bị vua bỏ.
    Đến cuối đời ông bị vua Tương Vương (người nối ngôi Sở Hoài Vương) đày ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử). Ông thất chí, tự cho ḿnh là người trong sống trong thời đục, suốt ngày ca hát như người điên, làm bài phú "Hoài Sa" rồi ôm một phiến đá, gieo ḿnh xuống sông Mịch La tự tử ngày mùng 5 tháng 5. Dân làng ở đó đă mang những thuyền đến giữa ḍng sông để cố gắng cứu vớt nhưng không thành. Để cho cá và các linh hồn của ma quỷ không lại gần được thi thể của ông họ đă đánh trống và vẩy nước bằng các mái chèo của họ. Sau đó để tưởng nhớ, tỏ rơ sự tiếc thương một người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa lại làm bánh (bánh ú), quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ư làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên. Đó là sự tích tết Đoan Ngọ (Đoan Dương).

    15
    Kiệt (trị v́: 1818 TCN – 1767 TCN): hay Hạ Kiệt là vua cuối cùng nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc. Hạ Kiệt là con của Hạ Phát, vốn có tên là Lư Quư. V́ Lư Quư là người tàn ác nên bị gọi là Kiệt, nghĩa là kẻ độc ác ưa giết chóc.
    Lư Quư được sử sách ghi lại là ông vua hoang dâm và tàn bạo, thích gây việc chiến tranh.
    Lư Quư mang quân đi đánh nước Hữu Thi, nước Hữu Thi không chống nổi bèn dâng mỹ nữ là nàng Muội Hỷ và xin Lư Quư lui quân. Lư Quư được nàng Muội Hỷ bèn tha cho nước Hữu Thi.
    Lư Quư sủng ái nàng Muội Hỷ, tăng cường bóc lột nhân dân để hưởng lạc.
    Thấy nước Thương của Thành Thang giàu mạnh, Lư Quư sợ Thương chống lại nên lệnh triệu Thương Thang, tức Thành Thang đến kinh đô rồi bắt và giam cầm ở Hạ Đài. Sau một thời gian, Kiệt tha cho Thương Thang, thả về bộ tộc. Thương Thang quyết tâm phát triển lực lượng để lật đổ sự cai trị của Hạ Kiệt.
    Lư Quư vẫn tiếp tục việc chinh phạt, mang quân đi đánh đất Manh Sơn. Manh Sơn bèn theo nước Hữu Thi, dâng 2 người con gái đẹp là Uyển và Viêm để xin Hạ lui quân. Lư Quư cũng bằng ḷng lui quân về và rất sủng ái hai người con gái đất Manh Sơn, lạnh nhạt với nàng Muội Hỷ.
    Trong khi đó Thành Thang nước Thương ngày càng lớn mạnh. Thương Thang sai Y Doăn đến kinh đô nhà Hạ trá hàng. Muội Hỷ bị Lư Quư lạnh nhạt đâm ra oán vọng. Y Doăn đă lợi dụng sự oán vọng của Muội Hỷ đă liên hệ với nàng để nắm được nhiều tin tức về nội t́nh triều đ́nh nhà Hạ. Sau khi nắm được nội t́nh nhà Hạ, Y Doăn trở về với Thành Thang.
    Trong khi Lư Quư say đắm tửu sắc th́ Thương Thang t́m cách liên minh với các bộ tộc để tạo vây cánh và mang quân đánh diệt các nước chư hầu thân với Hạ như Cát, B́nh Chướng Vi, Côn Ngô.
    Theo kế sách của Y Doăn, Thương Thang khiêu chiến với nhà Hạ, bỏ không nộp cống cho Hạ Kiệt. Lư Quư nổi giận điều động binh mă 9 bộ tộc phía đông trước sau đánh vào bộ lạc Thương. Thang sai người đến nộp cống. Thấy Thang thuần phục, ông lại bằng ḷng cho lui quân.
    Thang tranh thủ thời gian t́m cách liên minh và chia rẽ 9 bộ tộc giúp quân cho Hạ Kiệt. Sang năm sau, Thang lại bỏ cống nạp. Lư Quư lại tổ chức hội các bộ lạc phụ thuộc ở Hữu Nhung đánh Thương, nhưng lần này các bộ lạc không nghe theo. Bộ lạc Mân phản đối việc đánh Thương của Lư Quư. Ông nổi giận bèn mang quân đánh Mân trước. Nhân dân phải phục dịch cho cuộc chiến nặng nề càng oán hận ông hơn.
    Thấy ông bị sa lầy vào cuộc chiến với tộc Mân, Thang quyết định ra quân diệt Hạ. Năm 1767 TCN, Thương Thang đánh thắng Lư Quư trong trận quyết định ở Minh Điều. Hạ Kiệt thua trận, bị mất ngôi và bị đày ra Nam Sào. Ông nói với thủ hạ: “Ta hối hận không giết Thang ở Hạ Đài nên mới ra nông nỗi này”.
    Nhà Hạ mất. Hạ Kiệt ở ngôi 52 năm, bị đày ra Nam Sào 3 năm th́ qua đời tại núi Đ́nh Sơn năm 1764 TCN, không rơ bao nhiêu tuổi. Thành Thang lập ra nhà Thương.
    (C̣n tiếp)

  7. #7
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục C

    (Tiếp theo)
    16
    Lă Bất Vi (292-235 TCN): là một thương gia thời Chiến Quốc. Sau ông được chọn giữ chức thừa tướng cho nước Tần. Lă Bất Vi là cha của Doanh Chính tức vua Tần Thuỷ Hoàng nước Tần, vị hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa. Ông được cho là người nổi tiếng trong lịch sử về buôn quan bán tước.
    Bất Vi có một người thiếp là Triệu Cơ, đàn hay múa giỏi, lại đang có mang. Bất Vi mời Tử Sở đến nhà, sai Triệu Cơ ra rót rượu. Tử Sở đem ḷng say mê, Lă Bất Vi liền dâng Triệu Cơ cho Tử Sở. Tử Sở lập Triệu Cơ làm phu nhân, đến đủ tháng sinh con là Chính.
    Tử Sở lúc đó là con giữa của An Quốc Quân, tức là vua Tần Hiếu Văn vương.
    Sau khi Tử Sở làm vua (vua Trang Tương Vương, nối ngôi Tần Hiếu Văn vương) được ba năm th́ mất. Năm 246 TCN thái tử Chính lên ngôi, năm đó mới 13 tuổi, gọi là Tần Vương Chính, tức Tần Thủy Hoàng sau này, tôn Lă Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ.
    Vua Tần Vương Chính tuổi nhỏ, thái hậu Triệu Cơ (thiếp cũ của Lă Bất Vi) thường lén lút tư thông với Lă Bất Vi. Trong nhà Lă Bất Vi có đến vạn người. Bất Vi bèn sai các khách soạn ra những điều ḿnh biết, họp lại làm tám Lăm, sáu Luận, mười Kỷ gồm hơn hai mươi vạn chữ, cho là đủ hết những việc trời đất, muôn vật, xưa nay. Đặt tên sách là Lă Thị Xuân Thu bày ở cửa chợ Hàm Dương, đặt ngh́n lạng vàng lên trên, mời các du sĩ của chư hầu ai có thể thêm bớt một chữ th́ xin biếu một ngh́n lạng vàng.
    Khi Tần vương Chính Tần Thủy Hoàng đă lớn mà thái hậu Triệu Cơ cứ dâm loạn măi. Bất Vi sợ lộ, mang vạ, bèn ngầm t́m kẻ dương vật lớn là Lao Ái, dùng làm người nhà. Thường làm tṛ vui, sai Lao Ái lấy dương vật của ḿnh tra vào bánh xe gỗ đồng mà đi, khiến thái hậu nghe biết chuyện để nhử thái hậu Triệu Cơ. Quả nhiên thái hậu nghe chuyện rồi, muốn được riêng Lao Ái. Bất Vi vờ sai người tố cáo Lao Ái phạm tội đáng thiến. Bất Vi lại báo với thái hậu: Nên có kẻ giả bị thiến này làm chức Cấp Sự Trung. Thái hậu bèn ngầm cho kẻ coi việc thiến nhiều tiền. Viên quan coi án lại luận tội vờ, nhổ râu mày làm cho hoạn quan Lao Ái nhờ vậy được vào hầu thái hậu.
    Năm 238 TCN, Tần vương Chính đă lớn. Ông phát giác ra vụ việc Lao Ái, bèn giết 3 họ Lao Ái và hai người con riêng của Lao Ái và thái hậu Triệu Cơ. Vụ việc liên quan tới Lă Bất Vi, Tần Thủy Hoàng cách chức, lưu đày rồi sang năm 235 TCN hạ lệnh ép Lă Bất Vi tự sát. Lă Bất Vi tự liệu sẽ bị giết bèn uống thuốc độc tự tử.

    17
    Lăo Tử: là một nhân vật chính yếu trong Triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang c̣n được tranh căi. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỉ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỉ 4 TCN, thời Bách gia chư tử và thời Chiến Quốc. Lăo Tử được coi là người viết Đạo Đức Kinh - cuốn sách của Đạo giáo có ảnh hưởng lớn, và ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo (Đạo tổ).
    Tên riêng của Lăo Tử có thể là Lư Nhĩ, tên tự của ông có thể là Bá Dương, và tên thụy của ông là Đam, (聃) có nghĩa là "Bí ẩn".
    Lăo Tử cũng được gọi là: Lăo Đam, Lăo Quân, Lư Lăo Quân, Thái Thượng Lăo Quân, Thái Thượng Đạo Tổ, Lăo Tử Đạo Quân, Huyền Đô đại lăo gia.
    Người ta biết được rất ít về cuộc đời Lăo Tử. Sự hiện diện của ông trong lịch sử cũng như việc ông viết cuốn "Đạo Đức Kinh" đang bị tranh căi rất nhiều. Lăo Tử đă trở thành một anh hùng văn hóa quan trọng đối với các thế hệ người Trung Quốc tiếp sau. Truyền thuyết cho rằng ông sinh ra ở huyện Khổ nước Sở, hiện nay là Lộc Ấp thuộc tỉnh Hà Nam, trong những năm cuối thời Xuân Thu. Một số truyền thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đă bạc trắng, v́ ông đă nằm trong bụng mẹ 8 hay 80 năm, điều này giải thích cho cái tên của ông, có thể được dịch thành "bậc thầy già cả" và "đứa trẻ già".
    Theo truyền thống, và một tiểu sử gồm cả trong cuốn sử của Tư Mă Thiên, Lăo Tử là người cùng thời nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử và làm quan giữ sách trong thư viện triều đ́nh nhà Chu. Khổng Tử đă có ư định hay đă t́nh cờ gặp ông ở nước Chu, gần nơi hiện nay là Lạc Dương, nơi Khổng Tử định đọc các cuốn sách trong thư viện. Theo những câu chuyện đó, trong nhiều tháng sau đó, Khổng Tử và Lăo Tử đă tranh luận về lễ nghi và phép tắc, vốn là những nền tảng của Khổng giáo. Lăo Tử cho rằng việc khôi phục lễ giáo thời nhà Chu của Khổng Tử để giúp thiên hạ thái b́nh là không thực dụng. Truyền thuyết Đạo giáo kể rằng những cuộc tranh luận đó có ích cho Khổng Tử nhiều hơn so với những ǵ có trong thư viện.
    Sau này, Lăo Tử nhận thấy rằng chính sự của đất nước đang tan ră và quyết định ra đi. Ông đi về phía Tây trên lưng một con trâu qua nước Tần và từ đó biến mất vào sa mạc rộng lớn. Truyền thuyết kể rằng có một người gác cửa tên Doăn Hỉ ở cửa phía tây của ải Hàm Cốc thuyết phục Lăo Tử viết lại những hiểu biết của ḿnh trước khi đi vào sa mạc. Cho tới lúc ấy, Lăo Tử mới chỉ nói ra các triết thuyết của ông mà thôi, và giống như trường hợp của Chúa Giêsu, Phật, và Khổng Tử (những cuốn văn tuyển của họ hầu như được hoàn thành bởi các đệ tử). Theo yêu cầu của người lính đó, Lăo Tử đă viết để lại cuốn "Đạo Đức Kinh". Nhiều cuốn ghi chép và bức tranh về Lăo Tử c̣n lại đến ngày nay, thường thể hiện ông là một người già hói đầu với một cḥm râu trắng hay đen và rất dài; ông thường cưỡi trên lưng một con trâu.
    Đạo Đức Kinh là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ư nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác được cho là của ông, đụng chạm tới nhiều vấn đề của triết học trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên, "người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên", rằng con người cần sống ḥa hợp với thiên nhiên và tạo hóa, tuân theo quy luật của thiên nhiên, tu luyện để sống lâu và gần với Đạo.
    Đạo Đức Kinh là một tác phẩm triết học kinh điển. Trang Tử, người kế tục nổi tiếng nhất của Lăo Tử, đă viết một cuốn sách có ảnh hưởng lớn tới giới trí thức Trung Quốc với các tư tưởng về chủ nghĩa cá nhân, tự do, sự thảnh thơi, và nghệ thuật, cuốn sách này có thể chính là nền tảng của Mỹ học Trung Quốc tuy tác giả không nói ǵ về điều đó.
    Lăo Tử để lại một số câu nói nổi tiếng:
    Người tri túc, không bao giờ nhục (tri túc bất nhục).
    Lưới trời lồng lộng, cao mà khó lọt “Thiên vơng khôi khôi, sơ nhi bất thất”.
    Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghị tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật...
    Tự biết ḿnh là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh. Thắng được ḿnh là kiên cường.
    Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên".

    18
    Liễu Hạ Huệ (720 TCN- 621 TCN): tên thật là Triển Cầm, tự là Quư, người đất Liễu Hạ, nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là một chính nhân quân tử.
    Liễu Hạ Huệ làm Sĩ Sư, ba lần bị truất mà không bỏ nước. Có người hỏi, ông trả lời: "Lấy đạo ngay mà thờ người th́ đi đâu mà không bị ba lần truất. Nếu lấy đạo cong th́ hà tất phải bỏ nước của cha mẹ". Sau khi chết, được đặt tên thụy là Huệ. Mạnh Tử khen ông là bậc thánh về Ḥa. Nguyễn Du trong Bắc hành tạp lục đă làm bài thơ viếng mộ ông.
    Liễu Hạ Huệ là một chính nhân quân tử:
    Liễu Hạ Huệ một hôm dừng chân nghỉ qua đêm trước cổng thành, có một phụ nữ cũng đến trú chân. Trời lạnh người phụ nữ này bị cảm lạnh rét cóng, Liễu Hạ Huệ liền cởi áo ḿnh ra khoác lên người cô ta rồi ôm vào ḷng để cô ta hết lạnh, mà trong ḷng không hề có một chút tà tâm.
    Lại có lần Liễu Hạ Huệ ngồi xe ngựa với đàn bà, đi cả quăng đường dài mà mắt ông chỉ nh́n thẳng chứ không hề liếc ngang lần nào.

    19
    Lưu Biểu (143-208): tự là Cảnh Thăng, quê ở Cao B́nh, đất Sơn Dương là một lănh chúa phong kiến thuộc hoàng tộc nhà Hán sống vào cuối đời Hán trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Biểu là người trấn giữ Kinh Châu, một vùng đất có vị trí quân sự rất quan trọng nên luôn bị các thế lực phong kiến đời tiền Tam quốc ḍm ngó. Trong tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Lưu Biểu được miêu tả là một người nhu nhược, có hư danh chứ không có thực tài. Ông nắm giữ trong tay một vị trí chiến lược quan trọng nhưng không biết cách phát huy thế mạnh.
    Năm 191, Tôn Kiên ở Giang Đông về phe với Viên Thuật đi đánh Lưu Biểu, bị quân Lưu Biểu bắn chết. Sau đó, Lưu Biểu liên kết với Trương Tú đánh nhau với Tào Tháo nhưng thất bại.
    Năm 200, Lưu Bị đến Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu. Ông sai Lưu Bị đến trấn giữa Tân Dă. Vợ thứ Lưu Biểu là Sái thị cùng anh là Sái Mạo luôn t́m cách hăm hại Lưu Bị v́ lo Bị sẽ đoạt cơ nghiệp của con ḿnh sau này.
    Lúc này Tào Tháo, sau chiến thắng ở trận Quan Độ trước Viên Thiệu, trở thành thế lực phong kiến mạnh nhất Trung Quốc nên có ư muốn chiếm Kinh Châu của Lưu Biểu cùng lúc đó Hạ Khẩu là vùng đất quan trọng của Kinh Châu do Hoàng Tổ trấn giữ lại bị Đông Ngô chiếm được khiến Lưu Biểu lo lắng sinh bệnh. Năm 208, Tào Tháo nghe tin Lưu Biểu bệnh sắp chết sợ Lưu Bị tọa hưởng Kinh Châu nên đem quân đến Tân Dă. Lưu Biểu nghe tin Tào Tháo kéo quân đến sợ quá nên bệnh chết, thọ 66 tuổi.

    20
    Lưu Cơ (1311-1375): c̣n gọi là Lưu Bá Ôn; là nhà văn, nhà thơ và là công thần khai quốc nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những nhân vật có nhiều huyền thoại; là người đă đề cao tư tưởng "quan bức, dân phản", đồng thời là tác giả Mại cam giả ngôn, một tản văn nổi tiếng nhằm đả kích giới "thống trị thối nát".
    Lưu Bá Ôn, người huyện Thanh Điền, tỉnh Chiết Giang. Nhờ siêng học, đam mê đọc sách, ông sớm làu thông kinh sử, văn chương, binh pháp và thiên văn. Vào cuối đời nhà Nguyên, ông thi đỗ tiến sĩ, được bổ làm quan; nhưng v́ bị chèn ép, chỉ trích nên ông tức giận bỏ về ở ẩn năm 1360.
    Khi Chu Nguyên Chương khởi nghiệp, lấy lễ mời ông ra giúp. Lưu Bá Ôn giúp vua Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương) chế định mọi công việc, từ khoa cử, h́nh pháp cho đến lễ nhạc... Sau thấy Minh Thái Tổ rắp tâm hăm hại công thần, tháng 8 năm Hồng Vũ thứ nhất (khoảng tháng 10 năm 1368), ông đệ đơn xin từ chức, nhưng măi đến năm 1371, ông mới được về nghỉ sau khi từ chối ngôi vị tể tướng.
    Về cuối đời, do bất ḥa với Tể tướng Hồ Duy Dung, ông buồn rầu mà sinh bệnh. Sau khi uống thuốc, bệnh càng trở nên nguy kịch, và ông mất hơn một tháng sau đó (năm 1375), hưởng thọ 64 tuổi, có ư kiến cho rằng ông bị Hồ Duy Dung đầu độc mà chết.

    21
    Lưu Linh: tên tự là Bá Luân, người đời Tấn, là người phóng đạt làm quan đến chức Kiến uy tướng quân, thích uống rượu và uống không biết say, có làm bài "Tửu đức tụng" ca ngợi việc uống rượu. Lưu Linh là một trong nhóm Trúc lâm thất hiền (7 người hiền trong rừng Trúc: Nguyễn Tịch (210-263), Kê Khang (223-263), Lưu Linh (220-300), Sơn Đào (205-283), Hướng Tú (221-300), Vương Nhung (234-305) và Nguyễn Hàm).

    22
    Mă Viện (14 TCN-49): tự Văn Uyên, người Phù Phong, Mậu Lăng (nay là huyện Phù Phong, tỉnh Thiểm Tây,Trung Quốc) là một viên tướng người Hán trong thời ḱ nhà Đông Hán. Hậu duệ nổi tiếng của ông là Mă Đằng và Mă Siêu một danh tướng trong thời ḱ Tam Quốc, Mă Đại, trọng thần nhà Thục Hán. Lăng mộ của ông c̣n ở đông bắc Hưng B́nh, Thiểm Tây ngày nay. Ông c̣n được gọi là Phục Ba tướng quân hay Mă Phục Ba.
    Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, phục vụ vua Hán Quang Vũ Đế thống nhất đế quốc sau thời kỳ loạn Vương Măng. Con gái của ông sau này đă trở thành hoàng hậu của vua Hán Minh Đế - tức là Minh Đức hoàng hậu.
    Một trong những chiến tích lớn nhất của ông là việc chinh phạt Giao Chỉ (Việt Nam). Ông dập tắt cuộc khởi nghĩa của bà Trưng Trắc và em bà là Trưng Nhị vào năm 43 ở miền bắc Việt Nam ngày nay. V́ vậy, trong chính sử Việt Nam, ông là kẻ xâm lược.
    Năm 49, trong khi đem quân đi chống lại các bộ lạc Ô Hoàn, Mă Viện qua đời v́ một bệnh truyền nhiễm, cũng là bệnh đă giết chết một lượng lớn quân của ông.

    23
    Mặc Tử (khoảng 478 - 392 TCN): tên thật là Mặc Địch, người nước Lỗ, thời Chiến Quốc. Ông sinh ra và lớn lên trong 1 gia đ́nh tiểu thủ công. Ông là người vốn gần gũi thực tế xă hội với người nhân dân lao động.
    Học thuyết "Mặc Tử" đă nêu lên gồm 10 chủ trương lớn (có thể nói là mười cương lĩnh chính trị của ông), nội dung được chia thành mười loại: Thượng Hiền, Thượng Đồng, Tiết dụng, Tiết táng, Phi lạc, Phi mệnh, Thiên chí, Minh quỹ, Kiêm ái, Phi công.
    Học thuyết "Mặc Tử" vốn có 71 thiên. Ngày nay c̣n giữ lại được 53 thiên trong đó có hai thiên "Kinh thượng" và "Kinh hạ" là do ông viết c̣n lại phần lớn là do các đệ tử, học tṛ dựa theo lời nói, bài giảng và những việc làm của ông và các học giả Mặc Gia, ghi chép chỉnh lư thành sách.

    24
    Mạnh Tử (372–289 TCN; một số tài liệu khác ghi là: 385–303/302 TCN) là nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử.
    Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. V́ vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia...(thời kỳ bách gia tranh minh) và cũng là thời kỳ mà các tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn nhau gây ra các cuộc chiến tranh liên miên, dân t́nh vô cùng khổ sở. Tư tưởng của Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng ông không tuyệt đối hóa vai tṛ của ông vua như Khổng Tử, ông chủ trương dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người, rằng con người sinh ra đă là thiện rồi nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người c̣n người lao lực th́ bị người trị". Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ", "Tín". Ông đem học thuyết của ḿnh đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
    Mạnh Tử đề xuất tư tưởng người quân tử phải có "Hạo nhiên chính khí", cần "Lấy Đức thu phục người khác", "Người nhân từ khắp thiên hạ không có kẻ thù nào".
    Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện, Đức của một người là quà tặng của thiên thượng (Trời), và được liên thông với thiên thượng. Mọi người đều có bản chất tốt và đạo đức, và nếu một người thủ đức và nỗ lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu, vua Thuấn. Mạnh Tử chỉ ra rằng để trở thành một con người có lư niệm, người đó cần phải giữ được 4 tiêu chuẩn, “ḷng trắc ẩn, thuộc về ḷng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa khí; tâm khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ” (trích từ “Cuốn đầu tay của Công Tôn Sửu" trong ‘các tác phẩm của Mạnh Tử’). Bốn đặc tính của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng tạo thành bốn đức tính của ḷng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ.[5]
    Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lư, có trí tuệ dồi dào, giỏi tŕnh bày và phân tích lư luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt người ta.
    Sách “Mạnh Tử”
    Sách “Mạnh Tử” là tác phẩm triết học, đạo đức học và chính trị học làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương v.v... ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học tṛ cùng với những lời phê b́nh của Mạnh Tử về các học thuyết khác như: học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử là một kinh điển rất quan trọng trong Tứ Thư của Nho học. Tứ Thư là bốn tác phẩm kinh điển của Nho học Trung Hoa, gồm Đại Học (xem Tăng Tử trong Phụ Lục C), Trung Dung (xem Tăng Tử trong Phụ Lục C), Luận Ngữ (xem Luận Ngữ trong Phụ Lục D) và Mạnh Tử.
    Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: Mạnh Tử thượng và Mạnh Tử hạ.
    Mạnh Tử thượng gồm 3 thiên:
    Lương Huệ Vương (thượng - hạ)
    Công Tôn Sửu (thượng - hạ)
    Đằng Văn Công (thượng - hạ)
    Mạnh Tử hạ gồm 4 thiên:
    Ly Lâu (thượng -hạ)
    Vạn Chương (thượng - hạ)
    Cáo tử (thượng - hạ)
    Tận tâm (thượng - hạ)
    Nội dung sách gồm 2 phần: Tâm học và Chính trị học.
    Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rơ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
    Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ v́ ta đắm đuối vào ṿng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đă hợp nhất với Trời.
    Phần Tâm học của Mạnh Tử rất sâu xa, khiến học giả dù ở địa vị hay cảnh ngộ nào cũng giữ được phẩm giá tôn quí.
    Chính trị học: Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành.
    Mạnh Tử nh́n nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho ḿnh. Phải duy dân và v́ dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rơ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành.
    Chủ trương về chính trị của Mạnh Tử thật vô cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lư, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lư thuyết khởi đầu để h́nh thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
    Tóm lại, bộ sách Mạnh Tử rất có giá trị với Nho giáo. Phần Tâm học trong sách là đỉnh cao nhất trong học thuyết Nho giáo.
    Tŕnh Y Xuyên nói: "Kẻ đi học nên lấy hai quyển sách: Luận Ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đă học được hai bộ sách này rồi th́ không cần học Ngũ Kinh cũng rơ thông được cái đạo của Thánh hiền."
    Ngũ Kinh là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Ngũ Kinh gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu.
    Về Ngũ Kinh, xin xem Khổng Tử trong Phụ Lục C.
    (C̣n tiếp)

  8. #8
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục C

    (Tiếp theo)

    25
    Nghiêu, Đế Nghiêu (2337 TCN–2258 TCN): là một vị vua huyền thoại của Trung Quốc cổ đại, một trong Ngũ Đế. Theo Sử kư Tư Mă Thiên, Ngũ Đế bao gồm: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Ông, cùng với các vua Thuấn và Vũ sau này, được Khổng giáo xem là các vị vua kiểu mẫu và các tấm gương đạo đức. Nghiêu thường được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, ḷng nhân từ và sự cần cù của ông được coi là kiểu mẫu cho mọi vị vua và hoàng đế khác của Trung Quốc.
    Theo truyền thuyết, Nghiêu lên ngôi khi 20 tuổi, qua đời ở tuổi 119 và ông truyền ngôi cho vua Thuấn, người được ông gả cho hai cô con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh từ trước.
    Việc Nghiêu chọn Thuấn nhường ngôi chứ không nhường ngôi cho con ḿnh là Đan Chu thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không v́ lợi ích riêng tư của ḍng họ.
    Trong nhiều cống hiến của ḿnh, vua Nghiêu được cho là người đă phát minh ra cờ vây.

    26
    Ngô Khởi (440 TCN - 381 TCN): là người nước Vệ, sống trong thời Chiến Quốc, sau Ngũ Viên và Tôn Tử, từng làm đại tướng ở hai nước là Lỗ và Nguỵ, làm tướng quốc ở Sở. Ông là một nhà quân sự nổi tiếng, nhà chính trị, nhà cải cách lớn thời Chiến quốc. Khi ông nắm quyền ở nước nào đều làm cho nước đó trở nên cường thịnh, mở mang bờ cơi, các nước khác không dám đến xâm lược.
    Tác phẩm “Ngô Khởi binh pháp”, c̣n được gọi là “Ngô Tử binh pháp”, tập hợp những khảo luận về quân sự của ông trong thời gian làm tướng ở nước Lỗ và nước Ngụy. Đây được coi là một trong những bộ binh pháp tiêu biểu nhất ở Trung Quốc thời cổ đại và là một trong Vũ kinh thất thư hay bảy bộ binh pháp kinh điển của Trung Quốc và thường được giới thiệu kèm với Tôn Tử binh pháp để tạo thành bộ sách quân sự nổi tiếng Tôn Ngô binh pháp.
    Từ thời trẻ, Ngô Khởi lấy vợ người nước Tề và ham thích việc quân sự. Ông học cùng với Tăng Tử.
    Nước Tề đánh nước Lỗ. Vua Lỗ Mục Công muốn dùng Ngô Khởi làm tướng nhưng v́ ngại Ngô Khởi lấy con gái Tề làm vợ nên ngờ vực. Ngô Khởi muốn bỏ sự nghi ngờ của vua Lỗ, bèn giết vợ để tỏ rằng ḿnh không liên hệ ǵ với Tề. Lỗ Mục Công phong ông làm tướng, cầm quân đánh tan quân Tề.
    Trong lúc ông đang cầm quân ngoài chiến trường th́ có người nước Lỗ ghét ông, gièm pha với vua Lỗ. Vua Lỗ lại nghi ngờ ông, không tin dùng nữa.
    Ngô Khởi bỏ đi, nghe tin Ngụy Văn Hầu là vua hiền, muốn đến theo. Do sự tiến cử của Lư Khôi, Ngụy Văn Hầu bèn thu dụng ông, phong làm tướng. Ông được lệnh cầm quân đi đánh nước Tần, chiếm được năm thành.
    Khi Ngô Khởi làm tướng, ông thường cùng ăn mặc như người lính bậc thấp nhất, lúc ngủ không trải chiếu, đi không ngồi xe, thân hành mang lương thực, cùng chia khó nhọc với quân sĩ. Có người lính mắc bệnh ung thư, ông tự đến hút mủ cho anh ta. V́ sự gần với quân sĩ nên ông rất được ḷng mọi người.
    Ngụy Văn Hầu thấy Ngô Khởi giỏi dùng binh, thanh liêm công bằng, được ḷng quân sĩ, nên cho ông làm quan thú Tây Hà để chống lại nước Tần và nước Hàn.
    Năm 396 TCN, Ngụy Văn Hầu mất, thế tử Kích lên thay, tức là Ngụy Vũ Hầu.
    Ngụy Vũ Hầu phong Điền Văn làm tể tướng. Ngô Khởi không bằng ḷng, nhưng cuối cùng được Điền Văn giải thích nên ông chịu lư rằng tài năng của ḿnh không bằng Điền Văn.
    Sau khi Điền Văn chết, Công Thúc làm tể tướng, lấy Ngụy công chúa, ganh ghét ông và muốn làm hại ông. Công Thúc bày mưu gièm pha ông với Ngụy Vũ Hầu khiến Ngụy Vũ Hầu nghi và không tin ông. Ngô Khởi sợ bị tội nên phải bỏ đi nơi khác.
    Sở Điệu Vương vốn nghe tiếng Ngô Khởi là người hiền, nên triệu ông đến phong làm tể tướng. Ngô Khởi giúp nước Sở giàu mạnh, phía nam b́nh định Bách Việt, phía bắc tiêu diệt nước Trần, nước Sái, cự tuyệt Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy), phía tây đánh Tần.
    Chư hầu lo lắng v́ nước Sở mạnh; trong khi đó các người quư tộc Sở bị đụng chạm quyền lợi cũng muốn hại Ngô Khởi.
    Năm 381 TCN, Sở Điệu Vương mất, các đại thần, tôn thất làm loạn đánh Ngô Khởi. Ông chạy đến nấp bên thây vua. Những người nổi loạn bắn và đâm chết Ngô Khởi, nhưng cũng bắn phải thi thể Điệu vương.
    Sau đó thái tử Hùng Tang lên nối ngôi tức là Sở Túc vương. Túc vương chôn cất Điệu vương sai Lệnh Doăn giết tất cả những người bắn Ngô Khởi và bắn trúng cả thi thể nhà vua, hơn 70 người bị giết cả họ.
    Ngô Khởi là người tham tài, hiếu sắc và biện pháp thi hành có phần tàn ác như: giết vợ để cầu quan, tham quyền, thi hành chính sách khắc nghiệt làm các quan lại triều thần cũng như những người trong hoàng tộc không đồng t́nh, ghen ghét hăm hại nhiều lần và cuối đời bị quân nổi loạn giết chết.

    27
    Ngũ Tử Tư: tên là Viên, con của Ngũ Xa và là em của Ngũ Thượng, cùng với Tôn Vũ là những vị tướng giỏi của nước Ngô thời Xuân Thu-Chiến Quốc.
    Ông vốn là người nước Sở, nay là địa bàn tỉnh Hồ Bắc.
    Chuyện về Ngũ Tử Tư có nhiều truyền thuyết: Một đêm bạc đầu, Đào mả quất roi, Móc mắt treo nơi cửa thành...
    Theo truyện Đông Chu Liệt Quốc (hồi 71 - 73), Ngũ Viên có tên tự là Tử Tư người nước Sở là người văn vơ song toàn, cha ông là Ngũ Xa là người chính trực làm quan nước Sở, nhưng bị kẻ xấu hăm hại, bị vua khép vào tội phản nghịch bắt giam lại để xử tội. Sở B́nh vương là vua nước Sở sợ hai con của Ngũ Xa sẽ làm phản nên ép Ngũ Xa viết thư dụ hai con về triều để vua phong chức. Nhận được thư của cha, Ngũ Thượng là anh của Ngũ Viên tin cha theo về triều nhưng Ngũ Viên biết trước sự lừa dối của vua Sở không theo mà lập tức trốn đi, trước khi đi c̣n bảo với một viên quan đại phu nước Sở rằng:
    "Nước Sở muốn c̣n giữ được cúng tế th́ chớ giết cha và anh ta, bằng không th́ tất ta phải diệt nước Sở mới hả ḷng căm tức của ta!"
    Vua Sở không bắt được Ngũ Viên tức giận giết cha và anh của Ngũ Viên đồng thời đưa quân đi khắp nơi để bắt Ngũ Viên. Do bị truy lùng khắp nơi nên ông đi đến cửa quan định sang nước Ngô mà không qua được. Một đêm nằm suy nghĩ không ngủ được đứng dậy đi đi lại lại trong nhà, nghĩ ngợi đến tận sáng hôm sau th́ toàn bộ râu, tóc biến thành trắng xóa. Sau đó ông được người giúp đỡ đưa qua cửa quan sang nước Ngô.
    Sang Ngô, ông đă giúp công tử Quang giành ngôi báu, tức là vua Hạp Lư. Hạp Lư trọng dụng ông, cho làm quan đại phu. Ngũ Viên tiến cử Tôn Vũ cho vua Ngô. Vua Ngô rất tin dùng ông và Tôn Tử giao trọng trách gánh vác đất nước cho hai người.
    Nhờ có sự trị v́ về chính trị và quân sự của Ngũ Viên và Tôn Tử nên nước Ngô trở lên thịnh trị mở mang bờ cơi, thuần phục nhiều nước. Sau khi đánh bại nướcViệt, Hạp Lư, Ngũ Viên và Tôn Tử đă đánh chiếm sang nước Sở và tiến vào thành Sính Đô của nước Sở. Khi đó Sở B́nh vương, kẻ đă giết cả cha và anh của Ngũ Viên đă chết, con của Sở B́nh vương là Sở Chiêu vương nối ngôi cũng trốn đi nên Ngũ Viên không bắt được, ông tức giận đào mộ của Sở B́nh vương lên rồi dùng roi đồng đánh luôn ba trăm roi vào thi thể của Sở B́nh vương khiến cho thịt nát, xương rơi để báo thù cái tội giết cả nhà Ngũ Viên khi trước.
    Hạp Lư chết, Phù Sai lên thay lại tin dùng gian thần Bá Hi mà không trọng dụng Ngũ Viên. Bá Hi ăn đút lót của vua nước Việt là Câu Tiễn, xui Phù Sai tha cho Câu Tiễn và nước Việt đă bị đánh bại. Phù Sai nghe theo, bất chấp sự phản đối của Ngũ Viên.
    Sau này, Câu Tiễn từng bước khôi phục thế lực mà Phù Sai vẫn không hay, chỉ chú ư đánh lên phía bắc với tham vọng tranh ngôi bá chủ với nước Tấn và ham mê vui thú với Tây Thi. Ngũ Viên can gián quá thẳng khiến Phù Sai phật ư và muốn giết hại ông. Một ngày nọ, Phù Sai ra lệnh Uyển Di Tử ban cho Ngũ Từ Tư thanh kiếm để tự kết liễu. V́ muốn cứu Ngũ Từ Tư, Uyển Di Tử đă tự sát. Nhưng Ngũ Tử Tư vẫn một mặc trung kiên, quyết không cải thánh chỉ, nên đă tự vẫn. Ngũ Tử Tư trước khi chết dặn lại rằng:
    Thế nào cũng phải trồng trên mộ ta một cây tử đề có thể làm quan tài. Hăy móc mắt ta treo trên cửa phía đông của nước Ngô để cho nó thấy giặc Việt vào tiêu diệt nước Ngô.
    Về sau quả nhiên Câu Tiễn đánh úp nước Ngô, khiến Phù Sai cùng đường phải tự vẫn. Trước khi chết, Phù Sai ân hận đă không nghe lời Ngũ Tử Tư.

    28
    Nhan Chi Thôi (531-591): hay Nhan Chi Suy, là một nhà văn, nhà thư pháp, họa sĩ, nhà soạn nhạc người Trung Quốc thời Nam Bắc triều.
    Ông sinh tại Lang Gia, Lâm Nghi, Sơn Đông. Ông làm quan cho bốn triều đại là: nhà Lương ở miền nam Trung Quốc, nhà Bắc Tề, nhà Bắc Chu ở miền bắc Trung Quốc và sau này làm quan cho triều đại đă thống nhất Trung Quốc là nhà Tùy. Ông là người ủng hộ Phật giáo tại Trung Quốc, mặc dù gặp nhiều phê phán từ những người đương thời theo Khổng giáo. Ông cũng là người đầu tiên đề cập tới giấy vệ sinh.
    Ông cống hiến cho kho tàng văn hóa Trung Hoa cuốn sách Nhan thị gia huấn gồm 26 chương nói về cung cách giáo dục trong gia đ́nh.

    29
    Nhan Uyên: tên là Hồi, người nước Lỗ, thời Xuân Thu, học tṛ giỏi nhất trong số 72 học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử. Thuở nhỏ rất nghèo, Nhan Uyên chỉ có một bầu nước.

    30
    Phạm Trọng Yêm (989 - 1052): tự Hy Văn, thụy Văn Chánh, là một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự, nhà giáo dục thời Bắc Tống. Ông là người huyện Ngô, Tô Châu (nay thuộc Tô Châu, Giang Tô.
    Ông sinh ra tại Từ Châu, năm sau (990), bố ông mất. Do mẹ ông (người họ Tạ) đă cải giá đến huyện Trường Sơn, Truy Châu, Sơn Đông lấy người họ Chu, nên ông được cải tên thành Chu Thuyết. Sau đó ông tới chùa Lễ Toàn trên dăy núi Trường Bạch đọc sách, mỗi ngày chỉ thổi nấu một nồi cháo. Ông là người tự hiểu thân thế của ḿnh, cũng nhân tiện để từ biệt mẹ đẻ, đă một thân một ḿnh tới Nam Kinh đèn sách. Năm 1015 đời Tống Chân Tông ông đỗ tiến sĩ, tới Quảng Đức quân làm tư lư tham quân (coi công việc h́nh ngục), liền đón mẹ ḿnh về nuôi dưỡng.
    Năm 1052 ông chết v́ bệnh tại Từ Châu.
    Về văn chương, tác phẩm đáng chú ư nhất của ông có lẽ là Nhạc Dương lâu kí (ghi chép ở lầu Nhạc Dương), nó nổi tiếng v́ lư tưởng chính trị mà ông thể hiện ở phần cuối trong câu " tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).
    Ông cũng là người nổi tiếng với thể loại từ, các tác phẩm đáng chú ư có Ngư gia ngạo, Tô mạc già. Âu Dương Tu tán xưng Ngư gia ngạo là "cùng tắc ngoại chi từ" (Ngụy Thái, Đông hiên bút lục, quyển 11).

    31
    Pḥng Huyền Linh (579–648): tên là Kiều, tự là Huyền Linh; làm chức quan Tư mă, Tể tướng và Tể phụ vua Đường Thái Tông. Ông c̣n được gọi là Lương Văn Chiêu công. Ông là chủ biên của Tấn thư - một trong 24 bộ chính sử Trung Hoa.
    Pḥng Huyền Linh là người tỉnh Sơn Đông. Khi c̣n nhỏ ông là người chịu khó, thông minh, cần cù, thông thạo kinh sách. Năm 594, ông đỗ Tiến sĩ, nhận chức Vũ Kỵ Úy và sau đó được thăng chức Thị lang bộ Lại.
    Tháng 6 năm 648, Pḥng Huyền Linh qua đời, thọ 71 tuổi. Ông được an táng tại Thái Thạch Sơn, Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Mộ Pḥng Huyền Linh được đặt cạnh lăng tẩm Đường Thái Tông, ông được phong làm Tể phụ.

    32
    Quản Trọng (725 TCN - 645 TCN): là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng nước Tề thời Xuân Thu. Tên ban đầu của ông là Di Ngô. Trọng là tên hiệu. Được Bảo Thúc Nha tiến cử, Tề Hoàn Công phong ông làm Tể tướng năm 685 TCN. Ông nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến ḥa b́nh - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.
    Dưới thời Quản Trọng, nước Tề chuyển từ chế độ quan liêu quư tộc sang chế độ quan liêu chuyên nghiệp. Khi ông làm Tể tướng, nước Tề trở thành nước hùng mạnh nhất và Tề Hoàn Công được phong làm bá chủ chư hầu.
    Quản Trọng và Bảo Thúc Nha đều làm chính trị. Lúc đó nước Tề rất loạn, các hoàng tử đều lánh nạn sang các nước khác để chờ thời cơ. Quản Trọng hộ tống hoàng tử Củ tới nước Lỗ, c̣n Bảo Thúc Nha hộ tống hoàng tử Tiểu Bạch tới nước Lă. Không lâu nước Tề bạo loạn, nhà vua bị giết, nhà nước không có vua. Các hoàng tử Củ và Tiểu Bạch được tin liền lên đường về nước để cướp ngôi. Khi hai đoàn gặp nhau trên đường, Quản Trọng muốn để hoàng tử Củ làm vua nên đă bắn một phát tên vào Tiểu Bạch, Tiểu Bạch giả chết rồi vào kinh đô làm vua c̣n được gọi là Tề Hoàn Công. Khi lên làm vua, Tề Hoàn Công liền bảo nước Lỗ giết hoàng tử Củ và bắt giam Quản Trọng. Tề Hoàn Công muốn Bảo Thúc Nha làm thừa tướng, giúp ông quản lư đất nước. Bảo Thúc Nha cho rằng ḿnh không có năng lực làm thừa tướng. Ông dốc sức tiến cử Quản Trọng đang bị giam ở nước Lỗ. Tề Hoàn Công nói rằng: "Người này bắn ta một tên, mối thù này ta chưa quên, mũi tên ta vẫn c̣n giữ, làm sao có thể dùng hắn được? Đợi hắn về đây, ta sẽ xé hắn ra trăm ngh́n mảnh." Bảo Thúc Nha đáp "Dĩ nhiên v́ công tử Củ, ông ta đă bắn bệ hạ, bây giờ nếu bệ hạ trọng dụng ông, ông sẽ v́ bệ hạ mà đem mũi tên đó bắn cả thiên hạ!"
    Tề Hoàn Công rất khâm phục Quản Trọng, hơn nữa ông c̣n rất thẳng thắn, ông nói với Quản Trọng rằng: "Trẫm có tật hơi thích nữ sắc, điều này có tai hại ǵ đối với quốc gia không?" Quản Trọng trả lời: "Không, ham mê nữ sắc không gây tai hại ǵ cho quốc gia, không nghe lời khuyên của những bậc thánh hiền mới có hại cho quốc gia và thiên hạ."
    Câu nói nổi tiếng của Quản Trọng: "Sinh ra ta ấy là cha mẹ, mà hiểu biết ta th́ trong đời chỉ có một Bảo Thúc Nha mà thôi".

    33
    Sào Phủ, Hứa Do: là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ và Hứa Do. Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu.

    34
    Tăng Tử: tên thật là Tăng Sâm (505 TCN - 435 TCN), tự Tử Dư, người Nam Vũ thành, nước Lỗ (nay là huyện B́nh Ấp, tỉnh Sơn Đông), là học tṛ xuất sắc của Khổng Tử; Tăng Sâm nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi. Ông là một người chí hiếu với cha mẹ, người đời sau liệt ông vào một trong "Nhị thập tứ hiếu" (hai mươi tư tấm gương hiếu thảo) v́ truyền thuyết mẹ ông khi cắn ngón tay mà ông động ḷng. Tăng Tử kế thừa và phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử, tư tưởng của Tăng Tử đề cao chữ Hiếu, Tín. Ông thường nói: "mỗi ngày ta xét thân ta ba việc: - Nhận làm thay người ta việc ǵ, ta có thực tâm làm không? - Cùng với bè bạn giao ước điều ǵ, ta có thất tín không? - Thầy dạy ta những ǵ, ta có nghiên cứu học tập không?" Ông làm ra sách Đại học gồm 10 thiên và là một trong Tứ thư của Nho gia. Học tṛ của Tăng Sâm là Khổng Cấp, cùng Nhan Hồi, Mạnh Tử và chính ông là Tứ phối của Nho gia, cũng là đại biểu xuất sắc của phái Nho gia. Khổng Cấp (hay Tử Tư) làm ra sách Trung Dung trong Tứ thư. Tứ Thư là bốn tác phẩm kinh điển của Nho học Trung Hoa, gồm Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.
    Đại Học:
    Đại học nguyên là một chương trong Lễ Kí (Kinh Lễ sau này) được viết thành sách trong khoảng thời gian từ thời chiến quốc đến thời Tần Hán, được xem là một trong những sách chủ yếu của Nho Gia. Tác giả của đại học là ai hiện nay vẫn chưa xác định rơ, có người cho là của Tử Tư viết, nhưng Chu Hy đời Tống lại cho là của Tăng Tử viết. Bởi Chu Hy cho rằng Tăng Tử là học tṛ của Khổng Tử nên Tăng Tử ghi chép lại lời của Khổng Tử là hợp đạo lí. Và đa số người ta tin vào giả thiết này hơn.
    Đại học là một trong những kinh điển trọng yếu của nho gia do. Xưa, người đến tuổi 15 th́ vào học bậc đại học và được học sách này.
    Đại học đưa ra ba cương lĩnh (gọi là tam cương lĩnh), bao gồm: Minh minh đức (làm sáng cái đức sáng), Tân dân (làm mới cho dân. Có khi viết là thân dân, nghĩa là gần gũi với dân) và Chỉ ư chí thiện (dừng ở nơi chí thiện). Ba cương lĩnh này được cụ thể hóa bằng 8 điều mục nhỏ (gọi là bát điều mục), bao gồm: cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật), trí tri (đạt tri thức về sự vật), thành ư (làm cho ư của ḿnh thành thực), chính tâm (làm cho tâm của ḿnh được trung chính), tu thân (tu sửa thân ḿnh), tề gia (xếp đặt mọi việc cho gia đ́nh hài ḥa), trị quốc (khiến cho nước được an trị), b́nh thiên hạ (khiến cho thiên hạ được yên b́nh).
    Minh minh đức ứng với cách vật, trí tri, thành ư, chính tâm và tu thân trong bát điều mục. Tân dân ứng với tề gia và trị quốc.
    Chỉ ư chí thiện tương ứng với b́nh thiên hạ.
    Sách Đại học dạy người ta cách tu thân và cai trị thiên hạ theo chủ trương "vi đức dĩ chính" của nho gia.
    Trung Dung:
    Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra cũng trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học tṛ của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
    Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ư nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung ḥa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
    Luận Ngữ: xin xem Luận Ngữ ở Phụ Lục D.
    Mạnh Tử: xin xem Mạnh Tử ở Phụ Lục C.

    35
    Tây Thi (506 TCN-?): c̣n gọi là Tây Tử là một người con gái rất đẹp thời Xuân Thu và cũng là một trong Tứ đại mĩ nhân Trung Quốc [Tây Thi (nước Việt, 5 TCN), Chiêu Quân (nhà Tây Hán, khoảng 1 TCN), Dương Quư Phi (nhà Đường, 719-756) và Điêu Thuyền (thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3)]. Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước (trầm ngư), người con gái đó đă có công lớn trong việc giúp Phạm Lăi, Văn Chủng và Việt Vương Câu Tiễn diệt vua Ngô Phù Sai.
    Tây Thi, tên là Thi Di Quang là con một người kiếm củi họ Thi, nàng dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lăm (nay là Chư Kị), thuộc nước Việt cổ (không phải nước Việt Nam) . Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, Tây Thi là người ở thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi. Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn.
    Trong trận đánh quyết tử với Ngô, do không nghe lời can gián của Văn Chủng và Phạm Lăi nên vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, bị bên Ngô buộc vợ chồng Câu Tiễn phải sang Ngô làm con tin. Câu Tiễn quyết chí trả thù, Văn Chủng trước khi Câu Tiễn sang Ngô đă hiến cho vua 7 kế, trong đó có một kế là "Mĩ nhân kế" - dâng người đẹp mê hoặc vua Ngô. Trong ṿng nửa năm, Câu Tiễn tuyển được 2000 mĩ nữ, trong đó có hai người đẹp nhất là Tây Thi và Trịnh Đán.
    Tây Thi - Phạm Lăi
    Công lao của Tây Thi ở nước Ngô rất lớn, mặc dù nàng và Phạm Lăi lúc ấy đă phải ḷng nhau, nhưng không hề bộc lộ ra mặt mà âm thầm giúp sức cho Câu Tiễn vốn đang nhịn nhục t́m cách trả thù. Ngô Phù Sai bắt vợ chồng Câu Tiễn phải làm cỏ mộ, mặc áo vải xấu, mỗi ngày chỉ ăn một chén cơm hẩm. Tây Thi và Phạm Lăi cũng âm thầm cấu kết với Bá Hi trợ cấp thêm một số lương thực cho vợ chồng Câu Tiễn khỏi chết đói.
    Tây Thi - Ngô vương Phù Sai
    Ngô Phù Sai là một vị vua anh hùng, nhưng từ khi Tây Thi xuất hiện th́ lại lơi lỏng việc nước, bỏ bê chính sự. Tây Thi theo kế của Văn Chủng ra sức mê hoặc khiến vua Ngô ngày đêm cùng nàng ch́m đắm trong xa hoa, hưởng lạc, dần dần mất hết ư chí. Bởi chỉ khi nước Ngô suy yếu th́ Việt mới có cơ hội phục thù.
    Tuy vậy nhưng sau khi sống với Phù Sai lâu năm, từ từ Tây Thi đă dần dần yêu Phù Sai thật sự.
    Có nhiều quan điểm về những ngày cuối đời của Tây Thi. Theo như Đông Chu liệt quốc truyện th́ nàng bị Việt hậu, vợ Câu Tiễn, sai quân lính buộc đá vào người rồi d́m xuống sông, v́ sợ sau này nàng sẽ làm mê hoặc Câu Tiễn. Cũng có thuyết khác đưa ra rằng người lính bị ép thực hiện nhiệm vụ đó không cam tâm tuân lệnh mà xóa khỏi nhân gian một trang tuyệt sắc giai nhân nên đă để nàng trốn đi một cách bí mật, hoặc một thuyết khác th́ cho rằng Phạm Lăi đă dẫn Tây Thi trốn đi ngay sau khi chiến thắng nước Ngô.

    (C̣n tiếp)

  9. #9
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục C

    (Tiếp theo)

    36
    Tề Cảnh Công (trị v́: 547 TCN – 490 TCN): tên thật là Khương Chử Cữu, là vị vua thứ 26 nước Tề - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Vua tiền nhiệm của Tề Cảnh Công là Tề Trang Công; vua kế nhiệm của Tề Cảnh Công là Tề An Nhụ Công.
    Thôi Trữ có người vợ lẽ là Đường Cơ vốn là em gái Đông Quách Yển, vợ cũ của Đường công. Sau khi Đường công mất, dù có người can ngăn nhưng Thôi Trữ thấy Đường Cơ đẹp nên lấy Đường Cơ.
    Tề Trang công thấy Đường đẹp nên thường lén lút đến tư thông. Thôi Trữ biết chuyện rất tức giận, nảy ư định giết Trang công. Năm 548 TCN, nhân dịp Trang công mở tiệc đăi vua nước Cử, Thôi Trữ giả ốm không dự. Trang công nghe tin, bèn nhân danh đến thăm Thôi Trữ để gặp Đường Cơ. Khi Trang công vào nhà gặp Đường Cơ, Thôi Trữ sai thủ hạ vây bắt. Tề Trang công vội bỏ chạy, trèo qua tường trốn nhưng không thoát và bị giết.
    Thôi Trữ lập người em khác mẹ của Trang công là Khương Chử Cữu lên làm vua, tức là Tề Cảnh Công.

    37
    Tề Hoàn công (trị v́: 685 TCN – 643 TCN): tên thật là Khương Tiểu Bạch, là vị vua thứ 16 nước Tề - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Tề Hoàn công là vị vua chư hầu xưng bá chủ đầu tiên thời Xuân Thu.
    Khương Tiểu Bạch là con thứ của Tề Ly công – vua thứ 13 nước Tề và là em của Tề Tương công – vua thứ 14 nước Tề. Mẹ ông là người nước Vệ.
    Cuối năm 686 TCN, Tề Tương công bị Công Tôn Vô Tri sát hại. Những người em của Tương công bỏ chạy ra nước ngoài. Khương Tiểu Bạch được Bảo Thúc Nha pḥ tá, bỏ chạy sang nước Cử; người em thứ hai của Tương công là Khương Củ được Quản Trọng và Thiệu Hốt pḥ tá chạy sang nước Lỗ.
    Đầu năm 685 TCN, Công Tôn Vô Tri bị giết. V́ Tiểu Bạch chơi thân với đại phu Cao Hề nên Cao Hề bàn với đại phu họ Quốc đi đón ông ở nước Cử về nối ngôi. Công tử Củ ở nước Lỗ nghe tin đó bèn sai Quản Trọng đi đón đường ngăn cản ông về nước. Quản Trọng bắn trúng đai áo Tiểu Bạch, ông bèn ngă ra giả vờ chết. Quản Trọng sai người đi báo với công tử Củ. V́ vậy công tử Củ chủ quan đi chậm, không vội về nước Tề.
    Khi Quản Trọng đi khỏi, Khương Tiểu Bạch ngồi trên chiếc xe bịt kín đi gấp về nước Tề. Ông được họ Cao và họ Quốc làm nội ứng, cùng lập làm vua mới, tức là Tề Hoàn công.
    Tề Hoàn công lên ngôi bèn dàn quân tấn công nước Lỗ. Hai bên giao chiến ở Kiền Thời. Quân Tề đánh bại quân Lỗ. Quân Lỗ thua chạy, bị quân Tề chặn đường về. Ban đầu Tề Hoàn công định giết cả 3 người chống đối ở nước Lỗ, nhưng Bảo Thúc Nha vốn là bạn thân của Quản Trọng, hai người từng hứa hẹn sống chết có nhau; do đó Bảo Thúc Nha đề nghị Hoàn công nên tha cho Quản Trọng sống.
    Tề Hoàn công nghe theo, bèn ra điều kiện nước Lỗ tự giết công tử Củ và giao nộp Thiệu Hốt cùng Quản Trọng để cho nước Tề xử tội. Nước Lỗ làm theo, bèn giết Khương Củ để quân Tề giải vây. Thiệu Hốt nghe lệnh bèn tự sát. Nước Lỗ giải Quản Trọng về nước Tề. Bảo Thúc Nha ra đón Quản Trọng ở đất Đường Phụ và tiến cử với Tề Hoàn công.
    Nghe lời Bảo Thúc Nha, Tề Hoàn công trao chính sự cho Quản Trọng, dùng làm đại phu. Ông c̣n trọng dụng Cao Hề, Bảo Thúc Nha và Thấp Bằng sửa sang chính sự nước Tề. Từ đó nước Tề trở nên giàu mạnh.
    Năm 679 TCN, Tề Hoàn công họp chư hầu lần đầu ở đất Nhân. Từ đó ông trở thành bá chủ chư hầu.
    Ngày Ất Hợi tháng 10 năm 643 TCN, Tề Hoàn công qua đời. Ông ở ngôi tất cả 43 năm, không rơ bao nhiêu tuổi.
    Do các con ông mải tranh chấp quyền lực, 2 tháng sau khi mất, ông mới được làm lễ nhập quan và tới tháng 8 năm sau (642 TCN) mới được mai táng.
    Với sự nghiệp bá chủ thời Xuân Thu, Tề Hoàn công được nh́n nhận là nhà chính trị kiệt xuất thời cổ đại, biết cách sử dụng nhân tài để gây dựng sự nghiệp. Trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, Tề Hoàn công là vị vua ở ngôi lâu nhất và ở cương vị bá chủ chư hầu dài nhất (hơn 35 năm). Trong thời kỳ nhà Chu suy yếu, ông vẫn chủ trương tôn thiên tử, trấn áp di địch, cứu trợ các chư hầu. Điều đó khiến ông được các chư hầu quy phục. Cùng với Tấn Văn công, sự nghiệp bá chủ của ông được người đời sau ca ngợi, gọi chung là “Hoàn Văn”.

    38
    Tề Linh Công (cai trị: 581 TCN – 554 TCN): tên thật là Khương Hoàn, là vị vua thứ 24 nước Tề - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
    Ông là con trai của Tề Khoảnh công – vua thứ 23 nước Tề. Năm 581 TCN, Tề Khoảnh công qua đời, Khương Hoàn lên nối ngôi, tức là Tề Linh công.
    Tề Linh công có vợ cả là Nhan Ư Cơ người nước Lỗ, nhưng Nhan Ư Cơ không có con. Cháu gái Ư Cơ được làm vợ lẽ Tề Linh công sinh ra Khương Quang. Tề Linh công đă lập Khương Quang làm thế tử. Về sau Khương Quang lên làm vua là vua Tề Trang Công.
    Tề Linh công lại lấy con gái Thúc Tôn Tuyên Bá nước Lỗ, sinh ra công tử Khương Chử Cữu. Về sau Khương Chử Cữu lên làm vua là vua Tề Cảnh Công.

    39
    Tề Thái Công: tên thật là Khương Thượng, tự là Tử Nha, nên thường được gọi là Khương Tử Nha, là khai quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là vua khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
    Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập lên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc.
    Khương Thượng là người ở Đông Hải. Tổ tiên ông từng làm chức Tứ nhạc giúp vua Hạ Vũ trị thủy có công. Sử kư xác định tổ tiên ông được phong ở đất Lă vào khoảng thời vua Thuấn đến thời nhà Hạ, do đó lấy Lă làm họ. Ông c̣n được dân gian và các nhà nghiên cứu lịch sử gọi bằng nhiều tên khác như: Khương Thái Công; Thái Công Vọng, Lă Vọng.
    Sang thời nhà Thương, v́ Khương Thượng là con cháu chi thứ nên dần dần trở thành dân thường. V́ nhà nghèo, Khương Thượng tuổi già thường đi câu cá ở sông Vị.
    Thủ lĩnh bộ tộc Chu là Tây Bá Cơ Xương đi săn, gặp Khương Thượng đang câu cá phía bắc sông Vị với một lưỡi câu thẳng, theo truyền thuyết . Thấy lạ, Cơ Xương mới hỏi: "ông lăo, sao câu cá bằng lưỡi câu thẳng thế th́ câu sao được?". Khương Tử Nha mới trả lời: "Lưỡi câu b́nh thường chỉ câu được cá, lưỡi câu này mới câu được minh chủ." (Một truyền thuyết khác nói rằng có người tiều phu hỏi ông sao câu được cá với lưỡi câu thẳng, ông trả lời rằng ông không câu cá mà câu Công, câu Hầu). Thấy vậy Cơ Xương mới đem những chuyện thế cuộc ra hỏi, quả nhiên Khương Tử Nha trả lời thông suốt cho thấy những kiến giải siêu phàm. Cơ Xương nói chuyện với ông rất hài ḷng, ngưỡng mộ tài năng của ông. Cơ Xương nhớ lời tổ tiên là Thái Công dặn rằng sẽ có vị thánh đến nước Chu, giúp Chu hưng thịnh, ứng với quẻ bói trước khi đi săn. Do đó Cơ Xương quả quyết Khương Thượng chính là người Thái Công mong đợi trước đây và tôn ông làm Thái Công Vọng (nghĩa là người mà [Chu] Thái Công mong đợi), đón lên xe về cung và tôn ông làm thầy.
    Thế là từ đó Khương Tử Nha theo pḥ Cơ Xương. Lúc bấy giờ ông đă 60 tuổi.
    Cơ Xương chết, con là Cơ Phát lên thay. Khoảng năm 1126 TCN, Cơ Phát hội chư hầu chuẩn bị đánh vua Trụ, Khương Thượng cầm đầu quân đội. Tám trăm nước chư hầu tới hưởng ứng, nhưng Cơ Phát cho rằng thời cơ chưa chín nên tạm rút về.
    Năm 1124 TCN, thấy chính sự nhà Thương đă rất suy đồi, Cơ Phát lại cùng Khương Thượng ra quân. Dù khi ra trận bói phải quẻ xấu nhưng Khương Thượng vẫn khuyên Cơ Phát là quẻ lành và cứ ra quân. Cơ Phát nghe theo.
    Khương Thượng cầm đầu quân đội hội chư hầu ở bến Mạnh Tân. Chư hầu theo Chu đánh vua Trụ. Đến tháng 2 âm lịch năm 1123 TCN, quân Chu đánh bại quân Thương ở Mục Dă, dù lực lượng quân Thương đông hơn nhưng do vua Trụ tàn bạo nên quân lính oán ghét, ngả theo bên Chu. Trụ vương thấy toàn quân tan ră, bèn chạy đến Lộc Đài, tự thiêu mà chết.
    Cơ Phát lên ngôi thiên tử, tức là Chu Vũ Vương. Khương Thượng là công thần, được phong làm vua chư hầu nước Tề ở đất Doanh Khâu.
    Trên đường sang phía đông về đất được phong, ông nghỉ đêm trong quán trọ. Người trong quán khuyên ông nên đi gấp về kẻo có sự tranh giành. Khương Thượng nghe theo, đang đêm trở dậy mặc áo lên đường, tới tảng sáng th́ về tới đất Doanh Khâu. Đúng lúc đó Lai Hầu là vua đất Lai ở bên cạnh vốn là chư hầu cũ của nhà Thương chưa thần phục nhà Chu, có ư định tranh đất Doanh Khâu với ông, bèn mang quân tới đánh. Khương Thượng sửa sang chính sự, lấy ḷng người bản địa. Nhiều người theo về ủng hộ, giúp ông đánh bại được Lai Hầu. Ông chính thức trở thành vua nước Tề.
    Chu Vũ Vương qua đời, con là Chu Thành Vương nối ngôi. Ba người em Vũ Vương lại nghe theo con vua Trụ là Vũ Canh khởi binh phản nhà Chu, đồng thời lôi kéo người Di ở đất Hoài hưởng ứng. Chu Công Đán nhân danh Chu Thành Vương sai Thiệu Khang Công đi sứ tới nước Tề, giao toàn quyền cho ông chinh phạt các nơi không thần phục: phía đông đến biển, phía tây đến sông Hoàng Hà, phía nam đến Mục Lăng, phía bắc đến Vô Lệ.
    Tề Thái công theo lệnh, mang quân chinh phạt các nơi. Trong khi đó Chu Công Đán cũng ra quân dẹp lực lượng của Vũ Canh. Sau 3 năm, nhà Chu dẹp được loạn. Tề Thái công cũng mở rộng cương thổ, nước Tề trở thành nước lớn.
    Sau này không rơ Tề Thái công mất năm nào. Sử kư chỉ ghi ông thọ hơn 100 tuổi. Tính từ khi gặp Cơ Xương năm 80 tuổi tới khi qua đời, Khương Tử Nha hoạt động trong khoảng hơn 20 năm cuối thời nhà Thương, đầu thời nhà Chu. Tính riêng từ khi ông phục vụ dưới quyền Chu Vũ Vương (1134 TCN) đến khi nhà Chu dẹp xong loạn Vũ Canh (1113 TCN) là 21 năm, khi tham gia dẹp loạn th́ Khương Tử Nha đă ngoài 100 tuổi.
    Khương Tử Nha được xem là tác giả của Lục Thao, hay Binh Pháp Thái Công là bộ binh pháp lâu đời nhất của Trung Quốc và nhân loại, và Càn khôn vạn niên ca - những bài thơ dự đoán tương lai lịch sử Trung Quốc.
    Càn khôn vạn niên ca dự đoán các đời trị, loạn, nêu tên chiết tự và thời gian cầm quyền của các vua chúa, người cai trị Trung Quốc trong một hội (10.800 năm).

    40
    Tề Trang công (cai trị: 553 TCN – 548 TCN), tên thật là Khương Quang, là vị vua thứ 25 nước Tề - một chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
    Ông là con trai trưởng của Tề Linh công – vua thứ 24 nước Tề. Tề Linh công có vợ cả là Nhan Ư Cơ người nước Lỗ, nhưng Nhan Ư Cơ không có con. Cháu gái Ư Cơ được làm vợ lẽ Tề Linh công sinh ra Khương Quang.
    Vua cha Linh công lấy 2 người vợ thứ là Trọng Cơ và Nhung Cơ. Trọng Cơ cũng sinh được con trai là Khương Nha, thấy Nhung Cơ được Linh công sủng ái bèn nhờ Nhung Cơ giúp. Linh công yêu con nhỏ Khương Nha bèn điều Khương Quang đi trấn thủ phía đông và sai Cao Hậu giúp cho Khương Nha.
    Năm 554 TCN, Tề Linh công ốm nặng. Khương Quang được đại phu Thôi Trữ ủng hộ, đón về Lâm Tri lập làm thế tử. Khương Quang giết chết mẹ kế Nhung Cơ. Sau đó vua cha Tề Linh công qua đời, Khương Quang lên nối ngôi, tức là Tề Trang công.
    Ngay sau khi lên ngôi, Tề Trang công sai mang Khương Nha ra g̣ Câu Độc giết chết. Ba tháng sau, người giúp Nha là Cao Hậu cũng bị Thôi Trữ giết chết.
    Thôi Trữ có công giúp Tề Trang công lên ngôi. Trang công thấy vợ Thôi Trữ là Đường Cơ (vốn là em gái Đông Quách Yển, vợ cũ của Đường công đă mất) đẹp nên thường đến tư thông. Dù người hầu can ngăn nhưng Tề Trang công không nghe theo, vẫn lén lút quan hệ với Đường Cơ.
    Thôi Trữ biết chuyện rất tức giận, nảy ư định giết Trang công. Năm 548 TCN, nhân dịp Trang công mở tiệc đăi vua nước Cử, Thôi Trữ giả ốm không dự. Trang công nghe tin bèn nhân danh đến thăm Thôi Trữ để gặp Đường Cơ. Khi Trang công vào nhà, Thôi Trữ sai Đường Cơ dụ vào pḥng rồi khóa kín và điều thủ hạ vây bắt. Tề Trang công vội bỏ chạy lên đài muốn gặp Thôi Trữ xin tha mạng nhưng thủ hạ của Thôi Trữ tuyên bố chỉ làm theo lệnh của Thôi Trữ để giết kẻ dâm đăng. Cuối cùng Tề Trang công vượt tường định trốn ra, bị bắn trúng chân ngă xuống và bị quân Thôi Trữ xông tới đâm chết. Nhiều vệ sĩ đi theo ông cũng bị giết, một số người khác bỏ trốn.
    Thôi Trữ lập người em khác mẹ của Trang công là Khương Chử Cữu lên làm vua, tức là Tề Cảnh công.

    41
    Thành Thang (?-1761 TCN): hay Thương Thang, là vị vua sáng lập nhà Thương, triều đại sau nhà Hạ và trước nhà Chu, trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đă lật đổ vua Kiệt tàn bạo của nhà Hạ. Thành Thang c̣n được gọi là Vũ Thang, Thiên Ất, Vũ Vương, Đại Ất và Cao Tổ Ất.
    Bộ tộc người Thương sinh sống ở lưu vực hạ lưu sông Hoàng Hà. Ḍng họ Thương Thang đă nhiều đời làm thủ lĩnh bộ tộc. Thấy bộ tộc Thương của Thành Thang giàu mạnh, vua Kiệt của nhà Hạ sợ Thương chống lại nên lệnh triệu Thương Thang đến kinh đô rồi bắt và giam cầm ông ở Hạ Đài.
    Sau một thời gian, Hạ Kiệt tha cho Thương Thang, thả để ông về bộ tộc. Thương Thang quyết tâm phát triển lực lượng để lật đổ sự cai trị của Hạ Kiệt.
    Theo kế sách của Y Doăn, Thương Thang bắt đầu khiêu chiến với nhà Hạ. Ông bỏ không nộp cống cho Hạ Kiệt. Hạ Kiệt nổi giận điều động binh mă 9 bộ tộc phía đông trước sau đánh vào bộ lạc Thương. Thương Thang bèn sai người đến nộp cống. Thấy Thang thuần phục, Kiệt lại bằng ḷng cho lui quân.
    Thang tranh thủ thời gian t́m cách liên minh và chia rẽ 9 bộ tộc giúp quân cho Hạ Kiệt. Sang năm sau, ông lại bỏ cống nạp. Hạ Kiệt lại tổ chức hội các bộ lạc phụ thuộc ở Hữu Nhung đánh Thương, nhưng lần này các bộ lạc không nghe theo. Bộ lạc Mân lên tiếng phản đối trước tiên. Hạ Kiệt nổi giận bèn mang quân đánh Mân trước. Nhân dân phải phục dịch cho cuộc chiến nặng nề càng oán hận Kiệt hơn trước.
    Thấy Kiệt bị sa lầy vào cuộc chiến với tộc Mân, Thang quyết định ra quân diệt Hạ.
    Năm 1767 TCN, Thương Thang đánh thắng Hạ Kiệt trong trận quyết định ở Minh Điều. Hạ Kiệt thua trận, bị mất ngôi và bị đày ra Nam Sào. Thương Thang chính thức lên ngôi vua, lập ra nhà Thương.
    Thành Thang làm vua không lâu. Năm 1761 TCN, ông qua đời, không rơ bao nhiêu tuổi.

    42
    Thôi Trữ ( ?-546 TCN): là tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông đă thao túng chính sự nước Tề một thời gian và cuối cùng bị diệt cả gia tộc.
    Thôi Trữ giúp Khương Quang (công tử lớn của Tề Linh công) lên nối ngôi Tề Linh công, tức là Tề Trang công.
    Thôi Trữ có người vợ lẽ là Đường Cơ. Tề Trang công thấy Đường đẹp nên thường lén lút đến tư thông. Thôi Trữ biết chuyện rất tức giận, nảy ư định giết Trang công. Năm 548 TCN, nhân dịp Trang công mở tiệc đăi vua nước Cử, Thôi Trữ giả ốm không dự. Trang công nghe tin, bèn nhân danh đến thăm Thôi Trữ để gặp Đường Cơ. Khi Trang công vào nhà gặp Đường Cơ, Thôi Trữ sai thủ hạ vây bắt. Tề Trang công vội bỏ chạy, trèo qua tường trốn nhưng không thoát và bị giết.
    Vụ án Tề Trang công bị giết được quan Thái sử nước Tề chép: “Thôi Trữ giết vua là Quang”. Thôi Trữ bắt quan thái sử chép khác đi, thái sử không chịu nên bị Thôi Trữ giết chết. Người em quan thái sử chép lại như anh ḿnh vào quốc sử nước Tề. Thôi Trữ nổi giận lại giết người đó. Đến người em thứ 3 chép nguyên cũng bị giết. Tới khi người em thứ tư vẫn chép như vậy, không chịu thay đổi theo lệnh của Thôi Trữ. Ông đành thôi không giết người chép sử nữa.
    Thôi Trữ cùng với Khánh Phong là hai người chuyên quyền, muốn chèn ép các quan nước Tề, bắt họ thề theo ḿnh.
    Lư Bồ Miết theo lệnh Khánh Phong, đi giết hai con của Thôi Trữ là Thôi Thành và Thôi Cương, nhân thể diệt toàn bộ gia quyến họ Thôi. Hai vợ chồng Thôi Trữ trở về nhà thấy nhà cửa tan hoang, cả họ bị giết không c̣n ai, mới nhận ra mưu đồ của Khánh Phong. Ông cùng vợ tự sát. Đến đêm, con nhỏ Thôi Minh đào một hố giữa khu lăng tẩm tổ tiên, vùi xác ông xuống đó rồi bỏ trốn sang nước Lỗ.
    Thôi Trữ làm quan nước Tề hơn 50 năm qua 5 đời vua Tề. Sau khi ông qua đời, quyền hành nước Tề lọt vào tay Khánh Phong.

    43
    Thuấn, Đế Thuấn (2184 - 2184 TCN): là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Ngũ Đế. Theo Sử kư Tư Mă Thiên, Ngũ Đế bao gồm: Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Tên khi sinh của ông là Diêu Trọng Hoá. Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị.
    Vua Thuấn, cùng với các vua Nghiêu và Vũ (tức vua Hạ Vũ ( 2205 TCN – 2198 TCN), là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc), được Khổng giáo coi là những vị vua kiểu mẫu, và là những tấm gương đạo đức.
    Thuấn nổi tiếng là người hiền đức trong thiên hạ. Theo truyền thuyết, mẹ ông, Ốc Đăng là người rất hiền đức mất sớm, cha là Cổ Tẩu lấy vợ khác và sinh ra Tượng. Dù bị mẹ con Tượng và cả Cổ Tẩu đối xử không tốt, Thuấn vẫn một mực hiếu thuận, giữ đúng đạo làm con.
    Ông được vua Nghiêu mời giúp cai quản việc nước và gả cho hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh. Sau một thời gian, Nghiêu già yếu, Thuấn được Nghiêu nhường ngôi khi 53 tuổi và chết khi 100 tuổi. Ông đặt thủ đô của vương quốc tại Bồ Phản, Sơn Tây hiện nay). Ông cũng được gọi là Đại Thuấn hay Ngu Thuấn.
    Thời cổ đại, trị thuỷ để ổn định cuộc sống, phát triển việc cày cấy là việc cấp bách hàng đầu. Theo sử sách, Thuấn sai Cổn làm việc trị thuỷ. Cổn trị thuỷ không thành công nên bị Thuấn xử tội chết. Thuấn lại dùng con Cổn là Hạ Vũ trị thuỷ. Sau nhiều năm, Hạ Vũ trị thuỷ thành công, v́ thế được Thuấn chọn làm người kế vị. Thuấn không truyền ngôi cho con ḿnh là Thương Quân mà trao ngôi báu cho Hạ Vũ thường được sử sách đời sau coi là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không v́ lợi ích riêng tư của ḍng họ.

    44
    Tô Tần (? - 316? TCN), tự Quư Tử, người ở Lạc Dương nước Đông Chu, là một biện sĩ đi du thuyết thời Chiến Quốc, nổi tiếng về khả năng du thuyết. Tương truyền ông là học tṛ của thầy Quỷ Cốc Tử, bạn đồng môn với Trương Nghi. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu của phái Tung Hoành Gia. Tô Tần đi nhiều nước đề xuất việc hợp tung liên kết các nước Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở để chống lại nước Tần.
    Tô Tần đầu tiên định gặp vua Tần lấy khả năng du thuyết của ḿnh để thuyết phục Tần Huệ Vương. Nhưng Tần Huệ Vương vừa mới giết Thương Ưởng nên ghét những người biện sĩ không dùng Tô Tần.
    Sau đó Tô Tần lần lượt qua nước Triệu, nước Yên, nước Hàn, nước Ngụy, nước Tề, nước Sở. Trong quá tŕnh thực hiện hợp tung, để ngăn chặn việc nước Tần đánh Triệu sẽ hỏng kế sách của ḿnh, Tô Tần đă dùng mưu mẹo kích động người bạn giỏi du thuyết Trương Nghi đi sang nước Tần làm quan để khuyên vua Tần không đánh nước Triệu, khiến kế sách của ông được thực hiện thành công.
    Sau khi việc hợp tung 6 nước hoàn thành, nước Tần không mang quân đi đánh các nước khác trong ṿng 15 năm. Nhưng về sau các nước v́ lợi của nước ḿnh mà phá minh ước đem quân đi đánh lẫn nhau. Tô Tần liên tục qua các nước để du thuyết khuyên các nước băi binh trả lại thành tŕ cho nhau.
    Dần dần việc hợp tung cũng bị phá vỡ. Cuối cùng Tô Tần ở nước Tề làm quan.
    Ở nước Tề, Tô Tần bị các đại phu nước Tề ghét, tranh giành sự tin yêu của Tề Mẫn Vương nên sai người đâm Tô Tần. Tô Tần bị thương nặng. Vua Tề t́m hung thủ nhưng không bắt được. Đến lúc gần chết Tô Tần nói với Tề Vương:
    "Thần chết xin dùng xe xé xác thần mà rao ở chợ: Tô Tần v́ Yên mà làm loạn ở Tề. Như thế th́ thế nào cũng bắt được hung thủ giết thần."
    Tô Tần nói vậy nhằm mục đích khiến mọi người tưởng Tô Tần là kẻ có tội bị vua Tề ghét, kẻ giết Tô Tần sẽ lộ diện.
    Vua Tề làm theo. Quả nhiên người giết Tô Tần tự ra nhận. Tề Mẫn Vương bèn bắt hung thủ mang chém.
    Sau khi Tô Tần chết, các em ông là Tô Đại và Tô Lệ định đi duy tŕ việc hợp tung. Tuy việc hợp tung không được như trước nhưng Tô Đại và Tô Lệ đều làm quan và được coi trọng ở các chư hầu phía đông. Như vậy có thể nói việc hợp tung là thành quả của cả ba anh em nhà họ Tô.
    Tô Tần được người đời sau coi trọng về tài du thuyết, người có tài ăn nói thường được ví như "lưỡi Tô Tần". Trong Sử kư, Tư Mă Thiên có nhận xét về ông:
    "Tô Tần nổi dậy từ chốn làng xóm, hợp tung sáu nước. Điều đó chứng tỏ tri thức của ông ta có chỗ hơn người"
    Nhưng mặt khác v́ việc hợp tung liên hoành của Tô Tần và Trương Nghi chỉ có mục đích chủ yếu làm lợi cho bản thân nên Tư Mă Thiên c̣n nhận xét:
    "Cả hai người ấy đều là những kẻ gian trá, nguy hiểm làm sao!"

    (C̣n tiếp)

  10. #10
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Phụ Lục C

    (Tiếp theo)

    45
    Tô Thức (8/1/1037–24/8/1101): tự Tử Chiêm, một tự khác là Ḥa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên c̣n gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống.
    Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên.
    Đông Pha cưới vợ đầu là Vương Phất (1040-1065) nhỏ hơn ông ba tuổi, năm ông 18 tuổi (1055). Sau 3 năm tang cha, ông cưới vợ thứ hai là Vương Nhuận Chi (em họ của vợ đầu) vào tháng 6 năm 1068.
    Đông Pha cùng cha Tô Tuân và em Tô Triệt là ba trong số tám đại văn hào lớn nhất Trung Quốc (Đường-Tống bát đại gia gồm Liễu Tông Nguyên (tức Liễu Tôn Nguyên trong Cổ học tinh hoa), Hàn Dũ, Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tăng Củng, Tô Tuân, Tô Triệt và Tô Thức) suốt bảy thế kỷ từ thế kỷ 7 đến 13. Ông giỏi cả cổ văn lẫn thơ, phú. Tất cả các tác phẩm của ông cộng lại khoảng 1 triệu chữ. Riêng về thi từ, ông có khoảng 1700 bài. C̣n cổ văn của ông là "thiên hạ vô địch", cứ hạ bút là thành văn, không cần lập dàn ư, cứ như là "hành vân, lưu thủy". Âu Dương Tu mà hôm nào nhận được một bài văn của ông th́ vui sướng cả ngày, c̣n vua Tống Thần Tông hay đọc bài của ông trong bữa ngự thiện, quên gắp cả thức ăn.
    Năm 1056-1057, Đông Pha cùng cha và em vượt suốt hai tháng qua miền núi non hiểm trở lên kinh (Khai Phong) đi thi. Họ đến Khai Phong tháng 5 năm 1056 và chờ kỳ thi cho đến mùa xuân năm sau. Kỳ thi do Âu Dương Tu làm chánh chủ khảo chú trọng đến việc t́m kẻ sĩ có tài trị dân, thể lệ thi gắt gao và đích thân vua Tống Nhân Tông chọn đầu bài. Bài thứ nhất hỏi về sử hoặc chính trị, bài thứ hai là bài về Tứ Thư, Ngũ Kinh, bài thứ ba là một bài phú luận về chính trị. Năm đó, Tô Tuân không ứng thí v́ không muốn ganh đua với hai con, c̣n cả hai anh em Đông Pha đều đỗ cao, đề bài luận về chính trị là "H́nh thưởng trung hậu chi chí luận" (luận về sự trung hậu rất mực trong phép thưởng phạt).
    Cuối năm 1059 đầu năm 1060, hết tang mẹ, Đông Pha cùng cha và em mất 4 tháng vượt 2.000 cây số quay trở lại kinh để dự thi. Trên đường đi Đông Pha và Tử Do làm được khoảng 200 bài thơ. Cũng như lần trước, Tô Tuân không ứng thí.
    Năm 1061, làm quan ở Thiểm Tây, cùng nhân dân ở đó cầu được mưa, ăn mừng, ông làm bài "Kỉ vũ đ́nh kí" rất nổi danh.
    Năm 1071, trên đường Đông Pha rời kinh đi Hàng Châu, ông làm được rất nhiều bài thơ, bài từ. Ông ghé thăm em Tô Triệt (đang làm chức giáo thụ) ở Trần Châu, rồi hai anh em đi thăm Âu Dương Tu ở gần đó. Ông cùng vợ con đến Hàng Châu ngày 28 tháng 11 năm 1071. Trong suốt thời gian làm quan ở Hàng Châu, ông làm đủ thể loại thơ tả cảnh, tả t́nh, tả sự đau xót khi thi hành án, thơ trào phúng. Ông làm bạn với các nhà sư, đọc sách Phật. Ông rất thích ca nhi, buổi tiệc nào ông cũng có họ. Các ca nhi này quay quanh ông để ca hát và xin ông đề thơ lên quạt giấy. Do phong cảnh Hàng Châu đẹp và không khí ca nhạc tưng bừng, ông để ư tới thể từ, cải cách nó và nổi danh thành một Từ gia bậc nhất đời Tống.
    Đông Pha là một nhà thư pháp có bút pháp liệt vào hàng nổi tiếng và có giá trị nhất.
    Đông Pha là một họa sĩ nổi tiếng về vẽ trúc và núi. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán có cơ hội đọc những sách quí và các danh họa tàng trữ ở bí thư các.
    Những tác phẩm của ông gồm có: Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú (hai bài phú này là hai viên ngọc của cổ văn Trung Hoa), Kỉ Vũ Đ́nh kư...

    46
    Tôn Tẫn (khoảng thế kỷ 4 TCN): người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Tôn Tẫn là tác giả Tôn Tẫn binh pháp là sách binh pháp dạy cho binh lính, tướng sĩ tề quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử, cùng với Bàng Quyên là học tṛ môn binh pháp của Quỷ Cốc Tử (ngoài Tẫn và Quyên, học tṛ Quỷ Cốc Tử Vương Hủ c̣n có Tô Tần và Trương Nghi học môn du thuyết).
    Bàng Quyên là bạn học với Tôn Tẫn, v́ ham công danh phú quư nên xin Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi trước để t́m công danh. Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, v́ ghen ghét tài học của Tôn Tẫn đă mượn pháp luật mà trị tội chặt 2 chân, chạm vào mặt để Tôn Tẫn phải giấu ḿnh không lộ diện. Sứ giả nước Tề đến đất Lương (Ngụy), Tôn Tẫn lén gặp thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm Tôn Tẫn lên xe về Tề. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài, tâu với Tề Uy Vương phong Tẫn làm thầy, cùng với Kỵ đem quân đánh Nguỵ. Tẫn ngồi trong xe kín, bày mưu kế cho Kỵ đánh Nguỵ phải kiệt quệ.
    Mười ba năm sau, Nguỵ và Triệu đánh Hàn. Hàn cáo cấp với Tề, Tề lại sai Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư đi cứu Hàn. Tôn Tẫn dùng kế "vây Ngụy cứu Triệu" khiến cho tướng Ngụy là Bàng Quyên nghe vậy phải rời bỏ Hàn quay về. Tẫn lại dùng kế giảm số bếp (kế “rút bếp”) trong quân lừa Bàng Quyên đuổi theo, rồi sau đó sai quân cung nỏ mai phục hai bên đường Mă Lăng, lấy một khúc gỗ to cạo sạch vỏ, lấy than khắc lên ḍng chữ: "Bàng Quyên sẽ chết dưới cây này". Sau đó dặn quân lính hễ thấy ánh lửa nổi lên là bắn thẳng vào chỗ đó. Bàng Quyên đuổi đến nơi, thấy có chữ bèn sai quân thắp đuốc lên để đọc. Quyên đọc xong, thất kinh vội sai quân rút nhưng đă muộn. Quân Tề mai phục thấy ánh lửa đốt lên vội bắn như mưa về phía đó. Bàng Quyên bị tên bắn ngă ngựa, sợ bị quân Tề làm nhục vội rút gươm tự tử".
    Tôn Tẫn binh pháp đáng ra có 89 thiên th́ chỉ c̣n 30 thiên đọc được, tổng cộng bộ binh thư này có hơn 2000 chữ. Tôn Tẫn viết dạy cho binh lính, tướng sĩ tề quốc. Bộ binh pháp này kế thừa, phát triển Tôn Tử binh pháp nhưng nó tiến bộ hơn. Bộ Tôn Tẫn binh pháp và Tôn Tử binh pháp tập họp lại thành Tôn gia chỉ đạo.
    Chiến thuật mai phục của Tôn Tẫn ở Mă Lăng có thể coi là ví dụ nổi tiếng nhất của câu nói "Dĩ lợi động chi, dĩ tốt đăi chi" (dùng lợi mà dụ địch tiến, trọng binh mai phục quân thù) trong sách Binh pháp Tôn Tử. Hai kế “Vây Ngụy cứu Triệu” và “rút bếp” của Tôn Tẫn sau này cũng trở nên nổi tiếng, Gia Cát Lượng từng sử dụng một biến thể của kế “rút bếp” là kế “thêm bếp” để ngăn quân Tư Mă Ư đuổi theo. Kế “rút bếp” của Tôn Tẫn lừa Bàng Quyên và quân Ngụy tiến sâu vào đường hẻm Mă Lăng. Khi toàn bộ quân Ngụy đă rơi vào bẫy phục kích, Tôn Tẫn sai bịt đường hẻm và bắn tên, quân Ngụy đại bại, Bàng Quyên cũng bỏ mạng trong đám loạn tên.

    47
    Tống Liêm (1310 – 1381): là nhà chính trị, nhà sử học, nhà văn, nho sĩ, đại thần cuối thời Nguyên đầu thời Minh, tự Cảnh Liêm, hiệu Tiềm Khê,Vô Tương Cư, Long Môn Tử, Huyền Chân Tử, người Phố Giang huyện Nghĩa Ô tỉnh Chiết Giang (nay thuộc thôn Tiềm Khê, Kim Hoa), từng giữ chức Hàn lâm, chủ biên bộ “Nguyên sử” viết về giai đoạn từ Thành Cát Tư Hăn Thiết Mộc Chân tới Nguyên Thuận Đế Thỏa Hoàn Thiết Mộc Nhi của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc và lịch sử Mông Cổ.
    Năm 1380, cháu là Tống Thận v́ có dính líu đến vụ án Ngục Hồ Duy Dung, Chu Nguyên Chương (tức Minh Thái Tổ, c̣n gọi là Hồng Vũ Đế, Hồng Vũ Quân, hay Chu Hồng Vũ) ra lệnh thảm sát cả nhà ông, sau được Hoàng hậu và Thái tử cứu giúp, ông may mắn thoát chết, nhưng đổi lại toàn bộ thành viên trong gia tộc bị xử tội lưu, đày đến Mậu Châu (nay thuộc huyện Mậu tỉnh Tứ Xuyên). Trên đường tới vùng giữa Quỳ Châu (nay thuộc huyện Phụng Tiết thành phố Trùng Khánh) và Mậu Châu th́ mắc bệnh qua đời.
    Có thuyết nói rằng do bài thơ mà ông dâng lên Hoàng đế vào năm Hồng Vũ thứ 4 có câu “tự cổ giới cầm hoang” lời lẽ câu thơ khiến Chu Nguyên Chương nổi giận, nên mới gặp phải tai họa như trên.

    48
    Trang Tử (~365–290 trước CN) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông c̣n có tên là Mông Lại, Mông Trang hay Mông Tẩu. Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử (Gọi chung các học gia Trung-Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc.).
    Cũng như Lăo Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở bộ Sử kư của Tư Mă Thiên. Sử gia Tư Mă Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt: "Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn (Tất Viên)" sau đó sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) ngày nay. Trang Tử là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú.
    Cũng theo Tư Mă Thiên, Trang Tử là tác giả bộ Nam Hoa kinh gồm hơn mười vạn câu (thập dư vạn ngôn) để châm biếm cái học của Khổng Tử và xiển minh học thuật của Lăo Tử.
    Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết tinh hoa của Đạo giáo của Lăo Tử viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa kinh, đời sau người ta gọi là "sách Trang Tử".
    Nam Hoa kinh (hay c̣n gọi là Nam Hoa chân kinh) gồm ba phần:
    Nội thiên: Đây là chương tối quan trọng trong toàn bộ tác phẩm, diễn đạt tư tưởng thái thậm vô vi của Trang Châu qua lời văn rất hàm súc, uyển chuyển ư tứ thoáng đạt và trí tưởng tượng hùng hậu. Nội thiên được nhiều người tin là của Trang tử viết nhất, gồm có 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương. Sau đây là ư chính của hai chương quan trọng nhất trong nội thiên:
    Tiêu dao du: nghĩa là đi chơi, phần này văn chương rất bay bổng. Mượn h́nh ảnh con chim Bằng, con cá Côn để ví cái sự tự tại mà người ta nên hướng tới.
    Tề vật luận: nghĩa là luận về sự b́nh đẳng của vạn vật. Thiên gồm nhiều bài luận triết có giá trị, được nhiều người cho là quan trọng và là thiên huyền diệu nhất trong nội thiên. Theo Trang tử, muốn đạt tới sự Tiêu dao du th́ phải xem vạn vật b́nh đẳng, xem rộng ra sẽ thấy sống chết như nhau, giàu nghèo không khác, xấu đẹp cũng vậy... Từ đó sẽ thấy tham sống, tham giàu, tham đẹp... là sai, v́ mỗi hoàn cảnh, mỗi vật có một giá trị riêng của nó, tất cả đều nằm trong Đạo.
    Trong phần Tề vật luận có bài cuối cùng thường được người sau gọi là Mộng hồ điệp, hay Trang Chu mộng hồ điệp là một đoạn văn nổi tiếng kim cổ, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch: “Xưa Trang Châu chiêm bao thấy ḿnh là bướm vui phận làm bướm, tự thấy thích chí, không c̣n biết có Châu nữa. Chợt tỉnh giấc, th́ lại thấy ḿnh là Châu. Không biết Châu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Châu? Châu và bướm ắt phải có tánh phận khác nhau. Đó gọi là Vật hóa.”
    Ngoại thiên: Ngoại thiên phần lớn là chuyện ngụ ngôn nhằm diễn lại các ư của phần nội thiên. Theo nhiều người th́ phần này không do Trang tử viết mà là của bọn đệ tử theo tư tưởng Lăo - Trang thêm vào. Ngoại thiên gồm 15 thiên có tựa đề: Biền mẫu, Mă đề, Khứ cự, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ư, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du.
    Tạp thiên: Đây là một chương không quan trọng, lời văn nhiều phần thô kệch được cho là của nhiều hạng thêm vào. Gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỉ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ.
    Tư tưởng triết học của Trang Tử:
    Kế thừa truyền thống của triết học cổ Trung Quốc, nguyên tắc tŕnh bày quan điểm triết học của Trang Tử là "có lời v́ ư, được ư quên lời".
    Có thể hiểu một cách khái lược tư tưởng triết học của Trang Tử như sau:
    Vô danh. Tử viết: "Đạo chẳng thể nghe được, nghe được không phải là nó. Đạo chẳng thể thấy được, thấy được không phải là nó. Làm sao lấy trí mà hiểu được cái h́nh dung của cái không h́nh dung được? Vậy không nên đặt tên cho đạo" (Tri bắc du).
    Vô thường. Trạng thái vận động, không ngừng biến đổi của vũ trụ và vạn vật chính là "sự sống" của đạo.
    Đông Quách Tử hỏi Trang Tử:
    - "Đạo ở đâu?"
    -Không chỗ nào không có.
    "Xin chỉ ra mới được?"
    -Trong con kiến. Trong cọng cỏ. Trong miếng sành vỡ. ... Lời của ông chẳng đi đến đâu cả. Đừng chỉ hẳn vào vật nào có nó (đạo), v́ không có vật nào là không có nó. Đạo lớn là thế. (Tri bắc du)
    Đức: Giống như đức của Mặt Trời là sáng và nóng, đức của nước là lạnh và tuôn chảy, của gió là mát và dịch chuyển, đức của con người cũng là một trạng thái tự nhiên không ràng buộc với bất kỳ mối quan hệ xă hội nào.
    Vô vi: đứng ở chỗ khôn lường mà chơi ở miền không có. Vô vi hành động theo lẽ tự nhiên nhi nhiên, vô tư, hồn nhiên như trẻ thơ "giữ tâm điềm đạm, khí điềm tĩnh, thuận theo tự nhiên mà không theo ư riêng của ḿnh" (Ứng đế vương).
    Về Trang Tử, nh́n từ góc độ triết học, tư tưởng học hay văn học đều thấy được sự phong phú nổi trội trong cách thức biểu hiện: một Đạo gia "phóng nhiệm", "tài tử", "ngông" và đầy sáng tạo.

    49
    Trụ: Đế Tân, Trụ Tân hay Trụ Vương - cũng có thể thêm "Thương" ở trước các tên gọi này - là vị vua cuối cùng đời nhà Thương (hay Ân) của lịch sử Trung Quốc, ở ngôi từ 1154 TCN - 1123 TCN.
    Trụ Vương là con của Đế Ất, tên gọi là Ân Thọ, nổi tiếng là một ông vua dâm đăng. Ông mê Đắc Kỷ đến quên việc triều chính. Ông và Đắc Kỷ là một cặp được nhắc đến trong lịch sử Trung Quốc với sự phẫn nộ của nhiều người. Tuy vậy, Trụ Vương có sức khỏe hơn người và là một vị vua văn vơ song toàn, v́ sự tàn bạo đă dẫn đến mất nước về tay nhà Chu.
    Theo Phong thần diễn nghĩa th́ Đắc Kỷ nguyên danh là Tô Đắc Kỷ, là con gái của Kư Châu hầu Tô Hộ. Do vua Trụ Vương vốn háo sắc, nghe lời của Bí Trọng và Vưu Hồn, nên đ̣i Tô Hộ phải dâng con gái để nạp làm phi tử. Tuy Tô Hộ phản ứng mạnh trước yêu cầu này, nhưng sau khi có thư khuyên giải cân nhắc của Tây Bá hầu Cơ Xương, ông quyết định dâng con gái.
    Hưởng lạc
    Xây Lộc Đài: Để thỏa măn nhu cầu hưởng thụ xa hoa, ông nghe lời Đắc Kỷ xây Lộc Đài, là một ngôi nhà to và cao vút để từ trên đỉnh có thể thưởng ngoạn cảnh vật của đất nước.
    Nhục Lâm - Tửu Tŕ: Nơi giải trí của vị vua này cũng khá đặc biệt, ông cho đào những cái hồ nhỏ rồi đổ đầy rượu trong đó gọi là Tửu Tŕ (suối rượu), lại sai người nướng thịt các loại thú rừng rồi treo đầy trên cây trong vườn dầy đặc đến nỗi ánh mặt trời không xuyên qua các cây thịt xuống mặt đất được gọi là Nhục Lâm (rừng thịt). Vua và Đắc Kỷ ngày đêm vui chơi ở đây đến mức không c̣n biết thời gian và thế giới bên ngoài.
    Tàn bạo
    Ông đă nghe lời xúi giục của Đắc Kỷ mà bày ra vô số cực h́nh tàn khốc để hành h́nh các cung nữ, quan quân trong triều. Trụ vương c̣n tàn bạo cả với các quan lại và triều thần, thậm chí người trong tông tộc nhà Thương:
    Bức tử Khương Vương Hậu, chém đầu hai người con trai ruột: kể từ đó Đắc Kỷ được phong làm chính cung hoàng hậu.
    Hành h́nh thế tử Bá Ấp Khảo con trai của Tây Bá Cơ Xương, sau đó đem thịt của Ấp Khảo làm thành bánh ép Cơ Xương phải ăn hết mới thả về nước.
    Moi tim của người chú là Tỷ Can - một đại thần trong triều - cho Đắc Kỷ ăn.
    Những hành vi tàn ác của Trụ vương khiến cho chư hầu và các tướng dần dần xa lánh dẫn đến sự suy yếu của nhà Thương sau này.
    Kết cục
    Năm 1124 TCN quân Cơ Phát, con của Tây Bá Cơ Xương, nước Chu (chư hầu của nhà Thương) dù ít hơn vẫn đại thắng quân Thương Trụ Vương. Kinh đô Triều Ca thất thủ, Trụ Vương chạy đến Lộc Đài, phóng hỏa đốt Lộc Đài rồi nhảy vào tự thiêu chết. Trụ vương làm vua được 32 năm (1154 - 1123 TCN).

    50
    Trương Nghi (? - 309 TCN) là nhà du thuyết nổi tiếng thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông sử dụng tài chính trị và tài thuyết phục của ḿnh mà gây dựng sự nghiệp. Ông là đại diện tiêu biểu của phái Tung hoành gia, đề xướng chính sách Liên hoành, chống lại việc Hợp tung của Tô Tần.
    Trương Nghi là người nước Ngụy, bạn đồng môn với Tô Tần, theo học thầy Quỷ Cốc Tử.
    Quan điểm lập nghiệp
    Sau khi học xong phép du thuyết, Trương Nghi đi du thuyết các nước chư hầu. Có lần ông bị tướng quốc nước Sở nghi ngờ ăn cắp ngọc bích của ông ta. Trương Nghi không nhận tội bị đánh vài trăm roi rồi được tha. Vợ ông trách ông v́ đi học du thuyết mà bị vạ. Trương Nghi hỏi vợ: “Nh́n xem lưỡi ta c̣n không”?
    Vợ cười: “Lưỡi c̣n”.
    Ông nói: “Được rồi”.
    Trương Nghi đă có chí hướng lập nghiệp từ con đường đi du thuyết từ rất lâu và rất tự tin vào tài năng của ḿnh.
    Nhờ Tô Tần mà làm nên công trạng
    Tô Tần đề xướng thuyết hợp tung nhưng c̣n lo Tần đánh Triệu th́ thuyết hợp tung của ông ta không thành công. V́ thế ông cho người gợi ư mời Trương Nghi sang Triệu. Trương Nghi đến phủ của Tô Tần bị Tô Tần đối xử đạm bạc, cho ăn uống như người dưới đồng thời mắng nhiếc làm nhục Trương Nghi. Trương Nghi tức giận bỏ đi, nghĩ chư hầu không đâu có thể nhờ được, chỉ có nước Tần mới làm khổ được Triệu, ông bèn đi vào Tần. Tô Tần sau khi trêu tức Trương Nghi th́ mặt khác cho người theo Trương Nghi ngầm giúp đỡ. Đến lúc Trương Nghi được vua Tần tin dùng th́ người giúp đỡ liền nói thật đây là mưu kế của Tô Tần. Trương Nghi liền than rằng:
    "Than ôi? Thế là ta mắc mưu Tô Quân mà không biết, rơ ràng ta không bằng Tô Quân."
    Sau đó làm ông được phong làm thừa tướng, cố t́nh ngăn không cho Tần đánh Triệu thay vào đó là cố ư khiến Tần đánh nước Hàn, nước Sở.
    Thực hiện liên hoành, phá hợp tung
    Từ khi được vua Tần tin dùng, Trương Nghi được phong làm thừa tướng bắt đầu dùng thuyết Liên Hoành. Thuyết Liên Hoành của Trương Nghi chủ yếu dùng thủ đoạn bày cái lợi trước mắt ra cho các nước chư hầu. Các nước Chư hầu đều v́ tham cái lợi trước mắt mà không tính đến hậu quả lâu dài, bội ước với nhau. Điển h́nh trong thủ đoạn của ông là việc lừa Sở Vương.
    Trương Nghi sang Sở hứa với vua Sở nếu Sở bỏ liên minh với Tề th́ Tần sẽ cắt đất 600 dặm đất Thượng Ư cho Sở. Sở tuyệt giao với Tề nhân cơ hội đó, Tần với Tề liên minh với nhau. Khi Sở Vương đ̣i đất th́ Trương Nghi lại bảo dâng cho Sở vương 6 dặm đất của ḿnh. Sở Vương tức giận mang quân đánh Tần. Tần và Tề cùng đánh Sở, Sở thua to, tổn thất nặng nề.
    Ông dùng thủ đoạn này thuyết phục được các nước Tề, Triệu, Yến, Ngụy liên hoành với nước Tần, như vậy liên minh hợp tung 6 nước do Tô Tần kiến tạo nên đă bị Trương Nghi phá tan, đặt cơ sở vững chắc cho nước Tần tiến tới thống nhất Trung Quốc.
    Cuối cùng Trương Nghi làm quan ở Ngụy được 1 năm th́ mất.

    51
    Tuân Tử (313 TCN – 238 TCN): là một nhà Nho, nhà tư tưởng của Trung Hoa vào cuối thời Chiến Quốc. Cũng gọi bằng Huống, c̣n có tên là Khanh. Ông sinh ở nước Triệu, làm việc cho Tề Tương Vương. Tuân Tử chính là thày học của thừa tướng nhà Tần là Lư Tư. Tuân Tử là một trong Bách gia chư tử là thời ḱ chứng kiến sự mở rộng to lớn về văn hóa và trí thức ở Trung Quốc kéo dài từ 770 đến 222 TCN. Trùng khớp với giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc, và nó cũng được gọi là thời đại hoàng kim của tư tưởng Trung Quốc và thời ḱ trăm nhà đua tranh ("bách gia tranh minh") này chứng kiến sự nảy nở của nhiều trường phái tư tưởng khác nhau..
    Hoàn toàn đối lập với Mạnh Tử (371–289 TCN) là người chủ trương con người vốn đă có tính thiện, Tuân Tử chủ trương rằng con người bẩm sinh là ích kỷ và xấu xa (tính ác); ông cho rằng tính thiện chỉ có được thông qua giáo dục và hành động phù hợp với hoàn cảnh của mỗi người. Ông cũng cho rằng h́nh thức chính phủ tuyệt vời nhất là dựa trên sự kiểm soát độc đoán, và rằng đạo đức là không liên quan tới việc cai trị một cách hiệu quả.

    (C̣n tiếp)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 14-06-2011, 11:48 PM
  2. Replies: 0
    Last Post: 09-06-2011, 12:08 PM
  3. Replies: 9
    Last Post: 06-06-2011, 03:12 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 05-06-2011, 07:03 AM
  5. Replies: 0
    Last Post: 22-03-2011, 01:12 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •