Loạt bài về Mậu Thân của Hoàng Long Hải
Chiều Đi Qua Băi Dâu…
bài 10
Sông Hương, núi Ngự là hai biểu tượng của Huế.
Năm 1992, tại trại tỵ nạn Sungei Beshi ở Mă Lai, cựu thiếu tá W. Johnston, trưởng phái đoàn Mỹ - gọi là phái đoàn nhưng tôi chỉ thấy một ḿnh ông ta - phỏng vấn tôi để xét cho đi định cư ở Mỹ, nói với tôi:
- “Việc phỏng vấn coi như xong. Bây giờ tôi muốn nói chuyện ngoài lề chơi. Tết Mậu Thân, ông ở đâu?”
Thấy ông ta muốn nói chuyện chơi, tôi hăng hái:
- “Tôi ở Huế, chưa nhập ngũ. Huế là cựu kinh đô…”
Ông ta ngắt lời tôi:
- “Tôi đă ở Huế. Tôi rời Huế trước tết một tháng. May cho tôi. Huế đẹp lắm. Ông biết tôi thích cái ǵ ở Huế nhứt không?”
- “Ông không thể thích cơm hến hay bún ḅ… c̣n về cảnh sắc th́ Huế có sông Hương, núi Ngự, cầu Trường Tiền…”
Ông ta lại cắt ngang:
- “Ông có bao giờ đứng trên cầu Trường Tiền nh́n con gái đi học về ngang qua cầu không? Những tà áo trắng bay trên cầu, trên mặt sông êm đềm, trong cơn gió nhẹ. Sao mà nó đẹp thế! Tôi đă đi nhiều nước trên thế giới, chưa nơi nào tôi thấy cảnh học tṛ đi học về đông và đẹp như thế.”
Tôi sực nhớ cái cảnh ấy, tôi đă thấy nhiều lần khi c̣n ở Huế. Vậy mà hồi đó, ít khi tôi để ư tới.
Johnston lại hỏi:
- “Ông có thấy sông Hương êm đềm không? Trên địa cầu có rất nhiều con sông êm đềm, nhưng không có con sông nào như thế. Nó là hồ, không phải là sông.” Ngưng một lát, Johnston nói tiếp: “Vậy mà bây giờ báo chí thế giới gọi Huế của ông là thành phố của tử thần đấy! Ông nghe có buồn không! Tôi th́ buồn lắm. Tôi không muốn nơi tôi từng sống qua, dù lâu hoặc mau, không bao giờ là địa ngục, là nơi của tử thần.”
Tôi ngồi lặng thinh, không nói được một lời.
Tới đó, Johnston đứng dậy, cầm hồ sơ, bắt tay tôi. Tôi lặng lẽ ra khỏi văn pḥng, ngay sau lưng ông ta.
&
Tại sao người ta gọi sông Hương là hồ, không phải là sông?
Tại v́ mặt nước êm quá, êm như hồ, nên người ta nghĩ là hồ. Nếu như nước có chảy th́ chảy chậm lắm, người ta cũng gọi là “sông Hương lững lờ trôi” như trong một bản nhạc của Nguyễn Văn Thương.
Có lẽ mấy câu thơ sau đây, nói về sông Hương khá hay:
[I]Con sông dùng dằng, con sông chảy,
Sông chảy vào ḷng, nên Huế rất sâu.[/I]
Tôi hiểu mấy câu thơ nầy theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng của nó. Con sông dùng dằng hay con người dùng dằng, muốn bỏ Huế mà đi nhưng không dứt ra được? Dùng dằng là tiếng Nôm, rất Nôm, tiếng quê, “nhà quê”. Nhưng khi đưa vào đây th́ người đọc thấy vừa lạ vừa hay. Sông chảy vào ḷng sông hay chảy vào ḷng người. Mà ḷng người Huế th́ rất sâu, rất đậm, trong cả vui buồn, nhung nhớ, yêu thương và cả màu sắc vô thường của Phật. (1) Nói theo hiện thực th́ có xác người nào chết hồi Mậu Thân mà chưa được vớt lên nên làm cho sông dùng dằng? Vă c̣n bao nhiêu linh hồn người chết oan hồi tết năm đó làm cho gịng nước khi chảy qua đó bỗng ngại ngùng không muốn trôi?!
Chỗ hai nhánh sông gọi là Tả Trạch, Hữu Trạch gặp nhau phía trước lăng Minh Mạng, chỗ thường được gọi là bến đ̣ Tuần. Bến đ̣ bên nầy sông, phía từ Huế lên, qua ngă lăng Tự Đức, Khải Định. Bên kia sông là lăng Minh Mạng, có con đường nhỏ cặp theo bờ sông lên tới lăng Gia Long. Chỗ nầy, không hiểu sao người Huế gọi là sông Đào. Có lẽ không phải có cây đào bên sông hay là đào bới? Khi Thiệu Trị xây lăng cho cha là Minh Mạng, đặt tên lăng là Hiếu Lăng, có đào bới ǵ ở đây mà người ta mới gọi sông Đào. Chỗ sông Đào nầy đi vào ca dao:
[I]Muốn tắm mát lên ngọn sông Đào,
Muốn ăn sim chín th́ vào rừng xanh.[/I]
V́ là chỗ hai nhánh sông gặp nhau, lưu lượng hợp lại, nên nước sông chảy mạnh, theo hướng tây-nam lên đông-bắc. Chưa được bao xa th́ sông Hương gặp đồi Hà Khê, chỗ có chùa Linh Mụ. Gặp đồi Hà Khê, con sông không chảy theo hướng cũ, quay ngoắt thành hướng tây-đông. Chính đồi Hà Khê ấy chặn gịng nước lại, làm cho nước sông không chảy mạnh như trước. Nhưng qua khỏi Hà Khê th́ sông lại rộng ra gần gấp đôi, đủ chứa hết lượng nước qua khỏi khúc quanh Hà Khê mà tràn vào. Sức chứa của khúc sông rộng làm cho nước chảy chậm lại. Sông lại gặp cồn Giả Viên, cản thêm một lần nữa, nước chảy êm hơn nên khi chảy ngang trước thành Huế, hay nói rộng ra là thành phố Huế, sông chảy từ từ. Thế mà gịng nước lại c̣n phải đụng nhằm Cồn Hến, nước dồn lại, thành ra ở khúc sông ở cầu Trường Tiền, nước chảy chậm lắm, tưởng như đứng yên một chỗ, là cái hồ rộng.
Mặc dù các sông ở miền Trung đều phát xuất từ Trường Sơn như sông Hương, nhưng về mặt địa lư, không có con sông nào có những vật cản, khoảng rộng như sông Hương để sông biến thành hồ. Cảnh sắc đặc biệt ấy làm cho chính các chúa Nguyễn có nhăn quan tinh tế mà thấy được nên chọn nơi ấy làm kinh đô. Chuyện bà mụ trên trời hiện xuống để ngày sau gọi là Thiên Mụ th́ cũng chỉ là những huyền thoại được bày đặt ra cho thêm phần tín ngưỡng vào cái mệnh trời được ban cho ḍng dơi nhà Nguyễn mà thôi, để ngai vàng thêm vững chắc, “vạn đại dung thân”.
Qua khỏi cồn Hến, sông Hương lại quặt về hướng tây bắc, tạo thành một mũi nhọn h́nh tam giác. Chỗ nầy là đất bồi rất tốt, gọi là băi dâu. (Băi Dâu).
Theo cách gọi của người miền trung (Không thấy người Nam gọi như thế), những chỗ đất do sông bồi cao gọi là hà. Đất hà tốt, thường người ta dùng để trồng bắp, cà, đậu, ớt, thuốc lá; không trồng lúa v́ đến mùa lũ, đất hà có thể bị ngập lụt. Bắp, cà, đậu, ớt… chỉ trồng ở vùng đất khô, trong mùa hè mà thôi. Sau tháng tám mới có ngập lụt. Nếu đất hà hơi cao, có thể làm nhà ở được, lập thành xóm th́ người ta gọi xóm ấy là xóm Hà. Trong bài tôi viết về bác sĩ Lê Trọng Lộc, - “Người từ Đại Lộ Kinh Hoàng ra đi” – th́ cái xóm thời thơ ấu của ông là xóm Hà, chỗ gặp nhau của hai con sông Vĩnh Định và sông Thạch Hăn.
Tôi không hiểu v́ sao vùng Băi Dâu người ta không gọi là đất hà hay xóm hà. Có lẽ có một thời kỳ nào đó, khi triều Nguyễn đóng đô ở đây, kinh tế Huế tự túc. Gạo th́ do dân chúng quanh vùng trồng trọt bán lại cho Huế. Vua và hoàng tộc th́ có những sở ruộng riêng của họ, gọi là ruộng Ngự. Cây trái, rau quả, cau trầu, mũ nón, quần áo th́ do các vùng chung quanh cung cấp, v.v… Kể từ vua Khải Định trở về trước, các ông vua đều nhai trầu bỏm bẽm. Không biết khi bị đày qua đảo Reunion bên châu Phi, vua Thành Thái, vua Duy Tân, có thèm trầu hay không. Bên đó làm ǵ có trầu cho vua “ngự”.
Do t́nh h́nh kinh tế tự túc. Huế mới có những câu ca dao như: “Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh”, hoặc “Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.” hoặc “Con gái Nam phổ, ở lỗ trèo cau.” Tiếng Huế, ở lỗ có nghĩa là ở truồng. Các danh tự riêng nói trên là tên các làng quanh Huế, có đặc sản của làng.
V́ kinh tế tự túc, nên có phải thời nhà Nguyễn, vùng Băi Dâu có “trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải” như câu thơ trong “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán. Phùng Quán gốc là người Huế. V́ cần dệt vải lụa cung cấp cho vua quan, nên người ta phải nuôi tằm, và Băi Dâu là nơi trồng dâu để nuôi tằm như trong câu thơ của Phùng Quán.
Vùng đất êm đềm đó, trong chiến tranh, từ 1945, trở thành trận địa. Hai bên đánh nhau mấy trận, người chết kẻ bị tương, nhà cháy! Cũng chưa đến nỗi ǵ đâu! Ba mươi năm chiến tranh, đất nước Việt Nam nơi nào mà chẳng thành trận địa. Đều đáng buồn hơn thế. Trong tết Mậu Thân, Băi Dâu biến thành băi tha ma, hàng trăm người bị giết, bị chôn sống ở đó, để một buổi chiều nào đó, qua thăm vùng này, Trịnh Công Sơn viết:
[I]Chiều đi qua Băi Dâu, hát trên những xác người
Tôi đă thấy, tôi đă thấy,
Trên con đường, người cha già ôm con lạnh giá
Chiều đi qua Băi Dâu, hát trên những xác người
Tôi đă thấy, tôi đă thấy,
Những hố hầm đă chôn vùi thân xác anh em.(2)
[/I]
Hát chưa hẵn là v́ vui. Thiếu ǵ lúc, người ta hát mà khóc. Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ thường nói cần có “một tấm ḷng” th́ làm sao ông có thể vui được khi thấy những xác người bị chôn sống, bị thác oan. Có ông già ôm xác con. Già th́ c̣n đó mà trẻ đă ra người thiên cổ. Điều đó đâu có đúng theo luật tạo hóa. Trịnh Công Sơn hát là khóc than cho họ đấy, cho những người bị chôn sống mà ông coi họ như anh em.
Kể bằng lời th́ dễ, viết lại cũng dễ, chưa nói là viết dỡ, không thể nào mô tả hết vẻ kinh hoàng của Băi Dâu. Nhưng tận mắt mà thấy mới thật kinh hoàng.
Buổi chiều đến thăm người bạn ở đường Chùa Bà, cách Băi Dâu không xa, chúng tôi bèn rủ nhau xuống đó, để xem tận mắt điều thiên hạ đang bàn tán xôn xao. Bà con đă đào hầm hố lên, đem xác đi hết rồi, nhưng từ cái hầm đầu tiên, đất đai moi bới lên lổn chổn, thấy c̣n sót lại những vật riêng tư, mảnh áo, mảnh quần, những chiếc dép, sợi giây buộc tay người bị chôn sống, ai không khỏi quặn ḷng v́ thương cảm. Rồi từ hầm ấy tới những hầm khác, hầm khác nữa, lại hầm khác nữa, hầm khác nữa… trải dài trước mắt bao nhiêu là hầm chôn sống người, cũng những cảnh tương tự như vậy, mới thấy kinh hoàng, thấy lạnh người.
Khó ai có thể tưởng tượng được sự tàn ác của c̣n người ta đến như vậy.
“Sao ác dữ vậy?!
“Sao ác dữ rứa?!
“Ác chi mà ác rứa trời ơi!
“Trời ơi ngó xuống mà coi.”
Đó là tiếng người dân Huế than thở, oán trách. Một tiếng than là một mũi tên đâm suốt ḷng nhân ái của con người. Người c̣n nhân tính thấy ḷng ḿnh đau lắm khi nghe tiếng than của người dân vô tội. Nếu so với các ác của Khmer Đỏ với “Cánh Đồng Chết”, của Hitler với các ḷ sát sinh, thời Staline, của Trung Hoa thời Mao Trạch Đông, th́ Băi Dâu gọi là băi ǵ cho đúng nghĩa.
Cái ác của Việt Cộng ở Huế không thua kém những cái tàn ác nhứt của nhân loại một chút nào!
===================================================================================
1.
Về mặt tôn giáo, khi triều đ́nh nhà Nguyễn đang c̣n, người ta thấy xă hội miền Bắc thiên về đạo Nho, nhất là Tống Nho, miền Nam thiên về đạo Phật, khuynh hướng dân giả, pha hợp tà ma bùa chú. Huế ở giữa, là điểm tiếp nối của hai miền, vừa “thâm” Nho trong triều chính, và “đậm” Phật trong đời sống xă hội. Xin trở lại đề tài nầy trong một dịp khác.
(2) Sau 1975, ở trong nước, người ta không thể t́m thấy bài hát nầy cũng như bài hát “Gia tài của mẹ”. Trịnh Công Sơn cũng không hề nhắc đến các bài hát ấy. Trịnh Công Sơn “khôn” nhỉ?
Cháy Nhà Ra Mặt Chuốt (Tiếp)
Trong bài 1, tôi có nói qua ông nầy, là người đến ăn tiệc ở nhà tôi tối 30 tết.
Như nhiều người, khoảng đầu kháng chiến chống Pháp, 1947, 48, ông Lập c̣n thanh niên, chưa vợ, theo kháng chiến một thời gian, rồi bỏ về. Chuyện nầy ai ai cũng giống nhau, không có chi đặc biệt để bàn tới. Về thành, ông đi lính quốc gia, vào đảng Đại Việt. Năm 1954, theo hiệp định Genève 1954, quân đội miền Nam giảm thiểu quân số xuống 150 ngàn người. Những người có màu sắc đảng phái, Đại Việt như Đoàn Công Lập, (cấp bậc lúc bấy giờ là hạ sĩ nhứt), được “ưu tiên” giải ngũ. Thất nghiệp, văn không cao, vũ không giỏi, ông sống lêu bêu một thời gian, nhờ vào bà vợ đảm đang, làm y tá ở bệnh viện Gia Hội. Thời kỳ khi ông luật sư Lê Trọng Quát được “cậu” Cẩn giao lại cho xử dụng cái nhà in của Nha Thông Tin Trung Việt, trước kia là bộ phận ấn loát báo Mùa Lúa Mới của ông Vơ Thu Tịnh, và báo Rạng Đông của giáo sư Lê Hữu Mục, để ông luật sư Quát làm báo Công Dân th́ Đoàn Công Lập làm phóng viên thể thao cho báo nầy, viết lại các cuộc tranh tài bóng tṛn, bóng chuyền ở Huế, v.v… Theo tôi nghĩ, làm báo khó sống, lại báo ở Huế, lại chỉ viết ít ỏi mục thể thao, có lẽ tiền nhuận bút đủ hút thuốc lá, uống càphê, khỏi ngữa tay xin vợ.
Sau khi chế độ nhà Ngô sụp đổ, nhiều người trong đảng Đại Việt đời được lên hương. Riêng Đoàn Công Lập h́nh như bị bỏ quên. Năm 1965, một hôm ông Hà Thúc Kư về Huế, Đoàn Công Lập đoán biết được bèn đón “Anh Cả” ở phi trường Phú Bài, chào hỏi rồi than văn phận ḿnh. Theo đảng, khổ v́ đảng bao nhiêu năm nay mà có được ǵ đâu. “Anh Cả” thương t́nh. Đó là động lực quan trọng đem lại cho Đoàn Công Lập chức trưởng ty Cảnh Sát. Chức nầy tương đương ngạch quận trưởng như quận Cán, quận Lại nói ở trên. Lo cho tương lai, Đoàn Công Lập xin gia nhập hẵn ngành Cảnh Sát khi đang tại chức. Pḥng nhân huấn tổng nha thuận trả cho ông ngạch quận trưởng, theo đúng tiêu chuẩn bằng cấp là ông phải nộp bằng cử nhân (khoa ǵ cũng được). Ông làm ǵ có bằng đó. Tổng Nha hạ thấp tiêu chuẩn bằng cấp xuống, thay v́ cử nhân th́ bằng tú tài cũng được. Ông cũng không có bằng đó. Sau Tổng Nha cho vào ngạch biên tập viên, với điều kiện có bằng trung học đệ nhứt cấp. Ông cũng chịu thua luôn.
Tết Mậu Thân, Dziệt Cộng mới chiếm Kho Y Dược (phía sau ty Cảnh Sát), chưa vào được bên trong ty, th́ ông ta cùng đệ tử tên T., cho phá kho súng lục (Smith and Wesson), lấy đem bán (bán cho ai?). CIA biết ngay việc làm phi pháp nầy. Tướng Loan, tổng giám đốc Cảnh Sát, sau khi t́nh h́nh tạm yên, từ Saigon ra thăm Huế và điều tra vụ nầy Kết quả: trung tá Dương Quang Tiếp, ra thay Đoàn Công Lập làm trưởng ty. (Bấy giờ trung úy Liên Thành là phó ty phụ trách ngành cảnh sát đặc biệt) Anh Tôn Thất X biết ông Đoàn Công Lập ở trong lao Thừa Phủ c̣ lẽ là v́ vụ súng ống nầy. Ông T. đệ tử ông Lập th́ không can ǵ cả, gốc là phó thẩm sát viên, sau được học biên tập viên khóa đặc biệt, ra trường mang loon đại úy, c̣n ông Lập ở tù mấy tháng th́ xù.
Có phải v́ việc nầy mà ông Đoàn Công Lập ra khỏi Đại Việt không th́ tôi không biết. Sau đó, ông vào đảng Công Nông của ông Trần Quốc Bửu. Ở đảng mới, Đoàn Công Lập cũng có uy thế lắm. Khoảng năm 1971 hay 72 ǵ đó, ông Lập có hẹn gặp một người quen của “tôi” (anh Tôn Thất X.) ở trụ sở Liên Đoàn Lao Công Việt Nam của ông Bửu, khi anh ấy nhờ ông Lập xin cho anh đổi trường, đang dạy ở Tam Kỳ xin về Huế. Ông Lập dẫn anh ấy gặp ông bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng giáo dục. Nhờ ông Lập nói giùm, ông Viên gật đầu một cái là xong.
Khi Dziệt Cộng tấn công Huế rồi Đà Nẵng hồi tháng Ba -1975, ông Lập bỏ gia đ́nh chạy tháo thân vào Saigon. Ông có ghé lại nhà tôi (tác giả) nhưng tôi đă “đóng tiền đi ở tù” rồi. Chưa được bao lâu, công an Thừa thiên Huế vào tận Saigon bắt ông Lập đem về ngoài ấy, giam ở lao Thừa Phủ. Ông trốn nhà lao, lại vào Saigon. Khi vụ nổ kho đạn Long B́nh xảy ra (đầu năm 1977?), công an tăng cường hoạt động, lại nắm trúng Đoàn Công Lập lần nữa. Ông lại được tha, nhưng theo bà vợ ông (vợ lớn), khi vừa về đến nhà th́ ông tắt thở, có lẽ Việt Cộng tha ông để khỏi tốn cái ḥm.
Trước tết Mậu Thân khoảng vài năm, có ông thầy bói tướng số tử vi mở văn pḥng gần vườn hoa Đông Ba coi hay lắm, nhất là về mồ mả ông bà th́ y như chụp h́nh ngôi mộ cho khách hàng thấy vậy. Vậy là mấy ông lớn, bà lớn đua nhau đi xem, coi thử con đường danh phận vinh hoa như thế nào. Thế rồi tới tết Mậu Thân, ông thầy bói biến thành tên… Dziệt Cộng, chỉ huy một tiểu đoàn. Bấy giờ thiên hạ mới tá hỏa ra. Có người bạn thân hỏi tôi: “Nầy, “ông” coi. Vậy là bao nhiêu ông tướng, ông tá khi đi xem bói đă đem hết bí mật quân sự báo cho Dziệt Cộng biết cả rồi?”
Cũng c̣n nhiều Dziệt Cộng nằm vùng khác nữa, nhưng ngụy trang kỹ lắm, măi tới sau tháng Tư - 1975, bọn nầy mới hiện h́nh thành những Việt Cộng đực, Việt Cộng cái. Nhưng tới lúc đó th́ nước đă mất, c̣n ǵ để nói nữa. C̣n như ai muốn biết, xin hẹn bài sau, tôi sẽ kể thêm.
Nhiều người sinh ra và lớn lên ở Huế, nhưng chẳng biết ǵ về người Huế cả. Một là v́ họ ít học, ít suy nghĩ, hoặc v́ một chút danh lợi nào đó, mà quên mất hoặc không cần biết tới những người sống chung quanh ḿnh, người cùng quê hương bản quán với ḿnh, nên có những hành động sai trái, độc ác, tàn nhẫn với người đồng hương, thậm chí cả những người bà con thân thích, bạn bè hay với cả bậc sinh thành, cha mẹ thầy cô, v.v...
Trường hợp anh em nhà Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân là những ví dụ điển h́nh.
Hai ông họ Hoàng nầy thuộc ḍng quan, quan to mà lại nổi tiếng trong triều, là ông Hoàng Hữu Bính. Khi nhà Nguyễn suy tàn, nước mất nhà tan, th́ ḍng họ Hoàng nầy, cũng giống như hàng quan lại cuối đời nhà Nguyễn, sau khi Tây đô hộ, cũng suy tàn theo. Đó là mối “thù nhà nợ nước” chung cho nhiều người. Ḍng dơi tôi cũng vậy. Nội tổ tôi làm quan thái y trong triều Thành Thái. Khi vua Thành Thái bị đày, nội tổ tôi lui về quê làm thầy thuốc. Ḍng họ gia đ́nh tôi cũng suy tàn từ đó.
Thân phụ hai ông họ Hoàng cũng là con nhà quan, lớn lên vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, lúc chữ Nho cũng suy tàn theo thời thế. Nói như Trần Tế Xương th́ “Cái học nhà Nho đă hỏng rồi,...” Trần Tế Xương thủ phận, tự bảo “Biết vầy thuở trước đi làm quách, chẳng kư không thông cũng cậu bồi.” Bố hai ông họ Hoàng gặp thời thế thay đổi mà không thay đổi theo kịp. Ông cũng không thông chữ Nho trong khi “nhà Nho đă hỏng rồi”. Chữ Tây cũng không rành v́ chưa kịp chạy theo thời mới, nên cuối cùng, khi bác sĩ Phan Văn Hy về làm giám đốc bệnh viện Quảng Trị, mở các lớp y tá, hộ sinh th́ ông bố hai ông họ Hoàng đành phải học lớp y tá nầy. Ông mang cái mặc cảm và thù hận người đời v́ con nhà quan lớn mà thua sút, không bằng người. Lương tiền ít ỏi, ông phải dùng gia sản, đất ruộng cha ông để lại mà nuôi con. Cái mặc cảm thù hận của người cha ảnh hưởng tới các con không ít. V́ vậy, người ta không lạ ǵ khi biết Tường, Phan luôn luôn hằn học, thù ghét người khác, để đến nỗi trở thành những tên đồ tể trong tết Mậu Thân.
Ngày nay, Tường cố chạy tội làm đao thủ phủ hồi tết năm đó. Việc đó, kẻ nói có, người bảo không, v́ người th́ thương người th́ ghét Tường cho nên tôi không muốn bàn tới, nhưng chỉ riêng việc y gọi những người bị giết hồi Tết Mậu Thân là “những con rắn độc” th́ không riêng ǵ tôi mà không ít người cảm thấy ghê sợ con người có miệng lưỡi như thế!
Ai là những con rắn độc?
Đó là những người bị giết, bị chôn sống hồi ấy.
Đó là ông Nguyễn Khán, giáo sư Pháp văn trường Quốc Học, là thầy dạy tôi cũng như Tường và Phan, là ông già thân phụ ông Đề ở làng Phú Xuân, là cô Hoàng thị Tâm Túy bán bánh kẹo ở cửa bắc chợ Đông Ba, là anh học tṛ kỹ thuật 17 tuổi, em vợ Hoàng Thanh Tùng, là cụ Vơ Thành Minh, người dựng lều thổi sáo bên bờ hồ Léman ở Thụy Sĩ năm 1954, đấu tranh cho ḥa b́nh Việt Nam, vào lúc hội nghị Genève 1954 đang họp ... và c̣n biết bao nhiêu người khác nữa. Ông Tường dạy môn Việt Văn cho học tṛ các lớp đệ nhị ở trường Quốc Học, ông đào đâu ra những thứ hận thù đó trong văn chương Việt Nam để truyền thụ, để mê hoặc đám học tṛ ấy, để chúng làm chỉ điểm cho Dziệt Cộng hồi tết Mậu Thân, để nay đám nầy hiện định cư ở Mỹ, ở Cali, ở Boston, vẫn c̣n ca ngợi Tường và sẵn sàng làm chỉ điểm một lần nữa, trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại...
Nói không thành có, nói có thành không. Cách nói như thế người Việt thường gọi là miệng lưỡi con rắn độc. Vậy th́ ai là con rắn độc? Những người bị giết oan hồi ấy hay chính con rắn độc là kẻ “ngậm máu phun người” Nói như thế hẵn độc giả biết quá rơ ai là ai?