"Biến cố tết Mậu Thân sắp được hầu hết toàn thể dân tộc VN, đặc biệt nhân dân miền Nam, kỷ niệm lần thứ 40 với trái tim vẫn c̣n rỉ máu, v́ hàng trăm ngàn nạn nhân của cuộc thảm sát này –măi cho tới hôm nay- chưa bao giờ nghe được một lời tạ lỗi và thấy được một cử chỉ sám hối từ phía các tay đồ tể là đảng CSVN, đồng bào ruột thịt của họ".
Lm Phêrô Nguyễn Hữu Giai
Lm Phêrô Phan Văn Lợi
Nhân Tết Nhâm Th́n, nhớ lại Hai mươi sáu ngày tang thương của Huế.
Tết Nhâm Th́n 2012 đến nhắc người Việt, nhất là người Huế nhớ đến Tết Mậu Thân. Đêm mồng một Tết (rạng mồng Hai) quân đội cộng sản mở cuộc tấn công quy mô trên toàn quốc, trong đó có thành phố Huế. Đêm trước – đêm Giao Thừa – trong khi thỏa thuận ngưng bắn 36 giờ để dân ăn Tết c̣n hiệu lực, cộng quân đă đánh vào một số thị trấn nhưng ở một quy mô nhỏ.
Cuộc tấn công của cộng quân vào thành phố Huế mở màn cho 26 ngày tang thương, 26 ngày kinh hoàng của lịch sử kinh thành Huế. Trong hơn một thế kỷ, Huế chỉ trải qua hai lần bom đạn. Lần thứ nhất “kinh đô thất thủ” năm 1883 khi Pháp đưa chiến thuyền ngược sông Hương pháo kích kinh đô Huế. Lần thứ hai khi cuộc ṭan quốc kháng chiến bắt đầu, quân đội Việt Minh bao vây đánh các đơn vị Pháp đóng tại Huế vào cuối năm 1946, đầu năm 1947
.
**
Hai mươi sáu ngày tang thương của Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968 được quyết định tại phiên họp Trung ương đảng của đảng cộng sản Việt Nam tại Hà Nội tháng Tư năm 1967 ….
Ngược một chút ḍng lịch sử. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ từ tháng 12 năm 1946 đưa đến sự bại trận của quân Pháp tại Điện Biên Phủ năm1954 và Việt Nam bị chia đôi ngang vĩ tuyến 17. Miền Bắc cộng sản, miền Nam cho người quốc gia.
Thời gian 8 năm kháng chiến (1946-1954) là thời gian tế nhị của lớp sĩ phu và những người Việt Nam có chút ăn học. Hầu hết theo phong trào chống Pháp và nằm trong guồng máy lănh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Một số trở thành người cộng sản, và một số không nhỏ trong thời gian kháng chiến thấy được bộ mặt thật của chủ nghĩa cộng sản đă bỏ về thành phố. Hầu hết thành phố do người Pháp quản lư với một chính quyền “gọi là quốc gia” làm b́nh phong nên không có chính nghĩa cho dù trong thời gian 8 năm người Pháp v́ nhu cầu chính trị và áp lực của Hoa Kỳ đă trao trả một ít quyền hành và danh nghĩa cho ông Bảo Đại. Trong bối cảnh chính trị đó, những người bỏ hàng ngũ cộng sản về thành không có chỗ đứng. Họ bơ vơ trong cảnh hàng thần lơ láo.
Sau khi chia đôi Việt Nam, người Pháp rút về, Hoa Kỳ giúp hạ bệ ông Bảo Đại, thành h́nh “Việt Nam Cộng Ḥa” với đầy dủ danh nghĩa một chính quyền quốc gia với sự lănh đạo đầu tiên của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.
Chính sách của Hoa Kỳ là giúp xây dựng một miền Nam Việt Nam phú cường, ổn định và tự do dân chủ để nhân dân miền Nam phát huy nội lực tự bảo vệ trước cuộc tấn công của miền Bắc.
Xương sống của chính sách là miền Nam có một chính quyền quốc gia được sự hậu thuẫn của dân.
Rất tiếc do hoàn cảnh lịch sử điều kiện trên không thực hiện được. Bối cảnh lịch sử lúc đó là:
(1) nhân dân miền Nam chưa hiểu chủ nghĩa cộng sản là ǵ, và có cảm t́nh với những người lănh đạo cộng sản v́ họ vừa lănh đạo thành công một cuộc đấu tranh giành độc lập.
(2) các chính khách và quân nhân lănh đạo bộ máy chính trị và quân sự miền Nam Việt Nam hầu hết là sản phẩm của bộ máy cai trị của người Pháp để lại.
Trong số này tuy có thành phần ưu tú, nhưng thiếu phẩm chất của những nhà ái quốc chân chính
Từng là một bộ phận trong bộ máy cai trị của Pháp họ không ư thức được thế nào là tự do và thế nào là dân chủ. Một vài ư niệm dân chủ, tự do do người Pháp mang lại nhiều lắm giúp họ ca ngợi cái đẹp của tự do dân chủ nhưng chỉ ư thức lờ mờ rằng cái tự do dân chủ đó để dành cho từng lớp thống trị hay hợp tác với tầng lớp thống trị chứ không phải dành cho nhân dân Việt Nam chân lấm tay bùn. V́ vậy họ không thể ḥan thành nhiệm vụ lịch sử là mang đến cho quần chúng một tinh thần ao ước tự do quyết tâm đổ mồ hôi và nều cần bằng máu để bảo vệ nếp sống trong tự do và dân chủ của ḿnh.
Với tâm lư quần chúng đó, với dàn nhân sự đó tổng thống Ngô Đ́nh Diệm dù là một người có tinh thần yêu nước cao và được sự giúp đỡ tận t́nh của Hoa Kỳ vẫn không xây dựng nổi một miền nam phú cường và dân chủ.
Trong bối cảnh đó miền Bắc dốc toàn lực tổ chức tuyên truyền phá hoại chế độ và đưa quân trá h́nh xâm lăng miền nam.
Để củng cố miền Nam, tháng 11/1963 Hoa Kỳ thay thế lănh đạo bằng cách lật đổ chế độ ông Diệm. Nhưng các chế độ quân nhân thay thế ông Diệm tệ hơn chế độ ông Diệm. Trước nguy cơ sụp đổ, Hoa Kỳ không có sự lựa chọn nào khác hơn là đưa quân vào miền Nam chiến đấu đồng thời oanh tạc miền Bắc Việt Nam để ngăn làn sóng đỏ chiếm Nam Việt Nam rồi tràn ra toàn vùng Đông Nam Á và nam Thái B́nh Dương đe dọa Úc châu theo chủ thuyết Domino rất được ưa chuộng vào lúc đó.
Tháng Ba, 1965 Hoa Kỳ đổ bộ đơn vị Thủy quân Lục chiến đầu tiên lên Đà Nẵng, Hà Nội đưa các Sư đoàn chính quy vào miền Nam, Hoa Kỳ tiếp tục đổ quân. Từ tháng Ba 1965 đến cuối năm 1967 Hoa Kỳ chuyển 485.000 binh sĩ đến miền Nam, trong đó có Sư đoàn Kỵ binh không vận, một sư đoàn tân lập di chuyển hoàn toàn bằng trực thăng.
Cuối năm 1965 quân đội Hoa Kỳ và quân chính quy bắc Việt thử sức nhau trong vùng rừng núi trên cao nguyên miền Trung. Hai bên chịu nhiều tổn thất, và sau cùng quân đội cộng sản không chịu nổi rút quân qua Cambốt.
Đối với Hoa Kỳ bây giờ là giải pháp quân sự chứ không c̣n là giải pháp tạo ổn định để chiến thắng về mặt chính trị nữa. Sau cuộc thử lửa tại cao nguyên Hoa Kỳ thực hiện nhiều cuộc hành quân càn quét các ổ đóng quân, bộ chỉ huy và các căn cứ tiếp vận của cộng sản quanh Sài g̣n. Cuộc hành quân Cedar Falls tháng 1/1967 đánh vào khu “Tam Giác Sắt” gần Sàig̣n. Từ tháng 2 đến tháng 5 Hoa Kỳ thực hiện cuộc hành quân Junction City đánh vào Chiến khu C, gần biên giới Cambốt. Cả hai cuộc hành quân đều đạt mục tiêu. Áp lực vào Sài g̣n được giải tỏa; quân đội cộng sản tại Chiến khu C phải trốn qua biên giới Cambốt. Mặc dù sau khi quân đội Hoa Kỳ rút ra khỏi các vùng tảo thanh, quân đội cộng sản trở lại các vùng đó, nhưng tinh thần bộ đội và cán bộ của cộng sản xuống rất thấp.
Sau các cuộc giao tranh trên cao nguyên và hai cuộc càn quét Cedar Falls và Junction City lănh đạo cộng sản tại Hà Nội tự hỏi rằng tiếp tục cuộc chiến như hiện trạng có thể đạt được hai mục tiêu sau không:
(1) buộc quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, và
(2) lật đổ chính quyền tại Sài g̣n.
Ư kiến trong Bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam khác nhau.
Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh nghĩ rằng tiếp tục hiện trạng sẽ làm cho Hà Nội kiệt sức trước. Duẩn và Thanh cho rằng cần phải làm một hành động ngoạn mục, gây nhiều tổn thất và tạo xúc động làm cho dân chúng Hoa Kỳ hỏang hốt và giúp thổi bùng lên phong trào chống chiến tranh đang âm ỉ tại Hoa Kỳ. Vơ Nguyên Giáp trái lại, vốn có lối suy tư cổ điển theo sách vỡ cho rằng t́nh h́nh chưa chín để phát động một cuộc nổi dậy. Theo Gíáp, cần tiếp tục cuộc chiến tranh hao ṃn “nông thôn bao vây thành thị” một thời gian nữa mới tới điểm “nổi dậy” được.
Sự bất đồng ư kiến đă được giải quyết trong Hội nghị trung ương đảng thứ 13 tại Hà Nội, qua đó đảng cộng sản quyết nghị tung một cuộc tổng tấn công vào các đô thị miền Nam trong dịp Tết Mậu Thân vào tháng Giêng Hai năm 1968.
Có lẽ Nguyễn Chí Thanh sẽ là người tổ chức cuộc nổi dậy nếu ông ta không chết bất ngờ vào tháng 7/1967. Thanh chết, không c̣n ai ngoài Giáp có khả năng tổ chức và lănh đạo cuộc Tổng tấn công. Giáp thi hành lệnh đảng dù ông không đồng ư. Sau này mặc dù cuộc tổng tấn công đạt mục đích chính trị buộc Hoa Kỳ xuống thang, ngưng gởi thêm quân đội và đề nghị ḥa đàm đi đến chấm dứt chiến tranh, nhưng sự tổn thất nhân mạng quá lớn làm ông mất uy tín “là một viên tướng giỏi” trong nội bộ, và ngôi sao của Giáp mờ dần từ đó.
Cuộc tổng tấn công của Giáp khởi đầu đêm giao thừa (đêm 29/1/1968 rạng ngày 30/1) vào các thành phố Nha Trang, Hội An, Quy Nhơn, Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột và pháo kích vào Bộ Tư lệnh Quân Đoàn I. Đêm sau mồng Một rạng mồng Hai Tết (đêm 30/1 rạng ngày 31/1/1968) Giáp đánh Huế, Sài g̣n, ṭa đại sứ Hoa Kỳ và 20 thành phố và thị trấn khác trên toàn quốc .
Bài viết này tôi dành cho trận đánh tại Huế. Trận đánh Huế kéo dài 26 ngày là trận đánh dài nhất, đẩm máu nhất, với sự trả thù giết hơn 3000 quân nhân, công chức, cán bộ miền Nam.
C̣n tiếp
Bookmarks