Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN"?
Tại sao CS Việt nam tiêu dịêt "Câu lạc bộ Kháng chiến "?
Tiếc Cho Một Người Lầm Lỡ Vừa Nằm Xuống
Thân tặng tất cả những người Việt c̣n có tấm ḷng yêu quê hương.
Mai Thanh Truyết
Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài G̣n, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên.
Đài BBC có phỏng vấn Ông Vơ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.
Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trăi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.
Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
BS DQH là một người sống trong một gia đ́nh theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài G̣n từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đ́nh sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đă bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lư do chính trị v́ ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.
Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đă đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xă hội, do đó Bà đă gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.
Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lănh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng c̣n giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngơ Ba Thu – Mơ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.
Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Kư trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.
Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lư do trên, Bà Hoa là một người rất được ḷng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lư luận toán học, Ông đă phân tích và chứng minh những lư thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lư luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bơ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.
Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đă từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.
Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN
Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vở lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đă công khai tuyên bố với các bạn như sau:”Các “toi” muốn trốn th́ trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng ḿnh đă có công với “cách mạng” mà “góp ư” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. C̣n 4 người c̣n lại là Lư Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài G̣n), Trần Quang Diệu (TTKư Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đ́nh Long (Nha Hàn..g không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện c̣n ở Việt Nam, c̣n ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.
Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xă hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nh́n như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị B́nh, Nguyễn Thị Định… Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.
Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đă trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: “Anh và tôi chỉ đóng vai tṛ bù nh́n và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. V́ vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài ḷng với quyết định nầy; nhưng v́ để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đă lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong ṿng 10 năm.
Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lư thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố : ” Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ t́nh dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.
Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đă vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các lọai vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đă không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ v́…nhân dân (của Đảng!). Về t́nh trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội : ” Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đ́nh tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%.
Vào năm 1989, Bà đă được kư giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền h́nh CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đă được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng năo mà Bà không có thuốc để chữa trị khi c̣n ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vưà kể trên, Bà cũng đă tự thú là đă sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc v́ Bà đă đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.
Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là :”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong ḷng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đă xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:” Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.
BS DQH và Vụ kiện Da Cam
Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi kư kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đă đồng ư trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ kư thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai
Có lẽ v́ “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:
- Bà Nguyễn Thị B́nh, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;
- Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;
- GS, BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;
- Ô Trần Văn Thụ làm Thư kư.
Trong buổi lễ ra mắt, Bà B́nh đă khẳng định rơ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lư. Những người phục vụ chính thể Việt Nam Cộng Ḥa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”. Theo một bản tin của Thông tấn xă Việt Nam th́ đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lư của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đă thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đă từng phục vụ cho VNCH trước đây th́ không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.
Vào ngày 30/1/2004, Hội đă nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại ṭa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đă từng phục vụ cho ṭa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lư gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:
- Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;
- Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;
- Ông Nguyễn Văn Quư, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988 ) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);
- Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và
- Những người cùng cảnh ngộ.
Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đă vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ư đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất chánh để (1) đ̣i bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu ṭa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đă kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.
Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.
Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá tŕnh hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.
Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Ḥa và Sông Bé (?) là những nơi đă bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng ḥa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đă đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đă đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm ǵ có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).
Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đă mất) bị phát triển không b́nh thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.
Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đă được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đă được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).
Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.
Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lư và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?
Để t́m giải đáp cho những điều nghịch lư trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) th́ “người ta đă đặt tôi vào một sự đă rồi (fait accompli).
Tên tôi đă được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ư của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một kư giả người Uc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ư muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam.” Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Uc không bao giờ xảy ra.
Bà c̣n thêm rằng:” Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đă nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung b́nh (2ppt).”
Đến đây, chúng ta có thể h́nh dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đă tuyên bố hủy bơ hoàn toàn vụ kiện tại ṭa án Brooklyn, New York.
Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH
Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đă đi trọn quảng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lư tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính v́ sự trong sáng đó Bà đă không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lư thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đă bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đă đứng về phía người Cộng sản.
Khi đă nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng v́ thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải v́ họ sợ hay thương t́nh một người đă từng đóng góp cho chế độ (trong xă hội CS, loại t́nh cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính v́ họ nghĩ c̣n có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. V́ vậy, họ không triệt tiêu Bà.
Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà (nhưng không thương), một người Việt Nam có tấm ḷng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đă phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đă từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đă khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xă hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại b́nh đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. V́ vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.
Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai c̣n hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đă đến cho những người c̣n tâm huyết ở hải ngoại ngơ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hăy h́nh dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ng̣i ở Việt Nam đă bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg kư ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đă “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xă hội chủ nghĩa.
Chúng ta, những người Việt trong và ng̣ai nước, c̣n nặng ḷng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngơ hầu phục vụ tổ quốc và dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.
Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa b́nh đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại
Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miềm Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH
Bookmarks