Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam.
Tác giả: Cảnh Dương, Đông A.
P21
Dân quân và bộ đội Bắc Việt bật đèn pin soi lên những cành cây. Họ bắn súng lung tung để gây cho Butch hoang mang khiến anh phải chạy ra khỏi chỗ ẩn nấp. Anh ta cảm thấy ḿnh đă hết hi vọng được cứu thoát nhưng vẫn cố gắng giữ khoảng cách giữa anh và những kẻ truy đuổi ḿnh càng xa càng tốt.
Butch kể lại: "Nếu tôi là một trong những người lính ở ngoài kia th́ viên sĩ quan chỉ huy yêu cầu tôi truy t́m viên phi công Mỹ cả đêm th́ tôi sẽ rất tức giận và châm lửa đốt một điếu thuốc. Tôi dự đoán điều mà họ sẽ làm sau đó và quyết định hành động”.
Butch rút ra một chiếc com pa để định hướng. Hôm trước anh đă thay túi cứu thương nhưng giờ th́ anh phát hiện là anh đă quên không có bản đồ. Đây là chuyến bay đầu tiên mà anh thực hiện không có bản đồ cứu nạn. Anh ta bắt đầu di chuyển. Khi đi được vài bước th́ anh nhận ra là ḿnh đă phạm sai lầm. Anh chẳng nh́n thấy cái ǵ trong bóng tối và thường hay mất thăng bằng. Anh không thể t́m đường trở lại nơi ẩn náu ban năy. Anh t́m được một chỗ khác, không được như chỗ cũ nhưng vẫn tạm được, và cố gắng ch́m vào giấc ngủ.
"Sáng hôm sau tôi cảm thấy hơi ấm của thung lũng bắt đầu trỗi dậy. Tôi ngửi thấy mùi phân bón trong không khí. Tôi biết có vài khu ruộng nằm ngay sát đó. Và cuộc truy t́m tôi lại bắt đầu từ rất sớm. Có nhiều tiếng động và nhiều cuộc trao đổi về cuộc truy lùng bắt tôi. Có nhiều người tham gia vào cuộc truy t́m này. Đúng lúc đó có một chiếc máy bay bay vụt qua. Tôi bật máy radio và nói "Đây là Green - One! Có nghe rơ không?"
"Marvin Reynold đây. Old Salt - One đây. Butch đó hả.
Tôi trả lời "Chào Marv. Ở xung quanh đây có nhiều địch lắm". Súng pḥng không bắt đầu nhả đạn vào Marvin. Anh ta nói: "Butch này, anh cứ ngồi đó nhé chúng tôi sẽ quay lại ngay”. "Phải mất một giờ sau họ mới quay trở lại. Thời gian đó kéo dài như một năm. Đầu tiên vài chiếc A-4 lao về phía trận địa pháo pḥng không để trút bom. Sau đó một phi đội máy bay trực thăng xuất hiện, bay ngay trên đầu của tôi để xác định vị trí chính xác nơi tôi đang ẩn nấp. Tôi cố gắng chỉ dẫn họ. Một viên phi công nói: "Ok tôi đă thấy anh rồi nhưng để tôi lượn thêm một ṿng nữa. Chúc anh may mắn.
"Thế là tôi phải đợi thêm một lúc nữa. Sau đó tôi nh́n thấy một chiếc máy bay trực thăng đang bay đến từ đằng xa. Tôi gọi điện đài cho anh ta để chỉ dẫn phương hướng. Sau khi anh ta lượn thêm một vài ṿng, tôi nói: "Anh đang bay về phía tôi rồi và tôi sẽ đốt pháo sáng để đánh dấu vị trí. Tôi lấy ra 2 quả pháo sáng và đốt một quả. Nhưng lúc đó chiếc trực thăng phải lượn một ṿng để tránh không đâm vào quả đồi nên không nh́n thấy quả pháo sáng đó. Tôi chỉ cho máy bay quay lại và đốt quả thứ hai. Lần này th́ viên phi công đă nh́n thấy. Tôi có thể nh́n thấy viên phi công và người phụ lái ở trong buồng lái"
"Phía Bắc Việt đang nhả đạn rất dữ đội. Chiếc trực thăng cũng bắn trả. Lúc đó tôi tưởng như cả thế giới đang đến ngày tận thế. Đạn bay vù vù xung quanh tôi. Tôi nh́n thấy một lỗ hổng ở một cái cây và tôi lao đến đó và vẫy tay ra hiệu cho chiếc trực thăng. Chiếc trực thăng lượn trên đầu tôi và thả xuống một chiếc thang dây làm bằng dây cáp nhỏ. Chiếc thang đó thả cách tôi 10 feet. Tôi trượt xuống một triền đá để túm lấy chiếc thang. Khi tôi vừa chạm tay vào chiếc thang dây th́ chiếc trực thăng lại di chuyển và làm tuột chiếc thang dây khỏi tay tôi. Tôi lại đuổi theo để túm lấy chiếc thang - và lại trượt. Tôi túm hụt chiếc thang đến 3 lần. Tôi thấy tuyệt vọng."
"Cuối cùng th́ tôi nắm được chiếc thang. Lần này tôi ôm cả hai tay xung quanh chiếc thang và phi công bắt đầu kéo tôi lên. Lúc đang được kéo lên, tôi rất lo sợ bị bắn trúng v́ cả lưng của tôi phơi trơn ra để hứng đạn. Khi tôi được kéo lên máy bay tôi ôm chầm lấy viên phi công đă kéo tôi lên: "Chúa ơi? Rất vui gặp lại các cậu?”
Anh ta nói: "Mọi chuyện đă ổn rồi. Đưa tôi khẩu súng". Anh ta chỉ cây M-60 nằm trên giá ba chạc. Khẩu súng của anh ta bị tụt đạn. Hai thành viên của chiếc trực thăng tiếp tục bắn trả với dân quân và bộ đội của Bắc Việt.
"Tôi chợt phát hiện ra chúng tôi đang bay về phía một khu vực pháo pḥng không. Tôi lao vào buồng lái và kêu lên: "Không được bay về phía đó. Chúng ta sẽ bị bắn rơi". Viên phi công nh́n tôi và giật ḿnh. Tôi kêu to: "Sang phải, sang phải". Viên phi công đă giật mạnh máy bay sang phải và chuyển hướng bay.
"Chiếc trực thăng dính nhiều phát đạn. Sau này viên phi công, trung uư Neil Anderson, tâm sự với tôi rằng anh ta quyết định chỉ ném thang dây xuống thêm một lần nữa và nếu như tôi không túm được th́ anh ta sẽ bỏ tôi lại. Anh ta biết rằng anh ta có nguy cơ bị bắn rơi rất cao. Anh ta được tặng thưởng huân chương của hải quân, huân chương cao thứ hai của nước Mỹ, v́ đă thực hiện thành công cuộc giải cứu. Tôi là người bị bắn rơi ở sâu trong nội địa Bắc Việt và là người đầu tiên được cứu sống sau khi đă ở cả đêm trong nội địa.
Không phải ai cũng may mắn như Butch Verich
Các hăng thông tấn rất hài ḷng khi đăng tải một câu chuyện anh hùng thật sự theo đúng nghĩa của nó. Việc cứu thoát Butch Verich được đăng tải với đầy đủ chi tiết trên tất cả các tờ báo ở Mỹ, trên vô tuyến truyền h́nh và trên tờ New York Times. Một số phi công c̣n có ḷng can đảm và nghị lực lớn hơn. Cal Swanson đă ghi âm buổi phỏng vấn của Verich và truyền khắp tàu Oriskany và ai cũng háo hức lắng nghe. Trong cuốn băng đó phát đi một lời thông báo đặc biệt từ phi đội 162 rằng giờ đây phi đội đang sở hữu hai phi công Butch Verich và Rick Adams - bị bắn rơi hai lần trên bầu trời Bắc Việt và được cứu thoát, một kỷ lục trong chiến tranh.
Nhưng Swanson, người luôn ủng hộ Butch trước công chúng, lại bộc lộ những suy nghĩ khác về việc Butch bị bắn rơi trong những cuộc trao đổi riêng tư. Anh viết thư cho Nell và nói rằng anh nghi ngờ việc Butch bị bắn rơi là do lỗi của anh ta. Khi nói chuyện với Butch, Swanson tin rằng Butch đă quay đầu máy bay và cố gắng tăng tốc độ để chạy thoát khỏi quả tên lửa chứ không thực hiện động tác nhào lộn lao thẳng về phía quả tên lửa. Đó là phản ứng dễ hiểu của một phi công không có kinh nghiệp trận mạc nhưng Butch là một cựu binh v́ đây là chiến dịch không kích thứ hai của anh ta. Đă bao nhiêu lần mà họ đă luyện tập phương thức tốt nhất để tránh tên lửa rồi. Đối với Swanson th́ việc Butch đă làm mất hai chiếc máy bay có nghĩa là mất vài triệu đô la là do sai lầm của Butch không thực hiện đúng những điều mà anh cần phải thực hiện theo đúng quy định. Những phi công khác trong phi đội cũng tin rằng Verich Butch đă phạm sai lầm trong chiến đấu.
Dick Wyman là một ngoại lệ so với những người khác. Trong trường hợp này, anh tín rằng việc Butch bị bắn rơi là việc không thể tránh khỏi. Wyman nói: "Butch không sợ hăi, anh ấy rất can đảm. Anh ấy thể hiện rất tuyệt trên mặt biển. Tôi đă bảo với mọi người khi tôi trở về rằng Butch đă không bỏ chạy, có thể anh ấy đă không nghe thấy tôi cảnh báo rằng đang có tên lửa đuổi bám đuôi anh ấy. Nhưng tôi nghĩ Swanson đă hiểu sai về Butch và nghĩ đó là sai lầm do Butch tự gây ra.
Khi Rick Adams bay cùng với Butch bị bắn rơi lần thứ hai và được cứu thoát, th́ hải quân quyết định hai lần là quá đủ để yêu cầu phi công đó tiếp tục thực hiện nhiệm vụ và Rick Adams bị chuyển ra khỏi khu vực chiến đấu. Lần này, sau đúng một năm, khi có nhiềụ phi công bị thiệt mạng hoặc bị bắt và hải quân đang rơi vào t́nh trạng thiếu phi công th́ chẳng thấy có ai yêu cầu Butch nên từ bỏ các chuyến bay không kích. Butch và Swanson đă nói chuyện với nhau về điều đó nhưng không đạt được sự thống nhất nào.
Butch muốn nghỉ vài ngày ở Australia trước khi quyết định sẽ làm ǵ. Anh rất nóng ḷng muốn gặp vợ sắp cưới Cô ấy là người Australia, là thư kư của hăng hàng không Qantas. Swanson và Bellinger đă gặp cô lần đầu tiên ở một nhà hàng khi tàu Oriskany cập cảng Hồng Kông. Butch kể lại: "Khi Belly nh́n thấy tôi, anh ấy thông báo có một cô đang rất muốn gặp tôi. Tôi nói: Làm sao mà tin được lời anh nói được, thế cô ta là ai?". Sau đó tôi mời cô ta ra ngoài ăn tối. Cô ấy trẻ hơn tôi.Cô ấy có dáng vẻ quư phái và tôi đối xử với cô ấy rất dịu dàng. Tôi nghĩ cô ấy thích điều đó.
Sau khi Butch trở về từ Australia, Cal Swanson nói: "Giờ th́ cậu có hai sự lựa chọn. Một là cậu có thể trở về Mỹ. Hai là cậu có thể ở lại đây với chúng tôi".
Butch nói: "Tớ nghĩ nếu như tớ ở lại th́ điều đó có lợi cho kỷ luật của các sĩ quan cao cấp. Tớ đă được cứu thoát hai lần. Điều đó có nghĩa là mọi việc đều có thể xảy ra. Và tớ thấy ḿnh cần phải tận tâm phục vụ hải quân. Tớ không muốn chuyển ra khỏi đây”. Do đó tôi bảo với mọi người tôi sẽ ở lại. Viên chỉ huy bay nói "Butch này nếu cảm thấy quá căng thẳng th́ đừng có cố nhé".
Cả phi đội đă thống nhất với nhau là không nên gây sức ép với Butch sau khi anh ta trở lại và bộc lộ ư nghĩ rằng nhẽ ra anh ta không được phép ở lại Yankee Station. Một lính Mỹ chiến đấu ở miền Nam Việt Nam có thể chiến đấu trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng mà không bị bắn trúng. Đó là bản chất của cuộc chiến trên mặt đất. Hầu hết các vụ thương vong của lính Mỹ đều do các cuộc phục kích chỉ kéo dài trong vài phút. Nhưng phi công mỗi lần bay vào bầu trời Bắc Việt biết rằng lực lượng pḥng không dưới mặt đất đều nhắm vào anh ta và cho dù bị bắn trúng hay anh vượt thoát khỏi luồng đạn th́ anh ta đều nh́n thấy được kẻ thù của ḿnh. Máy bay phản lực là một khối máy móc mỏng manh. Chỉ cần một viên đạn súng trường do bất kỳ một đứa trẻ nào bắn có thể kéo phi công xuống đất. Sau hai lần bị bắn rơi th́ mọi người đều nghĩ họ sẽ mất cảm giác nhưng với Butch th́ điều đó không xảy ra.
LSO
Sĩ quan LSO (sĩ quan phụ trách ra dấu hiệu hạ cánh cho các phi công) đă thay đổi kể từ chiến tranh thế giới lần thứ hai hoặc từ chiến tranh Triều Tiên. Khi đó LSO đứng trên boong tàu hàng không mẫu hạm, dùng hai lá cờ hiệu hoặc hai chiếc phát quang trông giống như chiếc mái chèo để vẫy máy bay. Người ta gọi một sĩ quan LSO giỏi với cái tên đầy tôn trọng là "mái chèo" nhưng thứ duy nhất mà viên sĩ quan này giữ là một chiếc nút bấm điều khiển toàn bộ hệ thống đèn và một ống radio đeo đầu để liên lạc. Một hộp thấu kính, có 6 tia sáng xanh hướng thẳng về phía chân trời ở mỗi phía, được đặt ở ŕa boong tàu về phía cảng. Chiếc hộp thấu kính đó được đặt ở đó đóng vai tṛ như một chiếc cửa sổ để phi công quan sát khi họ từ đất liền trở về tàu. Nếu phi công thực hiện góc lượn chính xác th́ một ánh sáng vàng - da cam trong các cửa sổ đó sẽ nằm giữa với 12 luồng ánh sáng màu xanh ở bên ngoài. Nếu anh ta bay quá cao th́ ánh sáng vàng sẽ nằm trên những luồng sáng xanh đó; nếu quá thấp th́ ánh sáng vàng đó sẽ nằrn dưới những luồng sáng xanh. Phi công gọi ánh sáng vàng đó là "món thịt dồi" hoặc đơn giản hơn là "quả bóng" và họ buộc phải gọi tên nó lên khi họ nh́n thấy luồng sáng đó. Sĩ quan LSO Sẽ nói lớn để giúp cho phi công nghe rơ những chỉ dẫn để thực hiện góc lượn đúng để đặt đúng "quả bóng" vào giữa các luồng sáng màu xanh. Nếu sĩ quan LSO nhận thấy phi công không thể thực hiện cú hạ cánh an toàn để bắt lấy một trong bốn dây cáp chăng ngang boong tàu th́ viên sĩ quan này nhanh chóng bấm ngay vào chiếc nút mà anh đang quản lư tạo ra luồng sáng nhấp nháy thẳng đứng gồm 5 tia sáng màu đỏ di chuyển như những đợt sóng nằm về mỗi bên của chiếc hộp thấu kính, ư muốn nói rằng phi công nên thực hiện lại hướng hạ cánh lên tàu.
"Quả bóng"
Ngay trong điều kiện tốt nhất th́ việc hạ cánh lên tàu hàng không mẫu hạm là một việc làm đầy khó khăn. Phi công chỉ có khoảng cách 10 feet để hạ chiếc móc đuôi xuống mặt đường băng thoai thoải ở phía sau của tàu Oriskany. Hạ cánh đêm càng làm cho phi công sợ. Chẳng có viên phi công nào tuyên bố rằng anh ta thích hạ cánh vào ban đêm. Đối với các phi công th́ một sĩ quan LSO giỏi vừa là một bác sĩ vừa là một người anh về tinh thần. Chỉ cần lắng nghe chất giọng điềm tĩnh của LSO trong một đêm mưa cũng làm cho các phi công cảm thấy vững tâm. Nhiều sĩ quan LSO đều phải biết tất cả phi công trên tàu, gọi họ bằng tên chứ không phải chức vụ khi họ chuẩn bị hạ cánh.
Charlie Tinker, một sĩ quan LSO một nărn trước, nói: "Tôi có một cách diễn đạt khá chuẩn để thông báo cho phi công khi anh ta gọi tên "quả bóng”. "Góc độ 35 hải lư thấp và anh đang làm tốt đấy”. Hoặc bất kỳ điều ǵ nảy sinh trong đầu tôi để làm cho phi công cảm thấy thoải mái. Bạn phải giúp cho viên phi công thực hiện thành công bằng mọi cách. Bạn không thể bảo anh ta bay đi đợi khi điều kiện thuận lợi th́ hạ cánh v́ có thể viên phi công tội nghiệp đó không c̣n nhiên liệu nữa. Vào những đêm xấu trời, gió mùa thổi ù ù làm biển động mạnh và con tàu chao đảo, sau khi tôi giúp phi công hạ cánh an toàn th́ tôi đi t́m bác sĩ của phi đội ngay lập tức. Dạ dày tôi đau quắt và cổ họng th́ khô. Bác sĩ luôn kê đơn cho tôi bằng một liều duy nhất và luôn như vậy một chai rượu Brandy nhỏ.
J.P.O’Neil, một người Ai len mập lùn và tóc hung đỏ phi công của phi đội 162, là sĩ quan LSO cao cấp của tàu Oriskany năm 1967 và là thầy giáo của Ron Coalson. John Hellman nói "Vào một đêm con tàu bị bao phủ trong màn mưa dày đặc. Tôi chẳng nh́n thấyǵ ngoài một màu đen kịt. Tôi gọi: "Này J.P... tôi chẳng nh́n thấy ǵ cả". J. P trả lời "Cứ tiếp tục đi anh bạn. Anh bạn có hướng tiếp xúc rất tuyệt đó. Tôi nh́n thấy đèn chiếu của anh rồi". Tôi lo lắng: "Nhưng tôi chẳng nh́n thấy ǵ cả!". Anh ấy nhắc lại: "Tôi đă nói với anh rồi, cứ tiếp tục bay theo góc đó đi". Và khi tôi vượt qua đoạn đường băng thoai thoải trên boong tàu th́ nh́n thấy anh trên boong tàu. Sau khi tôi bước ra khỏi buồng lái, tôi chạy ngay đến chỗ J. P. O' Neil ôm chầm lấy anh ta và nói: "Cảm ơn anh, JP. Tôi yêu anh". Anh ấy trả lời: "Rất sẵn ḷng”.
Một sĩ quan LSO đang điều khiển hạ cánh.
Đó không phải tất cả sự ngọt ngào trong mối quan hệ giữa sĩ quan LSO và các phi công. Viên sĩ quan đánh giá phi công dựa trên việc họ hạ cánh có tốt không và việc đánh giá này được dán lên tấm bảng tin trong pḥng chuẩn bị. Sĩ quan chỉ huy sẽ biết được viên phi công nào đang gặp vấn đề khi hạ cánh lên boong tàu. Các phi công cạnh tranh với nhau về mức độ đánh giá khi họ hạ cánh cũng gay gắt như những thứ khác. Đôi khi họ căi nhau với sĩ quan LSO và yêu cầu phải chiếu lại cuốn băng quay cảnh họ hạ cánh cho dù điều này giống như tranh căi với trọng tài bóng rổ mà biết rơ chẳng thể nào thay đổi được kết quả.
Một số phi công chẳng quan tâm nhiều đến việc họ hạ cánh có tốt hay không mà chỉ muốn ḿnh là người đầu tiên hạ cánh thôi. Khi chạm boong tàu th́ phi công phải tắt ngay động cơ. Nếu chạm đất với tốc độ tối đa trên một chiếc hàng không mẫu hạm và không bắt được bất kỳ chiếc dây cáp nào bằng chiếc móc ở đuôi th́ anh ta sẽ tự đưa ḿnh vào t́nh huống nguy hiểm và phải bay vụt lên để thực hiện một cú hạ cánh khác. Bắt trượt tất cả những chiếc dây cáp và phải bay vụt lên được gọi là "ngựa lồng”. Dây cáp mục tiêu để móc là dây cáp thứ ba được đánh số ở phía sau v́ đó là vị trí an toàn nhất khi chạm xuống đoạn đường băng thoải ở phía sau và bay vượt quá boong tàu. Có vài phi công nổi tiếng với các động tác đặt máy bay của ḿnh vào vị trí để móc vào bất kỳ dây cáp nào mà họ thích.
Thái độ của Dick Wyman làm cho sĩ quan LSO lúng túng. Coalson nói: "Anh ta chẳng bao giờ làm theo những ǵ mà bạn báo anh ta". Anh ta luôn móc tất cả những dây cáp ở phía trước mặt anh ta và sau đó quay tṛn máy bay một cách nhẹ nhàng trước khi tiếp đường băng để hạ móc đuôi xuống. Điều này khá tuyệt nếu như bạn có khả năng và Wyman th́ luôn có khả năng đó nhưng việc làm đó rất nguy hiểm. Sĩ quan LSO lo lắng về sự lệch hướng đó đối với những viên phi công không đủ năng lực mà có thể thử ganh đua với gió mạnh và đâm máy bay xuống đoạn đường băng thoai thoải đó. Tôi nghĩ đó là lư do mà chúng tôi, những sĩ quan LSO, không thích thái độ của Dick. JP luôn trách Dick về thái độ đó và Dick cười, đưa ngón tay cái lên (Ringo) và tiếp tục làm theo ư thích của anh ta".
Coalson được chỉ định bay cùng với John Hellman. Hellman là một trung uư sĩ quan chỉ huy, người gốc ở Seattle, Washington, trông giống và có những hành động giống như một ông chủ ngân hàng điềm tĩnh hơn là một phi công chiến đấu. Hellman rất cứng rắn và tự chủ. Anh dẫn dắt Coalson trong chuyến không kích đầu tiên của Coalson ở Bắc Việt đúng vào ngày sinh nhật lần thứ 24 của anh. Và Coalson bị trúng đạn lần đầu tiên ở Thud Ridge (1).
Khói trắng của các quả đạn pháo phủ kín mọi nơi. Có thể nh́n thấy những họng súng đang khạc lửa dữ dội. Từ trên cao nh́n xuống trông những họng súng đó giống những chùm hoa đá kim cương. Khi đeo ống tai nghe, có thể nghe các phi công khác trao đổi với nhau cùng với những âm thanh điện tử của hộp chống SAM cho dù có hơi ồn. Đột nhiên tôi chợt thấy mọi thứ rơi vào một bầu không khí yên lặng đến bất thường. Và tôi cảm thấy sợ hăi đến cùng cực. Cuối cùng tôi phát hiện ra là tôi vô t́nh làm tuột ống tai nghe. Tôi có nên bỏ cần lái ra và lắp lại ống tai nghe hay không. Hoặc tôi để kệ đó và trở lại tàu ngay? Tôi bấm nút thả bom - tôi không biết là tôi đang ném bom vào đâu - và lao thẳng ra phía bờ biển. Tôi vừa bay vừa thực hiện các động tác lắc sang hai bên, lượn ṿng và kéo mạnh cần lái để thực hiện những cú lượn mạnh để thoát ra khỏi trận địa pháo. Tôi nh́n xuống và thấy vài chiếc A-4 đang vượt qua tôi. Tôi tự hỏi tại sao họ lại phải thoát ra nhanh như vậy. Sau đó tôi nhận ra họ cũng đang hoảng loạn v́ pháo pḥng không của Bắc Việt bắn ác quá. V́ vậy tôi cân bằng máy bay, tăng hết tốc lực và trở về tàu. Khi đó tôi sợ đến mức toát hết mồ hôi. Tôi bị bệnh thận và gầy đến xanh người. Bạn không thể tin được là tôi có cảm giác sợ hăi như thế nào đâu.
"Khói trắng của các quả đạn pháo phủ kín mọi nơi."
-----------------------------------------------------------
(1) Một vị trí ở Hải Pḥng do phi công Mỹ đặt tên.
Khi John Hellman trở về, anh ấy nói: "Nào anh bạn, vào pḥng tôi chứ”. Tôi vẫn chưa thoát khỏi tâm trạng ngạc nhiên và lo sợ. Tôi theo chân anh ấy vào pḥng và anh ấy mời tôi một cốc bia lạnh. Đó là lần đâu tiên tôi được mời vào pḥng của chỉ huy để uống bia. Đó là một thông điệp của lễ nghi. "Cậu đă bị trúng đạn nhưng cậu đă không chạy trốn v́ thế cậu có thể nâng cốc cùng với chúng tôi". Tuy vậy tôi đă chạy trốn nếu xét ở một góc nào đó, bởi v́ tôi đă ném bom một cách bừa băi, không nhằm vào mục tiêu. Hellman bắt đầu nói về việc chúng tôi đă thực hiện và việc tôi đă tiến bộ như thế. Anh ấy nói: "Cậu đă lạc mất tôi". Điều này th́ có thật. Tôi đă trở về tàu một ḿnh. Tuy nhiên anh ấy dửng dưng về điều này và tạo điều kiện cho tôi thực hiện các chuyến bay trong tương lai.
Từ những ngày đầu huấn luyện lái máy bay, Coalson muốn trở thành một sĩ quan LSO. Điều này trở thành một thôi thúc rất mănh liệt trong anh. "Tôi rất thích nh́n những chiếc máy bay cất cánh và hạ cánh và muốn giúp các phi công có được những cú cất cánh, hạ cánh như ư. Đó là một nhiệm vụ quan trọng đối với tôi.Tôi không hợp với các công việc khác". Anh tâm sự. J.P. O'Neil tự thấy ḿnh là một giáo viên nhiệt t́nh luôn sẵn sàng chia sẽ những ǵ mà anh ấy biết. Tất cả mọi người đều công nhận ở Neil là một sĩ quan LSO tuyệt vời Anh hiểu được cảm giác của các phi công như thế nào và điều ǵ cần thiết để giúp họ hạ cánh lên tàu an toàn nhất. O'Neil đưa cho Coalson một chiếc ống tai nghe và một chiếc nút điều khiển để anh luyện tập đón máy bay xuống tàu và ở bên cạnh Coalson để dạy bảo.
Một LSO trên tàu Oriskany.
"Có một đêm tôi đă phạm một sai lầm". – Coalson nói: "Một sĩ quan cao cấp, bạn của tôi, đang chuẩn bị hạ cánh nhưng anh ta đang bay ở độ cao khá lớn. Tôi bảo với anh ta: "Góc quá lớn. Hăy thu hẹp góc lại". Nhưng tôi lại để anh ta hạ cánh ở góc quá lớn và thế là anh ta hạ cánh "bang". Tôi không hiểu tại sao máy bay lại không nổ. O' Neil nh́n chằm chằm vào tôi và nói “Tôi không thể tin là cậu đă làm như vậy?". Đó là lời trách mắng nặng nề nhất mà tôi phải nghe ở trong hải quân. O’ Neil đă đạt được những phẩm chất tốt nhất của một sĩ quan LSO và tôi chưa đuổi kịp được anh ấy. Tôi đưa lại cho O' Neil những dụng cụ của LSO và đứng trân người ra nh́n những người khác đang vội vă lao vào chiếc máy bay vừa đâm xuống boong tàu để đưa bạn tôi ra. Tôi thấy ḿnh đáng trách v́ đă không giúp anh ta hạ cánh an toàn".
Cuối cùng th́ Ron Coalson cũng trở thành một trong những sĩ quan LSO giỏi nhất của hải quân Hoa Kỳ. Anh nói điều đó là hợp lư đối với một người Ai len mặt đỏ mà.
Ngày 19/7/1967, Coalson đứng trên boong tàu chờ Herb Hunter và Lee Fernandez trở về từ cuộc không kích vào Cổ Chai. Đầu tiên máy bay sẽ bay về phía bên phải của tàu ở độ cao 800 feet và sau đó lượn xuống một góc 30 độ rồi vào đúng vị trí để hạ cánh. Cứ 35 giây là có một chiếc máy bay hạ cánh. Coalson tự hỏi liệu Cal Swanson đang có mặt ở trên đài quan sát không lưu và dùng đồng hồ bấm dây không. Swanson yêu cầu phi đội phải thực hiện chính xác thời gian hạ cánh đó. Nếu bạn hạ cánh sớm trước 5 giây th́ anh ta có thể báo cho bạn về điều đó qua hệ thống loa.
Coalson có phần lo lắng Fernandez. Ở một góc độ nào đó th́ Coalson và Fernandez giống nhau khá nhiều. Coalson luôn đặt những câu hỏi. Những câu hỏi lớn. Tất cả những điều này có ư nghĩa ǵ? Tại sao chúng ta lại ở đây? Lee Fernandez cũng đặt câu hỏi về những điều đó nhưng mang tính nội tâm. Câu hỏi của Lee, không giống như của Coalson, nó không liên quan đến vũ trụ. Khi Lee hỏi: “Tại sao chúng ta lại ở đây?" th́ anh có ư định hỏi "ở đây” là ở Việt Nam.
Coalson nói: "Lee khá phiền ḷng, không phải anh ấy sợ. Nhưng nếu xét về góc độ đạo đức th́ khi anh ấy càng suy nghĩ về cuộc chiến này bao nhiêu th́ anh ta càng hạ cánh bất cẩn bấy nhiêu. Điều này đă ăn sâu vào tâm trí của anh ấy. Tôi nghĩ anh ấy khá liều mạng khi thực hiện những động tác hạ cánh dễ gây ra tai nạn. Thế nhưng anh ấy vẫn tiếp tục bay”.
Bookmarks