HỒN VIỆT TRONG NGÔN NGỮ VIỆT
Quách vĩnh Niên
Linh hồn Việt được t́m thấy và cảm nhận qua thơ, nhạc, văn, ca giao, tục ngữ, vè, và các h́nh thức nghệ thuật, khoa học, triết học …trong đóngôn ngữ là phương tiện chuyển tải. Trong quá tŕnh h́nh thành, ngôn ngữ được hoàn thiện từ thế hệ nầy qua thế hệ khác . Khi xă hội càng tiến bộ th́ từ ngữ càng phong phú nhằm đáp ứng nhu cầu diễn đạt trong mọi lănh vực, v́ vậy sự vay mượn từ ngữ ngoại quốc dưới mọi h́nh thức và Việt hoá từ ngữ vay mượn là điều tựn hiên nhưng tất cả đều được đặt căn bản không đi ngược tinh thần Việt, nếu không sẽ bị tự nhiên đào thải.
Khi người Việt tiếp cận văn minh phương Tây, nhất là Pháp, những từ cu li, ô tô … được phiên âm thành từ Việt. Trong khoa học, triết học chúng ta t́m thấy những từ ỏ dạng phiên âm rất nhiều và được chấp nhận sử dụng tự nhiên, đây là công lao đóng góp của trí thức qua mọi thời đại trong môi trường tự do không bị o ép dưới bất kỳ h́nh thức nào. Từ ngữ nào không thích hợp sẽ bị lăng quên trong quần chúng và vắng bóng trên văn đàn, điều nầy chỉ xảy ra trong môi trường tự do (dưới thời thực dân Pháp đô hộ người Việt vẫn có được quyền tự do nầy). Những từ như Cảng thơm (Hương cảng), yên sĩ phi lư thuần (hồn thơ) … đă bị đào thải.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà, bên cạnh tổng thống có ban cố vấn Hán văn đứng đầu là một vi thâm nho mục đích đặt ra từ mới khi cần. Ngày nay bên cạnh những từ thuần Việt như đi chơi, ăn mặc, bạn bè … chúng ta c̣n t́m thấy hầu hết từ Hán Việt trong sách vở và ngôn ngữ thường đàm nhưng đó hoàn toàn là ngôn ngữ Việt và tuyệt đối không có hơi hướng ngoại lai nào cả.
Nhưng khi CSVN thống trị Miền Bắc Việt nam th́ mọi việc trở nên tồi tệ.
Trong khi Miền Nam tiếp tục phát triển văn hoá Việt theo tinh thần ngàn đời của tiền nhân th́ Miền Bắc XHCN áp dụng triệt để triết học Mác-Lê, xoá bỏ cái mà chúng gọi là “tàn dư văn hoá đồi truỵ”. CSVN đă bóp méo lịch sử, cải sửa ngôn từ, buộc các văn nhân, thi, nhạc sĩ tiền chiến lầm theo bọn chúng phải bóp chết những đứa con tinh thần của ḿnh trước khi được chấp nhận đứng vào hàng ngũ và sáng tác theo chủ trương của đảng c̣n bằng không th́ thân tàn ma dại. Ngôn ngữ của Việt cộng (VC) là ngôn ngữ của con tố cha, vợ tố chồng, ngôn ngữ của hận thù, của giết chóc, của đấu tranh giai cấp, của mạt sát tôn giáo, của luồn cúi quan thầy Nga Hoa.Trong khi Liên sô và Trung cộng dùng học thuyết Mác Lê làm phương tiện thống trị thế giới th́ Hồ chí Minh và bè lũ xem đó là điều thiêng liêng phải tôn thờ. Mặt khác CSVN âm mưu đánh lừa trí thức và toàn dân Việt cũng như dư luận thế giới bằng những giả chiêu bảo tồn văn hoá dân tộc và khốn nạn thay chúng đă thành công trong quá khứ và di hại đến ngày hôm nay. Con tắc kè VC đă đổi màu không biết bao nhiêu lần và lần nào cũng có không ít người lầm. Tại sao vậy? Đây là điều mỗi người trong chúng ta cần phải suy gẫm.
CSVN cai trị dân tộc Việt bằng bạo lực kết hợp với dối trá nên tự thân đầy mâu thuẫn, thấp kém và bế tắc. Cứ nh́n vào mớ ngôn từ đang lưu dùng trong nước từ ngôn ngữ thường đàm đến văn học cũng như lănh vực y khoa , khoa học … th́ rơ. Tia sáng mặt trời có bảy màu thấy được là đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím. Bên ngoài độ dài sóng của tia màu đỏ mắt thường không thấy được gọi là tia hồng ngoại. Bên ngoài tia màu tím (tử) mắt thường không thấy được gọi là tia tử ngoại. Vậy mà họ đặt tên tia tử ngoại là tia cực tím. Cực tím là quá tím, quá tím là vẫn c̣n tím tức mắt thường c̣n thấy được! Nói đến đây chúng ta liên tưởng đến chữ cực. Khi dùng chữ cực hoặc cực kỳ th́ phải thêm tĩnh từ phía sau người nghe mới hiểu được, ví dụ cực kỳ hay, cực kỳ thú vị …mở miệng ra là … cực? ! Ngôn ngữ XHCN là thứ ngôn ngữ tuỳ tiện, lai căn, và nghèo nàn. Sở dĩ có t́nh trạng nầy là v́ lănh đạo chóp bu (dốt) nói lời nào, dùng từ ǵ th́ cấp dưới lập lại rập khuôn không sai một chữ, một mặt sợ vạ lây, một mặt tâng bốc và thể hiện sự trung thành tuyệt đối, trong đó dân đen lại càng rập khuôn tệ hại hơn nữa.Trí thức XHCN thuộc lớp người trong nước và ngoại quốc (nhất là ở Pháp) lầm nghe theo Hồ chí Minh khi chạm thực tế th́ đă quá muộn (vào tay mỗ vỗ không ra), vừa hận ḿnh vừa hổ thẹn và trước hết là v́ mạng sống đành phải nhắm mắt làm theo, nói theo. Hai mươi mốt năm XHCN miền Bắc và mấy chục năm cho cả nước sau năm 75 người dân Việt nam đă tiêm nhiễm cách hành xử như vậy nên không thấy sai, không biết mắc cỡ và tệ hại hơn họ c̣n thích những cái sai quấy đó nữa! Ngôn ngữ có phong phú mới có khả năng chuyển đạt tư tưởng chính xác, lời văn mới trong sáng. Chỉ có một chữ liên hệ thôi mà họ dùng để thay thế cho chữ quan hệ, liên quan, thăm viếng… chữ hiện đại thay thế cho chữ tối tân, tân tiến, thời đại, mới mẻ… chữ đột xuất thay thế cho chữ bất ngờ, đột ngột, đột biến … chữ khẩn trương thay thế cho chữ nhanh lên, gấp rút … chữ sự cố thay cho chữ biến cố, sự kiện, diễn biến bất ngờ … phát hiện thay thế cho chữ khám phá , t́m ra, phát giác … cái ǵ cũng bức xúc, cái ǵ cũng nhạy cảm (?), hồ hởi (?), ấn tượng (?), vô tư (?), bồi dưỡng(?) … và khủng khiếp hơn nữa là chữ xưởng đẻ th́ quả thật cái “ưu việt” của XHCN không c̣n biết nói sao!
Tiêu cực không có nghĩa là phủ định, chống đối mà có nghĩa là thiếu xây dựng, ỡm ờ, không mạnh dạn, không quyết liệt. Chống cộng quyết liệt không có nghĩa là tiêu cực mà là chống cộng tích cực. Chống cộng ỡm ờ là hành động tiêu cực.
Chữ văn hoá bao gồm văn học, triết học, nghệ thuật, phong tục, tập quán cũng như tất cả mọi sinh hoạt tinh thần và thể chất của người dân trong suốt chuỗi dài lịch sử của dân tộc. V́ vậy văn hoá không có nghĩa là văn học và càng không thể nào có nghĩa là phép lịch sự. Vậy mà một hành động khiếm nhă họ gọi là thiếu văn hoá. Đao to búa lớn quá (!). Phản ảnh chứ không nên là phản ánh (khó nghe quá), phản ảnh tức phản chiếu h́nh ảnh (toàn bộ vấn đề), c̣n phản ánh có nghĩa là phản chiếu ánh sáng (không nói lên toàn bộ sự việc).
Chữ football tiếng Anh có nghĩa là túc cầu, bóng tṛn, Ở Mỹ và Úc gọi là môn thể thao bóng bầu dục. Để phân biệt từ football mang nghĩa hai môn thể thao khác nhau, một bên chỉ dùng chân, một bên dùng cả tay lẫn chân, có nghĩa là môn nào cũng dùng chân cả nên dùng chữ bóng đá là không ổn bằng từ bóng tṛn (để phân biệt bóng bầu dục).
Mở đầu bản di chúc, Hồ chí Minh đă trích dẫn câu thơ của Đỗ Phủ (712-770) nhân sinh thất thập cổ lai hy. Vậy là cả nước nhao nhao lên “nhân sinh thất thập cổ lai hy” mà không hiểu rằng câu nói của ông Đỗ Phủ cách nay đă mười ba thế kỷ rồi! Ngày nay thiên hạ sống đến chín mươi hay hơn nữa là chuyện b́nh thường. Vừa tếu vừa lếu láo, cái lối hiếp dâm văn từ như vậy xảy ra nhan nhản trong cái xă hội “ưu việt” XHCN từ trước đến nay cũng không lấy ǵ làm lạ khi đích thực Hồ chí Minh đă thoát xác thành Trần dân Tiên để hiếp dâm chính bản thân ḿnh, một việclàm chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Đành rằng ngôn từ nào cũng là ngôn từ Việt cả nhưng phải tránh ngôn từ luộm thuộm, ngôn từ chói tai, hoăc tối nghĩa. Thay v́ thuỷ quân lục chiến lại cải thành lính thủy đánh bộ, máy bay trực thăng thành máy bay lên thẳng, hoả tiển thành tên lửa nghe nó ngô nghê làm sao ấy. Xuất cảng chứ không phải xuất khẩu (nghe muốn ói). Chữ xuất cảng đi một chuỗi với các từ hải cảng, giang cảng, phi cảng. Ngôn từ phải có cái hồn của nó cho nên việc dùng chữ chính xác th́ văn mới tải được đạo. Văn là phương tiện, tải đạo là mục tiêu, phương tiện có tuyệt vời th́ư của đạo mới được tải trọn vẹn.
Đến đây chúng ta sang thưởng lăm nét đẹp tuyệt vời của hai bài thơ, một là bài “Khóc Bằng Phi” của vua Tự Đức.
Ới thị Bằng ơi! Đă mất rồi!
Ới t́nh, ới nghĩa, ới duyên ơi!
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói.
Sớm ngơ trưa sân liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra t́m lấy bóng.
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Mối t́nh muốn dứt càng thêm bận.
Măi măi theo hoài cứ chẳng thôi.
Và bài thơ tặng vợ của Hồ Dzếnh.
Ḿnh vừa là chị là em.
Tấm ḷng người mẹ trái tim bạn đời.
Mai nầy tới phút chia đôi.
Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
Xót ḿnh đă lắm thương đau.
Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ ḿnh.
Cuộc đời đâu phải phù sinh.
Nước non chan chứa nghĩa t́nh ḿnh ơi.
Hàngvạn những viên kim cương như trên trong nền văn học Việt đă bị CSVN xoá bỏ. Một Hồ Dzếnh không chịu khai tử những đứa con tinh thần theo lệnh CSVN đành phải chấp nhận cuộc đời công nhân lam lũ. Một Phạm Duy nếu không sớm chạy về hàng ngũ Quốc Gia là môi trường tự do để phát triển tài năng th́ cuộc đời ông ta cũng chỉ là một tên văn nô xoàng xĩnh, cớ sao chừng ấy tuổi mà chưa biết sự đời c̣n nhi nhô lắm điều chói tai?! …
Lịch sử Việt đă trải qua biết bao thăng trầm nhưng ngôn ngữ Việt không những được bảo tồn mà c̣n phát triển theo từng thế hệ và không gặp phải bất cứ một sức cản nào, cho đến khi Hồ chí Minh tự nguyện làm tên tiên phong áp đặt chủ thuyết ngoại lai vong bản lên đầu dân tộc Việt th́ nền văn học miền Bắc rơi vào t́nh trạng hổ lốn, bế tắc và thô tục thuần vật chất (duy vật) và vắng bóng tinh thần (vô thần). Sau năm 75, CSVN tiếp tục huỷ diệt nền văn học Việt trên một nửa nước c̣n lại.Vậy là CSVN đă hoàn tất cái “sứ mạng thiêng liêng” của tên Việt gian trên đất Việt đối với ông tổ Mác Lê của chúng. Người dân miền Nam bị xích hoá nặng nề bằngbạo lực nên tiêm nhiễm cung cách CSVN hồi nào không hay cho đến khi hệ thống XHCN thế giới bị tan tác từng mảnh, CSVN phải chùn bước (con tắc kè VC một lầnnữa lại đổi màu), cái di căn nặng nề đó người dân cả nước (nói chung) vẫn chưatẩy xoá (và rất khó tẩy xoá) mặc dù văn học Việt hải ngoại từ lâu dưới mọi h́nh thức đă thổi luồng sinh khí về nước.
Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà những tác phẩm văn, thơ, nhạc tiền chiến được tiếp tục phổ biến v́ đó là sự kế tục của văn học Việt mặc dù một vài tác giả v́ lư donào đó đă tự nguyện làm văn nô cho CSVN, những người nầy đă tự ư chối bỏ chính ḿnh là chuyện cá nhân và họ phải chịu trách nhiệm ít nhất đối với chính bản thân họ.
Ngày nay CSVN cho lưu hành một số hạn chế tác phẩm thơ nhạc VNCH chỉ v́ trước sức ép của thời đại chúng đành phải nhượng bộ một chút để xoa dịu ḷng dân. Nhưng chừng nào chế độ CSVN độc tài độc đảng c̣n đó th́ chẳng khác nào lưỡi gươm D’Amocle`s vẫn c̣n treo lơ lửng trên đỉnh đầu dân tộc Việt.
Cộng đồng Việt hải ngoại ở Hoa kỳ, Úc, Canada, Âu châu đă có hệ thống trường dạy tiếng Việt khá hoàn chỉnh, sách vở,báo chí, truyền thanh và truyền h́nh rộng khắp, thêm vào đó là sinh hoạt mạng bằng tiếng Việt phong phú đến độ CSVN không cách nào ngăn cản nổi. Ư thức bảo tồn ngôn ngữ Việt ở hải ngoại ngày nay rất cao đă dội vào trong nước có hiệu quả, tất cả những thành tựu đó là do công lao của mọi người Việt hải ngoại, đăc biệt là các nhân sĩ, trí thức, văn thi sĩ, các vị thâm nho và các nhà ngôn ngữ học. Mong sao quư vị có được sự đồng thuận (dưới một danh xưng nào đó) nhằm thống nhất từ ngữ, nhất là từ mới trong cộng đồng Việt trên khắp thế giới, đây là một mặt trận rất quan trọng hiện nay. Nhân loại tiến bộ không ngừng đ̣i hỏi phải có từ ngữ mới nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy và truyền bá kiến thức. Trong nước thiếu khả năng làm việc nầy, từ ngữ mới của họđặt ra mang tính tuỳ tiện, vô nghĩa và chói tai đến buồn cười mặc dầu ban, ngành của họ nghe rất kêu, nhưng tất cả đều lệ thuộc lệnh trên mà trên th́ dốt nát,lại tham ô vơ vét của dân và rối ḅng bong v́ đă trót buôn dân, bán nước và cúi luồn giặt Tàu.
Ngày nay các bạn trẻ trong nước đă mạnh dạn phản kháng chế độ, chấp nhận bị truy bứcvà tù đày, những bản văn lên án chế độ trên trang mạng rất trong sáng rạch ṛiđầy tính nhân bản. Văn của các bạn đă thoát ra khỏi cái đám ngôn ngữ lầy lộiXHCN, quả thật các bạn là những đoá hoa sen, xứng đáng được ngưỡng mộ và noi gương. Nh́n vào đó, là người ở hải ngoại, chúng ta biết phải làm ǵ, không lẽ chúng tac̣n vô t́nh dùng từ VC, c̣n coi truyền h́nh VC, c̣n xem văn nghệ do ca sĩ trongnước ra tŕnh diễn? Nói đến đây chợt nhớ hai câu thơ cổ:
Thương nữ bất tri vong quốc hận.
Cách gian du xướng hậu đ́nh hoa.
Ôi nhục thay bọn gái đĩ (hiểu theo nghĩa rộng) không biết ǵ hận mất nước mà cứ nhởnnhơ vô ư thức.
Quáchvĩnh Niên
Bookmarks