Tóm tắt một số tội ác CSVNSVN
Phạm Bá Hoa
1. Cộng sản quốc tế.
Ông Mikhail Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô phát biểu như lời tâm sự: “Tôi đă bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lư tưởng cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau buồn mà nói rằng “cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo”. Đó là lời tố cáo có thể xem là thành thật của một đảng viên cao cấp trong đảng cộng sản Liên Xô mà các nhóm lănh đạo cộng sản Việt Nam tôn vinh là thành tŕ vững chắc của chủ nghĩa xă hội toàn thế giới (cộng sản). C̣n dưới đây là những con số nói lên một cách tổng quát về mức độ tàn bạo của các đảng cộng sản cai trị đồng bào của họ đă được phơi bày sau khi cộng sản Nga và khối cộng sản Đông Âu sụp đổ: (trích bài viết “Con số 100 triệu nạn nhân” của Lữ Giang ngày 25/6/2007)
Trong quyển “Death by Government” (Chết do chánh phủ), tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính trị học đại học Yale, th́ cộng sản tại các quốc gia đă giết chết đồng bào của họ, như sau: (1) Liên Sô 61.911.000 người. (2) Trung Hoa cộng sản 35.236.000 người. (3) Quân phiệt Nhật 5.964.000 người. (4) Khmer đỏ 2.035.000 người. (5) Thổ Nhĩ Kỳ 1.883.000 người. (6) Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người. (7) Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người. (8) Cộng sản Nam Tư 1.072.000 người.
Trong quyển “Livre Noir du Communisme” (Sách đen về chủ nghĩa cộng sản) tác giả Stéphane Courtoise, Giám Đốc Nghiên Cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học của Pháp, nhận xét rằng: “Vượt trên mức độ tội ác cá nhân, các chế độ cộng sản củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị. Sau một vài năm tại các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu hay vài chục năm ở Liên Sô và Trung Hoa cộng sản, cường độ của sự khủng bố có bớt đi , chế độ tự ổn định bằng cách quản lư sự đàn áp thường ngày, sự kiểm duyệt mọi trao đổi tin tức, kiểm soát xuất nhập biên giới, trục xuất người ly khai. Nhưng kư ức về khủng bố tiếp tục đặt người dân trong t́nh trạng sợ hăi, và điều này rất hiệu nghiệm. Không một quốc gia cộng sản nào thoát khỏi qui luật đó, như Trung Hoa, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam chẳng hạn”.
Ngày 12/6/2007, tại Washington DC, Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush, chủ tọa lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial). Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của khoảng 100 triệu nạn nhân cộng sản -có cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng ta- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận cùng gốc rễ, v́ chế độ cộng sản đă lấy đi mạng sống của khoảng 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội. Nhóm chữ nghiêng màu đỏ là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Bush. Công tŕnh Đài Tưởng Niệm bắt đầu với Điều 905 của đạo luật The Public Law 103-199 được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 17/12/1993. V́ Quốc Hội không cấp tiền nên tiến sĩ Lee Edwards vận động từ các quốc gia từng bị cộng sản cai trị chung góp tài chánh, trong đó phần đóng góp của Cộng Đồng Việt Tị Nạn cộng sản tại Hoa Kỳ là 66.000 mỹ kim. Công tŕnh xây dựng khởi công ngày 28/9/2006.
2. Cộng Sản Việt Nam
Lănh đạo tự tôn.
Ông Hồ Chí Minh, Chủ Tịch đảng CSVN là con người vừa dối trá vừa tự cao hơn bất cứ ai khác. Bằng chứng là trong quyển “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” xuất bản năm 1947 mà tác giả Trần Dân Tiên lại chính là Hồ Chí Minh. Trong đó Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, tự ca tụng ông là cha già dân tộc và tự tôn vinh ông vĩ đại hơn B́nh Định Vương Lê Lợi (thế kỷ 15) v́ ông đưa dân tộc vào kỷ nguyên xă hội chủ nghĩa. Chủ Tịch đảng mà tự tôn đến mức đó th́ c̣n ǵ liêm sĩ. Khi con người nhất là con người lănh đạo không có liêm sĩ th́ tệ hơn người tệ nhất trong 86 triệu dân.
Bức tranh xă hội xă hội chủ nghĩa Việt Nam từ sau 30/4/1975 đến năm 2000, được cựu Trung Tướng cộng sản Trần Độ “vẽ lại” trong tập nhật kư “Rồng Rắn” ngày 7/12/2000. Trong đó, ông tự hỏi: “Tại sao chiếm được miền Nam năm 1975, một nửa đất nước trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đă đưa cả nước vào t́nh trạng nghèo đói ngắc ngoải như vậy?” Rồi ông mời gọi lănh đạo của ông: “Hăy nh́n các nước Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Thái Lan, Mă Lai Á, chỉ cần 20-30 năm mà họ phát triển và nhân dân của họ có đời sống khá phong phú. Mấy nước này không có đảng cộng sản tài t́nh sáng suốt (như của Việt Nam), mà họ có những chính khách với những chính sách kinh tế xă hội thông minh và hiệu quả. Như vậy, chủ nghĩa xă hội chưa có chứng thực, và nó không thể là con đường duy nhất để phát triển đất nước”.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế hàng đầu của cs Việt Nam, đă nói trong phiên họp mật của Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam ngày 2/11/2004 rằng: “Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, nhưng mức độ tăng trưởng ấy chỉ là so với chính bản thân Việt Nam, v́ nh́n ra chung quanh, rất nhiều quốc gia tăng trưởng nhanh hơn Việt Nam nhiều. Việt Nam ta không nên lớn giọng dạy bảo thiên hạ, không nên tự cho ḿnh là đ̣n bẩy của thế kỷ, cũng không nên tự xưng ḿnh làm xung kích cho lịch sử, v́ những điều đó không giúp ǵ cho sự phát triển của đất nước. Với lại thế giới không có ai công nhận Việt Nam như vậy cả”.
Lănh đạo độc tài.
Ông Nguyễn Tấn Dũng thay ông Phan Văn Khải trong chức vụ Thủ Tướng, có dư luận trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại nhất là trong vài tổ chức chính trị, có vẻ như chờ đợi Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev của Việt Nam, trong khi các tổ chức chính trị trong nước nhất là Khối 8406 không một đợi chờ nào như vậy. Hành động ngay khi nắm quyền, tân Thủ Tướng ra Nghị Định kiểm soát chặt chẻ hơn nữa các sinh hoạt truyền thông, internet, kể cả quyết định tuyệt đối cấm báo chí tư nhân. Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố dẹp tham nhũng, nhưng chưa có sự kiện nào chứng minh bước đầu thực hiện lời tuyên bố đó. Nếu ông ta thực sự quyết tâm đánh tham nhũng, ông ta có cơ hội bị tham nhũng hạ bệ, thậm chí có thể bị ám sát là đằng khác, v́ tham nhũng là mục tiêu của các cấp lănh đạo cộng sản Việt Nam, trong đó có Nguyễn Tấn Dũng và gia đ́nh ông.
Ngày 5/9/2006, CSVN tuyên bố hủy bỏ Nghị Định 31 về quản chế hành chánh (bắt giam tùy tiện) làm cho nhiều người trong Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại lẫn đồng bào trong nước tưởng như họ có bước tiến về dân chủ pháp trị, nhưng theo luật sư Lê Thị Công Nhân, hành động đó chẳng qua CSVN đem chôn một cái xác (NĐ 31) đă chết từ lâu. V́ ngày 1/10/2002 CSVN đă ban hành Pháp Lệnh “xử lư vi phạm hành chánh” chặt chẽ hơn Nghị Định 31 mà họ hủy bỏ. Trên nguyên tắc, Pháp Lệnh chỉ dưới Hiến Pháp và Luật, tức cao hơn Nghị Định, mà trong Pháp Lệnh này có đầy đủ những qui định trong NĐ 31. Chưa hết, tiếp theo Pháp Lệnh năm 2002 xử lư vi phạm hành chánh là Nghị Định 38/CP ngày 18/3/2005 về cấm tập họp đông người, và Nghị Định 56/CP ngày 6/6/2006 về kiểm soát văn hóa & thông tin, vừa chặt chẻ vừa tinh vi trong chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng toàn dân toàn đảng của họ (trích bài viết của luật sư Lê Thị Công Nhân ngày 11/11/2006 tại Hà Nội). Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lănh đạo độc tài toàn trị.
Ngày 27/8/2007 tại Tổng Cục Chính Trị CSVN Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng: “... Tôi khằng định trước sau như một là chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xă hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến Pháp th́ không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát, cho nên phải củng cố công tác tư tưởng, củng cố vai tṛ của đảng”. (trích bản tổng hợp 220 sự kiện về nhân quyền và chính trị tại Việt Nam năm 2007). Độc tài chuyên chính như vậy mà gọi là cấp tiến sao? Và chỉ riêng lời phát biểu ngắn ngủi trên đây của ông Triết, tôi nhận ra 4 điều: (1) NMT thừa nhận chế độ độc tài CSVN không được người dân ủng hộ, nên phải ra lệnh củng cố quyền lực của đảng để tiếp tục đàn áp dân trong khi vẫn khẳng định điều gọi là tiến lên chủ nghĩa xă hội. (2) Bỏ điều 4 trong Hiến Pháp là chế độ độc tài tan ră đến mức đảng viên trong Bộ Chính Trị phải tự sát, v́ nếu không th́ NMT và các đảng viên lănh đạo khác không thể yên thân bởi khối dân oan hằng triệu hằng triệu người mà chế độ độc tài đă đẩy họ vào thảm cảnh đó. (3) Bộ Chính Trị CSVN sợ mất quyền lực quyền lợi chớ không hề nói đến trách nhiệm của cấp lănh đạo. (4) NMT hoàn toàn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lănh đạo độc tài toàn trị.
Bookmarks