Chiến dịch Lam Sơn 719
P3
QDNDVN/CS BẮC VIỆT CHUẨN BỊ SẲN CHIẾN TRƯỜNG
Theo bài viết trên
http://www.vnmilitaryhistory.net/ind...ic,132.30.html
Trong thực tiễn diễn biến, khi cao nhất – ngày 10/3/1971 quân Mỹ đă tăng tổng số quân từ 9000 tên dự kiến lên đến 15.000 tên, bao gồm điều động cả thảy 5 tiểu đoàn thiết giáp (tăng 1 tiểu đoàn) và 4 tiểu đoàn pháo binh (tăng 1 tiểu đoàn) để hỗ trợ trực tiếp cho quân nguỵ; điều động khẩn cấp 3 lữ đoàn bộ binh trong 2 ngày 23 và 24 tháng 2 năm 1971 từ Thừa Thiên ra vùng Quáng Ngang, Mai Lộc, điểm cao 241, Khe Sanh (tức là Lữ đoàn 11 bộ binh Mỹ, 2 lữ đoàn dù thuộc sư đoàn 101 dù Mỹ) và cả thảy 4 tiểu đoàn pháo binh (tăng hơn dự kiến 2 tiểu đoàn) để bảo vệ phía sau cho quân nguỵ. Đây là không kể hơn 300 máy bay lên thẳng được điều thêm để phục vụ cho cơ động và vận chuyển lực lượng.
Để phục vụ cho kế hoạch hành quân chính thức, ngay từ tháng 11 năm 1970 địch đă tiến hành một kế hoạch nghi binh lớn, tung tin chuẩn bị tiến công ra miền Bắc (quân khu 4) nhằm phân tán sự chuẩn bị và kế hoạch đối phó của ta trên hướng tiến công chính của chúng.
Tổ chức phân chia sử dụng lực lượng của quân nguỵ như sau:
1. Cánh giữa đi dọc đường 9 là cánh chủ yếu do 1 chiến đoàn đặc nhiệm phụ trách. Chiến đoàn đặc nhiệm này gồm có lữ đoàn 1 dù, 2 thiết đoàn 11 và 17 (sau tăng thêm lữ đoàn 2 dù), có nhiệm vụ đánh chiếm Bản Đông, Sê Pôn và khu vực Đông Bắc, Tây Nam Sê pôn.
2. Cánh Bắc do lữ đoàn 3 dù và liên đoàn 1 biệt động quân phụ trách, có nhiệm vụ bảo vệ sườn Bắc từ Ta-púc đến Tây Bắc điểm cao 530 (Đông Bắc Sê pôn).
3. Cánh nam do sư đoàn bộ binh 1 (đủ 3 trung đoàn), sau tăng cường 2 lữu đoàn thuỷ quân lục chiến (147, 258), phụ trách, có nhiệm vụ bảo vệ sườn nam từ Lao Bảo đến nam Sêpôn, chiếm lĩnh khu vực Sađi - Mường Noọng và các điểm cao 640, 550, 462, 723, 748.
4. Lực lượng dự bị phía sau có lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến và trung đoàn 54 bộ binh thuộc sư đoàn 1 bộ binh.
Địch hy vọng, với kế hoạch tác chiến như trên, chúng sẽ đạt mục đích cuộc hành quân, sẽ nhanh chóng chặn được tiếp tế, phá được kho tàng của ta, tránh được tác chiến lớn với chủ lực của ta, v́ chúng dự liệu rằng đối tượng tác chiến chủ yếu của chúng ở đây là bộ đội bảo vệ hành lang và kho tàng, c̣n chủ lực của ta không thể nào điều động đến kịp.
E. Những điểm mạnh và yếu của địch
III. Đặc điểm chiến trường
1. Khu vực từ Cửa Việt đến Lao Bảo
2. Khu vực từ Tây Lao Bảo đến Thà Khống - Nà Bo
3. Khu vực từ Tây Sê pôn đến Mường Ph́n
IV. CHủ trương chiến lược và Quyết tâm chiến dịch của ta
A - CHủ trương chiến lược
B - Chủ trương của Quân uỷ Trung ương
Từ mùa hè năm 1070, Quân uỷ Trung ương đă có chủ trương tiến hành ráo riết chuẩn bị mọi mặt trên các chiến trường Trung Hạ Lào và miền Nam quân khu 4, đồng thời chỉ thị các Bộ Tư lệnh chiến trường B2 và B3 (Nam Bộ và Tây Nguyên) tiến hành chuẩn bị chiến trường ở Đông Bắc Cam-pu-chia và ở vùng Ba biên giới. Chấp hành chủ trương của Quân uỷ trung ương, Bộ Tổng tham mưu đă tích cực triển khai kế hoạch chuẩn bị mọi mặt như sau:
1. Về chuẩn bị lực lượng
Trên cơ sở dự kiến đối tượng tác chiến trong chiến dịch sắp tới là Mỹ và nguỵ, nhưng chủ yếu là quân nguỵ được Mỹ chi viện về không quân và về mọi mặt đảm bảo khác, từ đầu năm 1970 ta đă tổng kết kinh nghiệm đánh Mỹ, đánh nguỵ nói chung, đặc biệt chú trọng tổng kết nghiên cứu việc đánh tiêu diệt chiến đoàn quân nguỵ có sự yểm hộ của không quân Mỹ. Tiếp theo đó, cán bộ được học tập về đường lối quân sự của Đảng, về nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, chú trọng học cách đánh tiêu diệt từng chiến đoàn nguỵ, cách đánh tiêu diệt tiểu đoàn địch đóng ở điểm cao có công sự pḥng ngự tương đối vững chắc bằng tác chiến hiệp đồng binh chủng.
2. Về tổ chức chuẩn bị chiến trường
- Từ tháng 6 năm 1970, Bộ đă tăng cường cán bộ và cơ quan cho đoàn 968 để trực tiếp tiến hành việc tổ chức chuẩn bị chiến trường ở Trung Hạ Lào. Phần lớn cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở lên thuộc đủ các lực lượng tham gia chiến dịch đều được đi nghiên cứu địa h́nh và đề ra kế hoạch tác chiến. Các lực lượng này bao gồm lực lượng tại chỗ thuộc quyền Bộ Tư lệnh 559, lực lượng các quân chủng, binh chủng pḥng không, pháo binh, xe tăng, các sư đoàn chủ lực của Bộ và của quân khu 5 lúc đó đang tập kết ở địa bàn này.
- Đến tháng 9 năm 1970, một số đơn vị chủ lực của Bộ và Quân khu 5 có mặt tại khu vực địa bàn chiến dịch, đă xác định phương án tác chiến của ḿnh và diễn tập theo phương án.
- Đến giữa tháng 10 năm 1970, việc nghiên cứu địa h́nh, chuẩn bị kế hoạch tác chiến đă xong một bước cơ bản ở chiến trường Trung Hạ Lào.
Trong lúc đó t́nh h́nh sẵn sàng chiến đấu ở quân khu 4 chưa thật tốt. Để đảm bảo miền Bắc xă hội chủ nghĩa được vững chắc trong mọi t́nh huống trước mọi hành động phiêu lưu của tập đoàn Nich-xơn, Bộ chủ trương: song song với việc tích cực hoàn thành chuẩn bị chiến trường ở Trung Hạ Lào, phải khẩn trương chuẩn bị chiến trường ở quân khu 4, nhất là ở Nam quân khu 4. Do đó Bộ đă chỉ thị cho các lực lượng tại chỗ và các lực lượng chủ lực cơ động của Bộ hiện đang đứng chân ở đất quân khu 4 phải năng thêm một bước tŕnh độ sẵn sàng chiến đấu để đối phó với địch tại chỗ.
3. Về tổ chức chỉ huy
- Tháng 7 năm 1970, Quân uỷ Trung ương quyết định sát nhập Bộ Tư lệnh đoàn 968 và Bộ Tư lệnh đoàn 559 với nhau để thống nhất lănh đạo và chỉ huy việc vận chuyển chiến lược và việc tác chiến ở Trung Hạ Lào
- Tháng 10 năm 1970, Bộ quyết định thành lập Binh đoàn 70 gồm các sư đoàn 304, 308, 320 và các đơn vị binh chủng trong biên chế để làm lực lượng cơ động ṇng cốt của chiến dịch.
- Trước khi chính thức mở chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào, Bộ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận Đường 9 – Nam Lào (bí danh Bộ Tư lệnh 702) để chỉ huy mọi lực lượng tham gia chiến dịch.
4. Về kế hoạch tác chiến
Để sẵn sàng đánh bại địch, ta có kế hoạch tác chiến tiêu diệt địch trên các hướng: Đường 9, Đông Bắc Cam-pu-chia và vùng ba biên giới. Riêng ở hướng đường 9 kế hoạch tác chiến được chuẩn bị cụ thể, chu đáo và khẩn trương hơn.
Quân uỷ trung ương xác định mục đích của chiến dịch đường 9 là: Tiêu diệt phần lớn lực lượng địch; bảo vệ bằng được con đường vận chuyển chiến lược; đồng thời phối hợp đắc lực với các chiến trường khác để đẩy mạnh hoạt động chung.
Trong kế hoạch tác chiến ở đường 9 ta đă dự kiến khu vực tác chiến chủ yếu ở bản Đông – Lao Bảo – Khe Sanh, trong đó lấy Bản Đông – Lao Bảo làm khu vực quyết chiến. Ta c̣n xác định phải kiên quyết chặn và tiêu diệt địch ở bản Đông, phải nhanh chóng tiêu diệt địch trong trường hợp chúng tiến ra Sêpôn và khi chúng rút lui. Trong lúc đánh địch ở các khu vực tác chiến nói trên, phải tăng cường lực lượng đánh địch ở trên đường 9 phía bên đất Việt Nam và phía sau lưng địch.
Bên cạnh kế hoạch tác chiến ở đường 9 gồm cả Trung Hạ Lào, ta c̣n có kế hoạch tác chiến của binh đoàn 70 đánh tiêu diệt địch nếu chúng liều lĩnh tiến công ra quân khu 4. Ta c̣n dự tính có thể sử dụng binh đoàn 70 chủ động tiến công vào một chiến trường khác trong trường hợp địch gặp khó khăn, không đánh ra đường 9 hoặc quân khu 4. Ngoài ra, c̣n có kế hoạch tác chiến của lực lượng B5 và của lực lượng trực thuộc Bộ tư lệnh 559, chủ động đánh trước địch, khi chúng chưa tiến công ra Trung Hạ Lào.
Alamit:
Chiến dịch Lam sơn 719:
Mỹ chủ trương muốn CS Bắc việt có tiếng nói trong Hội nghị Paris nên sắp xếp mọi việc. Cho "Điệp viên 2 mang" thông báo chiến dịch trước với CS Bắc việt. Thêm vào đó "Nội gián - Cố vấn QS Phủ Tổng thống" cung cấp chi tiết kế hoạch hành quân.
CS Bắc việt được t́nh báo mật báo chuẩn bị sẳn chiến trường, nhưng tỉ số thương vong lại rất cao "không dám tiết lộ", tại sao vậy?. Vào đầu trận TQLC VNCH có bị phục kích, nhưng sự chiến đấu dủng cảm của các chiến sỉ VNCH làm CS Bắc việt bị co cụm lại, sau đó được tiếp viện, chiến trường đảo ngược t́nh thế?
Cuối cùng, Quân đội VNCH rút lui, c̣n CS Bắc việt có lẻ ... không c̣n sức hay không dám rượt theo? Qua đó, thắng thua c̣n tùy theo đơn vị tác chiến tại chổ, trận nào, ngày nào trong chiến dịch, chỉ có nội bộ ...cảm thấy đau ...mà không dám ho thôi.
Xem đoạn film "Sự Thật Vn" post lên cho thấy t́nh "Binh đệ chí binh", tính nhân bản cao cả của Quân lực VNCH, luôn cứu thương binh và bằng mọi giá mang xác đồng đội về đơn vị lo hậu sự khác hẳn với CS Bắc việt, bắn chết thương binh, bỏ mặc xác bộ đội, bằng chứng cho đến nay c̣n 300 - 500000 mất tích?!! Làm sao CS Bắc việt cho đồng bào của họ theo dỏi thực tế t́nh h́nh chiến sự như chính phủ VNCH.
Bookmarks