Cuộc Chiến Bí Mật
LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG VIỆTNAM
Giáo sư Vủ Đ́nh Hiếu - P1
1. Lời giới thiệu
Từ năm 1957, đă có quân của Lực lượng đặc biệt (biệt kích) Mỹ hoạt động trên lănh thổ Việt Nam. Vào thời điểm đó, họ mới chỉ đảm nhiệm việc huấn luyện trên cương vị cố vấn, mang tính chất nâng đỡ cho Quân đội Sài G̣n.
Thông thường những biệt kích quân Mũ Nồi Xanh của Mỹ phải t́nh nguyện tới hai lần. Lần đầu học nhảy dù và sau đó học về chiến, kỹ thuật của Lực lượng đặc biệt (từ đây gọi là biệt kích).
Daklak 1966
Ngày 24/6/1957, Liên đoàn biệt kích 1 được thành lập tại Okinawa và lập tức cử một bộ phận sang Nam Việt Nam huấn luyện cho 58 biệt kích quân của Quân đội Sài G̣n tại Trung tâm huấn luyện Biệt động đội ở Nha Trang. Những sĩ quan Sài G̣n tham dự khóa huấn luyện này về sau đều trở thành huấn luyện viên hoặc chỉ huy ṇng cốt cho các đơn vị biệt kích đầu tiên của Quân đội Sài G̣n. Mười năm sau (1967), lực lượng biệt kích Mỹ với vai tṛ cố vấn đă yểm trợ cho trên 40.000 dân sự chiến đấu, hoạt động trên khắp lănh thổ miền Nam Việt Nam.
2. Bước phát triển
Trong những năm từ 1959-1960, với sự gia tăng cả về quân số cũng như hoạt động hiệu quả của Việt cộng trên chiến trường miền Nam, làm tăng thêm sự bất ổn đối với chính quyền Sài G̣n, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Để cải thiện t́nh h́nh, Quân đội Mỹ buộc phải gửi thêm 30 huấn luyện viên biệt kích Mũ Nồi Xanh từ căn cứ Fort Bragg sang Nam Việt Nam để xây dựng một chương tŕnh huấn luyện cho Quân đội Sài G̣n.
Ngày 21/9/1961, Tổng thống thứ 35 của nước Mỹ là John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân sách viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài G̣n. V́ Chính phủ Mỹ lo ngại về sự gia tăng chi viện người và vũ khí của Cộng sản vào miền Nam, do đó phải t́m cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán biệt kích Mũ Nồi Xanh được giao trách nhiệm tổ chức và huấn luyện những đơn vị chiến đấu là người dân tộc thiểu số để phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của qâun đội Bắc Việt từ Bắc vào Nam. Về sau những đơn vị chiến đấu này được gọi là “Lực lượng Dân sự chiến đấu” (CIDG - Civilian Irregular Defense Group).
CIDG, biên giới Việt Nam - Campuchia 11/11/1969
Bước vào những năm 60 của thế kỷ XX, dường như cộng sản miền Nam có sự trỗi dậy mạnh mẽ. Chính phủ Mỹ quy hết nguyên nhân đều do sự gia tăng chi viện của Bắc Việt. Do đó càng quyết tâm ngăn chặn và phá hoại bằng được con đường tiếp tế chiến lược - đường ṃn Hồ Chí Minh.
Trước hết, Chính phủ Mỹ gửi Liên đoàn biệt kích số 5 sang Nam Việt Nam, chuyên trách đảm nhiệm các hoạt động, các cuộc hành quân đặc biệt trên chiến trường miền Nam. Để thích ứng với vai tṛ mới này, Bộ Tham mưu liên quân Mỹ quyết định tổ chức lực lượng biệt kích Mũ Nồi Xanh sao cho thích ứng với các cuộc hành quân ngoại lệ, mà giới khoa học quân sự Mỹ đưa ra khái niệm mới là “ba khía cạnh liên hệ mật thiết trong du kích chiến tranh gồm trốn tránh, đào tẩu và gậy ông lại đập lưng ông, chống lại đối phương”. C̣n chiến tranh ngoại lệ được định nghĩa là: “Hoạt động ngay trong ḷng đối phương hoặc những nơi đối phương kiểm soát”.
Theo đó, cơ cấu tổ chức cơ bản của Liên đoàn biệt kích số 5 gồm: Bộ chỉ huy trung tâm, Ban chỉ huy các đại đội gồm 3 đại đội hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi đoàn không quân yểm trợ. Từ Bộ chỉ huy trung tâm cho đến Ban chỉ huy các đại đội đều có đủ các Ban tham mưu để chỉ huy và theo dơi t́nh h́nh hai bên. Ngoài ra c̣n có các đơn vị bảo đảm như quân y, tiếp tế thả dù. Mỗi đại đội biệt kích thường do một sỹ quan cấp bậc trung tá chỉ huy. Thông thường gồm có một Ban Tham mưu và một Bộ chỉ huy hành quân (C), Bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba ban chỉ huy hành quân (B), mỗi ban chỉ huy hành quân sẽ chỉ huy bốn toán biệt kích (A). Toán biệt kích hay phân đội được biên chế 12 biệt kích quân.
3. Lực lượng dân sự chiến đấu
Có hai lư do thúc đẩy việc tổ chức lực lượng “Dân sự chiến đấu”. Một là Chính phủ Mỹ cho rằng nên vũ trang nhóm người dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của cộng sản. Lư do thứ 2 là người Thượng và các dân tộc thiểu số nói chung là đối tượng chính cho việc tuyên truyền của cộng sản, họ bất b́nh với chính quyền Sài G̣n, lại dễ bị cộng sản lợi dụng, lôi kéo, tuyển mộ.
Với quan điểm trên, tháng 9/1962, Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt (biệt kích Mỹ tại Việt Nam) được thành lập, trực thuộc bộ Tư lệnh phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài G̣n (MACV). Tính đến tháng 10/1962 có tất cả 24 toán biệt kích Mỹ hoạt động trên lănh thổ miền Nam Việt Nam. Tháng 11/1963, lực lượng biệt kích Mỹ tại Việt Nam được tổ chức gồm Bộ chỉ huy (C), ba Ban chỉ huy (C) và 26 toán (A). Ngoài ra c̣n có Bộ chỉ huy Trung tâm đặt tại Sài G̣n. Bộ chỉ huy không đơn thuần chỉ huy, điều hành mà làm chức năng như là Bộ tư lệnh binh chủng của lực lượng đặc biệt ở chiến trường Việt Nam.
Từ tháng 12/1962 đến 2/1963, Bộ chỉ huy lực lượng biệt kích Mỹ đảm đương hoàn toàn việc chỉ huy mọi hoạt động của các toán biệt kích tại Việt Nam. Vào thời điểm đó các toán biệt kích Mỹ đă thiết lập những trại Dân sự chiến đấu trên khắp bốn vùng chiến thuật của Quân đội Sài G̣n. Những Ban chỉ huy khu vực (B) được thành lập tại mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của Quân đội Sài G̣n và trực tiếp chỉ huy các toán biệt kích. Các toán biệt kích được lâm thời tổ chức trên cơ sở tạm thời điều động quân của Liên đoàn 1 từ Okinawa và 2 Liên đoàn 5, 7 biệt kích từ Fort Bragg, Bắc Carolina.
Đến tháng 12/1963, các toán biệt kích Mỹ phối hợp với lực lượng biệt kích của quân đội Sài G̣n đă được huấn luyện và trang bị, gồm 18.000 quân thuộc lực lượng xung kích; 43.000 quân thuộc lực lượng “Pḥng vệ dân sự”. Tháng 2/1963, Bộ chỉ huy lực lượng đặc biệt Mỹ từ Sài G̣n rời đi Nha Trang, với 2 lư do: thứ nhất, Nha Trang nằm ở khoảng giữa từ vĩ tuyến 17 đến Nam bộ, rất thuận tiện cho việc điều hành các toán biệt kích nằm rải rác khắp miền Nam Việt Nam. Thứ 2, Nha Trang nằm bên bờ biển, thuận lợi cho việc tiếp nhận vũ khí, trang thiết bị viện trợ đến từ Okinawa, lại có sân bay và hệ thống đường bộ rất tiện cho việc vận chuyển, tiếp tế hậu cần.
Cuối năm 1964, lực lượng Dân sự chiến đấu không c̣n là vấn đề phát triển số lượng nữa. V́ mục đích và nhiệm vụ của nó cũng thay đổi. Ngoài chức năng pḥng vệ tại chỗ là giữ địa bàn nông thôn, miền núi th́ các trại Dân sự chiến đấu đều được sử dụng làm bàn đạp cho các cuộc hành quân tấn công vào căn cứ của Việt Cộng. Với sự điều chỉnh chức năng trên, sẽ làm tăng phần hiệu quả cho việc kiểm soát khu vực biên giới, thông qua việc lực lượng biệt kích Mỹ triển khai thêm một số đồn, trạm biên pḥng.
Chi Lăng, An Giang 23/9/1969
Cuộc hành quân Switchback từ 11/1962 đến 7/1963 gồm các hoạt động tấn công của lực lượng xung kích Dân sự chiến đấu như phục kích, tuần tiễu, thám sát tại địa bàn phụ trách của mỗi trại. Ngoài ra c̣n có những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị của Quân đội Sài G̣n, bao gồm lực lượng Dân sự chiến đấu của các trại. Chỉ tính riêng tháng 6/1963 đă có 4 đại đội xung kích Dân sự chiến đấu được tuyển từ các trại Dakto, Plei M’rong và Plei K’rong phối hợp hành quân lùng sục quân đội Cộng sản.
Lực lượng vũ trang Cộng sản phản ứng lại bằng pháo kích, quấy rối các đồn trại biên pḥng. Trong lúc các lực lượng biệt kích Mỹ mở cuộc hành quân Switchback th́ các hoạt động của cộng sản ngày càng gia tăng, hầu hết các trại biệt kích đều bị tập kích hoặc uy hiếp, quấy rối.
Ngày 3/1/1963, lực lượng Đặc công cùng 2 đại đội Quân Giải phóng tấn công và tràn ngập trại Plei M’rong. Sau vụ tấn công của cộng sản Bắc Việt, vấn đề pḥng thủ của các đồn trại biên pḥng được xem xét lại. Bộ Tư lệnh Phái bộ viện trợ quân sự Mỹ cho chính quyền Sài G̣n đă ra lệnh cho các toán biệt kích thiết lập thêm tuyến pḥng thủ thứ hai cho tất cả các đồn trạm của lực lượng biệt kích Mỹ, đồng thời tăng cường thêm 2 tiểu đoàn công binh hải quân Seebee để hỗ trợ trong việc xây cất các công tŕnh quân sự.
Căn cứ LLĐB tại Ea Yang bị tấn công 1966
Việc sử dụng Lực lượng dân dự chiến đấu trong các hoạt động tuần tiễu, lục soát những địa bàn ngoài phạm vi trách nhiệm của đồn trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng ứng cứu.
Sau đó lực lượng xung kích với 20.000 quân được thành lập vào tháng 11/1963, đến tháng 7/1964 được biên chế, tổ chức hoàn chỉnh. Mỗi đại đội dân dự chiến đấu có quân số 150 người, bao gồm Bộ chỉ huy 10 người, ba trung đội thực binh 35 người, trung đội hỏa lực 35 người. Mỗi trại được biên chế đủ 4 đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài trại tại các căn cứ tiền phương, thường tung các trung đội cùng các toán trinh sát 5 người ra hoạt động trên địa bàn được phân công.
Đến tháng 1/19695, trước khi chính phủ Mỹ đem quân vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Bộ Tư lệnh binh chủng biệt kích Mỹ đă hoạch định “Kế hoạch chống xâm nhập”, gửi đến Bộ chỉ huy Liên đoàn biệt kích số 5 và các Ban chỉ huy vùng cùng các toán biệt kích, trong đó xác định rơ: “Kế hoạch chống xâm nhập của lực lượng biệt kích là một chương tŕnh hỗn hợp, phối hợp giữa quân sự với dân sự nhằm thực hiện 3 mục tiêu cơ bản sau: một là loại trừ Việt cộng, thiết lập an ninh trên địa bàn được giao. Hai là bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền Sài G̣n đối với dân chúng trong vùng. Ba là huy động được dân chúng tham gia vào các chương tŕnh của chính quyền Sài G̣n”.
Những mục tiêu trên chỉ có thể đạt được khi thực thi một trong ba nhiệm vụ sau: Một, kiểm soát và quản lư chặt khu vực biên giới. Hai, hoạt động ngăn chặn hiệu quả tại các tuyến đường Bắc Việt thường xâm nhập. Ba, tổ chức tốt các cuộc hành quân đánh phá các chiến khu, căn cứ của Việt cộng.
Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1965, Bắc Việt cũng thay đổi chiến thuật từ “Chiến tranh du kích” sang “Chiến tranh nhân dân”. Trước thực tế trên, mọi hoạt động của lực lượng biệt kích Mỹ được phân làm 3 loại. Một, thiết lập thêm trại dân sự chiến đấu nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp tế của Bắc Việt; đồng thời bỏ một số trại do áp lực quá nặng của cộng sản. Mặt khác tổ chức pḥng thủ tốt các trại dọc theo biên giới như A Sầu, Làng Vây, Cồn Thiên, Lộc Ninh, Bù Đốp...
Căn cứ Làng Vây, 14/4/1968
Hai là thành lập các sở chỉ huy hành quân ngoại biên như: Sở chỉ huy hành quân Delta ở Vùng I chiến thuật; Sở chỉ huy hành quân Black Jack 33 ở vùng III chiến thuật. Cả 2 sở chỉ huy hành quan đều nằm trong “Kế hoạch hành quân Sigma”. Đây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn vị xung kích cơ động và đơn vị xung kích tiếp ứng. Trong cuộc hành quân Black Jack 41, có 2 đại đội xung kích cơ động nhảy dù xuống tấn công căn cứ của Việt cộng tại vùng núi Thất Sơn, thuộc vùng IV chiến thuật. Cuộc hành quân Attleboro do một đơn vị xung kích đánh phá căn cứ Suối Đá, Tây Ninh của Việt cộng ở vùng III chiến thuật, loại khỏi ṿng chiến đấu 1 tiểu đoàn chủ lực quân Giải Phóng.
Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp giữa các đơn vị dân sự chiến đấu với các đơn vị của Liên quân Mỹ như cuộc hành quân Nathan Hale, phối hợp giữa lực lượng dân sự chiến đấu với Sư đoàn 1 kỵ binh bay và Sư đoàn dù 101 của Mỹ. Cuộc hành quân Henry Clay và Thayer, hay cuộc hành quân Rio Blanco ở vùng I chiến thuật, bao gồm các đơn vị dân sự chiến đấu, địa phương quân, biệt động quân của quân đội Sài G̣n với thủy quân lục chiến Hàn Quốc và thủy quân lục chiến Mỹ. Cuộc hành quân Sam Houston ở vùng II, có sự phối hợp giữa Sư đoàn bộ binh 4 của Mỹ với lực lượng dân sự chiến đấu.
Bookmarks