Những ngày tháng cuối cùng trước khi chế độ dân chủ pháp trị VNCH bị cưỡng tử.
ThiênƯ
Thật vậy, v́ không nắm được ư đồ chiến lược của Mỹ, CS Hà Nội đă hăm hở nhào vào giai đọan cuối cùng của cuộc chiến.
Trong giai đọan này, nếu chỉ nh́n qua hiện tượng, người ta thấy như có sự ăn ư giữa Mỹ và CSBV, kẻ tung, người hứng để cùng cưỡng tử chế độ VNCH một cách ngọan mục.
1.- KHỞI ĐI TỪ SỰ KIỆN PHƯỚC LONG:
Ngày 7-1-1975, bộ đội CSBV đă mở cuộc tiến công và đă chiếm đóng được tỉnh lỵ Phước Long như một thử nghiệm đầu tiên ư chí của Hoa Kỳ, thăm ḍ xem phản ứng đến mức độ nào. Hoa Kỳ đă lập tức lên tiếng tố cáo mạnh mẽ hành động vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris của CSBV, kèm theo lời đe dọa sẽ trừng phạt nghiêm khắc nếu CS không ngưng ngay những hành động lấn chiếm tương tự.
Sau sự lên án tố cáo có tính chiếu lệ với kẻ thù, Mỹ đă không có hành động nào khác hơn thể hiện ư chí và quyết tâm giúp “bạn” bảo vệ chế độ VNCH. Không những thế, dường như ai đó đă vô t́nh hay cố ư giúp thực hiện đúng ư định của Hoa Kỳ, khi khuyên TT Thiệu không nên đánh chiếm lại Phước Long làm ǵ cho hao binh tổn tướng, mà hăy dùng sự kiện Phước Long như là bằng chứng tố cáo trước công luận thế giới về hành động phá họai Hiệp Định Paris của CSBV. Bởi v́ giải pháp cho Việt Nam bây giờ là giải pháp chính trị chứ không phải quân sự.
Có lẽ v́ nghe theo lời “cố vấn” này, nên TT.Thiệu đă không t́m cách lấy lại Phước Long mà chi ra lệnh đẩy mạnh tuyên truyền , tố cáo CSBV vi phạm Hiệp Định, đẩy mạnh chiến dịch vẽ cờ, lấn đất giành dân, chuẩn bị chiếm ưu thế về lănh thổ trong một giải pháp chính trị tương lai?
Mặc dầu “đầu tháng Giêng 1975, TT. Thiệu đă ra lệnh tập trung lực lượng không quân gồm 116 oanh tạc cơ, 160 phi cơ trực thăng, dội bom và đánh phá trọn một tuần lễ xuống Phước Long, nhưng vẫn không đẩy lùi nổi 3 sư đ̣an chính quy Bắc Việt đang chiếm lấy thị trấn này…. . .” (17)
Trong khi đó, từ sự kiện Phước Long, dư luận lúc đó ở Sàig̣n lan truyền khắp Miền Nam, nói nhiều đến một chính phủ liên hiệp ba thành phần, nói nhiều đến giải pháp trung lập. Dường như trong tâm lư quần chúng cũng như quân đội VNCH lúc ấy đều bị hoang mang giao động, tinh thần chủ ḥa đang có chiều hướng lấn ép chủ chiến. T́nh cảnh này đă có ảnh hưởng rất lớn vào tinh thần chiến đấu của binh sĩ quân lực VNCH. Quân dân Miền Nam như cùng hướng ḷng về một giải pháp chính trị, với tâm trạng chờ đợi,mất cảnh giác chiến đấu và suy giảm nghiêm trọng ư chí chống cộng.
Trong khi đó, Mỹ đă không có hành động trừng phạt cương quyết nào với đối phương, mà lại gia tăng áp lực đối với chế đô VNCH, thúc đẩy và nuôi dưỡng t́nh h́nh bất ổn, xáo trộn nội bộ, đẩy chế độ vào thế tam, tứ đầu thọ địch.
Áp lực mạnh nhất đánh vào cân năo quân đội và nhân dân VNCH là quyết định cắt giảm quan trọng viện trợ kinh tế, quân sự cho VNCH giữa lúc chế độ đang trong điều kiện thử thách sống c̣n. Như vậy là Mỹ đă không giữ lời cam kết khi “Việt Nam hóa chiến tranh” (Tăng cường viện trợ quân sự để trang bị đầy đủ cho QLVNCH đủ sức làm công việc tự bảo vệ. . .), không giữ những lời hứa công khai cũng như riêng tư của TT. Hoa Kỳ Nixon (viện trợ kinh tế, quân sự dồi dào cho VNCH để thành tựu Hiệp Định Paris theo ư muốn của Mỹ. ). Hậu quả tất nhiên của đ̣n cân năo này là tinh thần chiến đấu của tướng sĩ QLVNCH và tiềm năng chống cộng của cả chế độ VNCH phải sút giảm nghiêm trọng. Chúng ta hăy nghe sau này ông Thiệu kể lại:
“. . .vào năm 1975, tiềm lực chiến đấu của chúng tôi giảm 60%, trong khi đó tiềm lực chiến tranh của Hà Nội gia tăng ghê gớm. Tôi có thể nói trong hai năm sau khi kư kết Hiệp Định Paris, chiến tranh đă dữ dội hơn trước. Tuần nào tôi cũng cử phái viên tới Washington để giải thích. Tôi đă gửi thư cho Tổng Thống Mỹ, tôi phân bầy nỗi nguy hiểm với Đại sứ Mỹ ở Sàig̣n, song không có chuyển biến ǵ cả. . .”. (18)
Chuyển biến ǵ được nữa, khi ư định của Mỹ lúc này là đang muốn trói chặt VNCH về chính trị, kinh tế, quân sự, để chờ cho CSBV đến ban cho một phát súng ân huệ.
Mỹ đă trói chặt VNCH về chính trị trong một giải pháp liên hiệp với CS, với chiêu bài ḥa giải, ḥa hợp dân tộc để ru ngủ và làm tê liệt ư chí chống cộng của quân dân MNVN. Mỹ đă trói chặt về kinh tế khi cắt giảm tối đa về mọi mặt, là cắt nguồn máu nuôi sống chế độ. Mỹ đă chặt tay chặt chân về quân sự, khi không thực hiện trang bị, cung cấp vũ khí đạn dược đủ để cho trụ cột chủ yếu chống cộng đủ sức làm công việc tự bảo vệ. Việc Quốc hội Hoa kỳ chỉ thông qua một ngân khỏan viện trợ hàng trăm triệu (700 triệu) so với nhu cầu thực tế hàng tỉ, trong lúc t́nh h́nh chiến sự nguy ngập, thử hỏi QLVNCH c̣n đâu tinh thần chiến đấu để mà làm công việc tự bảo vê.
Mặt khác, đúng lúc này, không biết ai xui ai khiến cho TT. Thiệu ra lệnh giải giới các lực lượng bán quân sự như Nhân Dân Tự Vệ và các giáo phái có trang bị vũ khí, gọi là để tập trung lực lượng và sức mạnh chiến đấu của QLVNCH. Điển h́nh là vụ giải giới lực lượng bán quân sự của Phật Giáo Ḥa Hảo khỏang 10.000 người, bắt giam ông Hai Tập, Tổng Chỉ Huy Lực lượng bảo an Ḥa Hảo.
“. . . Cuối tháng Giêng 1975, ông Hai Tập, ông Lương TrọngTường thành lập một sư đ̣an Bảo An Ḥa Hảo với mục đích tiếp tục chiến đấu kháng cộng, nếu VNCH sụp đổ. Ông Thiệu lập tức giải tán và bắt giam ông Hai Tập v́ sợ lực lượng Ḥa Hảo lật đổ ông. . .” (19).
Việc làm này của ông Thiệu như là hành động tự chặt tay ḿnh về mặt quân sự. Ai đă cố vấn cho ông Thiệu làm việc này, hay do sáng kiến cá nhân, điều này chỉ có ông biết. Người bàng quan chỉ có thể suy đóan, có thể là sáng kiến cá nhân v́ mối lo sợ riêng, song cũng có thể là sự gợi ư của các “Cố vấn” là người Mỹ, hoặc là người của Việt cộng. V́ rằng vào thời điểm này, tuy khác ư đồ, nhưng Mỹ và Việt cộng đă gặp nhau ở mục tiêu chung: Triệt tiêu chế độ VNCH.
Thế nhưng cho đến lúc này dường như người lănh đạo cao nhất của chế độ VNCH vẫn chưa nắm bắt được ư định thực sự của “ người bạn đồng minh Hoa Kỳ”. Vẫn như c̣n cố tin vào những lời cam kết, hứa hẹn bí mật hay công khai trên giấy trắng mực đen của chính phủ cũng như cá nhân Tổng Thống Hoa Kỳ R. Nixon.
Như vậy là quả thực tập đ̣an lănh đạo chế độ công cụ ngọai bang ở Hà Nội đă tài giỏi hơn nhiều so với chế độ ở Sài g̣n. Tổng Thống Thiệu vẫn ngây thơ tin rằng những hành động đích thân của ngài Đại Sứ Martin bay từ Sàig̣n về Washington như là để bênh vực cho lập trường của ḿnh. Sau khi cộng quân lấn chiếm Phước Long, ông Thiệu vẫn tin tưởng và chờ đợi Hoa Kỳ thực hiện những lời hứa và cam kết trong những bức thư trao đổi riêng tư với TT. Nixon. Trong khi đó, các lănh tụ cáo già CSBV th́ tỏ ra hết sức chú tâm và nương theo ư độ của Mỹ để đạt ư đồ của ḿnh.
Sau khi đánh chiếm được Phước Long, cộng quân như tạm ngưng các cuộc tiến công lớn để thăm ḍ phản ứng của Mỹ. Nhớ lại phản ứng của Mỹ lúc ấy là ng̣ai những lời lên án, tố cáo, đe dọa “Sẽ trả đũa”, Mỹ chỉ tăng cường các chuyến bay do thám, mà theo nhận xét của ông Thiệu “Việc ấy chẳng khác ǵ dùng bồ câu thay thế B-52. . .”. Đồng thời, TT. Gerald Ford, người kế vị TT. Nixon bị mất chức giữa nhiệm kỳ v́ vụ Watergate, cũng cố làm ra vẻ hết ḷng xin Quốc Hội Mỹ viện trợ bổ xung 300 triệu Mỹ kim cho VNCH.
Thế nhưng theo lời Đại sứ Martin “. . . Nam Việt Nam không nhận được viện trợ bổ xung mà c̣n không nhận được chút viện trợ nào trong năm tài chánh sắp tới, bắt đầu từ Tháng 6- 75.. . .. Nói khác đi, nội trong 3 tháng nữa ông Thiệu sẽ đứng trước sự kiện bị cúp viện trợ. . .” (20). Ông Martin kết luận: “Cố gắng bơm thêm sức mạnh cho ai đó bằng những bảo đảm mà chính ḿnh không tin th́ sẽ chẳng đi đến đâu hết. . .” (21)
Đến đây, trước phản ứng yếu ớt của Mỹ với thù (CSBV), sự gia tăng áp lực chính trị, kinh tế của Mỹ với bạn (VNCH), các lănh tụ CS ở Hà Nội càng tin tưởng chắc chắn Mỹ sẽ không can thiệp trực tiếp trở lại, dù họ có gia tăng áp lực quân sự đến đâu. Họ bắt đầu lên kế họach thôn tính MNVN với dự liệu ít nhất 2 năm nữa mới “giải phóng” được MN. Hà nội vẫn thực sự chưa biết ư đồ này của Mỹ: Không phải chỉ không can thiệp trở lại mà c̣n muốn khai tử chế độ VNCH càng sớm càng tốt. Nghĩa là Mỹ đă có ư định xóa bàn cờ cũ chơi bàn cờ mới.
Trong khi đó ông Thiệu và tập đ̣an lănh đạo VNCH th́ vẫn nghĩ Mỹ sẽ không bao giờ “dám” bỏ rơi MN, mọi áp lực chẳng qua chỉ để buộc cá nhân ông Thiệu và phe cánh của ông phải từ bỏ quyền hành, trao lại cho ê-kíp khác, nên nội bộ đă rơi vào sự xâu xé tranh giành quyền lợi cá nhân, phe đảng, quên cả mục tiêu sống c̣n là ngăn chặn CSBV xâm lăng. Một cách vô t́nh “phe quốc gia” đă như tự đào hố chôn ḿnh. Mặc dầu ai cũng đồng ư với nhận định của ông Thiệu lúc ấy “Chế độ VNCH c̣n là c̣n tất cả, nếu mất vào tay CS là mất tất cả”.
Thế nhưng tất cả trên thực tế đă có những hành động góp phần làm tiêu vong chế độ. Sau này chính ông Thiệu kể : “. . . Mỹ để lại 300.000 quân tại Châu Âu sau khi Thế Chiến II đă chấm dứt 30 năm; để lại 50.000 quân ở Nam Hàn sau khi chấm dứt 20 năm. Lúc chúng tôi để Mỹ rút quân, chúng tôi chỉ yêu cầu được giúp đỡ để tiếp tục chiến đấu, không c̣n phải duy tŕ nửa triệu quân ở Việt Nam, Mỹ chỉ phải chi tiêu 1 phần 20 so với trước kia. Vậy họ c̣n đ̣i hỏi ǵ hơn ở chúng tôi?. . .” (22).
Nhận định này của ông Thiệu chứng tỏ quản điểm lănh đạo lỗi thời do không nh́n thấy đă có sự đổi thay chiến lược của Mỹ. Theo đó, Mỹ không phải chỉ muốn cá nhân ông Thiệu mà muốn cả cái chế độ mà ông cầm quyền bấy lâu nay phải biến đi càng nhanh càng tốt. Bởi v́ đă qua rồi những cơ hội tốt để tồn tại vững vàng như Nam Hàn, để không bị hủy diệt vào những lúc có nhu cầu phải thay đổi chiến lược như thế này.
II/- ĐẾN SỰ KIỆN BANMÊTHỘT THẤT THỦ – THỬ THÁCH CUỐI CÙNG CHO TRỤ CỘT CUỐI CÙNG CỦA CHẾ ĐỘ.
Đến đây các bước người ta chuẩn bị cho một chế độ sụp đổ như đă ḥan bị. T́nh h́nh nội bộ chế độ VNCH ḥan ṭan rối ren, tê liệt. Quân lục VNCH, cây trụ cột cuối cùng chống đỡ cho sự tồn tại thêm thời gian của chế độ th́ ra sao?
Theo tài liệu đọc được th́ sau Hiệp Định Paris năm 1973 về VN, Quân lực VNCH thực sự chỉ c̣n sáu đến bẩy trăm ngàn quân chiến đấu. Về trang bị đạn dược và các phương tiện chiến tranh hiện c̣n có thể giúp QLVNCH tiếp tục chiến đấu ít nhất 2 năm. Tương quan lực lượng giữa quân lực VNCH và bộ đội CSBV theo tỉ lệ 4-1. Đến tháng 1 – 1975 tỉ lệ này chỉ c̣n 2-1. Bởi v́ sau 2 năm ngưng ném bóm, một phần đường ṃn HCM đă được CSBV sửa chữa và đặt ống dẫn dầu dọc theo đường ṃn này. Trong một thời gian ngắn, 150.000 quân CSBV đă xâm nhập thêm vào chiến trường MNVN. Sau khi chiếm được Phước Long, Hà Nội đă có thể chuẩn bị cho một lực lượng 300.000 quân bám sát đường ṃn HCM tiến vào MN. Tất cả những họat động này, người Mỹ biết rất rơ, song đă không có hành động ǵ. V́ sao?
Chúng ta hăy nghe một chuyên viên phân tích t́nh báo Mỹ kể lại: “Khởi đầu cuộc tấn công cuối cùng của CS. . .lúc đó chúng tôi đă biết rằng CSBV đưa vào MNVN một lực lượng to lớn hơn nhiều so với lực lượng chúng tôi biết đang có ở đây. Họ đă tập chung số quân này Phía Tây Cao Nguyên. Bấy giờ Banmêthuột xét về mặt lịch sử, luôn luôn là điểm tựa pḥng thủ của chính quyền trên cao nguyên. Banmêthuột mất th́ sự pḥng thủ có thể bị đánh ngang sườn. CSBV rất khôn ngoan, họ chuyển quân mà không xử dụng liên lạc vô tuyến điện. Họ đưa vào vùng Banmêthuột ba sư đ̣an mà chúng tôi không hề hay biết. . .” (23).
Có thực là người Mỹ không hay biết hay là họ biết mà đă cố t́nh không cho chính quyền VNCH biết, lại c̣n t́m cách đánh lạc hướng dùm cho đối phương?
V́ chẳng lẽ t́nh báo Hoa Kỳ chỉ dựa trên sự theo dơi liên lạc vô tuyến của VC để nắm bắt t́nh h́nh? Vậy th́ chỉ có thể do bị che mắt của “Bạn” và thế nghi binh của “Thù”, mà các nhà quân sự VNCH đă đóan sai ư đồ của VC. Đoán sai nên đă cho rằng Cộng quân có thể lập lại cuộc tấn công Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, vượt qua khu phi quân sự. V́ vậy họ đă tập trung quân ở phía Bắc Đà Nẵng để đối phó?
Trong khi đó, Banmêthuột vốn là một vị trí chiến lược trọng yếu th́ quân đội Sàig̣n đă không chuẩn bị pḥng thủ tương xứng, chỉ triển khai 40.000 quân ở đó. Họ đâu ngờ rằng lúc ấy, 300.000 quân CSBV đă ẩn nấp bao vây, chờ giờ hành động. Để đánh lạc hướng, bộ đội CSBV đă cho truyền đi các bức điện giả làm như mục tiêu tiến công của họ là Pleiku, nơi đặt bản doanh của Quân Đ̣an II quân lực VNCH. Quân cộng sản đă thành công trong ư đồ này, v́ các nhà quân sự VNCH bao lâu nay quen dựa vào chiến lược, chiến thuật đánh CS do người Mỹ họach định sẵn, nên đă có thói quen ỷ lại, lười “động năo” để sáng tạo nên đă dễ dàng bị đánh lừa của cả bạn lẫn thù.
Sự thể là đúng 2 giờ sáng ngày 10-3-1975, bộ đội CSBV đă mở cuộc tấn công Banmêthuột. V́ quá bất ngờ, không kịp tăng viện và không có quân yểm trợ nên sau 30 giờ bị vây hăm, phản công yếu ớt, Banmêthuột đă thất thủ. Rồi cũng như Phước Long, Banmêthuột thất thủ, Mỹ vẫn không có hành động ǵ để trừng phạt, ngăn chặn bước xâm lăng của CSBV. Dư luận thắc mắc, phải chăng ai đó lại “Cố vấn” cho TT. Thiệu với cùng luận điệu rằng không nên đánh chiếm lại Banmêthuột làm ǵ cho hao binh tổn tướng, lại vẫn nên dùng sự kiện BMT để đẩy mạnh tuyên truyền tố cáo CSBV trắng trợn vi phạm Hiệp Định Paris trước thế giới. Rằng lư do không cần đánh chiếm lại đất đai c̣n là v́ giải pháp cho vấn đề Việt Nam bây giờ là giải pháp chính trị chứ không phải quân sự. Vậy th́ chỉ nên “co cụm lại” để tập trung lực lượng bảo vệ các thành phố chiến lược quan trọng, để chờ giải pháp chính trị. . .
Sau này tài liệu cho biết, một trong những cố vấn đă ảnh hưởng đến quyết định “rút lui chiến thuật” của TT. Thiệu là Vũ Ngọc Nhạ, t́nh báo chiến lược của CSBV, như đă trích dẫn ỡ phần trên. Nhưng tựu chung, có lẽ v́ nghe theo mọi lời khuyên xem ra có vẻ hợp lư, mà ngày 15-3-1975, tức bốn ngày sau Banmêthuột thất thủ,TT. Thiệu đă vội triệu tập các Tướng lănh cao cấp trong một phiên họp ở căn cứ Cam Ranh, để đi đến quyết định vô tiền khóang hậu trong quân sử QLVNCH cũng như quân sử thế giới: Rằng cao nguyên và miền Trung phải bị bỏ rơi! Nghĩa là ông Thiệu đă quyết định bỏ luôn Quân Đ̣an I và Quân Đ̣an II. Quyết định này đă gây bàng ḥang, chóang váng cho nhiều người, v́ như thế là chỉ qua một đêm, ông Thiệu đă nhượng cho đối phương một nửa lănh thổ VNCH!.
“Ông Thiệu đă bay ra Cam Ranh họp các Tướng Tư Lệnh chiến trường. Không cần kế họach, không cần chiến thuật đối phó với t́nh thế, với tư cách Tổng Tư Lệnh tối cao Quân lực VNCH, ông Thiệu nói: Tôi ra lệnh Tướng Phú di tản, bỏ Quân Đ̣an II. Ông xoay qua hỏi ư kiến ông Khiêm, ông Viên. Hai ông này là những vị chỉ huy lên Tướng nhờ biết “gật đầu” đúng lúc, đă trả lời: Tổng Thống giải quyết như vậy thật phù hợp t́nh h́nh, chúng tôi tán thành ư kiến và thi hành lệnh Tổng Thống. Tứơng Phú giao Chuẩn Tướng Nguyễn Duy Tất (mới vừa được vinh thăng Chuẩn Tướng) lănh nhiệm vụ điều khiển cuộc di tản. Thế là mạnh Tướng tướng chậy,mạnh quân quân ngă gục trên đường tháo lui, mạnh dân dân kinh ḥang năm chết dứơi lằn mưa pháo chận đường của CS. Pleiku bỏ, Kontum bỏ. Binh đ̣an hỗn quân hỗn quan, rối lọan trật tự. Bộ đội CS cắt đ̣an quân di tản ra làm ba mảnh, quan quân bỏ chậy tán lọan và sau cùng là tan hàng ră ngũ. . .”(24)
Sau này ông Thiệu đă biện minh rằng:
“ Chúng tôi phải rút quân về bảo vệ các vùng quan trọng, v́ chúng tôi đánh giá là Mỹ sẽ không giúp nữa. Nếu họ giúp th́ đă giúp rồi. Chúng tôi không thể chờ đợi đến khi quá chậm. Phải chấp nhận nỗi hiểm nghèo có tính tóan. Biết rằng rút lui mà không có khả năng cơ động và hỏa lực mạnh th́ sẽ nguy hiểm. Nhưng chúng tôi vẫn phải làm” (25)
Tại sao ông Thiệu dám chọn giải pháp này dù biết rằng nguy hiểm như vậy? V́ ông ta muốn tạo áp lực để phút chót thấy t́nh h́nh nguy ngập Mỹ có thể can thiệp chăng? V́ một lời khuyên trực tiếp hay chỉ là sự gợi ư gián tiếp song có hiệu quả của Mỹ?Có thể cả hai. V́ ngài Đại sứ Martin quả đă có sự gợi ư này: “Chỉ c̣n một con đường khôn ngoan duy nhất là cắt bớt các tuyến quân sự và chỉ giữ lại một phần đất mạnh về kinh tế là vùng châu thổ phía Nam”(26).
Như vậy là sự gợi ư của ngài Đại sứ Mỹ cuối cùng ở Sàig̣n cộng với lời khuyên của các “cố vấn” đă được ông Thiệu cảm nhận và thực hiện như một sáng kiến táo bạo. Có điều kết quả thu lượm được thuộc về phía Hoa Kỳ và Việt Cộng, c̣n hậu quả được dành cho nhân dân Miền Nam yêu chuộng tự do, những người đă nằm xuống trong cuộc chiến và những kẻ sống sót sau cuộc chiến!
Thực vậy, giải pháp trên đă được thực hiện bằng một cuộc “di tản chiến thuật” mà thực tế đă biến thành một cuộc “tháo chậy tán lọan” vô tiền khóang hậu trong lịch sử các cuộc chiến tranh cục bộ. Các chiến lược gia đă phải gọi đó là “Một cuộc rút lui được vạch ra tối nhất và thi hành tệ hại nhất trong lịch sử quân sự”. Một cuộc di tản chiến thuật gọi là co cụm lại để bảo ṭan lực lượng và để đủ sức bảo vệ các vùng chiến thuật trọng yếu, rốt cuộc đă chẳng bảo vệ được ǵ khác hơn là góp phần làm cho quá tŕnh sụp đổ của một chế độ nhanh chóng hơn.
V́ cuộc rút quân tàn tệ này nó đă phá hủy mau chóng quân phong quân kỷ và tinh thần chiến đấu của quân sĩ Quân Lực VNCH. Một quân đội mà trước đó đă bị hoang mang giao động bởi những đ̣n cân năo của cả bạn lẫn thù. Hậu quả tất nhiên là quân sĩ sẽ không c̣n muốn chiến đấu mà chỉ muốn tháo chậy sao cho an ṭan bản thân và gia đ́nh, để có cơ may tồn tại trong một giải pháp chính trị tương lai đă được định đọat. Hầu như binh lính VNCH đều có tâm trạng không muốn là người phải hy sinh vào giờ thứ hai mươi lăm của cuộc chiến.
http://saigonecho.com/main/lichsuvn/...h-b-cng-t.html
Bookmarks