Lại nói về đồng minh
02/07/2014
Việc giàn khoan Haiyang Shiyou 981 được đưa vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho thấy Hà Nội đă thất bại trong việc dùng “đồng chí” và “phi liên kết” làm đối sách cho sự bành trướng trên biển của Bắc Kinh.
Vài năm gần đây, Việt Nam đă chuyển bước nhất định để tạo vị thế mới. Tuy vậy, sau những thắng lợi ngoại giao từ ghế chủ tịch luân phiên ASEAN (2010), đến khi Hoa Kỳ xoay trục, được sự hỗ trợ của một số lập luận cũ và mới, Hà Nội chỉ duy tŕ đường hướng mới ở mức tối thiểu để “cân bằng” với các bên, và càng xác quyết con đường phi đồng minh.
Trước khi bàn đến các lập luận ấy, cần nhắc lại rằng lịch sử và thực tế đă cho thấy đồng minh là một nhu cầu và quan hệ khách quan ở mọi thời đại, mọi lănh thổ, mọi chế độ xă hội. Nó có thể là một liên minh chính thức về nhiều mặt, theo mục tiêu chiến lược, mà cũng có thể chỉ là sự gắn kết không chính thức hoặc tùy vào mục tiêu t́nh thế, dựa trên những chia sẻ về giá trị, quyền lợi, hoặc chỉ là động thái sách lược, chiến thuật. Nó có thể là một liên minh chính trị, một khối quân sự, kinh tế, hay những dạng đồng minh về thể chế, văn hóa… Và quan hệ đồng chí cũng chỉ là một biến thể trong sự đa dạng đó.
Từ sau Thế chiến thứ II, ngoài con số rất hiếm hoi quốc gia được thừa nhận trung lập, c̣n lại, tùy tương quan và giai đoạn, không một không gian địa lư nào tránh khỏi thế liên kết ngoại biên, theo h́nh thức này hay h́nh thức khác.
Khi chưa có sự việc nghiêm trọng hiện nay tại Biển Đông, các ư kiến đứng trên cương vị chính thống đă không bác cách tiếp cận đồng chí. Ngược lại, có nhiều khẳng định, rằng Việt Nam không cần đến đồng minh, v́ quyết định là ở nội lực.
1. Hiểu nội lực và ngoại lực như thế nào?
Phát triển nội lực để xây dựng một quốc gia thịnh vượng, đủ sức đối mặt với mọi thách thức, là quan điểm hoàn toàn đúng. Nhưng nói rộng ra, rằng phải tự lực chứ không cần đến ngoại lực, không cần đến đồng minh, là hoàn toàn sai.
Về nhận thức, lập luận mở rộng đó phản ánh một tư duy phi lịch sử và phi thực tế.
Về chiến lược, nó lấy cái dài hạn thay cho cái cấp bách, nhầm lẫn giữa tương quan kinh tế – xă hội với tương quan chính trị – quân sự, bởi nội lực là cái trường kỳ của mọi quốc gia, và khoảng cách giữa các nước về nguồn lực này không phải một sớm một chiều mà rút ngắn, trong khi vấn đề chủ quyền liên quan đến Trung Quốc lại rất cấp bách.
Về chiến thuật, chỉ nhắm đến nội lực (vốn rất thua kém) th́ chẳng khác nào tự trói tay trước một đối thủ vừa vũ trang hiện đại đầy ḿnh, vừa đủ thế và lực để phân hóa sự liên kết khả dĩ của đối phương.
Bên cạnh đó, nhấn mạnh nội lực để bác bỏ đồng minh, xem nó chỉ là ngoại lực, là cách hiểu siêu h́nh.
Lẽ nào trong hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, chỉ bằng nội lực riêng có mà Việt Nam đă thắng? Đương nhiên là không. Hậu thuẫn và viện trợ của các đồng minh Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, nếu chỉ là ngoại lực thuần túy, tự nó sẽ chẳng mang ư nghĩa ǵ. Chỉ khi người Việt chuyển hóa thành cái của ḿnh, không xem chúng là bất đắc dĩ hay thiếu hữu dụng, th́ mới có được thành quả như đă thấy.
Tương tự, từ sau đổi mới, nếu xem đầu tư nước ngoài là như một ngoại lực chẳng đặng đừng (phải chấp nhận tư bản nước ngoài vào bóc lột), chứ không xem như một nguồn lực nội tại hóa, th́ chắc chắn bộ mặt đất nước đă không như ngày nay.
Quan hệ đồng minh, khi xác lập đầy đủ và vận hành hiệu quả, sẽ trở thành một cấu thành của nguồn lực chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự của quốc gia. Vấn đề là, thay v́ giữ nhận thức sai lầm khi tách bạch nội lực và ngoại lực, người làm chiến lược cần tính toán, vận dụng nguồn lực đặc biệt này sao cho tối ưu.
Nhưng không dừng ở vấn đề nội lực, có lập luận cho rằng sự liên kết vẫn không bảo đảm được cho đất nước khi gặp nguy, bởi đồng minh cũng chỉ nhắm đến quyền lợi của họ chứ không v́ quyền lợi của ta. Hai dẫn chứng thuyết phục là hải chiến Hoàng Sa năm 1974 bị Hoa Kỳ làm ngơ, và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 bị Liên Xô tảng lờ.
2. Đồng minh để làm ǵ và quyền lợi trong quan hệ đó ra sao?
Cho rằng xác lập đồng minh là để được lập tức can thiệp quân sự, như nhiệm vụ thường trực và bất biến của họ, là cách nghĩ thiếu trách nhiệm với chính ḿnh và người khác.
Trừ khi chiến tranh đă là tất yếu và toàn cục v́ một hay nhiều bên đă có chủ đích, không quốc gia nào lại muốn những xung đột nhất thời và cục bộ trở thành nguyên cớ để khơi mào một cuộc chiến diện rộng, có sự tham gia trực tiếp của các bên thứ ba. Với những chuyển biến của cục diện thế giới từ sau chiến tranh lạnh, người làm chiến lược có lư trí khó mà nghĩ rằng tạo quan hệ đồng minh là để đối tác tức th́ tham chiến cho ḿnh, bất kể nguyên nhân, thời cuộc và chiến cuộc.
Vậy, phải chăng có đồng minh cũng như không, nên không cần phải có? Không, mà chính liên kết ngoại biên là nhằm hạn chế nguy cơ chiến tranh, bởi quan hệ đồng minh là để gia tăng vị thế và giảm thiểu nguy cơ hay thiệt hại cho các quốc gia của liên minh, chứ không phải để can thiệp vô tội vạ, làm tăng nguy cơ cho nước khác và giảm đi cơ hội ḥa hoăn.
Cho nên, đồng minh không phải là loại quan hệ đơn chiều, chỉ để hưởng sự bảo vệ ở quốc gia này và phải đi bảo vệ ở quốc gia khác. Mà, v́ quyền lợi của chính ḿnh, nhận định và xử trí chuẩn xác về chiến lược, sách lược và chiến thuật là điều trước tiên phải có của quốc gia liên hệ trong vụ việc; và cùng với nó, tương tác đồng minh là điều kiện không thể thiếu, v́ đó không những là thế lực răn đe từ xa, hỗ trợ pḥng vệ, mà c̣n là lực lượng trực tiếp hậu thuẫn về ngoại giao và quốc pḥng, chính trị và kinh tế, khi lâm sự.
Đặt hai sự kiện Việt Nam bị đồng minh phớt lờ trong cách nh́n ấy, có lẽ sẽ phần nào khách quan hơn.
Đứng trên lập trường của người Việt, ta không thể không bất b́nh trước những ǵ đă diễn ra. Nhưng cũng cần nh́n rộng hơn, vào thời cuộc và vị thế của hai đồng minh đó, tại thời điểm của mỗi sự kiện.
Về vai tṛ của Hoa Kỳ trong hải chiến Hoàng Sa, đă có ư kiến cho rằng một mặt, sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ kư Hiệp định Paris (27/01/1973) để chấm dứt sự tham chiến của ḿnh; mặt khác, trước sự suy tàn kinh tế của khối Xô Viết và xu hướng tư bản hóa của Hoa Lục, nước Mỹ vừa chọn người đồng chí trở mặt của Liên Xô, vừa chấp nhận thua sách lược tại Việt Nam để sẽ thắng chiến lược trên thế giới, qua việc tập trung nguồn lực cho sự diệt vong khả dĩ của khối Đông Âu.
Chúng ta hiện không đủ dữ liệu để kết luận chắc chắn, nên vẫn không loại trừ việc Hoa Kỳ đă bỏ mặc Hoàng Sa chỉ v́ sự tàn tạ của họ bởi chiến tranh, nhưng khả năng toàn cục như vừa nói cũng là một lư giải cần được nghiên cứu thấu đáo và có thể chấp nhận.
Khác với trường hợp Hoa Kỳ, nại Liên Xô ra để biện hộ cho quan điểm phi đồng minh, là vô lư và bất công. Họ không can thiệp trực tiếp nhưng vẫn hết ḷng ủng hộ Việt Nam trong thời gian ấy. Bên cạnh đó, c̣n có những khía cạnh khác cần nh́n vào.
Không thể phủ nhận rằng cuộc chiến biên giới phía Bắc có liên hệ tới việc Việt Nam đưa quân vào Kampuchea, ít ra là nguyên cớ đối với Trung Quốc. Với người Việt, hành động của ḿnh là hợp lư. Dù thế, thử hỏi, sau khi kư Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô (08/11/1978), Hà Nội hành động quân sự nhưng có tham vấn trước với đồng minh không, hay chỉ nghĩ rằng ở t́nh huống nào cũng không thể bị Moscow bỏ mặc? Nếu đă tự ḿnh đưa ra quyết sách, không tính đến t́nh thế của đồng minh, th́ không thể trách cứ họ.
Xét trên toàn cục, đấy là thời kỳ mà các khó khăn đă tích tụ sâu rộng ở Liên Xô, và bản thân họ cũng đang trong t́nh trạng rất dễ bùng nổ tại biên giới với Trung Quốc. Vả lại, chỉ có dân chúng Việt Nam khi ấy không biết rằng một tháng là hạn định mà Đặng Tiểu B́nh đă đặt ra cho vụ thử lửa này. Do vậy, xét mọi mặt, việc Liên Xô không can thiệp quân sự là xác đáng.
Nh́n hai sự kiện vừa nói theo kiểu một chiều để cho rằng đồng minh chỉ v́ lợi ích của riêng họ mà thôi, th́ cũng chính là đang xác tín rằng bản thân ta chỉ đứng trên lợi ích của riêng ḿnh để phán xét.
Từ cổ chí kim, có nước nào không đứng trên lợi ích của chính ḿnh và đặt nó lên hàng đầu không? Việt Nam không v́ lợi ích của chính ḿnh và không đặt nó lên hàng đầu chăng? Chỉ cần trả lời hai câu hỏi ấy, sẽ lập tức thấy rằng luận cứ đồng minh chỉ v́ quyền lợi riêng của họ, ngay từ việc đặt thành vấn đề, đă là không đúng. Nó phản ánh cái tâm thức lấy ḿnh làm trung tâm, đem quyền lợi của ḿnh ra làm đơn vị đo lường cho người khác. Và đương nhiên, với thước đo ấy, sẽ không một quốc gia nào đáp ứng được.
Trong mọi sự vụ liên quốc gia, cái được xét để xác lập hoặc định h́nh quan hệ, là quyền lợi và mục tiêu chung. Nếu có thiện chí, các bên liên quan sẽ điều tiết để các quyền lợi trở nên hài ḥa, bởi giữa các chủ thể khác nhau, không thể có quyền lợi nào trùng khít vào nhau, mà chỉ có sự đan xen, giao thoa với nhau. Do vậy, nếu đă nh́n nhận quyền lợi chung, vấn đề là cần chủ động thích ứng, vận dụng và mở rộng nó, thay v́ cứ bất động mà đ̣i hỏi người khác phải v́ quyền lợi của riêng ḿnh.
Mặt khác, cùng một quốc gia sẽ có những quyền lợi chung khác nhau với những nước khác nhau, và chúng có thể xung khắc nhau. Nên, cùng lúc, sẽ có nhiều loại liên hệ đồng minh, tùy theo thực tế và nhu cầu. Từ đây, điều quan trọng là nhận thức về các quyền lợi ấy ra sao để xác định các nội dung, h́nh thức của liên kết, mà mấu chốt là xử trí tương quan giữa các liên hệ để xác định đâu là loại đồng minh có tính quyết định. Trừ thời kỳ đối lập toàn cầu giữa hai hệ thống xă hội, với sự thống lĩnh của quyền lợi chung về hệ tư tưởng, tự thân việc liên kết ngoại biên đă là và luôn là vấn đề về quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Nên ngay trong giai đoạn phân cực đó, ta cũng thấy nổi bật những trường hợp trái khoáy làm nên lịch sử:
Liên bang Xô Viết có thể gia nhập khối Đồng minh của kẻ thù không đội trời chung về ư thức hệ khi bị nước Đức phát-xít tấn công. Tương ứng, để bảo vệ không gian tự do, phương Tây sẵn sàng là bạn chiến đấu của kẻ luôn muốn đào huyệt chôn ḿnh.
Sau cuộc chiến tàn khốc, ở châu Á, Nhật đă nhanh chóng xóa đi mối thâm thù để xác lập đồng minh với chủ nhân hai quả bom nguyên tử ném xuống đất nước ḿnh, bởi quốc gia ấy không những trợ giúp kiến thiết hậu chiến mà c̣n bảo đảm cho họ trước mọi đe dọa quân sự.
C̣n Trung Hoa xă hội chủ nghĩa, đầu những năm 1970, đă đến với phương Tây như một đồng minh chính trị quyết định để chống lại Liên Xô, đồng thời cũng là đối tác hiệu năng cho nền kinh tế ọp ẹp của ḿnh. Và cùng lúc, Hoa Kỳ phớt lờ quan hệ đồng minh thể chế với Đài Loan để chọn Hoa Lục làm “đối tác chiến lược toàn diện”.
Thế nhưng ḥn đảo ấy không v́ sự “phản bội” này mà măi “tổn thương”, măi “dự pḥng” điều tương tự và cự tuyệt liên kết để khiến ḿnh có thể cô độc. Họ không v́ sự thay đổi nhất định của đồng minh trước t́nh thế chiến lược mới, không v́ sự tương đồng văn hóa, lịch sử với Trung Quốc để bám lấy những cái chung thiếu thực chất so với nền tự do và ư tưởng độc lập mà họ theo đuổi. Từ khi Hoa Kỳ hậu thuẫn Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa giữ ghế tại Liên Hiệp quốc (1971) thay Trung Hoa Dân quốc, cùng với việc tăng cường nội lực từ nền kinh tế tự do và hoàn thiện nền chính trị dân chủ, Đài tiếp tục giữ vững thế liên minh vốn có. Điều đó đă giúp họ hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự, là một trong bốn con rồng châu Á, và sớm trở thành thế lực hải quân trong vùng.
Những ví dụ gần gũi trên cho thấy cách xử trí kinh điển về đồng minh, bao gồm cả yếu tố “đồng chí” ở mỗi bên. Họ không lấy hệ tư tưởng làm tâm điểm, mà là t́nh thế và vị thế. Họ không lấy “anh em” hay “láng giềng” làm chuẩn, mà là quyền lợi thiết thực và sự bảo an. Họ không “ghi vào tâm khảm” một sự biến lịch sử để co thủ, mà nhanh chóng thích ứng với hiện thực để bảo đảm hữu hiệu cho ḿnh.
Trong khi đó, ở Việt Nam, sự cố bị bỏ rơi và nỗi e ngại quyền lợi riêng của đồng minh cứ ám thị không ít người. Gần đây, từ khi Hoa Kỳ xoay trục, nỗi ám ảnh đó lại được bổ sung bằng việc cho rằng chúng ta là bên thứ ba của cuộc chơi nước lớn, phải tránh bị lôi kéo để không trở thành nạn nhân.
C̣n tiếp...
Bookmarks