2. Chế Độ Đóng Góp Của Xă Viên
Một đặc điểm quan trọng và nổi bật của chế độ hợp tác xă là "hạch toán kinh tế", danh từ Việt cộng chỉ mọi tính toán thu chi lời lỗ, ở đây chỉ về sự đóng góp của xă viên cũng như sự hưởng thụ của xă viên. Đây là đặc điểm quan trọng vào bậc nhất v́ nó liên quan mật thiết đến sự t́nh trạng đói của xă viên, v́ thế cho nên hầu như bất cứ hồi chánh viên nông dân nào khi được phỏng vấn cũng biết tính toán một cách rành mạch từng đồng, từng xu những đóng góp và hưởng thụ của xă viên. V́ những con số đó tượng trưng cho sự no đói của xă viên nên sẽ được tŕnh bày khá tỉ mỉ trong bài nghiên cứu này.
a. Đóng Góp Lao Động
Trong một hợp tác xă nông nghiệp, ban quản trị gồm những người được Đảng lựa chọn từ trước và được vận động ngầm từ trước, mặc dầu cũng được bầu cho đủ h́nh thức dân chủ.
Sơ đồ này cho thấy cái khung của hợp tác xă gồm có những xă viên nằm trong các đội sản xuất và tổ sản xuất tượng trưng cho bộ máy sản xuất. Bộ máy này được điều khiển bởi các đội trưởng sản xuất theo nguyên tắc "làm việc tại đồng, phân công tại sở" có nghĩa là các đội trưởng trở lên ban quản trị hợp tác xă chỉ việc ngồi rung đùi tại sở để phân công tác, và các xă viên mới là những người phải đổ sức lao động ra tại đồng. Các tổ trưởng là những phần tử bần nông trung kiên vừa làm việc vừa đôn đốc, và ban kiểm soát theo dơi ở trên, đánh giá sự làm việc của mỗi người theo từng loại:
- Loại A: loại khỏe mạnh, làm nhanh, tích cực đi làm sớm.
- Loại B: là loại làm việc trung b́nh.
- Loại C: là loại làm việc kém, hay đi trễ, không tích cực.
B́nh Công Chấm Điểm
Sau mỗi ngày làm việc, mỗi người được đánh giá lao động bằng cách B́nh Công Chấm Điểm tức là dựa vào một người giỏi nhất để làm tiêu chuẩn cho điểm những người khác, và gọi tiêu chuẩn đó là "mốc khoán". Ví dụ: Trên một mảnh ruộng do một số người làm việc gồm đủ cả 3 loại A, B và C.
Khi chấm điểm mỗi người, loại A được 10 điểm nếu làm đủ 12 giờ một ngày, loại B được 8 điểm và loại C chỉ được 6 điểm. Và số 10 điểm trong một ngày làm việc của một xă viên loại A được dùng làm chuẩn gọi là một công. Một người loại A làm việc 3 ngày được số điểm tương đương với 3 công lao động, trong khi một người loại C làm việc 3 ngày chỉ được ghi có 18 điểm, tức là chưa được 2 công lao động. Muốn đạt được 3 công, xă viên loại C chỉ có hai cách, một là làm thêm ngày, hai là tăng thêm giờ làm việc mỗi ngày. Nhưng cách thứ nhất không thể thực hiện được v́ không ai có ngày nghỉ để làm bù nên xă viên loại C chỉ c̣n một sự lựa chọn là tăng số giờ làm mỗi ngày. Do đó mới có câu "Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm".
Tại Sao Phải Làm Cho Đủ Công?
Ban quản trị giao khoán cho từng gia đ́nh phải làm đủ một số công điểm cho mỗi vụ mùa, và danh từ Việt cộng gọi là "mức giao điểm", tùy theo số nhân khẩu trong mỗi gia đ́nh.
Nếu gia đ́nh đông người th́ mức giao điểm cao. Ví dụ một gia đ́nh có hai lao động chính và một lao động phụ th́ mức giao điểm là 5000 điểm, tức là trong một vụ 6 tháng phải làm đủ 5000 điểm, tức là 500 công (10 điểm là một ngày công) mỗi lao động chính phải làm khoảng 170 công và lao động phụ 140 công.
Nghĩa là trung b́nh mỗi người trong gia đ́nh đó phải làm 170 ngày trong 6 tháng (180 ngày) và mỗi ngày 12 giờ mới hy vọng đạt được mức điểm giao để được tính khẩu phần theo loại A.
Nói như vậy, có phải cứ sáu tháng th́ có 10 ngày nghỉ?
Không, con số 170 ngày công là con số lao động được trả lương gọi là "lao động sản xuất" như cày, bừa, gặt, hái. Mỗi năm, nông dân c̣n phải làm lao động không công tức là lao động "Nghĩa Vụ". Việt cộng đặt ra hai loại lao động nghĩa vụ chính:
- Loại A: Lao Động Thủy Lợi - đó là lao động bắt buộc như đắp bờ đập, tát nước, khai nương v...v..., mỗi năm từ 15 đến 30 công.
- Loại B: Lao Động Xă Hội - như đắp đường, xây trụ sở, xây cầu, đi gác ban đêm.
Hai loại nghĩa vụ trên không tính công để lănh lương, trái lại chỉ có phạt nếu thiếu nghĩa vụ. Ví dụ một người được ban quản trị hợp tác xă phân công đi đắp đường mà v́ lư do ǵ đó không đi th́ bị phạt từ 1 cho tới 3 công (3 ngày công).
Như vậy, nếu gồm cả lao động nghĩa vụ với lao động sản xuất, một xă viên không có đủ số ngày trong một năm để làm cho đủ công điểm. V́ thế hầu như ai cũng phải làm thêm bằng cách ra đồng sớm hơn và ở lại tới khuya để làm thêm. Nhưng không phải ngày nào cũng có thể ở lại khuya để làm thêm, v́ c̣n phải đi họp để học tập về chính sách nông nghiệp, học tập chính trị và đủ thứ học tập khác.
Điều đó có nghĩa là dù có muốn làm cho đủ công điểm, cũng không có đủ giờ để làm theo ư muốn. Và thiếu công điểm là thiếu ăn.
Dù có làm đủ công điểm cũng chưa có nghĩa là đủ ăn, v́ đến lúc thu hoạch vào cuối mùa, hợp tác xă cộng điểm của toàn gia đ́nh và khấu trừ ra 25% gọi là điểm Kiến Thiết Xă Hội Chủ Nghĩa, c̣n lại bao nhiêu mới tính ra giá bằng lúa tùy theo từng vụ. Số lúa tương ứng với mỗi công điểm cũng không nhất định, v́ gặp năm mất mùa, số lúa cũng giảm theo, mặc dù công điểm không đổi.
Công dân Lê văn Hùng giải thích rất rơ như sau:
"Tiền chia cho mỗi điểm tùy theo số thu tổng kết của Hợp Tác Xă. Hợp tác xă hàng tháng cộng chung số điểm của toàn thể dân làng. Đem số tiền tổng thu chia cho số điểm chung của cả dân làng, ta có tiền cho mỗi điểm. Thí dụ hợp tác xă tổng thu được 10000 đồng và số điểm chung của hợp tác xă là 100000 điểm, như vậy mỗi điểm trị giá 10 xu. Mặt khác nếu số tổng thu chỉ có 8000 đồng, th́ giá trị mỗi điểm chỉ c̣n có 8 xu. Tóm lại giá trị mỗi điểm tùy số tổng thu, cho nên, nếu nông dân muốn được số tổng thu cao hơn th́ phải gia tăng sản xuất. Hạn hán hay mất mùa là một thảm họa cho nông dân".
H́nh thức b́nh công chấm điểm bắt buộc mọi người, đàn ông cũng như đàn bà, ông già cũng như bà lăo phải làm việc như máy suốt ngày:
"Mệt nhọc đến độ t́nh vợ chồng cũng bị ảnh hưởng, không c̣n sức nào mà yêu thương ân ái với nhau được nữa". (Lời anh Lê văn Hùng)
Tuy số giờ làm việc chính thức là 12 giờ một ngày, nhưng v́ ai cũng sợ đói, và nếu có một hai đứa con th́ phải làm việc suốt từ 4 giờ sáng tới 10 giờ đêm (18/24 giờ một ngày) mới đủ ăn.
b. Đóng Góp Thuế Nông Nghiệp Và Thuế Đảm Phụ.
Khi nhà nước đă nắm toàn bộ sinh hoạt, lợi tức của dân, th́ nông dân có c̣n phải đóng thuế nữa không?
Câu hỏi này được anh Lê văn Hùng trả lời như sau:
"Người dân quê đâu c̣n ǵ là của riêng nữa mà đóng thuế. Nhưng trên thực tế họ vẫn gián tiếp phải đóng thuế v́ hợp tác xă nhân danh tập thể đóng thuế cho nhà nước: Thuế Nông Nghiệp, Thuế đảm phụ nghĩa vụ, Thuế đảm phụ nghĩa thương.
"Khi hợp tác xă đóng thuế cho nhà nước dĩ nhiên số thóc c̣n lại để chia cho xă viên phải ít đi. Thí dụ cụ thể cho dễ hiểu: Tại làng Hàm Cách của tôi chẳng hạn, mỗi vụ lúa phải đóng 15 tấn thóc thuế nông nghiệp, 5 tấn thóc thuế đảm phụ nghĩa vụ và 3 tấn thóc thuế đảm phụ nghĩa thương. Tổng số thu hoạch mỗi mùa là 100 tấn thóc, đóng thuế xong chỉ c̣n 77 tấn. Thuế nông nghiệp ấn định là 15% sản lượng, thuế đảm phụ nghĩa vụ tùy theo t́nh h́nh chung, nhưng không quá 5% sản lượng".
Thuế đảm phụ nghĩa vụ được cán bộ Đảng giải thích như là một thứ thuế đóng thế chân cho việc đi lính làm nghĩa vụ quân sự. C̣n thuế đảm phụ nghĩa thương là để giúp cho các thương bệnh binh bị đau ốm hoặc bị thương v́ đi làm nghĩa vụ quân sự.
Thuế nông nghiệp là một thứ thuế nặng nề nhất đối với nông dân Bắc Việt, và cán bộ Đảng trong hợp tác xă thi hành rất khắt khe, ví dụ một cán bộ làm thổ sản ở Thanh Thủy, tỉnh Thanh Hóa tên là Hoàng văn Kính, là cán bộ phụ trách của tỉnh, có người cha thiếu thuế hai năm liền, tức là phạm vào tội "dây dưa thuế nông nghiệp". Anh Hoàng văn Kính đă bị Đảng thi hành biện pháp kỷ luật bằng cách khai trừ khỏi Đảng. Sau đó, anh Kính đă "thắc mắc" với chính quyền địa phương nên bị đi cải tạo.
Chẳng những thuế nông nghiệp là một sự bóc lột khắt khe, nhưng nông dân oán hận nhất là nhà nước bắt trả các thứ thuế bằng thóc, chứ không phải bằng tiền. Nông dân Nguyễn văn Hùng đă giải thích tại sao trả thuế bằng thóc lại thiệt hại cho dân hơn là trả bằng tiền:
"Nhà nước mỗi mùa lấy 23 tấn thóc (gồm thuế nông nghiệp, thuế đảm phụ nghĩa vụ và thuế đảm phụ nghĩa thương, áp dụng cho làng Hàm Cách mỗi mùa sản xuất 100 tấn phải đóng thuế 23 tấn), như vậy nghĩa là dân mất đi 23 tấn thóc mỗi mùa. Tại miền Bắc mỗi hột thóc quư như hột vàng. Nếu nhà nước lấy tiền thay thóc th́ hợp tác xă thay mặt tập thể dân chúng chỉ phải đóng 6200 đồng (giá chính thức 270 đồng một tấn thóc). Như vậy đổ đồng mỗi người dân (làng tôi có 100 dân) đóng 62 đồng. Với 62 đồng đó, trên thị trường chợ đen chỉ tương đương với 70 kg thóc hay 50 kg gạo mỗi mùa. Trong khi đó nếu dân được giữ lại 23 tấn thóc (nếu đóng thuế bằng tiền) th́ chia đều mỗi người được 230 kg thóc (tức là khoảng 164 kg gạo, và nếu chia cho 6 tháng th́ trung b́nh mỗi ngày một nông dân được thêm gần 1 kg gạo tức là 4 bát cơm đầy). Giá trị một hột thóc ở chỗ đó".
Chú thích: giá thóc chính thức là 270 đồng một tấn, trong khi giá chợ đen là khoảng 800 đồng tới 900 đồng một tấn vào lúc đó.
Sau khi đă được đóng góp sức lao động, đóng các thứ thuế "nghĩa vụ cao cả" nghe khoái lỗ tai, nông dân c̣n được Đảng thương cho đóng nhiều loại quỹ khác nữa.
c. Đóng Góp Cho Các Thứ Quỹ Của Hợp Tác Xă.
Hợp tác xă cũng "thay mặt xă viên" để đóng vào các loại quỹ dưới đây:
Quỹ Thủy Lợi: "Ban quản trị nói là để mua dụng cụ máy móc làm công tác thủy lợi như dẫn nước vào ruộng khô, hút nước ra khỏi ruộng ngập nước, hoặc hệ thống đập nước v.v... nhân dân đóng khá nhiều cho quỹ này, nhưng trên thực tế, quỹ thủy lợi thực sự đi đâu mất tiêu và không ai thấy có bằng chứng cụ thể là quỹ thủy lợi được dùng vào mục tiêu thủy lợi.
Quỹ thủy lợi đă như nước ngấm vào sa mạc hết trơn, máy bơm nước, máy hút nước không thấy đâu, chỉ thấy nông dân tiếp tục dùng gầu để tát nước thấy ông bà nội".
Quỹ Tích Lũy: "Cán bộ Việt cộng tuyên truyền rằng quỹ này được dùng để giúp đỡ xă viên gặp hoàn cảnh khó khăn. Trên thực tế một phần nhỏ được dùng để mua dụng cụ làm việc, c̣n phần lớn để tổ chức những buổi liên hoan của ban quản trị hợp tác xă, tức là các ông trời con ở nông thôn".
Quỹ Xă Hội: "Được dùng để xây trường học, xây nhà thương. Tất cả quỹ này được nộp cho xă và từ xă đưa về huyện, hoàn toàn do nhà nước nắm giữ, nhân dân làm chủ nó, nhưng không hề biết nó được chi tiêu ra sao".
Quỹ Bảo Hiểm: Cán bộ Việt cộng tuyên truyền cổ động như sau về quỹ bảo hiểm:
"Lao động phải an toàn.
An toàn để lao động"
Việt cộng đă lên tới đỉnh cao trong việc sản xuất những khẩu hiệu nghe qua thấy mê mẩn tâm thần, nhưng không có liên hệ ǵ tới thực tế của vấn đề bảo hiểm cả. Các xă viên sau khi "nhờ" hợp tác xă "đóng tiền dùm" vào các quỹ bảo hiểm, th́ chẳng biết những quỹ này đi đâu, mà cũng chẳng bao giờ được hưởng những quyền lợi do quỹ này mang lại. Tuy biết rằng mất của, đa số nông dân vẫn đành để cho "của đi thay người" mà không dám thắc mắc, sợ rằng có thể được Việt cộng cho đi xa để t́m ra sự thật như trường hợp anh Hoàng văn Kính đă nói ở trên.
Tuy nhiên họ cũng phản ứng lại bằng cách khác như ta sẽ thấy sau này. Trong hiện tại nông dân c̣n nhẫn nhịn th́ Việt cộng c̣n tiếp tục nhẩn nha làm tới. Việt cộng coi nông dân miền Bắc như một thứ trái cây có nhiều lớp vỏ ngọt ngào tha hồ bóc lột từ lớp vỏ này tới lớp vỏ khác để mà ăn. Từ Hồ Chí Minh cho đến tên cán bộ hạng bét của Việt cộng đều thi đua phát huy sáng kiến để bóc lột nông dân.
Sau khi bắt dân góp sức lao động, đóng các thứ thuế, góp các thứ quỹ, hợp tác xă c̣n "phát huy sáng kiến" ra một thứ "nhiệm vụ t́nh nguyện" nuôi gà, nuôi heo cho nhà nước.
Anh Lê văn Hùng kể lại như sau:
"Về chăn nuôi, mỗi gia đ́nh bắt buộc phải nuôi một số lợn tương đương với 100 kg thịt mỗi năm để bán cho hợp tác xă. Việc nuôi lợn là việc cưỡng bách và người nuôi không được bán ra ngoài hoặc giết ăn thịt. Mỗi gia đ́nh c̣n phải nuôi hai con gà cho hợp tác xă. Không ai muốn nuôi lợn v́ bị lỗ vốn, nhưng vẫn bị bắt buộc phải nuôi".
Vấn đề nuôi heo lỗ vốn đă thành quy luật của xă hội chủ nghĩa Việt cộng. Anh Lê văn Hùng giải thích lư do:
"Hợp tác xă không cung cấp lợn giống, mà cũng không bán lợn con cho dân. V́ thế, người nuôi lợn phải mua lợn giống ở ngoài với giá tự do. Những người nuôi lợn giống được bán lợn con tự do. Một con lợn con nặng 10 kg giá 30 đồng (tiền miền Bắc). Lợn ở ngoài Bắc th́ nhỏ và chậm lớn. Phải nuôi tới tám chín tháng mới lớn tới 50 kg. Lợn được nuôi bằng cám, mà cám th́ rất đắt. Mỗi con lợn ăn hết 4 hào tiền cám, nghĩa là 12 đồng một tháng, hay là 96 đồng trong 8 tháng. Hai con lợn mất 192 đồng tiền cám, và giá mua 2 con hết 60 đồng, tổng cộng là 252 đồng tiền vốn. Hai con lợn nặng 100 kg bán cho hợp tác xă 1 đồng mỗi kg thịt theo giá chính thức, tức là lỗ hết 152 đồng không kể công lao khó nhọc trong tám tháng. Do đó không ai muốn nuôi lợn nếu không bị cưỡng bách. 152 đồng là tiền công 4 tháng lao động cực nhọc ở ngoài đồng. Nhưng nếu không chịu nuôi lợn th́ sẽ không được ăn thịt và bị kết tội là phản động chống lại xă hội chủ nghĩa, chỉ biết nghĩ đến quyền lợi ích kỷ làm hại quyền lợi chung. Ngoài ra c̣n bị phạt 30% số thóc được mua của hợp tác xă ...".
Lư do căn bản khiến việc nuôi lợn lỗ vốn là v́ phải mua lợn con và thức ăn ở thị trường tự do (gần như chợ đen) và cuối cùng bán thịt heo giá chính thức cho nhà nước. Khi tất cả nông dân bị lỗ, th́ chỉ có một bọn hưởng lời trên sức lao động của nông dân. Ai cũng đoán đước bọn đó là bọn nào. Khi anh Lê văn Hùng nói đến việc "bị phạt 30% số thóc được mua của hợp tác xă" th́ các độc giả chưa nếm mùi Việt cộng có thể không hiểu điều đó nghĩa là cái ǵ, và có thể sẽ có người bảo "cần chi phải mua thóc của hợp tác xă?".
Thực ra đây là căn bản của chế độ hưởng thụ, tức là vấn đề no đói của xă viên mà ta sắp phân tích dưới đây.
C̣n tiếp...
Bookmarks