Nguồn: Thư Viện Phạm Văn Thành
(tiếp theo Phần 1)
Nguyên tác "'Give Us A Ship': The Vietnamese Repatriate Movement on Guam, 1975"
by Jana K. Lipman - Tạp Chí American Quarterly Volume 64, Issue 1 (số ra tháng 3 năm 2012)
"‘Hăy để chúng tôi về’: Chuyện những người Việt hồi hương từ đảo Guam, năm 1975"
Lê Tùng Châu dịch
từ trang 5 - trang 8
Trại tị nạn trên đảo Guam
Trong tháng 4 năm 1975 người tị nạn Việt Nam không đi du lịch trực tiếp bằng đường biển hay đường hàng không từ Sài G̣n hoặc Thái B́nh Dương đến lục địa Hoa Kỳ. Chính phủ Mỹ đă giữ 111.919 người Việt-Nam tại Guam trước khi cho phép họ nhập vào lục địa Hoa Kỳ hoặc Hawai'i. (14) điều vốn thường bị che đậy trong các sử liệu phổ thông.
Độ một vài tuần, lượng người tị nạn tăng hơn gấp đôi dân số địa phương Guam, nơi vốn chỉ chưa tới 100.000 cư dân vào năm 1975 (15)
Đối với Guam th́ cuộc di cư của người Việt chỉ có thể được mô tả là khổng lồ. Thống đốc đảo Guam ông Ricardo (Ricky) Bordallo công khai hỗ trợ các chiến dịch người tị nạn Việt, và bất chấp sự phản đối của một số cư dân địa phương, máy bay quân sự và tàu chiến Mỹ bắt đầu hạ cánh xuống Guam mang theo người tị nạn vào cuối tháng tư năm 1975.
B́nh luận về quyền tự trị tối thiểu của Guam, Thượng nghị sĩ Carl Gutierrez ghi nhận, "Tại sao chúng ta c̣n phải tranh căi về điều này? Tất cả đă được chính phủ dàn xếp và chúng ta phải thực thi tốt nhất có thể" (16)
Quân đội xây dựng một ṿng đai tự nhiên đánh dấu bằng dây thép gai, hàng rào và canh gác cẩn mật. Những người tị nạn Việt Nam không được phép rời khỏi trại, cũng như người bản xứ nếu không phận sự cũng không được phép vào trại.
Dù cuộc chiến Việt Nam đă qua rồi, thực tế đế quốc Mỹ lại phơi bày rơ hơn trong sử kư và địa lư của đảo Guam. Vị thế đảo và thuộc địa của Guam được vận dụng làm khu vực đệm giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nơi người hồi hương bỗng chiếm chỗ với t́nh trạng pháp lư không rơ ràng và quân đội Mỹ bỗng hùng hậu có mặt.
Bị Tây Ban Nha chiếm hữu từ năm 1565, rồi trở thành lănh thổ của Mỹ theo Hiệp Ước Paris 1898, và khá giống trường hợp Puerto Rico, Guam chưa từng trải qua nền chính trị độc lập đương đại. Trong ṿng kiểm soát tuyệt đối của quân đội Mỹ từ năm 1898 cho tới năm 1950 (tránh được hàng chục năm chiếm đóng của Nhật Bản trong Đệ Nhị Thế Chiến), rồi Hải quân Mỹ đă làm chủ và kiểm soát ngót nửa thế kỷ, nền móng tổ chức và cấu trúc thể chế của Guam dần được chuyển hóa và quân sự hóa từ bối cảnh xă hội đến văn hóa của các cộng đồng bản địa Chamorro tại đây. Với đạo luật Organic năm 1950, chính phủ Hoa Kỳ đă chuyển giao quyền lực lại cho Bộ Nội Vụ. Nhưng ngay cả khi quyền hành đă chuyển về dân sự, quân đội Mỹ vẫn c̣n tiếp tục kiểm soát hơn 36 phần trăm lănh thổ của Guam. (17) Đạo luật Organic công nhận người đảo Guam là công dân Hoa Kỳ, dù Guam không có đại diện của Quốc Hội hay thủ tục biểu quyết của Tổng Thống, hay Hiến Pháp bảo hộ đầy đủ. Trên thực tế, dân Guamanians không đi bầu trực tiếp để chọn Thống đốc cho tới năm 1970 (18)
Bởi tỉ lệ công dân được tuyển mộ nhập ngũ cao nên Guam cũng chẳng vui ǵ với cái vinh dự có tỉ lệ thương vong cao hơn các bang khác vùng khác trong chiến tranh Việt Nam. Cơ cấu chính quyền của Guam được cân đối giữa cộng đồng bản địa tượng trưng kém năng lực và cộng đồng địa phương, và phụ thuộc phần lớn vào chính phủ và quân đội Hoa Kỳ.
Năm 1975, quân đội Mỹ kết hợp các căn cứ quân sự với các phương tiện sẵn có của liên hợp công ty cho thuê để thành lập một quần thể 12 trại tị nạn trên đảo Guam. Mấy trại lớn nhất tọa lạc trong phần đất của quân đội Mỹ. Trên căn cứ không quân Andersen, mười ṭa cao ốc đă được lên lịch phá hủy mau lẹ, được dọn sạch và tân trang lại, và Orote Point, vốn là một phi trường thời Thế chiến II, đă trở thành bàn đạp cho trung tâm "Tent City." Thêm vào nữa là một số cơ sở quân sự nhỏ hơn, các công ty tư nhân như Công ty xây dựng Black, J & G, Công ty Nạo vét Hawaii, và Tokyu Hotel cũng trở thành trại tị nạn tạm thời (19)
Trớ trêu hơn cả là việc Seabees đă biến 14 ṭa cao ốc tại Camp Asan thành một trại tạm cư cho người tị nạn Việt Nam trên cùng chính cái nơi đă được sử dụng để bỏ tù những kháng chiến quân Phi Luật Tân thời chiến tranh Mỹ-Phi Luật Tân (20)
Ngôn từ mô tả sự gia tăng mau lẹ các trại tị nạn trên đảo Guam cũng thiếu xác định, cả chữ “tị nạn” và “trại tạm cư” đều là những ư niệm vừa mới ùa tới đây cùng với một hành trang lịch sử nặng nề. Trong nhiều văn bản chính thức đề cập đến các trại này cũng dùng cách nói uyển ngữ khi gọi đó là những "trung tâm tiếp nhận," có lẽ là để tránh cái t́nh trạng “giam giữ người” ngoài ư muốn (21)
Thượng nghị sĩ Edward Kennedy thậm chí ghi nhận rằng một chiến dịch do quân đội đảm đương lại mang những cái tên không hay như "Operation New Life," trong đó có “một tập ngữ khó chịu v́ gợi lên cái tên cũ 'New Life Hamlets' hoặc 'ấp chiến lược' của những năm ông Diệm nắm quyền” (22)
Việc bố trí nhân viên quân sự và giăng dây kẽm gai sang một bên, có lẽ chính phủ Mỹ muốn phân biệt các trại tạm cư ấy với quần thể các trại tị nạn khác được thả lỏng. Như một trong phát ngôn nhân của quân đội giải thích, dây thép gai không phải là "giam người mà để ngăn người nào muốn bỏ ra khỏi đó". Thoạt tiên, quân đội dùng chữ của người Việt “tản cư” rồi chữ “tị nạn” cũng được dùng dần sau đó. Có lần một nam quân nhân binh nh́ nói nhát gừng: "Tôi biết họ là người tản cư mà. . . . Tôi biết thế v́ vị Tướng đă nói thế." (23)
Dùng chữ tản cư không những thiếu xúc cảm và ḷng trắc ẩn (mà chữ tị nạn vốn đă mang ư nghĩa bao hàm) mà c̣n tước mất của họ quyền được hưởng những quyền lợi từ trách vụ quốc gia và quốc tế bởi chẳng có công ước quốc tế nào về người tản cư cả. Trong khi báo chí, viên chức quân sự, thậm chí nơi các báo cáo chính thức người ta đă sớm vô t́nh dùng chữ tản cư thay cho chữ tị nạn v́ thế chữ tị nạn dường như chẳng c̣n được dùng trong cách nói chung, sự thể ấy như nhắc nhở rằng những người Việt hiện không phải là người tị nạn hợp lệ theo luật pháp Hoa Kỳ. Thay vào đó, các ngành của hành pháp lại đă thừa nhận người Việt nhập cảnh vào Hoa Kỳ có quy chế “tạm dung” một phát minh về ngôn ngữ trong Đạo luật 1952 McCarran-Walter, trong đó cho phép "tạm nhập" người nước ngoài không thuộc phạm vi luật di trú Hoa Kỳ (23)
Mặc dù có vài vặn vẹo về ngữ học và pháp lư, hầu hết các văn bản nhà nước và phi nhà nước hầu như nhắc đến người Việt Nam là "người tị nạn" và các căn cứ quân sự là "trại tị nạn"
Một điểm son mà quân đội đă ghi được trong suốt chiến dịch này là đă chớp thời cơ tranh thắng được cảm t́nh công luận và giúp hóa giải h́nh ảnh thất bại quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Một viên chức quân sự đă phân giải rằng chủ đích của chiến dịch là để "bảo tồn h́nh ảnh đẹp cho quân đội", và trong một chừng mực nhất định quân đội đă làm tṛn trọng trách một cách "chuyên nghiệp, tận tâm, và nhân đạo" (25)
Do vậy, dù bỗng nhiên bị đứng ngoài cuộc chiến tranh Việt Nam –vốn là nguyên nhân tiên khởi tạo ra cuộc khủng hoảng người tị nạn- quân đội đă tái xác định giá trị của chính ḿnh khi chứng tỏ một cách đẹp mắt vài tṛ không thể thiếu như là một cánh tay đắc lực của chính phủ vào những giờ phút cấp bách.
Trại Orote Point nơi dung chứa người hồi hương Việt Nam trong suốt cuộc khủng hoảng người tị nạn. nguồn ảnh: Cục Lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ
Tuy vậy những viên chức Hoa Kỳ ở Guam hầu như không thể theo kịp với các dịch vụ hậu cần; họ phải đối mặt với những khó khăn về máy tính c̣n bỡ ngỡ lúc ấy, thủ tục lấy chi tiết nhân thân để cấp số căn cước, và thậm chí làm sao liệt kê hồ sơ với tên của người Việt. Qua hơn chục năm tham chiến ở Việt Nam mà chính phủ Mỹ vẫn c̣n lúng túng trước một thực tế về cách ghi tên Việt: họ th́ viết trước c̣n tên lại viết sau (26)
Đa số người tị nạn Việt trải qua chưa tới hai tuần trên Guam, cũng có một số khác phải chờ như thế tới ba tháng. Trong thời gian lưu trú họ cũng phải qua các thủ tục hành chánh, kiểm tra y tế rồi sau đó được chuyển vào đất liền, hoặc được một người đỡ đầu đón hoặc nhập vào trại tị nạn liên bang như Fort Chaffee, Camp Pendleton, Fort Indiantown Gap, hoặc Air Force Eglin. Chuyến bay cuối cùng chở người tị nạn rời Guam đến Hiệp chủng Quốc là vào Tháng Tám 26, 1975 (27)
Tuy nhiên, trong khi hiện trạng cứu tế người tị nạn đang suông sẻ và lạc quan th́ vào lúc cao điểm nhất bỗng xảy ra một việc gây rối ren đó là áng chừng 2000 người tị nạn lại cương quyết đ̣i trở về lại Việt Nam. Họ nói dù đang ở trong lănh thổ Hoa Kỳ nhưng họ cho rằng, ở Guam chưa hẳn là đă ở Hoa Kỳ. Họ sớm nhận ra t́nh trạng thuộc địa cũng như hiện trạng đang c̣n trong thời kỳ chuyển tiếp của Guam có thể có ích cho họ. Viện cớ đảo Guam chỉ là 1 di sản thuộc địa của đế quốc Mỹ, không hẳn thuộc Mỹ cũng không hẳn ngoài lănh địa Hoa Kỳ, người hồi hương Việt cố thủ trên phần đất của họ trên đảo.
(c̣n tiếp Phần 3: Di cư, gia đ́nh tan vỡ, và bắt cóc)
Tài liệu tham khảo liệt kê bởi tác giả
14. K. J. Carroll, Operation New Life, After Action Report, Guam, 1975.
15. U.S. Department of Health, Education, and Welfare, Vital Statistics of the United States, 1975, http:// www.cdc.gov/nchs/data/statab/mort75_2a_ta.pdf (accessed July 21, 2010).
16. Leanne McLaughlin, “Legislature Nixes Funds,” Pacific Daily News (PDN), April 24, 1975.
17. Robert F. Rogers, Destiny’s Landfall (Honolulu: University of Hawai‘i Press), 230.
18. In contrast, the United States permitted direct elections for governor of Puerto Rico beginning in 1948. Guam also gained a nonvoting delegate in Congress in 1972.
19. History of Pacific Command Support to Operation New Life, 1 April–1 November 1975, NARA RG 319, box 3; “Where They Are,” PDN, April 28, 1975. In addition, the United States established refugee camps at U.S. military bases in Thailand, the Philippines, the Marianas, and Wake Island.
20. Rogers, Destiny’s Island, 252; Benedict Anderson, Under Three Flags: Anarchism and the Anti-Colonial Imagination (London: Verso, 2005), 205, 224.
21. Comptroller General Report to the Congress, “US Provides Safe Haven for Indochinese Refugees,” June 16, 1975; and Interagency Task Force for Indochinese Refugees Report to the Congress, September 15, 1975, Military History Institute (MHI), Vietnamese Refugee Project Papers (VRPP), box 14.
22. Senator Kennedy Releases Report on President’s Program to Resettle Refugees from Cambodia and South Vietnam, June 9, 1975, p. 17, MHI, VRPP, box 14.
23. Susan Guffey, “Evacuee Flood Flows On,” PDN, April 25, 1975.
24. Gil Loescher and John A. Scanlan, Calculated Kindness: Refugees and America’s Half-Open Door, 1945 to the Present (New York: Free Press, 1986); Carl Bon Tempo, Americans at the Gate: The United States and Refugees during the Cold War (Princeton, N.J.: Princeton University Press, 2008); and Stephen Porter, “Defining Public Responsibility in a Global Age: Refugees, NGOs, and the American States” (PhD diss., University of Chicago, 2009).
25. Message, May 5, 1975, Folder—Incoming Message Reference Files 3–4 May 1975, MHI, VRPP, box 7; Message November 7, 1975, File Guam 1975 (228-01), MHI, VRPP, box 6; and Sahara, “Opera-tion New Life/Arrivals.”
26. Carroll, Operation New Life, 32–35.
27. Ibid., iii.
Bookmarks