CUỐN THEO MỆNH NƯỚC
LY KHÁCH
Ngồi đợi chuyến bay chuyển tiếp ở phi trường Narita, bên ngoài thủ đô Tokyo (theo Hán-Việt đọc là Đông Kinh) của Nhật Bản, tôi thấy thời gian như ngừng lại, lâu ơi là lâu! Vào thuở đó (2006), mạng lưới toàn cầu (World Wide Web), điện thoại di động, ipad, facebook v.v… vẫn chưa thịnh hành và được sử dụng thông dụng như ngày nay, có thứ vẫn còn là sản phẩm chỉ có trong các phim khoa học giả tưởng. Chả có gì để giải trí ngoài việc đọc sách hay tuyệt đối… không làm gì. Ḍng tư tưởng cứ lan man, hết chuyện này sang chuyện khác, rồi cuối cùng ngưng lại ở một kỷ niệm đáng nhớ, cũng tại phi trường này, nhiều năm về trước, từ thuở tôi mới gia nhập hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 80s.
1.
Sau chuyến bay dài đến hơn 12 tiếng đồng hồ từ Los Angeles, với những giấc ngủ chập chờn, ngắn ngủn, tôi ra khỏi phi cơ với đôi mắt c̣n cay sè. Một người Mỹ, mặc quần Jeans (ḅ), áo T-shirt (phông) đang giơ cao tấm bảng bằng giấy b́a với mấy chữ nguệch ngoạc: “Tuyên úy Nguyễn,” mắt anh ta dáo dác như chưa nh́n thấy tôi. Đến tận bên canh anh ta, tôi nói nhỏ: “Tôi là tuyên úy Nguyễn.” Anh ta như c̣n ngờ ngợ và nói: “Xin lỗi, Sir, tôi cứ nghĩ là Sir phải… già hơn chứ!” “Tại sao anh lại nghĩ như vậy?” Tôi hỏi. Như chợt nhớ ra nguyên tắc chào kính trong quân đội, anh ta vội tự giới thiệu: “RP1 John Bertorelli, Sir.” (Phụ tá tuyên úy, trung sĩ nhất.) Tôi ch́a tay ra bắt và nói câu chào hỏi thường lệ, anh ta tiếp: “V́ các tuyên úy Công Giáo ở đây toàn là những vị đă lớn tuổi, Sir.”Tôi cười, “vậy anh có thất vọng, khi thấy tôi không?” Anh ta cũng cười, lém lỉnh: “Dĩ nhiên là không rồi, tôi thích làm việc với các cha trẻ hơn.”
Trung sĩ Nhất Bertorelli dẫn tôi đến ghi tên ở văn pḥng dành riêng cho các quân nhân Hoa Kỳ nhập cảnh Nhật Bản, chứ không phải qua các thủ tục như của dân sự. Sau đó, anh ta giúp tôi lấy hành lư và đưa ra xe, trong khi miệng vẫn không ngớt “brief” (bá cáo vắn tắt) rằng đường từ đây về đến căn cứ Atsugi khoảng 130 km, nhưng có thể phải đi đến 3 tiếng đồng hồ, hay hơn nữa v́ t́nh trạng kẹt xe ở Tokyo. Quả vậy, thành phố này lớn rộng, dân đông và văn minh không thua bất cứ một thành phố nào ở Âu, Mỹ, và điểm tương đồng lớn nhất, dĩ nhiên, vẫn là… nạn kẹt xe! Nhưng cũng nhờ vậy mà tôi đă có dịp ngắm cảnh Tokyo kỹ hơn, một thành phố mà ở thời trung học, tôi chỉ có thể thăm viếng… trong mơ.
Về đến căn cứ hải quân của Mỹ ở Atsugi th́ trời đă tối. Tôi làm thủ tục nhận pḥng, người thư kư Nhật nh́n tôi và ṭ ṃ hỏi: “Đại úy có bà con với một đại úy khác, cũng tên Nguyễn, đang phục vụ ở Okinawa không?” Tôi hiểu ngay, và nói: “Ồ, không, nhưng chúng tôi quen nhau lắm.” Đó là cha N.B.A., cùng địa phận với tôi từ bên quê nhà, ông đă gia nhập ngành tuyên úy hải quân Mỹ trước tôi khoảng hai năm. Lúc ấy, tuyên úy N.B.A. đang phục vụ tại sư đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến ở hải đảo Okinawa, và có lẽ đă nhiều lần ghé qua căn cứ này. Tôi được ở trong một “căn hộ” (apartment) có đủ pḥng khách, pḥng ngủ, bếp, TV, tủ lạnh… thuộc khu cư xá dành cho các sĩ quan độc thân.
Sáng hôm sau, tôi vào tŕnh diện tuyên úy trưởng, thiếu tá Robert Griffin. Sau vài câu xă giao và bàn những chuyện cần thiết, tuyên úy Griffin đă dẫn tôi lên gặp đại tá chỉ huy trưởng căn cứ Atsugi. Có đi xa mới thấy t́nh nghĩa huynh đệ chi binh trong quân lực Mỹ rất thắm thiết, đại tá chỉ huy trưởng đă thân mật nói chuyện với hai tuyên úy, ông c̣n kể chuyện vài hôm trước đó, hội các thương gia trong vùng, khoảng vài chục người, đă cùng nhau đăi ông một bữa ăn bằng toàn cá… sống! (Sushi.) Ông nuốt không nổi, thế mà bữa ăn tốn đến gần 28 ngàn đô-la! Nhắc đến, ông vẫn c̣n le lưỡi v́ thời giá đắt đỏ ở Nhật.\
Atsugi là hậu cứ của các phi đội phản lực và trại gia binh của cả tiểu hạm đội (battle group) thuộc hàng không mẫu hạm Midway có bến thường trực ở Yokosuka, trong vịnh Tokyo và cách Atsugi khoảng 40 km về hướng Đông Nam. (Đây là khoảng thời gian chuyển tiếp giữa hai HKMH Midway và Independence, 1991. Đến năm 1998 th́ chiếc Kitty Hawk đă ra thay tàu “Indy” và vào năm 2008, HKMH nguyên tử George Washington CVN-73 đă đáo nhậm nhiệm sở ở đây cho đến hiện tại.)
Đời sống trong căn cứ đă khác hẳn với cuộc sống của dân chúng Nhật bên ngoài, dù chỉ cách nhau cái hàng rào. Mọi thứ thực phẩm và vật dụng bán trong thương xá hải quân (Navy Exchange) đều theo thời giá bên Mỹ và người mua không phải trả thêm tiền thuế. Căn cứ c̣n có cả quán hamburger MacDonald; giá xăng bên ngoài là 3.50 đô la một gallon (khoảng 4 lít) nhưng bên trong chỉ có 1.10 đô. Thêm vào đó, các quân nhân c̣n được hưởng thêm trợ cấp phục vụ ở nước ngoài (oversea pay.) Tuy nhiên, việc thủy thủ phải xa nhà có khi đến 6 tháng, vẫn là mối khó khăn thường xuyên của các gia đ́nh binh sĩ và vai tṛ của các tuyên úy lại càng quan trọng hơn.
Tôi suưt bật cười v́ nhớ đến lời của trung sĩ nhất Bertorelli, khi gặp vị tuyên úy Công Giáo, cha Colazo, một “ông già” đến gần 60 tuổi mà vẫn c̣n mang lon đại úy! Ông thuộc loại “đại úy muôn năm” v́ gia nhập hải quân lúc đă lớn tuổi. T́nh trạng thiếu linh mục Công Giáo đă trở nên khá trầm trọng nên quân đội mới nhận ông, nhưng chỉ có 3 năm, sau đó, nếu cần (nếu ông c̣n sức khỏe) họ sẽ lưu nhiệm ông thêm 3 năm nữa, cứ thế, và sẽ không có vấn đề… thăng cấp!
Tuy nhiên, cha Colazo rất tốt với tôi, một buổi chiều, ngài đă rủ tôi “xuống phố” Tokyo, và tôi đă ở lại đến sáng hôm sau mới về. Tôi đă đến thăm người bạn, quen trước ở Roma, cha N.H.H. đang làm “cha phó” trong một giáo xứ Nhật, đồng thời đặc trách người Việt trong tổng giáo phận Tokyo. Người Nhật có nhiều cái hay, nhưng riêng hai khoản ăn và ngủ đă không hợp với tôi mấy! Sau bữa ăn thịnh soạn nhưng nấu theo kiểu Nhật, dĩ nhiên, do cha xứ khoản đăi, hai cha đă dẫn tôi lên lầu trên của ngôi nhà xứ khá sang trọng, tuy nhiên, căn pḥng ngủ dành cho khách lại… trống trơn! Không giường, không tủ, chỉ có một cái chiếu hẹp, trải giữa pḥng, một chiếc gối và một cái chăn được xếp dọc theo chiều dài của chiếc chiếu! Cha H. nói với tôi rằng hầu như tất cả người Nhật đều nằm như vậy. Người ta thường bảo cái phản là thứ giường để “ngả lưng cho thế gian nhờ…” nhưng sau bao năm nằm nệm ở Mỹ, tôi chẳng thấy nhờ vả ǵ được với cái… phản (sàn nhà) này. Nó làm tôi đau lưng đến khó ngủ! Sáng hôm sau, cha H. đă mời tôi cùng dâng lễ cưới cho một đôi tân hôn thuộc cộng đoàn người Việt ở Fujisawa, gần Yokosuka, vào thứ Bảy kế tiếp và tôi đã nhận lời. (Thứ Bảy và Chúa Nhật là những ngày nghỉ cuối tuần của lính Mỹ, sau thánh lễ, các tuyên úy cũng được tự do và thường th́ không phải làm ǵ vào ngày thứ Bảy.)
Tôi đă dùng métro để đi từ Atsugi đến Fujisawa, quả nhiên, “danh bất hư truyền” xe điện của Nhật có ba đặc điểm: Sạch, êm và rất đúng giờ. So với métro của New York, Paris, hay ngay cả Washington DC, xe điện Nhật vẫn có phần trội hơn ở điểm này hay điểm khác. Học được dăm ba chữ Hán ở đại chủng viện và trường đại học Văn Khoa năm xưa cũng giúp tôi nhận ra tên của một vài nhà ga theo lối đọc Hán-Việt, không phải vận trí ghi nhớ chúng theo âm Nhật. Nghe nói trong ngôn ngữ hàng ngày của các nước Nhật và Hàn Quốc (Triều Tiên) vẫn c̣n có đến 5 ngàn chữ Hán, học sinh ở Nhật phải học cả ba cách viết: Hán (logo-graphic kanji), Nhật (Hiragana) và âm La Tinh (a,b,c…- katakana) Chao ôi! Đến đây phải ngả mũ, cám ơn Đức Giám Mục Alexandre de Rhodes (1591-1660), nhà truyền giáo đă nghĩ ra cách viết theo mẫu tự La Tinh cho dân Việt, quốc gia duy nhất ở Á Châu xử dụng kỹ thuật này. Khoảng từ đầu thế kỷ XX, cách viết này đă trở thành thông dụng và hiện là “quốc ngữ” của nước ta. Ôi! Dễ dàng biết bao…
Nhà thờ, nơi có đám cưới, đang do các cha truyền giáo từ Mỹ đến trông coi, tôi được mời vào nhà xứ nghỉ ngơi trước giờ hành lễ, nhưng tôi đă ra trước cửa nhà thờ đứng, để mong t́m hiểu thêm về nếp sống của người dân Việt trên đất Phù Tang này. Khi biết tôi đến từ Mỹ, các bà thi nhau “phỏng vấn” tôi, thay v́ ngược lại, có bà hỏi: “Thưa cha, các bà như… chúng con th́ liệu lương tháng khoảng bao nhiêu ở Mỹ?” Tôi bỗng trở nên lúng túng; thứ nhất, ở Mỹ không ai hỏi về tiền lương của nhau (ngoại trừ… sở thuế); thứ hai, làm sao tôi đoán được về “các bà như chúng con?” Nhưng tôi vẫn cố làm vừa ḷng họ, liếc nhanh qua cả nhóm, tôi thấy họ ăn mặc, trang sức không sang trọng, đắt tiền lắm, dáng người cũng không thuộc thành phần “chủ nhân ông” hay “chủ nhân bà,” rồi tôi cố moi óc xem có ai, thuộc thành phần “lao động” ở Mỹ đă “lỡ dại” khoe với tôi về tiền lương của họ. Mặc dù tôi biết không thể có câu trả lời chính xác được, v́ nước Mỹ rộng mênh mông, gồm cả một lục địa, luật lệ, giá sinh hoạt của mỗi tiểu bang lại khác nhau, nhưng tôi cũng cố trả lời, tổng quát như có thể: “Ở bên ấy, các bà đi làm ở chợ, hăng xưởng, may vá, trừ thuế rồi cũng kiếm được khoảng trên ngàn đô mỗi tháng.” Bà ấy bỗng reo vui: “Bên này, tính ra chúng con cũng lănh trên ngàn đô mỗi tháng đó cha!” Mấy bà khác cũng cười biểu đồng t́nh, nhưng bỗng bà ấy xụ mặt xuống, buồn buồn, rồi chậm răi nói: “Nhưng bên này vật giá cao lắm cha ạ, chúng con không b́ với Mỹ được đâu!” Tôi cũng chỉ biết cười trừ với họ.
Cô dâu, chú rể, đă mặc theo lối Âu phục, nhưng các em bé trong đoàn phù dâu, phù rể th́ diện theo lối trẻ con Nhật. Khi các em đem “lễ vật” lên dâng trên bàn thờ, họ đă chào linh mục chủ tế bằng cách cúi gập ḿnh xuống, đúng như lối chào kính của người Nhật; vị chủ tế cũng chào lại như vậy. Nh́n vào một cậu bé, từ mái tóc đến quần áo, đôi giày, tôi không thể nhận ra tí “Việt” nào trong cậu! Một nỗi âu lo chợt đến khiến tôi nhẹ thở dài, nhưng rồi nụ cười đă nhanh chóng trở lại trên môi tôi, lúc cậu bé nh́n vào hàng ghế như muốn t́m kiếm ai, và khi thấy một thiếu phụ đang hănh diện nh́n ḿnh, cậu đă kêu lên nho nhỏ, nhưng rất rơ: “Mẹ!”
Nhà nguyện trong căn cứ Hải Quân ở Atsugi
(Còn tiếp)
Bookmarks