Nhân đọc bài phiếm luận về chữ "Ba" dưới đây của một tác giả vô danh, hiện đang được phổ biến trên mạng qua "email" mà tôi đă nhận được, tôi thấy vui vui hay hay. Và v́ tác giả muốn có ai giải thích được nguồn gốc hay tại sao người ḿnh lại cứ nói cái ǵ cũng có "Ba" trong đó như "ăn ba hột cơm" hay "ăn ba miếng"…, nên tôi mạo muội thử trả lời cho tác giả bài này, cũng như để cho những ai chưa được biết cái triết lư của chữ "Ba" này. Nên trước khi t́m hiểu về nguồn gốc và ư nghĩa của chữ "Ba" mà tôi chọn làm chủ đề cho bài viết với tựa là "Triết lư Bà Ba", mời bạn hăy đọc qua bài phiếm luận sau đây :
"Thiệt t́nh mà nói, cái chữ văn minh nó bao quát lắm. Cô nào mà bị ba cái bà má chồng, hay má ruột khen là “lóng rầy mầy văn minh quá rồi nha” th́ đừng có tưởng là được khen. Mà nếu nói là bị trách th́ cũng chưa hẳn đúng, v́ có nhiều khi cô này văn minh thiệt th́ sao. Ba cái bà má quê đâu có học hành đỗ đạt ǵ cao nên có thiếu văn minh như mấy cô cậu trên thành trên tỉnh về th́ có khen ai văn minh quá, nhiều khi lại là khen thiệt. Khen hay chê nó c̣n tùy thuộc vào cái giọng điệu lên xuống nữa. Bả mà nhấn mạnh rồi kéo dài ở chữ “Quá” là chết rồi.
Mà văn minh là ǵ ? Thôi để ư làm chi ba cái chữ rắc rối đó, nó ngoài tầm để tâm của người dân thường rồi. Nói ba lơn chơi th́ được chứ bầy đặt nói văn hoa chậu kiểng th́ bị người ta phê b́nh rồi nếu có căi cọ qua lại th́ biết đâu lại bị đá cho lọi gị hay gẫy ba sườn. Gẫy ba sườn là gẫy ba cái sườn hay là ba sườn bị gẫy, mà tại sao sườn người ta lại bị gọi là ba sườn. Khó hiểu quá.
Nói vậy chứ ăn nói ba lơn, ba chớp ba nhoáng c̣n đỡ hại hơn là ăn nói ba xạo. Đi t́m hiểu chữ ba trong nền văn minh miệt vườn mà cứ ba hoa, xạo tới xạo lui th́ thiên hạ ai mà tin rồi đọc tiếp nữa. Xạo riết nhưng cứ tiếp tục th́ đúng là đồ ba gai , ba trợn rồi, hay v́ xỉn xỉn ba xị rượu đế nên coi trời bằng vung, nói tới nói lui người ta cũng không biết ḿnh nói ǵ, lúc th́ nói này lúc th́ nói nọ, đúng là cái thứ ba phải.
Đúng ổ rồi ! Bây giờ người ta biết chữ ba từ đâu ra rồi ! Thứ nhứt là Đúng, thứ hai là Sai, c̣n không sai không đúng, làng nhàng th́ chắc chắn phải là thứ Ba cho nên người ta mới nói người không có lập trường đàng hoàng là đồ ba phải.
Có lẽ vậy chăng v́ người ḿnh hay gọi mấy chú chệt trong khu xóm là mấy anh ba tầu. Mà mấy anh này th́ dễ tính lắm, buôn bán dễ chịu số một, ai có than văn ǵ cũng “ngộ biết, ngộ biết”, ai có phê b́nh đúng sai, ngon dở ǵ cũng “nị nói đúng rồi”. Nếu sai cũng là đúng và đúng cũng là đúng mặc dù sai không phải là đúng mà chú chệt này đều dạ dạ th́ không phải ba phải th́ là ǵ, cho nên gọi chú chệt là ba tầu th́ có ǵ là phản lại ba cái nhận định này đâu. Không đồng ư hả ? không đồng ư th́ ra ba ṭa quan lớn mà kiện. Ba búa, ba đá thiệt.
Nhưng không được rồi ! Vậy chữ ba trong ba chớp ba nhoáng từ đâu mà ra, nó là những con số chứ không có liên quan ǵ đến đúng sai. Cũng kỳ, thịt ba rọi, ba chỉ th́ người ta đếm được ba cái lằn thịt mỡ hay thịt nạc rơ ràng, c̣n chớp và nhoáng th́ đâu có dừng lại ở ba cái đâu mà người ta lại nói là ba này ba nọ, sao không nói là năm chớp sáu nhoáng cho nó nhiều nhiều.
Nói đến số nhiều, người ḿnh cũng tiếu lâm thiệt ! Cái ǵ mà sợ đến nỗi phải dùng tới ba chân bốn cẳng để chạy. Chạy như vậy nhanh hơn hay sao, rồi đào đâu ra cái chân thứ ba, thứ tư để ráp vô mà chạy. Ba xạo vừa vừa thôi chứ. Chạy ba chân chắc chỉ nhanh bằng xe ba gác hay con ba ba là cùng. Lỡ xạo rồi, dân ḿnh c̣n gồng ḿnh nói rằng con người ta có ba hồn chín vía nữa mới là khó chứng minh cho rơ chín cái vía để khoe ông bà.
Nói cho cùng, có một chữ ba mà khó giải thích mặc dù nói đến hàng ngày đó là chiếc áo bà ba. Chắc không phải là ba tà đâu, trước hai sau một, nhưng có lẽ v́ nhiều anh ba có tới ba bà nên tới bà thứ ba th́ hết khả năng may áo dài cho bả rồi nên để mặc đại áo cánh để làm việc cho gọn.
Người ta nghiệm ra một điều t́nh cờ nhưng đắc ư, đó là chữ anh ba. Chữ anh ba khi dùng nó có điềm chỉ cái ǵ t́nh cảm, khác hẳn chữ anh hai có vẻ quyền uy lư trí và anh tám th́ lại là người nói dai nói nhiều. Bởi vậy người ta mới có bài ca có câu cậu ba (không phải cậu tư, cậu năm đâu nha) và chị hai, hai chị em ở nhà quê có mái tóc bạc trắng như nhau. Rồi chị hai ngồi nhổ ba cái sợi tóc sâu cho em, nghe mủi ḷng người bôn ba hải ngoại. Nghe t́nh cảm quá, nước mắt dầm dề. Nữa ! Cái chữ ba ở chữ bôn ba mới độc. Có phải "ba" là sóng, là ra khơi như những con thuyền vượt sóng gọi là ba đào để rời xứ mà lang thang đất khách quê người không, rồi lê cái thân ba ch́m bẩy nổi cho đến ngày tàn, chôn thân dưới ba tấc đất không. Chôn mà sâu có ba tấc đất th́ là chôn nông rồi, tội cho anh ba quá. Mà đợi chi đến ngày tàn, lúc bệnh hoạn đau yếu rồi mới bôn ba. Nên đi chữa ngay thầy Ba cầu Bông hay ghé chị Ba Hàng Sanh nghe chỉ dậy chửi lúc đau bịnh th́ kéo dài thêm cuộc sống. Nói đến ba đào, người ta lại nghĩ đến thơ tầu có chữ yên ba, rồi phong ba (băo táp). Mà thôi, đang nói về văn minh người ḿnh, nên quên mấy cái chữ nửa nạc nửa mỡ đó đi.
Trở về chữ ba ch́m bẩy nổi, người ḿnh chắc không giỏi về khoa học, nên nói lộn, chắc phải là ba nổi bẩy ch́m mới đúng sách vở chớ. Tưởng tượng người ta có ba khúc, xuống nước mà nổi tới hai khúc từ đầu gối trở lên th́ giống Tề Thiên Đại Thánh đang đi trên nước quá v́ nếu không phải là ổng mà là người thường th́ hai phần nổi nặng hơn một phần ch́m, té liền.
Nói về người mà c̣n lộn như vậy, nói về thức ăn c̣n lạ hơn nữa. H́nh như người ḿnh dùng chữ ba cho nó dễ đọc, chứ không có chủ ư tả h́nh tả cảnh ǵ hết. Thí dụ như cái con giống con c̣ng mà ta hay làm mắm mặn ăn với cơm nguội hay cơm nóng là con Ba Khía. Đố ai mà t́m được ba cái khía ở con c̣ng giống con cua này.
Nói cho ngay, chắc người ḿnh dùng chữ cho vần hay theo thói quen nói dễ dăi thôi, chứ cái ǵ cũng chắc đúng, ba bó một giạ th́ hết cái bóng bẩy của ngôn ngữ rồi. C̣n t́nh cảm cũng vậy, nếu hết thẩy các câu chuyện t́nh mà lúc nào người nào cũng ba mặt một ḷng th́ đâu có người phải buồn rầu ba cái chuyện yêu đương rồi ghen bóng ghen gió, buồn tới buồn lui, rồi làm thơ đăng trên ba cái báo lá cải như ..cho bà con đọc.
Cái câu ba mặt một ḷng này, đọc qua th́ không thấy có ǵ nhưng nếu nghĩ kỹ th́ nó mang nhiều cái ư nghĩa của văn minh miệt vườn thiệt.
Qua mấy đoạn trên ai dám nói người miền Nam giản dị hơn hay không sâu sắc như người … ngoại quốc (!!! ai vậy?). Nói thế là chưa được dịp biết đến cái cửa ngơ của văn minh miệt vườn qua cái chữ Ba đáng yêu. Người nào mà giải thích được tại sao chữ Ba lại được dùng một cách nhiều dạng nhiều nghĩa thay v́ chữ hai, tư, năm hay sáu..., hay tại sao được dùng, hay đôi khi chỉ là chữ đệm trong ngôn ngữ miệt vườn, th́ người đó đúng là dân văn minh thứ thiệt, tóc chắc chắn phải là để dài búi tó rồi. Tui xin ngả nón chào. (nguồn email)
Cảm ơn tác giả vô danh nào đó đă viết bài phiếm luận về ba cái chữ Ba này để gợi ư cho tôi có dịp trả lời với tác giả và với phần đông để đừng nói là hầu hết người Việt ḿnh mà tôi nghĩ chắc cũng không biết tại sao ḿnh lại cứ nói hay cứ đệm chữ Ba vào ngôn ngữ hàng ngày, đến độ tác giả bài này gọi là "Chữ Ba trong văn minh miệt vườn".
Nhưng trước khi trả lời thắc mắc về căn bản ngôn ngữ này, tôi thiết tưởng cần nhắc lại cho mọi người cái quan niệm nền tảng về vũ trụ và nhân sinh của tổ tiên Việt tộc từ ngàn xưa, mà ư nghĩa của nó được đúc kết qua tiếng "vài ba" hoặc "lưỡng tham" tức ‘hai ba’ nói theo Việt hay nếu nói theo Nho là "tham thiên lưỡng địa", tức ‘3 trời 2 đất’.
Nhưng ai cũng thấy chỉ có một trời một đất, như từ xưa đến nay ông bà tổ tiên chỉ nói "đầu đội trời, chân đạp đất", thế th́ tại sao lại bảo là 3 trời 2 đất ? Như vậy có nghĩa là ǵ ?
Thưa, đó là nguyên lư thiên quân hay là quy luật biến động tự nhiên, mà tôi gọi là "quân b́nh động" của trời đất. V́ dựa trên kiểm chứng của hai nhà vật lư học Trung Hoa là Lư Chánh Đạo (Tsung-Dao Lee) và Dương Chấn Ninh (Chen Ning Yang) đă được giải thưởng Nobel về Vật Lư năm 1957 qua thí nghiệm cho nổ nhân nguyên tử để phân ră hạt nhân ‘beta’ và hạt ‘meson pi’ thành hạt ‘muy’, th́ thấy những tia vi tử (phóng xạ) của âm và dương điện tử có độ dài không bằng nhau, và đo được độ dài của tia vi tử âm và vi tử dương có tỉ lệ 2/3. Và khi đem một nguyên tử khác chặn các tia vi tử ấy, tia dương phát ra 3 tia và tia âm phát ra 2 tia nhỏ.
Cùng với quan niệm về Vũ Trụ của tổ tiên Việt tộc từ ngàn xưa là "vô cực nhi thái cực" mà trong Kinh Dịch chương Hệ Từ thượng đă có ghi : "Thị cố Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái định cát hung, cát hung sinh đại nghiệp.", cho nên Thái cực là Một (cả) với Lưỡng nghi là Hai, do đó 1+2=3. Đó là nguyên lư cơ bản và căn bản của quy Luật Tự Nhiên, c̣n gọi là nguyên lư Mẹ (vạn vật chi Mẫu) với đặc tính song trùng lưỡng hợp gọi là "Lưỡng Nhất Tính". V́ vậy lưỡng nghi là cặp đôi tương giao, tương hỗ, tương sinh, tương khắc,… của mọi sự, mỗi vật để biến dịch, với nhiều tên khác nhau như âm-dương, vợ-chồng, hỏa-thuỷ, kim-mộc, quỷ-thần, vũ-trụ, không (gian)-thời (gian), không-có, tượng-h́nh, t́nh-lư, thể-dụng, chẵn-lẻ hoặc cơ ngẫu hay tinh thần-vật chất, dĩ văng-tương lai, v.v… tuỳ thời, tuỳ thể, tuỳ nơi mà gọi tên… nhưng cũng là Thiên-Địa (Trời-Đất), và chung quy cũng là Nhất Thể hay Nhất Bổn. Do đó Việt ḿnh mới nói : "Nhất bổn tán vạn thù ; vạn thù quy nhất bổn" c̣n Nho th́ nói : "thiên địa vũ trụ vạn vật nhất thể" hay "nhân tâm thiên lư hồn nhiên nhất thể". Nói cách khác Thiên-Địa-Nhân chính là "Tam Tài Nhất Thể".
Thiết tưởng cũng cần nhắc lại ở đây một cách giới hạn trong khuôn khổ bài viết này cái ư nghĩa bao la của những chữ Thiên, Địa, Nhân c̣n gọi là Tam Tài, mà tôi nghĩ hầu hết người ḿnh đă hiểu bằng nhục ảnh với con mắt hay với lư trí một cách đơn giản như Thiên là Trời với nghĩa trời cao tận mây xanh, c̣n Địa là Đất với nghĩa đất giẫm dưới chân và trải ra trước mắt, c̣n Nhân là người ta mà ḿnh nh́n thấy như ông đi qua bà đi lại. Nên đó là lối hiểu thông thường của đại quần chúng, v́ không có học Đạo nên c̣n đầy thiếu sót để đừng nói là sai lạc đối với nghĩa nguyên thuỷ rất bao quát và phổ biến. Cho nên ở đây tôi chỉ mạo muội diễn tả theo sự hiểu biết giới hạn cái nghĩa chính của ba cái chữ Thiên-Địa-Nhân đó.
Nói một cách nôm na Thiên có nghĩa là cái Tính Thể vô biên nên c̣n mập mờ chưa rơ nét để có thể thành h́nh (ư niệm) trong lư trí, v́ thế kinh Dịch viết : "tại thiên thành tượng" ; do đó để có thể hiểu chữ Thiên tổ tiên đă dùng h́nh tṛn (thiên viên) làm biểu tượng với h́nh ảnh "Mẹ Tṛn". Nên "Mẹ Tṛn" không phải là mẹ có thai, có bầu với cái bụng ph́nh tṛn như có người đă tưởng lầm và hiểu sai, nhưng Mẹ Tṛn chính là ư nghĩa Thiên với nguyên lư Mẹ.
Hay nói cách khác "Thiên chỉ thị b́nh diện vũ trụ có tính cách phổ biến, vượt không gian, nên được quan niệm như cái ǵ trống rỗng, thái hư nhưng lại chứa vô cùng những khả thể chưa hề xuất hiện chưa hề mặc lốt h́nh nên được quan niệm là sẽ đến, v́ thế Thiên đi với tương lai." (Kim-Định/VTNL), nên Thiên chỉ tinh thần hay cơi âm vô h́nh, vô biên… chỉ tiềm thức (Chí).
Nhưng nghĩa chính của chữ Thiên là (nơi xuất phát ra) cái gốc của Đạo (Thiên Đạo= Đạo Trời), như câu : "Đạo chi bổn nguyên xuất ư Thiên" ; hay là nghĩa Trời sinh Đức nơi ta : "Thiên sinh ư Đức dư" ; hoặc "Thành giả Thiên chi Đạo dă" : có nghĩa thành giả tức thành người là do Đạo Trời. Nên mấy câu đó cho ta thấy cái nghĩa chính của Thiên là ư nghĩa Đạo, Đức, Nhân là do Trời, tức do con người Đại ngă Tâm linh chứ không do ư thức của con người tiểu ngă.
C̣n Địa là cái "khả thể" của Thiên một khi đạt viên măn (Dung) th́ thành cái Dụng tức là cái hữu h́nh, hữu hạn (địa phương) như Kinh Dịch viết : "tại địa thành h́nh" ; do đó biểu tượng của Địa là h́nh vuông (tứ địa) và h́nh ảnh "Con Vuông" được dùng để biểu thị cho Đất. Nên nghĩa của Địa chỉ ư thức (Ư) là b́nh diện lư trí thuộc vật chất, nghĩa là những năng lượng dính liền với vật lư, với thiên nhiên, đă có h́nh tích, nên gọi là dĩ văng. Do đó mới có thành ngữ "Mẹ Tṛn Con Vuông" là có ư muốn nói cầu chúc cho ai đó thành Nhân, tức thành Người. V́ con người không sống ư thức với Nhân tính nơi ḿnh th́ chưa phải là Người !
"Nhân là ǵ ? Thưa là "thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội", nghĩa là có một cái nhịp, tuy mới là tiết nhịp uyên nguyên c̣n rất phổ biến như thiên địa, âm dương, quỷ thần… Nhưng sau đó lại có thêm một động tác là giao, là hội… Như vậy tuy c̣n rất mung lung nhưng ít ra cũng có cái sơ nguyên tượng (hốt hề hoảng hề kỳ trung hữu tượng) th́ con người đă có thể y cứ. Và khi nói "Cứ ư Đức, Y ư Nhân" th́ ta mới hiểu rằng phải cứ vào cái Đức phổ biến, cái Đức của Đất của Trời, nghĩa là "lớn lao cao cả" nhất. Đó gọi là "thiên địa chi đức", rồi xác định thêm một đợt nữa : cái Đức đó biểu lộ ra bằng tác động giao, hội. Tuy c̣n mung lung lắm v́ là âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, âm dương th́ đâu không có, quỷ thần cũng vậy "thần vô phương" biết đâu là cơi bờ, thế nhưng nếu xác định thêm sẽ trụt xuống hàng tư riêng cá biệt th́ tức là nơi bé nhỏ co thắt mà người ta tạm gọi là lư tưởng, là nhân đức." (Kim-Định/Tâm Tư)
Do đó mới nói : “Nhân giả kỳ Thiên Địa chi Đức”, tức Người là cái Đức của Thiên Địa, hay Nhân là cái Tâm của Thiên Địa : "Nhơn giả Thiên Địa chi Tâm dă". Nói cách khác Nhân là sự giao hỗ tụ hội của hai khía cạnh Thiên Địa làm nên Tính Bản Nhiên, v́ con người không là một bản thể cô lập, cố định đứng ngoài Trời Đất mà chính là cái Đức, cái linh lực của Trời Đất. Hay c̣n có thể nói người chỉ là tương quan của âm và dương, nên quan trọng là ở nơi phát xuất tác động : giao, hỗ của hai nguồn linh lực Thiên Địa đó nơi con người, cho nên bản chất của con người cũng chính là biến Dịch.
Phải Vô thể mới Có thể biến hóa (Dịch) để hội thông trong Nhất thể. Đạt độ biến dịch cùng cực gọi là "Dịch vô thể", tức không có ǵ cụ thể để gây ứ đọng mới thực là biến dịch. Đó là ư nghĩa sâu xa tại sao gọi người là "Thiên Địa chi Đức". Phải là Đức, là linh lực vô thể mới biến hóa được. Phải là Đức của Trời cùng Đất th́ tầm biến hóa mới thâu khắp hoàn vũ, xê dịch cùng nơi, không đâu không ở : "vô hồ xứ giả", Trời cũng như Đất. Thần có vô phương th́ Dịch mới vô thể. Dịch có vô thể th́ mới đạt Thần. Thần với Linh là một. Người ta quen gọi là Thần Linh. Hiểu được Thần là hiểu được Linh, tức cũng là hiểu được Nhân Tính. Nên Nhân Tính là tiến đến chỗ làm con người cho hết các chiều kích của người, tức chiều kích vô biên để đáng gọi là "nhân linh ư vạn vật".
Nói cách khác phải tiến hoá cùng cực (chí trung) mới nói được câu : "vạn vật giai bị ư kỷ" nghĩa là "vạn vật có đủ nơi ḿnh". V́ vậy khi bảo phải trở lại với ḿnh "doăn chấp kỳ trung" là bảo trở lại với nguồn mạch uyên nguyên tinh ṛng phong phú đầy hoan lạc không ǵ sánh kịp. Nên chỉ khi nào đạt ư thức biến dịch hay cảm thức được người như tương quan giữa Trời cùng Đất, th́ mới thành Nhân, mới là chân Nhân.
Nên vong thân là đánh mất tương quan, đánh mất biến Dịch tức cũng là đánh mất Nhân Tính. V́ Nhân Tính cùng với Đạo Thể là Toàn Thể Viên Dung, và v́ Nhân thiết yếu bao hàm linh, mà linh là cái ǵ tham dự vào Toàn thể gọi là Tâm linh. V́ vậy để tránh vong thân "phải thân nhi thành". Để tránh "vật giao vật" phải đạt "thiên địa nhân giao hỗ kỳ căn". Tam tài giao nhau ở căn để chứ không ở ṿng ngoài. Ṿng ngoài là vật giao vật. Ṿng trong mới là giao hỗ kỳ căn. Căn là Tâm con người. V́ thế mới nói "tâm chi quan tắc tư". Và chỉ có cái Tư trên căn để đó mới đắc đạo, đắc lư, đắc nguồn suối tuôn trào sáng láng và mạnh mẽ. V́ vậy mới nói : "Thiên địa chi tâm nhân nhi dĩ hĩ", nghĩa là đạt được Tâm của Trời Đất tức là đạt được Nhân vậy.
Ở trên đă nói dĩ văng thuộc Địa, tương lai thuộc Thiên, c̣n hiện tại ở đây và bây giờ là thuộc của Nhân. Nên nói "Nhân là nói đến sự cảm thức được mọi giao thoa của Thiên Địa (hay dĩ văng và tương lai) tức là cảm thấu triệt và hiện thực được bằng cái Đức, cái linh lực tức cái sống sung măn. Khi đạt tŕnh độ đó th́ là đạt lối sống của con người toàn diện bao gồm cả dĩ văng (hiện tượng) cả tương lai và những khả năng vô tận nhưng c̣n tiềm ẩn. Muốn được thế cần phải phát triển đồng đều và đầy đủ Ư, T́nh, Chí đi với Địa, Nhân, Thiên. Tuy nhiên con người thường chỉ sống hời hợt có mặt ngoài theo những hiện tượng, ít khi đi lên được hai đợt sau. Sự sống đó ta kêu là lư hay nói theo danh từ triết là ư niệm. Ư niệm là ảnh h́nh của các vật thể riêng rẽ cá biệt nên sống theo ư niệm gọi là sống tán tức thiếu mối liên hệ với toàn thể vũ trụ, v́ mối liên hệ này chỉ khởi xuất từ khi địa (ư niệm) giao thoa với thiên (chí) qua nhân (t́nh) nên cũng là nơi giao hội của trời cùng đất." (Kim- Định/VTNL)
Đó là ư nghĩa nguyên thủy của Tam Tài với Thiên-Địa-Nhân, mà tôi gọi là "Triết lư Bà Ba" (Bà v́ là nguyên lư Mẹ, và Ba v́ là Tam Tài ; nên chiếc áo Bà Ba là cũng từ đó), và người ḿnh gọi là "Đạo Ba". V́ vậy tổ tiên đă đúc kết vào ngôn ngữ và ẩn giấu qua ca dao để chuyên chở cái Đạo "ba sinh" đó (ba sinh=Thiên Sinh, Địa Sinh, Nhân Sinh, hay c̣n nói Thiên Sinh, Địa Dưỡng, Nhân Ḥa) vào Đời hầu nhắc nhở người ta sống "Đạo làm Người" :
Cùng nhau cho trọn đạo ba
Thà là ĺa thác, chẳng thà ĺa sinh
Làm người giữ trọn đạo ba
Sau dầu có thác cũng là thơm danh
Gặp em đây, anh dặn mấy lời
Ba sinh hương lửa, muôn đời chớ quên.
Chẳng qua duyên nợ ba sinh
Mơ màng ngó xuống cơi trần làm chi
Dù cho đá nát, vàng phai
Ba sinh phải giữ lấy lời ba sinh
T́nh c̣n vương nợ ba sinh
T́nh ơi (!) Có gỡ cho t́nh mấy không
Nhớ lời hẹn ước ba sinh
Xa xôi ai có thấu t́nh chăng ai (?)
Mới hay duyên nợ ba sinh
Nhà giàu cướp cả cái t́nh đôi ta
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Vào chùa thắp một tuần hương
Do đó người ḿnh mới nói ba điều bảy chuyện mà lúc nào cũng đệm với ba cái chữ Ba đến độ làm cho ai đó lấy làm chủ đề cho bài phiếm luận trên, và không những nêu lên thắc mắc về nguồn gốc chữ Ba mà c̣n lại hỏi tại sao lại đi nói : ba chân bốn cẳng hay ba ch́m bẩy nổi hay ba hồn chín vía. (?)
Thưa v́ tổ tiên đă quan niệm những số lẻ 1, 3, 5, 7, 9 chỉ Thiên, là số Trời, và những số chẵn 2, 4, 6, 8, 10 chỉ Địa, là số Đất, là những "huyền số" v́ Thiên với Địa ở đây hiểu theo đợt căn cơ là âm dương, chẵn lẻ hoặc cơ ngẫu, không phải để đo khối chất đếm số lượng nhưng để biểu thị phẩm tính nên nó rất uyển chuyển, lưu linh chứ không là số của toán học có giá trị vật chất tuyệt đối. Nên khi nói ba chân bốn cẳng th́ "ba" có nghĩa là Trời và "bốn" có nghĩa là Đất, tức có ư nói chạy mau (lẹ) như quỷ thần, v́ con người là "quỷ thần chi hội" theo như định nghĩa ở trên.
C̣n tại sao lại nói "ba ch́m bẩy nổi" ? Thưa như theo quan niệm vừa nói trên th́ số 3 là số Trời, số 4 là số Đất nên 3 với 4 thành 7. "Số 7 chỉ con người đạt cả nội thánh (3) và ngoại vương (4). Có vượt được 7 nấc thang tiến hóa đó th́ lúc nhắm mắt xuôi tay, việc đưa xác xuống đặt dưới đất mới có ư nghĩa là trở về địa mẫu. V́ Địa mẫu cũng chính là "hoàng thiên hậu thổ". Và hai chữ "thiên viên" số 3 cộng với "địa phương" số 4 lại xuất hiện lần cuối cùng dưới h́nh thức chùm sao "thất tinh" được khắc trong cái ḥm, để làm thành cái xe long mă Hà Đồ chở Người sang cuộc đời sinh sinh bất tuyệt. Và v́ thế giờ chết được gọi là lúc "sinh th́", nghĩa là lúc khởi đầu cuộc sinh sinh, tức trở lại với Toàn thể Viên Dung nơi hội thông của Tam tài: Trời Đất, Người tượng bằng Thập tự nhai đặt giữa Lạc thư." (Kim- Định/Tâm Tư)
"Kinh Dịch nói phất phơ: "thất nhật đắc" (sau 7 ngày sẽ đắc đạo), và trong quẻ Phục, tượng viết: "phản phục kỳ đạo, thất nhật lại phục"… Cái đạo lư của sự trở về là đến đợt thứ bảy sẽ tới tự do lai suất (tức Nguyên tính của ḿnh)". (Kim- Định/VTNL)
Cho nên thành ngữ "ba ch́m bẩy nổi" có ư muốn nói sự dằng co giữa sự muốn quy tâm hướng thiện và tánh ù ĺ tự nhiên không muốn tu thân trong mỗi người. Nhưng sau này người ta không c̣n ư thức phải tu thân nên chỉ c̣n hiểu với nghĩa thông thường là trôi theo ḍng đời (lưu tục) lênh đênh không chiều hướng v́ đầy trở ngại khó khăn.
C̣n tại sao lại nói ba hồn chín vía ? Để có thể hiểu đúng nghĩa câu nói này tôi xin trích lại sau đây đoạn nói về "hồn" với "vía" v́ phần đông người ḿnh hay nói thuộc ḷng hai chữ "hồn vía" này mà ít ai hiểu rơ vấn đề này trên b́nh diện triết lư để có thể phân biệt được :
"Con người được định nghĩa như là “thiên địa chi đức” th́ trong câu “tinh khí vi vật” chỉ cái đức của Địa. Con câu “du hồn vi biến” chỉ cái đức của Thiên. Du hồn kết hợp với tinh Khí làm nên con người. Nói kiểu thông thường th́ tinh khí là xác thân c̣n du hồn là hồn linh. Tuy hồn linh là tinh thần nhưng phải tuân theo luật biến dịch : nhất hạp nhất tịch : một đi vào thế giới vật chất, một nữa cùng với vật chất thăng hoa đi vào thế giới thần linh.
V́ thế mà cần phải “du” là đi xuyên qua những ǵ ? Theo Kinh Dịch th́ hồn ở đợt thần, mà thần ở đợt âm dương “âm dương bất trắc chi vị thần”. “Bất trắc” không đo lường được, chỉ đo lường được từ khi có h́nh thái và chỉ có h́nh thái ở đợt tứ tượng. Với tứ tượng chúng ta mới khởi đầu có ư niệm về một vật ǵ, v́ có ư niệm bao nắm một h́nh thái nào đó, vậy nếu mới là âm dương bất trắc th́ cùng với thần là một, v́ “thần vô phương” nên cũng bất khả đo lường. Nhưng v́ hồn đă nằm trong cuộc biến hoá nên phải xuyên qua các đợt để đi hết một ṿng : từ âm dương bất trắc xuống đến đợt âm dương khả trắc là xác thân hay những vật hiện ra h́nh tích ở các đợt giữa biểu thị bằng (2 ô) tứ tượng và bát quái. Những đợt đó trong con người sẽ gọi là “vía” và “phách”. Theo luật “loại tụ” th́ một loại chỉ có thể tác động trong một b́nh diện khi có những khí cụ cùng một loại với b́nh diện đó. Thí dụ muốn tác động trên b́nh diện hiện tượng th́ phải có khí cụ cùng loại hiện tượng và xác thân. Theo luật “loại tụ” này th́ mỗi khi hồn đi qua đợt nào th́ cần phải mặc cái vỏ làm bằng chất của b́nh diện ấy. Vậy khi hồn khơi cuộc du hành trong cơi biến hoá th́ đợt đầu tiên phải bước vào là đợt từ vựng ở đây hồn mặc cái vỏ ngoài là “vía”." (Kim-Định/LTMT)
Nên khi nói "ba hồn" tức là có hồn của Thiên, của Địa với của Nhân là "ba", và "chín vía" v́ số căn bản chỉ có tới 9 là tận cùng, nên số 9 (=3x3) chỉ Thiên với nghĩa biến dịch vô cùng. V́ vậy trong truyện nhân thoại ông Bàn Cổ có câu : "nhất nhật cửu biến" tức một ngày biến đổi chín lần, mỗi lần biến là lớn lên 10 thước, có ư nói cái sống của con người là cái sống biến hóa dâng trào cuồn cuộn chảy xiết như Trời Đất. Do đó tất cả không gian trở thành không gian sống, vũ trụ trở thành vũ trụ của con người tự làm lấy, “thành giả tự thành dă, nhi đạo tự đạo dă” (T.D. 25), tức là "tự thành, tự đạo" nên nói hơi ông Bàn Cổ thở ra thành gió, thành giông, cái liếc nh́n của ông thành sấm chớp là ư nghĩa Nhân chủ vậy. Cho nên ở đây ba hồn chín vía có ư nói con người phải biết tự tài, tự tác, tự cường,… để sống biến hóa để "tự thành" Nhân với Trời Đất và như Trời Đất. Đó là ư nghĩa của quẻ Càn trong Kinh Dịch "Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức". Nhưng ngày nay con cháu đă không c̣n ư thức cái tuyệt học của tiền nhân thánh hiền là cái học Đạo (Đại Học chi Đạo), nên đă không thể hiểu nổi ba hồn chín vía là ǵ và chỉ c̣n biết nói đệm thuộc ḷng chữ Ba một cách máy móc sai lạc xa với Đạo để đừng nói là tào lao !
Ước mong với những gịng hơi dài này nhưng c̣n nhiều thiếu sót là chút tia sáng để soi đường cho những ai muốn học Đạo để t́m về Cội Nguồn tức là t́m lại Nhân tính của ḿnh. Và cách hay nhứt là : “Tự thành minh vị chi tính ; tự minh thành vị chi giáo. Thành tắc minh hĩ ; Minh tắc thành hĩ ”(T.D. 21), “Tự Thành tới Minh là tính (tức tính tự nhiên, hiểu là lương tri chứ lư trí con người chưa có phần tham dự vào). Tự Minh tới Thành là giáo tức là giáo hóa, học hành, (tức lư trí con người đă có tham dự vào rồi), tôi gọi đó là triết, triết mà tới minh th́ là Minh Triết tức có sự tham dự của lư trí và thành tựu.” (Kim- Định/TPĐN)
Viết xong, ngày 5 tháng 10 năm 2010.
(tức 28 tháng 8 năm Canh Dần)
Nguyễn Sơn Hà
Bookmarks