Vào một buổi sáng đầy nắng của Tháng Chín, Patty Fallone và một người bạn đang cuốc bộ dọc theo Park Avenue ở New York, th́ một người đàn ông chặn họ lại. Ông ta hỏi: “Các chị có nghe nói về chiếc máy bay đâm vào ṭa Tháp Đôi chưa?”.
Nếu bộ mặt ông ta không nghiêm chỉnh đến thế, th́ câu hỏi này chắc chắn sẽ bị liệt vào loại bông đùa để mở màn cho một câu chuyện. Cả hai người phụ nữ đều chưa biết ǵ về các cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9, nên khi nghe người đàn ông đưa tin, chỉ trong tích tắc họ hiểu ngay tầm quan trọng của vấn đề.
Patty ngước mắt nh́n về hướng nam. Bên kia ṭa nhà Met Life, cách đó mấy dẫy phố, nàng thấy khói bốc ra từ Khu Hạ Manhattan.
“Chúa ôi” nàng buột miệng nói, dù không được ai báo tin, “chồng tôi chắc chết”. Patty biết chắc: nếu các xúc cảm của nàng lúc đó lộ ra trên nét mặt, th́ sự biểu lộ ấy sẽ hằn vào tâm trí người khách lạ suốt đời.
Đột nhiên, thế giới của Patty diễn ra thật chậm chạp. Mới 35 tuổi, Patty như người vô hồn bước ra khỏi lề đường xuống phố, giữa những luồng xe cộ đang thi nhau vượt qua; người bạn vội kéo nàng trở lại lề đường, và d́u nàng hẳn vào phía trong.
Từ căn pḥng của bạn, nàng gọi cho Trường St Ignatius Loyola nơi 4 đứa con của nàng đang học. Nàng dặn nhân viên nhà trường đừng nói ǵ với bày trẻ trước khi nàng tới.
Sau đó, nàng gọi cho bác sĩ rồi ngồi thừ trước màn ảnh truyền h́nh. Trong cơn hốt hoảng, nàng không c̣n nhớ rơ Anthony, 39 tuổi, chồng nàng, một người buôn bán chứng khóan tại Cantor Fitzgerald, làm việc ở Bắc hay Nam của Ṭa Tháp Đôi.
Nàng nghĩ ḿnh phải t́m được xác chồng. Nhưng khi chứng kiến ṭa tháp thứ hai xụp đổ, nàng thấy điều ấy không cần thiết nữa.
Khi nàng tới nơi, trường St Ignatius đă đầy phụ huynh. Điều này làm nàng hơi bỡ ngỡ v́ nàng có cảm giác các biến cố này chỉ diễn ra cho riêng nàng mà thôi. Có ai mất người thân không? Nàng tự hỏi.
Phần đông các học sinh được đưa tới pḥng tập thể dục. Nhưng các con nàng, Katie 11 tuổi, Alexandra 10 tuổi, Anthony 7 tuổi và Patrick, 5 tuổi, vừa mới bắt đầu trọn ngày đầu tiên học lớp vườn trẻ, th́ được đưa tới văn pḥng hiệu trưởng. Khi các con bước vào, Patty có linh cảm chúng đă biết rơ hung tín rồi.
Được vị hiệu trưởng nhà trưởng, một tâm lư gia, và linh mục Walter Modrys, S.J., lúc ấy là cha xứ giáo xứ St Ignatius Loyola, tháp tùng, Patty đăm đăm nh́n các con. Nàng c̣n nhớ như in khuôn mặt đứa con gái út.
Chẳng c̣n ǵ để làm ngoài việc cho các con biết sự thật. Nàng nói: “Ṭa nhà nơi Bố làm việc bị đánh xập và Bố đă qua đời”. Giọng đầy hy vọng, một đứa bảo: “Biết đâu Bố thoát được hả má?”. Nàng buông thơng: “Bố không thoát được”.
Nh́n quanh gian pḥng nơi có những người lớn khác ngồi, nàng thấy không ai trả lời cách khác. Nàng tự nghĩ: ḿnh phải lo liệu lấy thôi! Quay qua các con, nàng nói tiếp: “Má c̣n đây. Chúng ta c̣n đây. Chúng ta được an lành. Má c̣n đây để săn sóc các con”.
Đường về nhà thật xa
Patty cùng các con đợi ở nhà người bạn chờ ai đó đến lái xe đưa về nhà tại Roosevelt Island, một giải đất dài 2 dặm nằm giữa Manhattan và Queens.
Gia đ́nh Fallones vốn là thành viên tích cực của cộng đoàn đa dạng nhưng rất gần gũi nhau này. Thành thử, ngay giữa cảnh tang chế, Patty vẫn ưu tư lo lắng cho những người đàn ông đang làm việc tại tiệm thịt nguội của cộng đoàn, một người gốc Ai Cập, một người gốc Palestine.
Nàng hy vọng không ai trong họ trở thành mục tiêu của kỳ thị và hận thù trút không đúng chỗ. Nàng muốn cộng đoàn của nàng, “cái thế giới tí hon đa dạng” của nàng, nàng vẫn gọi như thế, không biến mất như người chồng thân yêu của nàng.
Roosevelt Island là một nơi mà ngay những người Patty không biết cũng mỉm cười với nàng và với Anthony, chồng nàng. Sự hiện diện của Anthony trong cộng đoàn này c̣n lớn hơn cả đời thực. Con trai Patrick của vợ chồng nàng từng theo lớp mẫu giáo tại trường công của cộng đoàn, và các bà mẹ luôn duy tŕ mối liên hệ gắn bó.
Cho nên, trong các ngày tiếp theo cuộc tấn công 11 tháng 9, không ai ngạc nhiên khi các bà mẹ này kéo nhau tới nhà Patty thăm hỏi. Họ cùng ngồi lại với nhau, và theo đề nghị của một bà, họ nắm tay nhau cùng đọc một kinh ngắn.
Thế là các phụ nữ, cả người theo Do Thái Giáo, người theo Kitô Giáo lẫn người theo Hồi Giáo, cùng tham gia lời cầu nguyện hàn gắn.
Mười ngày sau cuộc tấn công, theo yêu cầu của Patty, một nhóm c̣n đông hơn nữa tụ họp nhau để cử hành một cuộc tưởng niệm có tính liên tôn.
Thánh Lễ Công Giáo cầu cho Anthony chỉ được tổ chức vào ngày hôm sau, nhằm ngày Thứ Bẩy. C̣n hôm nay, Patty muốn có buổi tưởng niệm bao gồm cả cộng đoàn nơi gia đ́nh nàng vốn sinh sống. Em trai và em gái chồng hoài nghi không biết có cần phải tổ chức một buổi tưởng niệm như thế hay không.
Nhưng Patty th́ nhất quyết “Đây là việc gia đ́nh chị cần làm, đây cũng là điều cộng đoàn chị cần phải làm”. Thế lả gia đ́nh chồng nàng ai cũng tham dự. Và khi thấy trẻ em hàng xóm ngồi tréo chân trên sàn nhà, chung quanh bàn thờ, của ngôi nhà nguyện đại kết, họ rất mừng là ḿnh đă tham gia.
Ngày hôm sau, cách nơi nàng được tin về cái chết của Anthony khoảng 20 dẫy phố, một Thánh Lễ tưởng niệm chàng đă được tổ chức tại Nhà Thờ St Ignatius Loyola.
Bên ngoài nhà thờ, đội kèn bao (bagpipes), do một bà mẹ của trường thuê bao, chơi một bài tang chế buồn bă. Khung cảnh rất cảm động, nhưng cũng là khung cảnh làm một số bạn bè rất Ư Đại Lợi của Anthony tự hỏi không biết ḿnh có tới đúng địa điểm hay không
. Khung cảnh bên trong th́ đúng rồi: nhà thờ chật ních bạn bè và các gia đ́nh có con em học trường nhà xứ cũng như những người cần một nơi chốn để thương tiếc, một nơi để cảm thấy Thiên Chúa gần gũi hơn.
Patty luôn cảm nhận được một liên hệ gần gũi với Thiên Chúa.
Nàng rất tích cực tham gia sinh hoạt giáo xứ, dự các buổi tĩnh tâm và có cảm thức mạnh về sự tốt lành của thế giới. Và lạ thay, nàng thấy cái chết của Anthony, cả các cuộc tấn công lẫn những người khủng bố đều không thay đổi được cảm thức ấy. Không thể thay đổi được nó.
Nàng cũng rút tỉa được sức mạnh từ ḷng tin tưởng của Cha Modrys vào khả năng nàng có thể đương đầu được với những chuẩn bị tang chế này cũng như cuộc đời trước mắt. Patty bảo: “Hăy để con làm điều con cảm thấy cần phải làm”.
Nhưng khi chuẩn bị cho nghi lễ, nàng nói với cha: “Xin thú thực với cha, con không t́m được phấn khích nào từ sách thánh; chính đức tin vào Chúa đă nâng đỡ con qua các biến cố này”. Cha Modrys đành chọn các bài đọc. Patty có những chọn lựa khác phải làm.
Nàng chọn không đổ lỗi cho Chúa. Nàng chọn lợi dụng tối đa hoàn cảnh hiện nay của nàng. Hàng ngày, nàng chọn thức giấc vào mỗi buổi sáng và cương quyết tiếp tục sống. Nàng bảo: “Tôi cảm thấy như người ta ai cũng muốn thấy ta o.k., và nếu ta o.k. th́ họ cũng o.k. Nhưng không thiếu người không biết họ có o.k. hay không”
Nói một cách chính xác, làm thế nào để mọi chuyện o.k. là một trong những câu hỏi mà Patty phải đương đầu trong nhiều tháng sau cuộc tấn công 11 tháng 9. Những câu hỏi ấy không có giải đáp dễ dăi, nhất là những câu hỏi do Anthony, con trai nàng, đặt ra trước khi đi ngủ.
Nó thường hỏi má, tại sao lại có người lái máy bay đâm vào ṭa nhà để sát hại một ai đó? Patty suy nghĩ một hồi. Đáng lẽ nàng có thể đổ lỗi cho nhiều thứ: chiến tranh, chủ nghĩa khủng bố, tôn giáo. Nhưng nàng biết: câu hỏi ở đây là về ḷng hận thù, nó cưỡng bức người ta phải làm ǵ, nó làm con người hư rỗng ra sao.
Nên nàng bảo con: “Cũng giống như Star Wars, con ạ. Con có sức mạnh và phía tối, điều này trong ta ai cũng có.
Điều làm cho Anakin hướng về phía tối chính là anh ta đă tức giận và hận thù, thế là phía tối chiếm hữu anh ta. Chúa Giêsu bảo ta phải chiến đấu chống lại bóng tối ở trong ta để duy tŕ con người tốt ở bên trong”.
Câu nói ấy không ngờ có hiệu nghiệm với cậu bé 8 tuổi. Nhưng đối với Patty, cuộc chiến giữa bóng tối và ánh sáng, giữa thiện và ác, không khởi nguyên từ phim ảnh Holywood mà từ nền thần học sâu sắc.
Nàng bảo: “Điều trọng yếu là ta có ư chí tự do. Thiên Chúa rơ ràng cho phép ta tự do chọn điều ḿnh làm. Nếu mỗi lần có lỗi lầm mà Người bước vào can thiệp, chẳng hóa ra tự do không có. Nuôi dậy con cái cũng thế: bạn muốn dưỡng dục để chúng trở thành những người trưởng thành hạnh phúc, tự lập, tự chủ. Bạn đâu chỉ muốn một dịch bản cũ mèm ngày chúng 12”.
( C̣n tiếp...)
Bookmarks