Anh Luông không cao, có lẽ hơi thấp th́ phải. Chân hơi ṿng kiềng. Tóc hơi quăn, nói rất là nhanh, và có cái tật là vừa nói vừa lấy tay ấn vào một lỗ tai rung rung, như anh bị ngứa tai lắm th́ phải.
Lúc ấy, năm 1945, anh đă có gia đ́nh và đă có hai con, một gái và một trai. Cháu trai có tật nói lắp bắp. Anh làm việc tại Viện Đại học Hà Nội. Lương bổng chắc cũng nh́ nhằng.
Anh đi làm bằng xe đạp, và chị Luông, vợ anh là một cô hàng guốc ngay ngoài cửa chợ Đồng Xuân. Chị cao, gầy, tuy là con gái Hà Nội thật đấy mà răng vẫn là răng đen.
Con gái Hà Nội lúc ấy hầu như vẫn chưa lột bỏ hẳn cái áo tứ thân của đồng nội, ăn mặc vẫn nhiều màu nâu hơn là những màu sắc tươi tắn khác, như câu vè lúc ấy:
Tân thời chả đáng là bao
Năm xu đôi guốc, một hào đôi hoa.
Con gái Hà Nội đi guốc. Và chị Luông tôi là cô hàng guốc.
Phải chăng chị đă đóng góp một cách cụ thể vào vẻ đẹp của con gái Hà Thành.
Chị ngồi trước một gian hàng nhỏ, la liệt các kiểu guốc đủ kiểu. Đôi guốc gỗ một, gỗ vông, quai da là của đàn ông chân chỉ. Guốc gỗ, sơn then, phẳng đáy vẫn là của đàn ông, loại đàn ông có ăn có học.
Bên cạnh đó vẫn có các đôi dép da trâu cũ, cho các bà nhà quê. Nhưng phần lớn guốc của chị là guốc cho các cô. Guốc cao gót sơn then đen bóng, quai chéo, đóng bằng cái đinh tán lớn, là guốc cho các bà, các cô tân thời. Một vài đôi guốc gót thật là cao, gót nhọn, người ta bảo “gái nhảy mới đi loại guốc này”.
Nhưng vui mắt nhất là các đôi guốc cho trẻ con, đủ cỡ, đủ màu. Êm ả như đôi guốc sơn dầu có vẽ h́nh con cá vàng trong ḷng guốc, ấy là guốc cho các cô gái nhỏ, lên bảy, lên mười. Sặc sỡ màu sơn xanh đỏ, quai tím, quai vàng là guốc cho các em c̣n bé, lên ba, lên năm...
Chị ngồi thoăn thoắt, vừa bán vừa cầm cái búa đóng quai vào guốc.Nhát búa nào cũng chỉ một nhát là đinh lút cán, đinh không cong queo. Chị buông búa, lấy con dao to bản và có h́nh như một quả xoài, chị đưa một đường, phần quai guốc thừa rơi ra ngọt xớt.
Lúc ấy tôi mới ngoài 10 tuổi, ra cửa hàng của chị để xem chị bán hàng th́ ít mà để chị gọi quà cho ăn th́ nhiều.
Thấy tôi, chị cười, “ăn bún nhá...” Không để tôi trả lời, chị gọi ngoái ra phía sau, gọi bà bán bún: “Này, cho em tôi một tô bún riêu...” Bát bún riêu cua, loại bát loe miệng, thắt lại ở giữa gọi là bát chiết yêu.
Những lọn bún nhỏ, trắng ngần cuốn lại với nhau như những quả trứng, một mảng gạch cua màu nâu được múc khéo léo nằm ngay giữa bát, bên cạnh vài miếng cà chua đỏ nấu hơi nhừ. Vài cọng húng xanh ngắt được bày lên. Bát bún bốc khói nghi ngút. Nước bún th́ nóng mà các lọn bún lại lạnh, nên ăn bún vào mùa đông cũng ngon v́ thấy được vị ngọt, nóng và hơi cay của nước canh. Mùa hè nuốt lọn bún lạnh vào thấy mát cả ruột Và hàng bún chả nữa. Những gắp chả được lật qua lật lại. Mỡ nhỏ xuống các miếng than hồng, bốc khói bay thơm lừng...
Năm 1946, cả Hà Nội tản cư. Chúng tôi có quê, nên về quê lánh nạn.
Tôi thích lắm. Được trở lại quê nhà sung sướng bao nhiêu. Những hôm trời không có trăng, nh́n về Hà Nội một vùng ánh sáng, mà nhớ đến câu hát một thời “Hà Nội mà cháy khói lửa ngập trời”.
Chị Luông tôi từ Hà Nội về quê, có đem theo được một số hàng là guốc đủ loại. Tất nhiên, không thiếu hộp đinh, cái búa và con dao h́nh quả xoài.
Chị đem ra chợ Nửa bày bán. Tết đến, hàng của chị thật đông, bán chưa đến hôm chợ Tết chị đă hết hàng. V́ không có ai làm guốc cung cấp cho chị nữa, chị thu dọn hàng.
Nhưng năm ấy, năm 1947, Tết đến, dù là Tết kháng chiến làng tôi rộn ràng tiếng guốc của chị Luông tôi. Tôi cũng có một đôi guốc mới. Nhưng sau Tết, sau những đêm liên hoan đón mừng bộ đội, cả vùng lại rộn rịp lo tản cư.
Người thành thị th́ lặng lẽ “dinh tê” về thành. Cuộc sống mỗi lúc mỗi thêm khắc khổ và lo lắng. Anh Luông tôi th́ ở lại Hà Nội chiến đấu “quyết giữ Hà Nội thủ đô ta”.
Nhưng mấy tháng sau, anh cũng như các thanh niên thuộc trung đoàn Thủ Đô đă bỏ Hà Nội. Anh Luông tôi đă về lại được quê gặp được vợ con. Anh lại ở ít ngày rồi lại phải “theo anh em đi công tác”.
Chị Luông tôi và hai con và bà cụ thân sinh ra chị sống giữa làng Nửa mà lo lắng, bơ vơ. Guốc đă bán hết, lấy ǵ mà sống. Một đêm, tôi thấy chị thổi cơm thật khuya, nắm lại. Quần áo buộc lại gọn gàng vào mấy cái bị. Và sáng ra, lúc tôi tỉnh dậy, nhà đă vắng. Tôi biết gia đ́nh chị đă lặng lẽ dinh tê về Hà Nội.
Gia đ́nh chị đă về Hà Nội, c̣n anh Luông tôi th́ đi biệt tăm. Cuộc chiến mỗi lúc mỗi gần. Rồi Tây về càn quét. Rồi du kích đêm đêm bắc loa kêu gọi mọi người đi đào đường để cho xe tăng địch khỏi đi lại được. Rồi các người khả nghi bị giết.
Tiếng súng lẻ loi ban đêm. Những ai có máu mặt, có uy tín một chút là sợ hăi, chưa biết khi nào du kích đến bắt đi.
Một hôm anh Luông tôi ở đâu về, cùng với mấy người bạn nữa. Người th́ có cái sáo, người th́ có cái kèn Harmonica, người th́ có cái đàn Mandoline. Tất cả đều là thanh niên Hà Nội, và trong đó có một chị, tóc cắt ngắn, mặc áo nâu nhưng thắt chẽn ở lưng.
Họ về, Thầy tôi bảo làm cơm đăi. Ao cá trước nhà, ban sáng cá nổi lên bóp bọt. Lấy cái lưới xúc lên. Con th́ rán, con th́ nấu với khế chua và th́ là. Họ ăn vui lắm.
Cơm xong, các người khác đi ra đ́nh làng để sửa soạn cho buổi nói chuyện và liên hoan ban tối. Anh Luông tôi ở lại, nằm đắp chăn lên cơn sốt. Cơn sốt xong, anh lại tỉnh như không.
Thầy tôi gọi anh lên nhà trên, nói với anh điều ǵ đó, tôi không biết. Nh́n vẻ mặt hai người lúc đi ra hiên, tôi chắc là không vui. Thầy tôi vào gian bên, mở tủ ra, lấy lọ thuốc kư ninh màu vàng, đưa cả cho anh và nói: “... ấy là chú thấy thế th́ nói thế. Anh nên suy nghĩ cho kỹ.
Thời buổi nào th́ cũng lấy nhân nghĩa làm trọng. Chứ cứ như thế này... thôi, chú cho cả lọ thuốc này, cất đi mà dùng. Nhớ là khi phải dùng đến nó th́ nhớ đến lời chú nói mà về...”
Anh Luông tôi cầm ống thuốc, cất vào túi áo trong “cám ơn chú”, rồi lấy ba lô đi ra đ́nh. Anh đi lặng lẽ, buồn bă, bước những bước lặng lẽ từ cổng trong tới cổng ngoài. Trước khi rẽ mặt ra đường cái, anh dừng lại, ngoảnh lại nh́n tôi, anh đưa tay vẫy vẫy, rồi bước đi.
Tôi đứng đó rất lâu. Khi nh́n lại, tôi thấy Thầy tôi vẫn đứng ở trước hiên nhà, vẻ mặt lặng lẽ. Không hiểu sao trong tôi lúc ấy bỗng trống vắng thế nào. Và đó là h́nh ảnh cuối cùng tôi có với anh Luông.
Anh, sau đó, nghe đâu đi vào mặt trận Hạ Lào, và không bao giờ về nữa. Không biết anh có dịp dùng đến các viên thuốc kư ninh quư hiếm mà Thầy tôi đă để dành cho anh?
Như bao nhiêu thanh niên thời đại, anh Luông đă v́ yêu nước mà ra đi. Bao nhiêu người đă ra đi và chẳng trở về. Làng tôi sau đó phải trải bao nhiêu là cay đắng, tang thương.
Tôi lớn dần lên và trở ra Hà Nội học lại. Chị Luông tôi lại là bà hàng guốc ở cửa chợ Đồng Xuân.
Mỗi lần đến thăm chị, tôi không c̣n dám ngồi ăn bún nữa, mà chị cũng chẳng mời nhiều. Chị đă coi tôi là người lớn. Chị khi vắng khách có hỏi tôi: “Từ quê, em có tin ǵ của anh không...” Chị thở dài buồn bă... “Anh đi như thế đă mấy năm.”
C̣n tiếp...
Bookmarks