Page 10 of 17 FirstFirst ... 67891011121314 ... LastLast
Results 91 to 100 of 168

Thread: Lê Duẩn đă nói ǵ về " bọn bành trướng Bắc Kinh " ?

  1. #91
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Quan Điểm của Ông Ngô Đ́nh Nhu về Hiểm Họa Xâm Lăng của Trung Cộng (II)

    Sat Nov 07, 2009 4:00 pm
    Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu

    (II)
    Chính Sách Ngoại Giao
    Có lẽ,trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đă không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đă kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày xưa qua những ḍng dưới đây:
    Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lănh đạo của chúng ta.Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lư thuộc quốc.
    Hai lần Lư Thường Kiệt và Nguyễn Huệ t́m cách đả phá không khí lệ thuộc đó.Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lănh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.
    Tâm lư thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại c̣n lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng.Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, th́ đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc.Tâm lư đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go.Đă đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công tŕnh mà dân tộc đă thực hiện được.Nhưng chúng ta c̣n thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn th́, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy.Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển?Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đă sớm phát ra nhiều ngơ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến.Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đă rộng răi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn.
    Nhưng thực tế là vậy đó.Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lănh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó.Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cơi về phía Nam .
    Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lănh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng răi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là v́ các nhà lănh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lư thuộc quốc đă đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta.Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa.Chúng ta đă biết Trung Hoa đă hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn.Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đă lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam .
    Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đ́nh, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đ́nh, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho ḿnh.
    V́ thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đă tŕnh bày, th́ cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đă mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, th́ có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.
    Sự bành trướng của chúng ta đă thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lư ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.
    Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta.Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, th́ ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lănh thổ.
    Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đă bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương.Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lănh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.
    V́ vậy cho nên, chốngngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam .Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng răi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa th́ lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao.Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay v́ mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân.Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đă đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lănh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.
    Chính sách chống ngoại xâm.
    Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy.V́ sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lănh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?
    Trước hết, các biện pháp cổ truyền đă đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam .So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam , và như thế,đương đầu phải là mục đích đương nhiên, th́ chúng ta đă thất bại rồi.Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoăn binh.Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta.V́ thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đă không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.
    Lư do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự.Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nh́n nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn.Và ngày nay, độc lập rồi, th́ nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.
    Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được.Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.
    Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc.Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
    Nếu ư thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm năo của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, th́ các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ư chí quật cường của cả một dân tộc.
    Nhưng ư chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lănh đạo th́ cũng không làm ǵ được đối với kẻ xâm lăng.V́ vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lănh đạo, và, điều này c̣n chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lănh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.Bởi v́, có như thế, những người lănh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được.Tiêu diệt người lănh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.
    Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lư luận đă dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.
    Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.
    Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao.Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ư thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
    Sự thể đă như vậy, th́ đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được.Bởi v́ bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm năo của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ư chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.
    Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lănh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.
    Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ư thức của mọi người, th́, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm.Bởi v́, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lănh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng.Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.
    Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mănh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay v́ lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đă nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.
    Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Măn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lănh đạo đă khêu gợi được ư chí tự do và độc lập của toàn dân.
    Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đă nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam .V́ những lư do tŕnh bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứtrên những lư thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lư, mà sẽ được qui định một cách rơ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với tŕnh độ phát triển của dân tộc.
    Nếu bây giờ chúng ta chưa có ư thức rơ rệt chính thể ấy phải như thế nào, th́ ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được.Đó là một thái độ rất rơ rệt.
    Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây:
    (C̣n tiếp 1 kỳ)

    Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
    Melbourne, 1. 11. 2009

    Nguồn:
    http://nguoivietphanlan.forumotion.com/t33-topic

  2. #92
    Member Truc Vo's Avatar
    Join Date
    11-08-2010
    Posts
    907

    Quan Điểm của Ông Ngô Đ́nh Nhu về Hiểm Họa Xâm Lăng của Trung Cộng (III)

    Sat Nov 07, 2009 4:00 pm
    Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
    (III)
    Biện pháp ngoại giao.
    Việt Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên minhkhu vựcnhư khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…v́ ngày nay theo khuynh hướng toàn cầu hóa của thế giới, th́ ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sồng c̣n đối với Trung Cộng, hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây.
    Ngày nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường quốc không c̣n gay cấn như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64%dân số thế giới, đang vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái B́nh Dương mà c̣n là một hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng đă đề cập đến vấn đề này,
    Không phải t́nh cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đă long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. (Tr. 157)
    Trong tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đă cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để kư Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Pḥng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lănh thổ, phải chăng là thái độ nước đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải:
    Sau khi Trung Hoa bị tấn công, th́ lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội vă gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rơ rệt hơn nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lư thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào.(tr. 181).
    Lẽ ra, các nhà lănh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, th́ ít ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rơ ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Duong9 và Mă Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên 2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa số… Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này ra trước Ṭa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice at The Hague). Mục đích không phải là t́m kiếm một phán quyết của ṭa án này cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới
    Chúng ta c̣n nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đ́nh Diệm, Nhóm chốngTổng Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đă vận dộng các quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài G̣n, để khỏi gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đă phá vỡ âm mưu này bằng cách chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, th́ Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đă xen vào nội bộ của Việt Nam và đă tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng 12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc tŕnh này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đă đồng ư làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed to do so as a personal favor to Lodge), v́ trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Lodgelà bạn của ông.[7]
    Như vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họađe dọa sinh tử đến vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để t́m hậu thuẩn của thế giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ?
    Nhưng thực tế, chúng ta rất đau ḷng, khi thấy, các nhà lănh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đă đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực vậy, nếu ngày xưa các vua chúa Triều Nguyễn, v́ quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đă trở nên tự tôn và thiển cận, th́ ngày nay các nhà lănh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lư luận giai cấp đấu tranh, đă trở nên mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, c̣n về phương diện quốc nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phất triển quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn chính trị gian trá và xăo quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rơ rệt khi nh́n về lịch sử Việt Nam Cận và Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, kư hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ đă vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam . Đến năm 1973, một lần nữa, họ đă lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Ḥa Hợp và Ḥa Giải Dân tộc. C̣n đối với quốc tế, khi kư hiệp định Paris , họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của ḿnh. Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, th́ họ đem quân xóa sỗ chinh phủ Sài G̣n…Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai c̣n có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lănh đạo miền Bắc bị đuôi mù bởi lư thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. C̣n về phương diên quốc tế, v́ thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm,nên họ đă liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân loại. Thực vậy, lâu dài nhất v́ cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ 1914-1918, Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945,và khốc liệt nhất ,v́ số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là lúc họ đă thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam .
    Đối với những nhà lănh đạo có một năo trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có được một viễn kiến chính tri sâu sắc, một chinh sách ngoại giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm t́m nhũng đồng minh hữu hiệu, để rồi cùngvới sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mănh để chống lại hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng
    Biện Pháp Quân Sự
    Hiện nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ c̣n có tinh thần để hy sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng kiến những thực trạng xă hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lănh tụ của họ t́m mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đ́nh và phe nhóm, c̣n tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đinh bộ độiCộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử cận đại Việt Nam,từ trước tới nay, nghĩa là c̣n cơ cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lănh đạo Hà Nội có c̣n ư chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại xâm nữa hay không? Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời b́nh luận của Carl. Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam , tại Học Viện Quốc Pḥng Hoàng Gia Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lănh đạo Hà Nội đă trở nên quá giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đ́nh của họ hơn.. cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất thêm một ít lănh thổ và lănh hải ở phía Bắc không c̣n là vấn đề quan trọng với họ nữa !
    Biện Pháp Chính Trị
    Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ư thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đă biện giải vấn đề này như sau:
    Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ư thức quốc gia và dân tộc.Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lănh đạo, để cho vấn đề lănh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
    Và sau cùng ông Nhu đă đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ,một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay, không thể nào thành công được.
    Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lănh vực tin học và khoa học kỹ thuật, c̣n trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và ḥa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, ḥa b́nh và thịnh vượng cho toàn thế giới, th́ các nhà lănh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lănh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không c̣n ai có thể chống đối lại họ được.
    Với những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không c̣n cơ may để thay đổi thành phần lănh đạo tại Bắc Bộ Phủ, thi vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ c̣n là vấn đề thời gian.

    Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
    Melbourne, 1. 11. 2009

    [5]Nước Úc trong bản ngân sách 2009-2010, đă gia tăng hơn 6.6.tỉ bạc (từ 19.8 tỉ lên 26.4 tỉ), để gia tăng khả năng không lực và hải quân nhằm bảo vệ lănh thổ. Điều này khiến chính quyền Nam Dương phải quan ngại, sau đó chính phủ Úc đă phải lên tiếng trấn an.
    C̣n Thái Lan trong bản ngân sách 2008, ngân sách dành cho Bộ Quốc Pḥng đă tăng lên tới 4.5 tỉ US dollars, đă quan mặt cà Nam Dương và Mă Lai về chi phí quốc pḥng.
    Tân Gia Ba trong bản ngân sách 2009, họ cũng đă dành đến 34% cho ngân sách quốc pḥng. Nhưng từ lâu Tân Gia Ba, có lẽ, đă thấy trước được hiểm họa xăm lăng của Trung Quốc, nên họ đă có những thỏa hiệp liên kết quân sự với Hoa Kỳ từ năm 1990 với thỏa hiệp MOU và đến 2005 họ đă kư hiêp ước Hợp Tác Quân Sự với Hoa Kỳ. Nam Dương đă để chi phí quốc pḥng vào hàng ưu tiên thứ 3 trong bản ngân sách 2008 với ngân khoản là 3.3 tỉ US dollars.
    C̣n Mă Lai, muc tiêu của ngân sách 2008, dành ưu tiên cho phúc lợi toàn dân, nên chi phí quốc pḥng phải bị cắt giảm tối đa, nhưng riêng chi phí dành cho Không Lực Mă Lai, không bị cắt giảm mà lại c̣n được gia tăng từ 1,482 tỉ Mă kim lên đến 1,613 tỉ Mă kim để gia tăng khả năng pḥng thủ quốc gia.
    [6] Giáo sư Bửu Hội là một phật tử và thân mẫu của giáo sư là Sư Cô Diệu Huệ, lúc đó Giáo sư được Tổng Thống Diệm cử làm trưởng phái đoàn đặc biệt tại Liên Hiệp Quốc từ tháng 9. 1963, đặc trách về cuộcKhủng Hoảng Phật Giáo.
    [7] Theo sự tiết lộ cùa Bà Swarna L. Ganawardene, con gái cùa Sir Senerat, trong thư gởi cho Bà Anne Blair, (một đồng nghiệp của người viết tại Đại Học Monash trước đây), vào tháng 11. 1989. Và cũng có thể xem thêm Điện văn số 2444 từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi cho Ṭa Đại Sứ MỹSaigon, ngày 11. 12. 1963 dưới tiêu đề Gunawardene’s killing the debate. xem Anne Blair, Lodge in Vietnam, A Patriot Abroad, New Haven, Yale university Press, 1995,tr. 78.
    Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu

    Nguồn:
    http://nguoivietphanlan.forumotion.com/t33-topic

  3. #93
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Sinh sau đẻ muộn thì nên bắt chước.

    Quote Originally Posted by Dr_Tran View Post
    Dear Nhân Dân Tự Vệ, phe NVHN chưa ai hiểu các điều trên. Hoặc vài người hiểu nhưng không đủ tâm trí để làm.
    Viết ra một bản HP là việc rất khó, cực kỳ khó.
    Trong không hơn 30 trang phải bao gồm hàng triệu vấn đề trong đó, việc KHÔNG viết ra cũng quan trọng như việc viết ra.
    Tại các topics của VL, có ít nhất 3 người tuyên bố sẽ viết HP8, 9, 10, để đem so với HP7. Họ nói đâu cũng hơn tháng nay, chưa thấy đâu cả, ngay cả phần cái Preamble.
    Tôi rất thông cảm, và cho dù 1 năm, 10 năm sau họ không viết ra đuợc, th́ tôi cũng không trách. HP mà dễ viết như vậy th́ xă hội loạn mất, do sẽ có 1 triệu bản tranh nhau.
    Có người hỏi 1 nhà thơ, "ông mất bao lâu mới làm xong 1 bài?"
    Ông này nói "40 năm".
    Người khi ngạc nhiên, "lâu vậy sau, tháng nào ông cũng cho ra thơ mới mà".
    Nhà thơ trả lời "tôi phải học đánh vần, học thơ cú, đọc cả trăm ngàn bài thơ khác, phải t́m thầy giỏi mà học, làm 1000 bài mới có 1 bài công bố, phải SỐNG và có KINH NGHIỆM SỐNG mới viết ra được".

    Cũng vậy, tôi phải đọc hàng chục ngàn quyển sách, nghiên cứu rất nhiều năm, chỉ môn Triết Tây phải đọc ít nhất 1000 quyển sách của các Triết gia lớn, tuy không đọc từng trang nhưng phải đọc hiểu ư chính. Ngoài ra c̣n chính trị, quân sự, xă hội, văn chương, v.v...
    Nhưng quan trọng nhất là SỐNG và có KINH NGHIỆM SỐNG.
    Số phận đưa đẩy, tôi đi Nhật, Hàn quốc, Singapore, Hồng kông, Úc, Pháp, Đức, Thụy sĩ, và hơn 20 nước khác. Tôi quan sát, học hỏi, hiểu rất rơ cơ cấu hành chánh G7, phân tích ra, Pháp có ǵ hay hơn Mỹ, Mỹ hơn Pháp, và Úc th́ thế nào, v.v...
    Như vậy, khi ngồi xuống viết HP, tôi mới có thể H̀NH DUNG ra thể chế chính trị VN sau này nên ra sao, mở rộng đường cho Lào, Cambodia sát nhập thế nào (chỉ cần nhập vào, gởi đại diện lên Quốc hội, tham gia bầu cử), tránh ÁM SÁT chính trị bằng phương pháp cao minh nào, v.v...
    Chứ những người chưa đọc, hoặc đọc ít, sách Triết, các môn khác, chưa đi nhiều nước, không có khiếu văn chương trong nhiều ngôn ngữ, chưa có KINH NGHIỆM SỐNG nhiều và đáng kể, v.v... th́ làm sao mà viết lên nổi.
    Phe NVHN phải mau mau viết cho xong 1 bản HP, nếu không sẽ bị bỏ lại phía sau và trở nên IRRELEVANT trong cuộc chạy đua nước rút dành dân chủ xă hội cho VN.
    Họ có thể dùng bản của tôi, càng tốt, tôi không ngại và không cầu chứng bản quyền.

    Điều này thì nên làm như phát minh công nghiệp .
    Một anh da đen bên phi châu ngồi vò đầu bức tóc để sáng chế ra cái máy may thay cho may tay..không biết đến bao giờ mới xong .

    Sinh sau đẻ muộn, cái tốt nhất là bắt chước, rinh một cái hảo hạng của Tây phương về, rồi làm nhái .

    Trong công nghiệp kỹ nghệ, thằ̉ng Nhật xuất sắc về bộ môn này nhất. Nhật Bản không có phát minh nào đáng kể, tất cả hàng hoá Nhật đều bắt chước Tây Phương ,và làm xuất sắc hơn

    Hiến Pháp quân chủ lập hiến Nhật Bản do ông Tướng chiếm đóng Nhật là Mac Arthur soạn, mô phỏng theo hiến pháp Hoa Kỳ, chính trị gia Nhật gọi là hiến pháp Mac Arthur (Đúng ra là Ông tướng Mac Arthur giao cho một nhóm luật sư soạn)

    Muốn soạn Hiến Pháp cho nước VN tương lai, hãy coi các Quốc Gia nào giống tình trạng nước mình, có một một hiến pháp hay, luật lệ hợp lý, hợp dân tộc tính của dân tộc mình, Thì bắc chước

    Chả ai giống y hệt, thì pha trộn hai, hoặc ba, lấy cái nào hợp với hoàn cảnh dân tộc, loại bỏ cái không hợp (ex: không chấp nhận cho mua súng thoải mái, không chấp nhận đa thê, không chấp nhận hợp thức hoá mãi dâm).

    Giao cho nhóm luật sư làm, nhọ́m nào nghiên cứu phần chuyên môn nhóm đó (EX: Luật sư chuyên về hình sự thì tham gia khảo cứu các bộ luật hình sự của các quốc gia lấy làm mẫu)

    Bb cả đời nghiền ngẫm thì biết đến bao giờ mới hoàn chỉnh .

  4. #94
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Nếu có một chế độ mới, tập hợp , tuyển lựa các Luật sư , các nhà làm luật VN trong và ngoài nước, thành lập Quốc Hội lập Hiến, soạn ra một bộ luật căn bản gốc gồm bao nhiêu điều gì gì đó.
    Xong giải tán quốc hội lập hiến, thành lập chính phủ tam quyền phân lập dựa trên luật của quốc hội lập hiến vừa mới công bố .

    Phải có quân đội và Cảnh Sát-Công an bảo vệ thi hành luật.

  5. #95
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Để có đoàn kết dân tộc: Thượng tôn pháp luật, Hiến Pháp có trước, đảng phái có sau .

    Đề nghị một công thức để dân tộc được đoàn kết : Đó là tinh thần thượng tôn Pháp Luật, Hiến Pháp có trước, đảng phái có sau .

    Các đảng phái phải được thành lập sau khi có luật, nội quy, cương lĩnh , tổ chức của mỗi đảng phải tuân theo luật pháp quy định .Do đó hoạt động của các đảng phái sẽ không đi ra ngoài pháp luật, không dẫm chân lên pháp luật ,những mâu thuẫn giữa các đảng phái nếu xảy ra thì vẫn có thể dùng luật để giải quyết , sẽ không phải xảy ra những mâu thẩn đến mức độ thù địch, không đội trời chung .

    Những đảng phái thành lập theo ý riêng trước khi có một luật chung, rất dễ xảy ra xung khắc đến mức độ thù địch, không đội trời chung.

    Có 2 trường hợp xảy ra khi đảng phái được thành lập trước khi có hiến pháp của một chính phủ thành lập sau đó:

    1/ Nếu lực lượng đảng phái yếu hơn lực lượng của chính quyền lập ra hiến pháp. các đảng phái thường xuyên dẫm chân vào hiến pháp sẽ bị cấm hoạt động như trường hợp TT Ngô đình Diệm cấm các đảng phái Quốc Gia hoạt động .
    2/ Nếu lực lượng đảng mạnh hơn lực lượng của chính quyền có hiến pháp, thì xảy ra trường hợp quyền lực của đảng ngồi trên pháp luật như trường hợp của đảng Cộng Sản VN .

  6. #96
    Member
    Join Date
    27-05-2011
    Posts
    187
    Quote Originally Posted by Dr_Tran View Post
    Không hiểu sao Mỹ lại không cho ông Nhu lên làm Tổng thống từ đầu?

    Ông Diệm là nhà tu, đâu có cái gian hùng để làm chính trị.

    Có lẽ Mỹ thấy ông Nhu thân Pháp.
    Ông Diệm lên cầm quyền là nhờ có tham vọng và có "connection" với nhiều nhân vật quan trọng trong chính quyền Mỹ. Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ, được đức Hồng Y Spellman một người quen của gia đ́nh giới thiệu để gặp quan chức Hoa Kỳ trong đó có Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Acheson. Rồi ông Diệm trú ngụ ở Hoa Kỳ cho tới năm 1954, đi nhiều nơi để gặp giới làm chính trị của Mỹ. Nhờ những móc nối này, ông Diệm trở thành chính trị gia Việt Nam mà nhiều người trong giới cầm quyền Mỹ biết đến. Trong khi đó các chính trị gia khác th́ hoặc là người thân Pháp, hoặc thiếu đường hướng rơ rệt. V́ ông Diệm không dính dáng ǵ mấy với chính quyền Pháp, và đặc biệt là không hợp tác với chính sách chiếm lại Việt Nam của Pháp, nhà cầm quyền Mỹ đoán (đúng) là dân miền Nam sẽ sẵn sàng chấp nhận ông là một chính trị gia mới.

    Một điều khác cần nhớ là gia đ́nh ông Diệm rất là có "thớ" thời đó. Ông Ngô Đ́nh Khôi làm chức cao trong chính quyền bảo hộ Pháp. Ông Ngô Đ́nh Thục làm Tổng Giám Mục. Ông bố vợ của ông Ngô Đ́nh Khôi là ông Nguyễn Hữu Bài, đại thần của triều đ́nh Huế (Thượng Thư bộ Công và bộ Lại, và trưởng Cơ Mật Viện). Bởi vậy trong nước cũng có nhiều người ủng hộ ông Diệm.

    Về ông Nhu: ông Nhu c̣n tương đối trẻ năm 1954 (dưới 45 tuổi), và về phương diện hoạt động chính trị th́ không có mấy. Ông ta sống ở Việt Nam và hoạt động về tôn giáo là chủ yếu, nên không phải là người được nhiều người biết.

  7. #97
    Member
    Join Date
    24-03-2011
    Posts
    52
    Quote Originally Posted by chuot_congus View Post
    ..dượng rể của tui lại là Lưu Hữu Phước..
    Dear chuot_congus,
    Lưu Hữu Phước có người cháu tên là Phát gọi Lưu Hữu Phước bằng cậu (cậu ruột), chuot_congus có biết Anh Phát này hiện nay ở đâu? có thể liên lạc được không? Xin cám ơn chuot_congus trước (cám ơn rất nhiều)
    Thân,

  8. #98
    vnvn
    Khách
    Quote Originally Posted by mơtiên View Post
    Ông Diệm lên cầm quyền là nhờ có tham vọng và có "connection" với nhiều nhân vật quan trọng trong chính quyền Mỹ. Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ, được đức Hồng Y Spellman một người quen của gia đ́nh giới thiệu để gặp quan chức Hoa Kỳ trong đó có Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Acheson. Rồi ông Diệm trú ngụ ở Hoa Kỳ cho tới năm 1954, đi nhiều nơi để gặp giới làm chính trị của Mỹ. Nhờ những móc nối này, ông Diệm trở thành chính trị gia Việt Nam mà nhiều người trong giới cầm quyền Mỹ biết đến. Trong khi đó các chính trị gia khác th́ hoặc là người thân Pháp, hoặc thiếu đường hướng rơ rệt. V́ ông Diệm không dính dáng ǵ mấy với chính quyền Pháp, và đặc biệt là không hợp tác với chính sách chiếm lại Việt Nam của Pháp, nhà cầm quyền Mỹ đoán (đúng) là dân miền Nam sẽ sẵn sàng chấp nhận ông là một chính trị gia mới.

    Một điều khác cần nhớ là gia đ́nh ông Diệm rất là có "thớ" thời đó. Ông Ngô Đ́nh Khôi làm chức cao trong chính quyền bảo hộ Pháp. Ông Ngô Đ́nh Thục làm Tổng Giám Mục. Ông bố vợ của ông Ngô Đ́nh Khôi là ông Nguyễn Hữu Bài, đại thần của triều đ́nh Huế (Thượng Thư bộ Công và bộ Lại, và trưởng Cơ Mật Viện). Bởi vậy trong nước cũng có nhiều người ủng hộ ông Diệm.

    Về ông Nhu: ông Nhu c̣n tương đối trẻ năm 1954 (dưới 45 tuổi), và về phương diện hoạt động chính trị th́ không có mấy. Ông ta sống ở Việt Nam và hoạt động về tôn giáo là chủ yếu, nên không phải là người được nhiều người biết.
    Có thể nói TT Ngô Đ́nh Diệm được đưa về và ông ta đă không Đoàn Kết được người Việt Chống Cộng, nên từ năm 55 cho đến 63, một thời gian quá ngắn mà đă có nhiều cuộc Đăo Chánh xăy ra. Điều này chứng tỏ ông ta không phải là một Lănh Tụ tài ba như mọi nguời tôn sùng.
    Nên nhớ thời gian sau Hiệp Định 54, VN sống nhờ vào Viện Trợ của Hoa Kỳ, đừng có Nổ là hơn Nam Hàn, Thái Lan, hay nhửng nuớc khác.....nhửng nước trên họ không có chiến tranh. Và củng nên nhớ rằng miền Nam mới dành Độc Lập từ tay Thực Dân Pháp, dân miền Nam thời bấy giờ là nhửng người mới bị hành hạ thời bị đô hộ và sau cuộc chiến dành Độc Lập như đức trẽ mới được bước đi đầu tiên.

  9. #99
    Member
    Join Date
    24-03-2011
    Location
    New England
    Posts
    710
    Quote Originally Posted by vnvn View Post
    Có thể nói TT Ngô Đ́nh Diệm được đưa về và ông ta đă không Đoàn Kết được người Việt Chống Cộng, nên từ năm 55 cho đến 63, một thời gian quá ngắn mà đă có nhiều cuộc Đăo Chánh xăy ra. Điều này chứng tỏ ông ta không phải là một Lănh Tụ tài ba như mọi nguời tôn sùng.
    Nên nhớ thời gian sau Hiệp Định 54, VN sống nhờ vào Viện Trợ của Hoa Kỳ, đừng có Nổ là hơn Nam Hàn, Thái Lan, hay nhửng nuớc khác.....nhửng nước trên họ không có chiến tranh. Và củng nên nhớ rằng miền Nam mới dành Độc Lập từ tay Thực Dân Pháp, dân miền Nam thời bấy giờ là nhửng người mới bị hành hạ thời bị đô hộ và sau cuộc chiến dành Độc Lập như đức trẽ mới được bước đi đầu tiên.
    Viện trở chủ yếu là việt trợ quân sự . Nam Hàn cũng nhờ vào vie6.n trợ của MỸ . Tuy nhiên, quan trọng là họ dùng tiền đó làm được cái ǵ . Trong lúc Bắc Việt chẳng làm nên cái ǵ . Không thống nhất được các phe chống cộng là v́ Mie^`n Nam cho họ có dân chủ, nếu mà không cho họ có dân chủ mà giết chết hết như Bắc Việt th́ làm ǵ có chống đối .

  10. #100
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929
    Quote Originally Posted by vnvn View Post
    Có thể nói TT Ngô Đ́nh Diệm được đưa về và ông ta đă không Đoàn Kết được người Việt Chống Cộng, nên từ năm 55 cho đến 63, một thời gian quá ngắn mà đă có nhiều cuộc Đăo Chánh xăy ra. Điều này chứng tỏ ông ta không phải là một Lănh Tụ tài ba như mọi nguời tôn sùng.
    Nên nhớ thời gian sau Hiệp Định 54, VN sống nhờ vào Viện Trợ của Hoa Kỳ, đừng có Nổ là hơn Nam Hàn, Thái Lan, hay nhửng nuớc khác.....nhửng nước trên họ không có chiến tranh. Và củng nên nhớ rằng miền Nam mới dành Độc Lập từ tay Thực Dân Pháp, dân miền Nam thời bấy giờ là nhửng người mới bị hành hạ thời bị đô hộ và sau cuộc chiến dành Độc Lập như đức trẽ mới được bước đi đầu tiên.
    Có thể nói TT Ngô Đ́nh Diệm được đưa về và ông ta đă không Đoàn Kết được người Việt Chống Cộng, nên từ năm 55 cho đến 63, một thời gian quá ngắn mà đă có nhiều cuộc Đăo Chánh xăy ra. Điều này chứng tỏ ông ta không phải là một Lănh Tụ tài ba như mọi nguời tôn sùng.

    Thời TT Diệm chống cộng tốt nhất, Tất cả Cộng Sản nằm vùng đều bị thộp cổ, khônggiống như thời đệ II Cộng Hoà, VC nằm vùng như rươi .
    Có đảo chánh vì có Mỹ thọc gậy bánh xe, vì Mỹ không muốn Mỹ đem quân tham chiến tại VN

    Nên nhớ thời gian sau Hiệp Định 54, VN sống nhờ vào Viện Trợ của Hoa Kỳ, đừng có Nổ là hơn Nam Hàn,
    Năm 1960, VNCH đã sản xuất xe hơi La Dalat, trước mẫu xe đầu tiên cuả hãng Huyndai Nam hàn 8 năm .
    Hãy đọc:http://freedomforvietnam.wo rdpress.com/2010/09/12/la-dalat-motors-a-symbol-of-prosperity/



    Nên nhớ thời gian sau Hiệp Định 54, VN sống nhờ vào Viện Trợ của Hoa Kỳ, đừng có Nổ là hơn Nam Hàn,


    Miền Bắc XHCN cũng sống nhờ vào sự viện trợ của Trung Cộng và Liên Xô vậy.

    Trong khi miền Nam no đủ, còn miền bắc đói, phải nhờ Liên Xô mua gạo miến điện cứu.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 2
    Last Post: 19-11-2011, 10:22 AM
  2. Replies: 1
    Last Post: 09-11-2011, 10:20 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 12-07-2011, 10:22 AM
  4. Replies: 0
    Last Post: 07-05-2011, 11:06 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •