[COLOR="blue"][SIZE="4"]....
..........
Người Việt mắc phải sai lầm rất lớn là không dám tính truyện lâu dài (vì chỉ quen suy nghĩ nhỏ).Muốn tính truyện lâu dài cần nhìn lịch sử trong thể thống nhất toàn diện cả ngàn năm đề thấy hướng đi, trong vài trăm năm để thấy sức mạnh của một thế lực nào đó để ta biết mà hành xử cho đúng. Khi quan sát lịch sử Hán hay Mỹ hoặc Nhật, nếu chỉ nhìn vài ba chục năm thực chẳng thấy gì đâu. Những nhà chiến lược tầm cơ quốc tế đều là những người biết nhìn lịch sử hàng nhiều ngàn năm, biết chuyển biến của cục diện một khu vực hay toàn cầu vài ba trăm năm, để trên căn bản đó dự kiến tương lai, biết tỏ tường mỗi thế lực khác nhau sẽ hành động thế nào, kế sách cụ thể ra sao, thời điểm nào sẽ phải sảy ra biến cố nào mới thực phù hợp với điều kiện tiến hóa khách quan.Trên nền tảng đó ta duyệt xét lại thế mạnh của Hán không phải để sợ mà để biết cách trấn áp Hán. Chiến lược lớn đòi hỏi suy nghĩ lớn là vậy.
Tương quan giữa Hán với các lân bang phía nam thay đổi khi nhà Thanh đánh bại nhà Minh nắm quyền cai trị Hoa Lục vào năm 1644, đã đẩy hàng loạt cánh Minh Hương đi lưu vong xuống phía nam dọc theo duyên hải VN. Các đợt thiên di này, lúc đầu là do các cựu quan lại nhà Minh thực hiện thuần túy vì lý do chính trị muốn phục thù cho nhà Minh, sau đó trở thành di dân kinh tế, từ di dân kinh tế trở thành làn sóng xâm lăng trong điều kiện các nước phía nam bị mất chủ quyền về tay các thế lực thực dân Âu Châu nên hoàn toàn không thể đề phòng chống lại làn sóng xâm lăng này của Hán xuất phát từ Hoa Nam là chủ yếu sau đó bao gồm cả tộc Hán ở phía bắc Hoa Lục. Các thế lực Âu Châu khi khai thác thuộc địa tại ĐNA chiếm được 1$ tiền lời thì cánh Hoa Kiều tại chỗ chiếm được 1$50, nông gia các nước chỉ chiếm được 1$00 mà thôi. Cánh Hoa kiều này tuy ít nhưng nắm toàn bộ huyết mạch kinh tế ĐNA là vậy. Cụ thể như tại Phi Luật Tân vào thế kỷ 17 đã có cộng đồng Hoa Kiều tại Manila sống rất giầu có nhờ buôn bán tiền Mễ Tây Cơ với đồng tiền do nhà Minh, nhà Thanh cho lưu hành. Các nhóm Hoa Kiều này, trên bước đường lưu vong luôn dừng chân tại nước ta đầu tiên trước khi đến định cư tại các nước khác trong vùng trước khi di chuyển đến các xứ khác như Âu Châu, Mỹ, Úc cũng như Nam Mỹ để hình thành nước Tầu Hải Ngoại như ta dã biết. Nước Hán hải ngoại mới thực sự là phục binh của Bắc Kinh để Bắc Kinh quyết liệt chủ trương thôn tính thế giới.Trên căn bản đó, khi hai thế chiến bùng phát tại Âu Châu cùng với chiến tranh lạnh suốt 45 năm trong thế kỷ 20 đã tạo điều kiện để Hán củng cố thế lực tại Hoa Lục cũng như khắp nơi trên thế giới. (đặc biệt từ sau năm 1972 khi thông cáo chung Thượng Hải được ký kết đã mở đường cho Mỹ dành quá nhiều ưu đãu cho Hán bất kể Hán chủ trương bành trướng)
Lịch sử Hội Kín đã đạt được nhiều thành quả, nhưng cũng lắm sai lầm nghiêm trọng, một trong các sai lầm đó là đã đẩy chủ nghĩa CS đi vào nước Nga-nông nghiệp-bành trướng theo đúng lịch sử của Nga. Từ lãnh địa Nga chủ nghĩa CS đã lan đến Á Châu trong điều kiện Hán đang nóng lòng muốn khôi phục lại niềm tự hào xưa, thế là bài học CS áp dụng trong xã hội nông nghiệp Á Châu được Mao ứng dụng tuyệt đối với sự tiếp tay của Quốc Tế III mà thực chất chính là chủ nghĩa bành trướng Nga. Nga-Hoa CS hợp lực nhằm đánh bại chủ nghĩa đế quốc Tây Âu, nhưng thực ra lại là củng cố chủ nghĩa bành trướng Hán Tộc. Các mưu kế sau này thực ra chỉ nhằm sửa chữa một sai lầm chết người trong quá khứ mà thôi. Lenin trước khi chết có nói là ông rất ân hận khi đem chủ nghĩa CS vào nước Nga, đó cũng là tâm trạng của cấp lãnh đạo cao nhất của Hội Kín Cựu Dòng Tên là tổ chức đã hình thành Tổng Đàn Illuminati.
Mao ôm lấy chủ nghĩa CS như vũ khí tối hảo trong việc Hán Hoa có một công cụ để nói truyện với mọi thế lực toàn cầu bất kể Nga, Mỹ hay Âu Châu hoặc Nhật Bản cũng như các Tổng Đàn Hội Kín Toàn Cầu. Quan sát chiến lược do Mao chủ trương từ thập kỳ 1930 đến khi chết cũng như những gì mà Đảng CS Hán tại Bắc Kinh thi hành trong thời gian qua đều thống nhất trong chủ trương đó, dĩ nhiên Bắc Kinh phải uyển chuyển tự điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình thế giới vào mỗi thời điểm khác nhau.
Trong thời thế chiến II, CS Mao hợp tác với cả Mỹ, Liên Xô cũng như với Tưởng nhưng vẫn không ngừng ra sức xây dựng mạng lưới tình báo tại khắp nơi trên thế giới đặc biệt nhắm vào khu vực ĐNA. Trong chiến tranh lạnh, Bắc Kinh vừa yểm trợ cho các đạo quân du kích trên phạm vi toàn Á Châu, vừa hợp tác với Liên Xô đánh Mỹ gián tiếp trong chiến tranh du kích tại ĐNA, sẵn sàng bỏ Liên Xô theo Mỹ khi Mỹ thỏa mãn yêu sách hầu như vô giới hạn của Mao (Bắc Kinh biết đánh canh bài này, biết tố khi cần, biết đánh xả láng để thâu lợi tối đa khi có thể được). Do thế, làm sao Đám CS Tầu hiện nay dám gạt bỏ hình tượng tiêu biểu của Mao đối với lịch sử Hán thời cận đại, cho dù mao là bạo chúa kiểu Tào Tháo kết hợp với Tần Thủy Hoàng, đã gây biết bao tội ác đối với dân Hán, nhưng với tính cách là con người chiến lược thì Mao cũng là tay có tài biết đánh bài lớn trên phạm vi toàn cầu.
Trong khi đánh với Pháp tại Đông Dương từ 1945 đến 1954, với Mỹ qua bình phong LHQ tại bán đảo Triều Tiên (1950-53), Mao tất hiểu rằng Mỹ mới là thế lực chính phía sau canh bài lớn tại Đông Dương mà VN là chiến trường chính.
Trong cuộc chơi này, gián tiếp giữa CSVN với Mỹ từ 1954-75, Mỹ chỉ từ thua tới huề; nếu xét trên căn bản toàn cầu thì Bắc Kinh lại càng lợi to, vì Mao đã lợi dụng được sức mạnh Mỹ để quật ngã con gấu bắc cực là Nga-CS-bành trướng, vốn là kẻ thù phương bắc của Hán Hoa. Thế chiến lược trong cuộc cờ kéo dài suốt gần 100 năm qua chính yếu là ước tính chiến lược của Mao trong cuộc chơi lớn với thế lực Phương Tây bất kể là ai, bất kể hội kín nào.Điều này giải thích lý do tại sao, thứ nhất: Mỹ phải nhượng bộ Bắc Kinh về đủ thứ theo đòi hỏi của CS Hán Hoa cho đến lúc này, thứ hai: mọi sự chuyển hướng trong chính sách ngoại giao của Mỹ cũng như kế hoạch toàn cầu hóa cần được duyệt xét rất cẩn thận ngay từng chi tiết, thứ ba: khi Liên Xô tan rã vào năm 1990 cũng là thời điểm đánh dấu nước Tầu nổi lên thành thế lực chính trị quân sự cấp vùng, được nuôi dưỡng để ngày càng ra mặt đối đầu với Mỹ trên mọi trận tuyến.
Hán vốn biết rõ mục tiêu trong đường dài của mình cũng như mọi tình huống có thể diễn biến, kể cả tình huống xấu nhất là chiến tranh hủy diệt toàn diện thì xác xuất là Hán vẫn nắm quyền chi phối toàn cầu do dân số Hán vẫn là đa số so với tổng dân số toàn cầu còn sót lại sau cuộc tỷ thí tối hậu đó. Cho nên Hán sẽ không bao giờ từ bỏ mục tiêu của mình theo lối Đức, Ý, Nhật hay Nga đã hành động trong thế kỷ 20 sau một vài cuộc chiến tuy lớn vào các thời điểm đó, nhưng cũng chỉ là chiến tranh vặt so với cuộc chiến sắp tới đây (số bom đạn xử dụng trong cuộc chiến VN lần II hơn số bom đạn xử dụng trong thế chiến II). Cho nên ước tính chiến lược của Hán cũng thực hiện kế sách trăm năm(*) như quyền lực toàn cầu tính toán, cũng tính đến thế công, thế thủ và thế tương nhượng về chính trị, quân sự, cũng như kinh tế-tài chánh-tiền tệ để chuẩn bị chuyển giao tài sản từ tập thể sang tay tư nhân vốn là thân nhân của các cấp lãnh đạo chóp bu đảng CS Hán (cũng như Hà Nội) để các nhóm này vĩnh viến nắm quyền cai trị nước Hán cùng các lân bang theo dự trù của Hán, về lâu dài sẽ trở thành siêu cường hạng nhất trên thế giới này (có thể sau năm 2200). Trong cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, Hán tập trung khẳng định quyền làm chủ vùng biển Đông Nam Á cũng như các nước ĐNA như mục tiêu ngắn hạn được dự trù trong thời gian từ nay đến năm 2050, để sau 2050 các nước ĐNA sẽ trở thành từng tỉnh của Hán.
Tập San Foreign Affairs số tháng 9/10-2011 cho biết, theo đánh giá của Arvind Subramanian thì trong 20 năm tới, sức mạnh kinh tế (Global economic power bao gồm % world GDP, trade and net capital export) của Hán sẽ đứng hàng đầu thế giới Hán chiếm 18% sức mạnh kinh tế thế giới vào năm 2030, trong khi đó, Mỹ đứng hạng hai chiếm 10.1%, Ấn Độ hạng ba với 6.3%, lúc đó Hán tuy không giầu nhưng chẳng nghèo, tiêu chuẩn sống bằng nửa của người dân Mỹ, cao hơn so với tiêu chuẩn sống của Âu Châu ngày nay. (xin lưu ý bạn đọc, các con số nêu ra chỉ mới là mặt nổi của vấn đề phức tạp của kinh tế toàn cầu mà thôi). Liên quan đến khu vực đồng Euro, theo tin ghi nhận mới nhất, Đức có thể chấp nhận để Hy Lạp vỡ nợ để cứu đồng Euro; trong khi đó tại Ý Thủ Tướng Ý đệ trình Quốc Hội biện pháp cứu nguy kinh tế Ý, nếu không được Quốc Hội thong qua thì chính phủ Bellosculli có thể bị đổ. Khi hàng loạt sáo trộn chính trị xã hội sảy ra tại Âu Châu, các nước này phải mở cửa để đón nhận sự trợ giúp của Nắc Kinh về tài chánh để cứu khu vực đồng Euro. Đây là một vấn đề rất phức tạp khác liên quan đến kỹ thuật tài chánh/tiền tệ, (sẽ trở lại bàn thêm chi tiết khi thuận lợi.)
Ước tính chiến lược của Hán mới đây được cố tình hé lộ như một kiểu đe dọa về mặt tâm lý các lân bang, cũng như gởi đến cho Quyền Lực Toàn Cầu một thông điệp cụ thể mà Hán sẽ quyết tâm thực hiện trong 50 năm tới, thông qua bài viết của tác giả Zhao Yan do Ông Trần Quang dịch thuật sang tiếng Việt, được đăng trên tập san quốc phòng của Hán, ấn bản tiếng anh China Military Report với tiêu đề là:
“Sáu cuộc chiến trong 50 năm tới của Trung Quốc”. Sáu cuộc chiến đó là:
- Thống nhất Đài Loan (2020-25)
- Thâu hồi các hải đảo tại Biển Đông (2025-30).
- Thâu hồi Nam Tây Tạng (2035-40) tức là bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ cũng như Miến Điện, cùng các hải đảo thuộc chủ quyền của Ấn Độ thuộc dãy quần đảo Andaman và Nicobar trên Ấn Độ Dương phía tây Thái Lan.
- Thâu hồi đảo Điếu Ngư (Nhật gọi là Senkaku) cùng Lưu Cầu (2040-45).
- Thống nhất Ngoại Mông (2045-50).
- Thâu hòi lãnh thổ bị Nga xâm chiếm (2055-60).
Cho dù bài viết của tác giả Zhao Yan là thật hay chỉ là đòn gió, nhưng diễn biến của tình hình hiện nay cho thấy, ước tính nêu trên là rất thật, tuy vậy thứ tự ưu tiên có thể thay đổi, thậm chí cả sáu cuộc chiến ấy có thể diễn biến cùng một lúc khi chiến tranh lớn giữa các thế lực lớn ở Á Châu sảy ra. Do thế các ước tính chiến lược của Hán thực tế cần được mở rộng trên quy mô toàn Á Châu, điều này phù hợp với khái niệm liên quan đến ước tính chiến lược của Hán về Tuyến Hàng Hải, thứ nhất là vùng biển Lưỡi Bò, tuyến thứ Hai kéo dài từ Nhật Bản xuống đến bắc Úc Đại Lợi.
Đây chính là khái niệm Đại Trung Hoa trong thế kỷ 21 theo cách mở rộng khái niệm do nhà Chu (1121BC-221BC) đề ra; theo đó nhà Chu nắm quyền ở trung ương, các chư hầu cai trị xung quanh luôn hướng về Hoàng Đế nhà Chu để được cắt đặt, sai phái, tấn phong mới có tính chính danh. Như vậy khái niệm này thực ra cũng chính là thể chế Liên Bang kiểu Mỹ, hoặc Commonwealth kiểu Anh do Oliver Cromwell đặt ra nhằm cải biến nước Anh quân chủ sang quân chủ lập hiến, nhằm thống nhất các vùng đã từng đối kháng nhau và liên tục đi vào chiến tranh trong một đế chế Anh được cai trị thống nhất, nhưng các địa phương vẫn được tự trị ở mức độ nào đó. Việc này được xác nhận rõ ràng qua bài viết của Lưu Á Châu mới đây (xin xem bài: “đối thoại với Lưu Á Châu” đăng trên diendannguoivietquoc gia.com), cũng như các chuẩn bị của Hán trong vùng ĐNA kể từ thế chiến II đến nay.ĐNA vốn được Hán coi là mục tiêu chiến lược chính yếu, thắng ở ĐNA mới mở đường để Hán thực hiện các bước kế tiếp trong sách lược bành trướng của Hán trong thế kỷ 22.
Thử hỏi trong điều kiện như vậy Hán có chịu từ bỏ tham vọng của mình hay không, câu trả lời thật rõ ràng là không.Câu hỏi kế là liệu các nước ĐNA cùng các nước khác xung quanh Hán có thể đương cự được với Hán hay không? Câu trả lời thật rõ là: “chỉ bằng nội lực của các nước đó, họ không thể chống lại được làn sóng xâm lăng toàn diện có phối hợp được chuẩn bị kỹ lưỡng của Hán được. Liệu chỉ với sức mình thôi thì Nga, thậm chí cả Nhật có thể chịu đựng được làn sóng xâm lăng âm thầm nhưng rất quyết liệt của Hán hay không? Và rồi văn minh thế giới này rồi sẽ ra sao.Họa da vàng trở thành thực tế khó tránh được đối với thế giới này. Chính trong điều kiện đó nên Hán mới dám khẳng định 85% chủ quyền của Hán trên vùng biển ĐNA, thực tế Hán cũng xác định quyền của thế lực thống trị các nước ĐNA trước mắt theo cách mà Mỹ đã hành động tại vùng biển Caribean, nhưng Caribean với Mỹ và vùng biển ĐNA với Hán khác nhau rất nhiều.
Tại ĐNA Hán có lợi thế hoàn toàn về mặt văn hóa cũng như chủng tộc mà Hán một lần nữa lại lợi dụng bài học đồng hóa Bách Việt với Hán đã từng sảy ra suốt mấy ngàn năm qua, nay bài học đó được mở rộng thêm xuống vùng ĐNA. Cụ thể như hầu hết các đại gia đình giầu có bên Phi Luật Tân đều là gốc Tầu (Quảng Đông là chính yếu), thí dụ gia đình Aquino đã công khai trở lại thăm quê cha đất tổ của mình; thí dụ khác là Thatsin nguyên Thủ Tướng Thái Lan bị bãi nhiệm, nay em gái lên thay làm thủ tướng Thái Lan là người gốc Hoa nói tiếng hoa giỏi hơn tiếng Thái. Hán cũng đang hành động như vậy tại Lào, Campuchea,Miến Điện, VN, Brunei cũng như Indonesia khi các cộng đồng hoa kiều tại chỗ xử dụng tối đa lợi thế tiền bạc để chánh thức tham gia sinh hoạt chính trị tại chỗ để hướng các chính sách đối nội, đối ngoại của các nước trong vùng đi theo hướng trở thành tiểu bang của Hán về lâu về dài. Các nước ĐNA không thể thoát khỏi nanh vuốt của Bắc Kinh là vậy.
.............
http://www.ngonluan.de/index.php?opt...odoi&Itemid=58
Bookmarks