Bài học lịch sử không được quên
LTCG (18.12.2011)
[COLOR="greẹn"]Từ xưa đến nay người dân hai nước Việt, Trung thường xuyên qua lại làm ăn buôn bán ở biên giới, ở kinh đô, ở chợ sầm uất, ở khu mỏ. Khi Đại Việt có chủ quyền th́ người Hoa đàng hoàng, cư xử đúng mực “kiểu nhập gia tùy tục” với người Việt. Khi Đại Việt bị xâm lăng, Trung Quốc đưa nước Việt vào đồ bản th́ người Hoa trở nên hống hách, ỷ thế “chính quyền” để ức hiếp người Việt mọi mặt. Hiện tượng ấy là có thực trong lịch sử Đại Việt. Nhưng có một hiện tượng khác, ít lộ diện nhưng tác hại dài lâu, làm bất ổn biên giới dai dẳng, đó là người Hoa ở lẫn người Việt, thậm chí có những hành động gây rối, xúi dục, mua chuộc…
Một số động, thôn, bản của người Việt có người Hoa ngụ cư, với số dân dần chiếm ưu thế và khi đă mạnh th́ “tự tiện” nhập vào Trung Quốc. Các vua chúa Đại Việt thường cử những đại thần đàm phán tranh biện có lư có t́nh, đ̣i lại những phần đất bị mất theo cách nêu trên, nhưng cũng có khi lơ là việc biên giới, một số quan tham bán đứng đất đai của tổ quốc một cách ám muội. Bài học lịch sử cay đắng này không thể quên, luôn luôn khắc cốt ghi tâm để cảnh giác vậy. Xin minh họa một số sự kiện lịch sử thời Lê-Trịnh trị v́ Đàng Ngoài, cho thấy tiền nhân đă có biện pháp cứng rắn, nhằm giữ ǵn bản sắc văn hóa dân tộc Việt, góp phần chống lại sự xâm lấn của ngoại bang, bảo đảm sự toàn vẹn lănh thổ của nước nhà, chặn đứng âm mưu thâm độc của nước láng giềng “đất rộng người đông”, lấy bành trướng làm “kim chỉ nam”.
Cộng đồng người là một “hệ vật lư”, dưới góc độ vật lư học th́ nơi nào có “mật độ chất” cao ắt có sự “khuyếch tán” vật chất từ đó đến nơi có “mật độ chất” thấp. Đó là một qui luật tự nhiên. Thế th́ cộng đồng người cũng tuân theo qui luật vật lư ấy. Vận dụng vào lớp cư dân quần tụ ở biên giới phía bắc Đại Việt, chúng ta thấy rơ điều ấy. Không kể những lần hai phía có chủ trương đem đại binh sát phạt nhau, dẫu bên nhiều bên ít, mà chỉ xét sự khuyếch tán cục bộ ở từng vùng nhỏ của biên giới Việt-Trung là thấy ngay qui luật nêu trên. Người Hoa vượt biên giới làm ăn buôn bán, vô t́nh hay cố ư “thẩm thấu” “văn hóa Hoa” vào cộng đồng Việt, dần dần cồng đồng Việt bị “Hán hóa”, “Tống hóa”, “Minh hóa”, “Thanh hóa”,… Nếu không có biện pháp ngăn chận kịp thời th́ hậu quả nghiêm trọng: Đại Việt mất đất mất dân.
Đơn cử vào cuối thế kỷ 17, thôn Na Oa là của Đại Việt, bị xâm chiếm theo cách nêu trên nên thuộc về châu Tư Lăng của nước Thanh. Nguyên trước đó, phiên mục Vi Đức Thắng nói rằng 8 thôn thuộc châu Tư Lăng do thổ quan nhà Thanh quản lư là do lân bang xâm chiếm. Lời nói ấy đến tai thổ quan nhà Thanh là Vi Vinh Diệu, ông này liền tố với tổng đốc Quảng Tây là Ngô Hưng Tộ. Không ngờ năm Kỷ Tị [1689] nhà Thanh gửi công văn sang triều đ́nh Đại Việt đ̣i hội khám.
Ban đầu, triều đ́nh Lê-Trịnh phái Vũ Duy Khuông và Phạm Công Phương (tiến sĩ khoa Giáp Tư[1684]) đi lại nhiều lần để phân trần và tranh biện, việc kéo dài vài năm vẫn bế tắc. Liền đó triều đ́nh cử bồi tụng Đoàn Tuấn Ḥa và Lê Chi Tuân (tiến sĩ khoa Bính Dần[1686]) lên địa giới châu Lộc B́nh (Lạng Sơn). Khi đến nơi, Đoàn Tuấn Ḥa cũng tranh biện không thành công, bị triều đ́nh băi chức bồi tụng. Ông kiên tâm điều tra th́ phát hiện phiên mục Vi Đức Thắng đă từng khai man khi hai bên hội khám.
Đoàn Tuấn Ḥa liền giữ Vi Đức Thắng một chỗ bí mật, không cho hội kiến và ông tự ḿnh cùng với hai vị ủy quan nhà Thanh, một vị họ Trần và một vị họ Trương trực tiếp đo đạc khám xét…Khi đă có bằng chứng thực địa, không như hồ sơ có lời khai man, Đoàn Tuấn Ḥa tranh biện rơ ràng với thực chứng, thổ quan nhà Thanh Vi Vinh Diệu đuối lư, nên nhà Thanh phải trả lại Đại Việt thôn Na-Oa.
Sau đó Đoàn Tuấn Ḥa tiếp tục hội đồng với người Thanh dựng mốc bằng đá, phân rơ địa giới xong ông mới hồi triều. Thực ra trong các thôn tranh chấp, hết 7 thôn là đất hoang vu, không người ở, chỉ riêng thôn Na-Oa đất rộng, dân đông, v́ thế trong vụ này phía Đại Việt lấy lại 7 thôn hoang vu và thôn Na-Oa có giá trị.
Đây là một thắng lợi ngoại giao lớn của Đại Việt. Triều đ́nh nghị bàn, nhận xét Đoàn Tuấn Ḥa đi chuyến này biện luận hợp nghi, được việc, nên triều đ́nh chuẩn miển cho tội lần trước.
Về sau khi phải lo đối phó với dư đảng nhà Mạc và nhất là phải lo chinh phạt Đàng Trong, thời vua Lê Dụ Tông, chúa Trịnh Căn đă lơ là việc biên giới phía bắc nên các thổ ti người Thanh xâm chiếm một số vùng đất phía bắc của Đại Việt; riêng những thôn nói trên đến năm 1726, tổng đốc Quảng Tây là Khổng Sinh, làm tờ sức cho thổ quan châu Tư Lăng là Vi Thế Hoa đem 4000 lạng bạc giao cho thổ quan phía Đại Việt là Vi Phúc Kiêm để xóa đi những giao ước mà Tuấn Đức Ḥa đă kư kết. Bọn họ đă đào hào, đắp lũy, lập mốc giới mới và thôn Na-Oa lại về châu Tư Lăng của nhà Thanh. Triều đ́nh Lê-Trịnh biết nhưng cũng phải lơ v́ vấn đề “nhạy cảm” trong việc bang giao với đại lân quốc.
Sự kiện lịch sử nêu trên cho thấy tiền nhân của ta rất lao tâm khổ tứ về biên giới phía bắc. Năm Bính Tư (1696), chúa Trịnh Căn vâng mạng vua Lê Dụ Tông đ́nh nghị để đối phó nạn người Thanh quấy rối biên giới với mưu đồ lấn chiếm đất đai. Phủ Liêu (phủ chúa Trịnh) ban bố lệnh rất cứng rắn đối với người ngoại quốc, được Ngô Cao Lăng chép trong sách Lịch Triều tạp kỷ như sau:
1. Phàm người Trung Quốc hễ đă nhập tịch vào thôn xă nào ở nước ta th́ từ ngôn ngữ đến ăn mặc đều phải tuân theo phong tục nước ta, chứ không được càn bậy nói tiếng lạ và mặc quần áo lạ. Nếu kẻ nào vi phạm th́ cho phép các quan trấn thủ và đề lănh điều tra nă bắt, xử phạt 50 trượng.
2. Các người khách từ các thương thuyền đến trú ngụ ở các xứ trong nước ta, khi buôn bán, vào kinh đô, nếu có người quen biết đưa dẫn th́ không thuộc trong lệ cấm này; ví bằng không có người đưa dẫn mà tự tiện vào kinh th́ cũng cho phép [quan đề lănh] nă bắt trừng trị theo như phép nước.
3.Phàm các xă dân ở giáp địa giới ngoại quốc, từ ngôn ngữ đến ăn mặc và cư xử đều nên tuân theo dáng vẻ, lề lối và phong tục nước ta, nếu cạo trọc đầu th́ cũng chừa lại một mảng tóc, chứ không được càn bậy bắt chước tiếng nói và quần áo của người ngoại quốc. Kẻ nào vi phạm th́ cũng cho phép quan trấn thủ điều tra, trừng trị.
Truyền thống Việt chỉ hướng “bán anh em xa mua láng giềng gần” là để sống với “láng giềng tốt” thực ḷng, để khi “tối lửa tắt đèn có nhau”, chứ vấp phải làng giềng khổng lồ nhưng cực kỳ thâm độc, khi nào cũng chực “lấy thịt đè người”, chuyên “chém cây sống trồng cây chết”, đểu cáng kiểu “miệng nam mô một bồ dao găm” th́ dứt khoát không gần, luôn cảnh giác.
Đức Trần Nhân Tông đă hành thiền ở hành cung Vũ Lâm (Ninh B́nh), nhưng ngài vẫn dùng “tuệ nhăn” soi rọi vùng núi phía tây Đại Việt, soát xét mọi hành tung của bọn “ác ma” phía tây, và v́ thương sinh linh Việt bị bọn ác ma dày xéo, ngài sẵn sàng cất áo tràng, mang giáp trụ thân chinh. Khi đă lên Yên Tử tu tập, với hạnh từ bi làm sao ngài quên chúng sanh (con dân Đại Việt) vừa mới bị quân Nguyên Mông dày xéo, v́ thế ngài không quên để mắt quan sát phía bắc, cảnh giác quân Nguyên Mông đang hoạt động ở biên giới, chực chờ sơ hở của Đại Việt là ào ạt xâm lược. Ḥa hiếu để cứu sinh dân hai nước khỏi nạn binh đao, nước nhỏ nhún ḿnh để an dân nhưng trong giới hạn cho phép.
Tổ tiên người Việt không bao giờ khoan nhượng, không chịu hèn để phải mất đất mất biển, v́ “tấc đất là tấc xương”, “tấc biển là tấc máu” của bao nhiêu lớp người Việt đă trả giá suốt mấy ngh́n năm trong ứng xử với láng giềng khổng lồ phương bắc. Bài học lịch sử này cha ông luôn luôn nhắc nhở con cháu học thuộc, không bao giờ xao nhăng, để khéo léo ứng xử với láng giềng tốt lời nói nhưng cực kỳ xấu bụng và nham hiểm.[/COLOR]
[I]Quang Minh
danlambaovn.blogspot .com[I]
________
Trong bài “Công nhân Trung Quốc, những hệ lụy buồn” (27/08/2011) hai tác giả Nam Cường – Nguyễn Thành viết: “Hàng trăm công nhân Trung Quốc đă và đang làm việc trên các công tŕnh thủy điện ở Quảng Nam gây ra không ít hệ lụy buồn cho người lao động và đời sống của bà con địa phương” hoặc: “Hàng trăm lao động Việt Nam đang làm thuê cho nhà thầu Trung Quốc xây dựng công tŕnh thủy điện sông Bung 4 (thôn Pà Lừa xă Tà Bhing, Nam Giang) đang bị đối xử rất bất công về giờ làm và lương thưởng. Người Việt đang bị giới chủ Trung Quốc o ép ngay trên sân nhà…” hoặc “Gần 200 công nhân người Quảng Tây (Trung Quốc) của hai nhà thầu Quế Năng và Quế Vơng thi công phần đập Dự án Nhà máy thủy điện Za Hưng tại huyện Đông Giang – Quảng Nam đă rút về nước từ tháng 8-2009. Trong 2 năm ở chung với dân địa phương, họ để lại không ít phiền toái, mà giờ đây, điệu ru buồn của thiếu phụ Kà Dâu vẫn ầu ơ bên ḍng A Vương khi họ chạy t́nh, quất ngựa truy phong”.
Đào Tuấn trong bài “Người Trung Quốc sang Việt Nam làm…. dê?” viết: “Cách đây vài hôm, khi được hân hạnh tiếp xúc với đại biểu QH, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và đại biểu QH, bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị, cử tri Quận Ba Đ́nh- Hà Nội, ông Nguyễn Phú Nho bày tỏ bức xúc trước t́nh trạng lao động nước ngoài vào VN làm việc nhưng không có giấy phép, cơ quan chức năng quản lư không chặt trong khi đó lao động VN đang thiếu việc làm. “Đừng xem vấn đề lao động nước ngoài tràn vào VN chỉ là vấn đề lao động – kinh tế mà c̣n là vấn đề xă hội, chính trị, an ninh trật tự nữa. Trách nhiệm quản lư thuộc về ai cần phải được làm rơ- ông nói” và Đào Tuấn lại viết:
“Chuyện lao động Trung Quốc không hề mới. Một báo cáo của ngành công an cách đây 2 năm cho biết đă có tới 35 ngàn lao động Trung Quốc có mặt tại Việt Nam. (Năm nay, số lao động nước ngoài đă lên tới 74 ngàn người). Câu hỏi về chất lượng lao động cũng không khó để trả lời. Ví dụ như ở nhà máy allumin Nhân Cơ – Đắk Nông, chỉ một cuộc kiểm tra đă phát hiện ra hơn 60% công nhân ở đây không có một chút bằng cấp kỹ thuật nào dù theo đăng kí th́ 190/312 người làm việc ở đây là công nhân kỹ thuật cao”.
http://www.pagewash.com/nph-index.cg...oo=25n3p-dhra/
http://luongtamconggiao.wordpress.co...1%bb%a3c-quen/
--------------------------------------------------------------------------------------
http://thoidiemmaria.net/THANHMAU/Han%20Thu%20Quyet%20 Thang/HTQT2-concuuxa-hoikintamdiem.htm
Phụ Bản 3
Hội Kín Tam Điểm
Hội Tam Điểm được chính thức thành lập bởi Anderson ở Anh Quốc năm 1717. Bản chất và chủ trương của tổ chức mật này, có thể nói, được biểu lộ qua hai chữ chính sau đây: "Lodge" và "Masonry".
"Lodge", theo Anh ngữ, có nghĩa b́nh thường là "các phần tử hay nơi hội họp của một ngành hội" như Hội Tam Điểm, do đó, đối với tổ chức này, chữ "lodge" có thể được dịch là "hội kín". Tuy nhiên, theo ư nghĩa sâu xa của chữ này, một chữ tương đương với 3 chữ tắt trong ngôn ngữ Do Thái, đó là G.O.D.: Gomer, Oz và Dabar, có nghĩa như là Khôn Ngoan, Sức Mạnh và Mỹ Lệ, thường được biểu hiệu bằng một h́nh tam giác, như ám chỉ về bản chất của tổ chức này. Ngoài ra, h́nh tam giác nơi tổ chức này c̣n có thể biểu hiệu cho Thiên Chúa Ba Ngôi, song không phải Thiên Chúa Ba Ngôi của Kitô giáo, mà là của Ấn Độ Giáo, gồm có Thần Phát Sinh, Thần Hủy Diệt và Thần Tái Sinh. Có thể v́ thế mà Việt ngữ thường gọi tổ chức này là Hội Tam Điểm hơn là Hội Thợ Nề theo đúng nguyên nghĩa của tên hội là "Maronry".
"Masonry", cũng theo Anh ngữ, có nghĩa là "việc xây cất bằng đá", có thể v́ thế mà trong Việt ngữ tổ chức này c̣n được gọi là Hội Thợ Nề. Bởi v́, và đúng như thế, theo chủ trương của tổ chức này, cần phải trả lại cho con người tầm vóc trọn hảo và t́nh trạng hạnh phúc nguyên thủy của họ, được thể hiện qua niềm tự do, mức b́nh đẳng và t́nh huynh đệ tự nhiên của họ, do đó, thành phần Tam Điểm sẽ đóng vai tṛ là những người thợ xây, xây cất lại một Đền Thờ để sùng bái Tự Nhiên.
Việc sùng bái Tự Nhiên theo chủ trương của tổ chức Tam Điểm này được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là tôn thờ Vị Đại Kiến Trúc của Vũ Trụ, mà theo suy luận của các phần tử của Hội, đó là Tạo Hoá, là Đấng Hoá Công. Giai đoạn thứ hai là sùng bái Tự Nhiên, giai đoạn chuyển từ việc tôn thờ Vị Đại Kiến Trúc sang việc sùng bái Chúa Tể Thiên Nhiên là nguyên lư của mọi sự, theo quan niệm của duy vật, phiếm thần hay duy linh.
(đoạn trên theo chi tiết của chính cuốn MFU trang 101)
Nền tảng của Đền Thờ để sùng bái Tự Nhiên này là ǵ, nếu không phải là một tự do tuyệt đối mà Hội Tam Điểm muốn xây lại như sau: "Con người không có tự do nếu họ không làm tối thượng chủ những tư tưởng cũng như hành động của ḿnh. Tự do đồng nghĩa với tối thượng quyền" (theo L' Ere Nouvelle). "Khi chúng ta không c̣n là những lụy thuộc viên mà là những tối thượng chủ, bấy giờ chúng ta mới được tự do" (theo Brother Fleury). "Mỗi người là linh mục và là vua chúa của ḿnh, là giáo hoàng và là hoàng đế của ḿnh" (theo Brother Potvin)
(MFU trang 41)
Đặt nền móng của Đền Thờ để sùng bái Tự Nhiên như thế, tất nhiên, những người thợ xây thuộc tổ chức Tam Điểm này cần phải hoàn toàn phá hủy đi mọi quyền bính, cấp trật, gia đ́nh và tôn giáo, đúng như Hội Nghị Quốc Tế ở Trent Chống Tam Điểm đă nhận định: "Đối tượng của Tam Điểm là trật tự thể lư, luân lư cũng như luận lư phải bị hoàn toàn hủy hoại". Để hủy hoại trật tự thể lư, Tam Điểm chống lại sự chết, và chấp nhận Thần Ba Ngôi của Ấn Độ Giáo là Thần Phát Sinh, Thần Hủy Diệt và Thần Tái Sinh. Để hủy hoại trật tự luân lư, Tam Điểm chống lại nguyên tắc về sự dữ và biện hộ cho tất cả mọi tội lỗi khi mặc cho chúng chiếc áo nhân đức. Để hủy hoại trật tự luận lư, Tam Điểm chống lại chân lư phổ quát, bằng các nghề nghiệp và nhu cầu ảo thuật, dối trá, gian manh và lộng ngôn. Thực tế cũng đă cho lịch sử thấy ảnh hưởng của Tam Điểm hằng chủ trương hủy hoại, điển h́nh nhất là hai cuộc cách mạng liên hệ đến vận mạng chung của thế giới: đó là cuộc cách mạng Pháp năm 1789 và cuộc cách mạng Nga năm 1917.
Về cuộc cách mạng Pháp: "Vào đầu năm 1789, các hội viên Tam Điểm đă chủ động tham dự vào một đại biến chuyển đáng giá được phát động tại quê hương Pháp quốc này..." (theo bài diễn văn của Brother Amiable và Calfavru tại Hội Nghị Tam Điểm năm 1889). "Bấy giờ tôi nắm chắc là thảm kịch vào năm 1788 và 1789, đó là cuộc cách mạng Pháp, không phải là kết quả của một quyết định đột ngột theo thời, mà là xẩy ra theo như cấu kết của những hiệp hội Tam Điểm và những lời thề Tam Điểm..." (theo lời tự thú tại hội nghị Verona của Haugwitz là một trong những lănh tụ thượng thặng của Tam Điểm). "Tất cả Nước Pháp chỉ là một đại hội kín' Người Pháp hoàn toàn là hội viên Tam Điểm, rồi cả hoàn vũ sẽ sớm trở nên giống như chúng ta" (theo lời của Burruel ngày 12-8-1792). (MFU tr 108-109,75)
Về cuộc cách mạng Nga: "Ở xứ sở đó (Nga) có 457 đảng viên Bolsheviks gây nên một triều đại kinh hoàng, th́ có 422 đảng viên là Do Thái... Brother Lenin (Ulianov Zederhaum) thuộc về hội kín ở Thụy Sĩ trước khi xẩy ra trận chiến, một trận chiến gây nên cuộc cách mạng thế giới" (theo lời của Monseigneur Jouin). "Lenin được sai đến Nga bởi những người Đức... Vừa đến nơi là Lenin bắt đầu tụ họp lại quanh ḿnh đây đó những con người mờ ám, sống trong những nơi ẩn tránh bí mật, ở Nữu Ước, Glasgow, Berne và các xứ sở khác, những con người này được tập hợp lại với nhau theo sức lôi kéo bởi những tinh thần của một tà phái ghê sợ, một tà phái ghê sợ nhất trên thế giới, tà phái mà Lenin là thượng tế và là lănh tụ. Được vây quanh bởi những quần thần này, Lenin đă sử dụng khả năng ma quái nhất của ḿnh để phá hủy tất cả mọi tổ chức căn bản của Dân Nước Nga. Nước Nga đă bị sụp đổ' Nước Nga phải bị chà đạp" (theo lời diễn thuật của Lord Churchill ngày 5-11-1919 nói với House of Commons ở Anh Quốc)
(MFU trang 85 và 115)
Chủ trương một tôn giáo Tự Nhiên như thế, do đó, mục tiêu và kẻ thù chính yếu mà Tam Điểm cần phải tấn công và hạ bệ là Giáo Hội Công Giáo Rôma: "Cuộc cách mạng đă tiến đến Rôma để ra mặt đối chọi thẳng với Giáo Hoàng... để giành cho Tam Điểm một cân xứng vĩ đại ngay trong ḷng Rôma, thủ đô của vũ trụ. Ở đây nó sẽ tấn công không nương tay những giáo điều làm nên một tín lư chung tin vào Thiên Chúa và vào t́nh trạng bất tử của linh hồn" (theo một Brother Tam Điểm trong cuốn 'La Revista Della Massoneria Italiana). "Chúng ta đă tiến đến Rôma để chặt đổ cây cổ thụ 18 thế kỷ Công Giáo này. Adriano Lemmi, vị thượng hoàng của Tam Điểm Ư Đại Lợi, vào năm 1887, đă gửi đến tất cả mọi hội viên một bản luân lưu nói rằng: 'Ngày kỷ niệm 20-9, ngày mà Rôma trở thành thủ đô của Ư Đại Lợi và ngày mà quyền lực trần thế của Giáo Hoàng bị hủy diệt, hiển nhiên là ngày thuộc về Tam Điểm. Đó là một ngày lễ, thuần túy là Tam Điểm, một khởi điểm đánh dấu ngày Tam Điểm Ư Đại Lợi tiến vào Rôma, một tận điểm mà nó đă dự trù qua nhiều năm'" (theo lời tuyên bố của Francisco Crispi). "Không có Thiên Chúa nào hết, con người là Thiên Chúa của ḿnh, nhân loại phải cấp tốc giầy đạp việc sùng bái theo đức tin Kitô giáo' con điếm tuyệt mỹ nhất, biểu hiệu cho vẻ đẹp của hữu thể thần linh nơi loài người phải thế chỗ của Đấng Cứu Tinh thế giới trên các bàn thờ, và phải được nước (Pháp) cũng như các chính quyền sùng kính" (theo Ed. Em. Eckert)
(MFU trang 117)
Như thế, có thể nói, Tam Điểm là một tôn giáo thờ Tự Nhiên, một Hội Kín chống lại và hủy hoại tất cả những ǵ là lỗi thời cũ kỹ, để xây dựng lại một "New World Order" (Trật Tự Thế Giới Mới) cho một "New Age" (Thời Đại Mới). Hội Nghị Quốc Tế ở Trent Chống Tam Điểm (26-30/9/1896, kỷ niệm bách chu niên năm 1996) đă phổ biến một bản tổng lược về đề cương hoạt động của Hội Tam Điểm như sau:
1- Tam Điểm là một tà phái tôn giáo theo nhị nguyên Manikê' biểu hiện tối thượng thuộc về những bí mật và huyền nhiệm của họ là tôn sùng Luxiphe hay Satan, được thờ kính ở đằng sau hậu trường như một Thiện Chúa, phản lại với Thiên Chúa của các người Công Giáo, Đấng mà những kẻ lộng ngôn lúc đầu gọi là Ác Chúa.
2- Ma qủi, tác nhân linh hứng của những bí mật Tam Điểm, v́ biết rằng hắn sẽ không bao giờ được đa số loài người trực tiếp tôn thờ, cố gắng dùng Tam Điểm để thấm nhiễm vào các linh hồn hạt mầm mống của Khuynh Hướng Tự Nhiên, một khuynh hướng mà đối với Thiên Chúa không ǵ khác hơn là một cuộc hoàn toàn bung tỏa của con người.
3- Để gieo vào thế gian Khuynh Hướng Tự Nhiên vô đạo này, Tam Điểm nỗ lực làm cho con người quen thuộc với việc đặt tất cả mọi tôn giáo trên một b́nh diện bằng nhau, tôn giáo chân thực duy nhất lẫn với tôn giáo sai lạc' thay thế mầu sắc Công Giáo bằng mầu sắc Tam Điểm, nhờ trung gian của báo chí và các học đường vô thần.
4- Phương pháp đặc biệt giúp Tam Điểm hủy hoại các linh hồn của những kẻ cuồng mê với những vấn đề liên quan đến lănh vực siêu nhiên mà không đủ sức trước Khuynh Hướng Nhị Nguyên Manikê theo Luxiphe, là kích động họ cho đến khi họ hiến thân mải mê theo những thực hành của Tâm Linh.
5- Tam Điểm cũng là một tà phái chính trị cố gắng chiếm quyền cai trị mọi chính quyền, biến các chính quyền thành những công cụ mù quáng cho tác hành ngoan cố của ḿnh, và cũng nổ lực gieo rắc phản loạn ở khắp mọi nơi.
6- Đối tượng của Tam Điểm, khi gieo rắc cách mạng ở mọi phần đất trên thế giới, là thiết lập một nền cộng ḥa chung, đặt nền tảng trên việc chống lại quyền tối thượng thần linh, trên việc hủy diệt quyền tự lập địa phương và những quyền tự do, trên việc phá bỏ những lằn ranh giới và trên việc cưỡng bách những cảm t́nh ái quốc mà, sát với t́nh yêu Thiên Chúa, từng cảm hứng nơi loài người những công việc tốt đẹp nhất, những hy sinh cao cả nhất, những từ bỏ anh hùng nhất.
7- Tam Điểm tiếp tục chống lại Giáo Hội bằng cách đem vào những nước Kitô giáo một ngành lập pháp phản Kitô giáo.
8- Tam Điểm trực tiếp chịu trách nhiệm về Chủ Thuyết Xă Hội Tân Tiến, v́ nó đă thay thế lư tưởng Kitô giáo bằng lư tưởng hạnh phúc Xă Hội là lư tưởng riêng của ḿnh. Nó cũng thay thế cấp trật xă hội theo Kitô giáo, được cai trị bởi công lư và xử trí bởi đức ái, bằng một t́nh trạng b́nh đẳng giả tạo nơi mọi người, giữa họ với nhau. Tam Điểm đang làm cho người ta quên rằng chính ở trong đời sau mà mỗi người sẽ được trả công tùy theo các công việc của ḿnh, và đang dạy họ rằng hạnh phúc chỉ có thể t́m thấy nơi những thỏa măn vật chất ở dưới thế này mà thôi, và dạy rằng tất cả mọi người đều có một quyền lợi triệt để trong việc tham hưởng ngang phần nhau nơi niềm hạnh phúc này.
9- Ḷng nhân ái của Tam Điểm, ngược lại với đức ái Kitô giáo, và đúng như nó là một ḷng yêu tự nhiên thuần túy của một số người này với những người kia mà nó không có khả năng giúp liên kết Thiên Chúa với loài người' và c̣n hơn thế nữa, ḷng nhân ái này của Tam Điểm chỉ được thực thi giữa các hội viên Tam Điểm với nhau mà thôi, và rất thường tác hại cho xă hội dân sự.
10- (Không được kể đến)
11- Để phá hủy gia đ́nh vô phương cứu chữa, Tam Điểm cố gắng dẫn dụ những người phụ nữ, không phải chỉ làm cho thành phần này vào các hội kín của ḿnh, như họ luôn luôn thành công trong việc này, mà c̣n là chính linh hồn của phong trào gọi là "nữ giới" hay phong trào "giải tỏa phụ nữ", nhắm đến việc mang lại t́nh trạng rắc rối và lộn xộn vào trong các gia đ́nh, dựa trên niềm ước vọng mơ tưởng cho một cuộc canh tân không thể nào hoàn toàn đạt được.
12- Để làm cho con người ta quen thuộc với việc bỏ bê nhà thờ trong đời sống xă hội, tà phái này cố gắng dẹp đi những ngày lễ tôn giáo và những ngày được dành cho việc thánh hoá các linh hồn và nghỉ ngơi phần xác, thay vào đó là những ngày lễ hoàn toàn dân sự.
Bản tóm lược đề cương hoạt động của Hội Tam Điểm trên đây c̣n có thể được đúc kết như sau:
"Nguyên tắc căn bản riêng của chúng ta là chối bỏ mọi giáo điều' khởi điểm của chúng ta là không không' chối bỏ, luôn luôn chối bỏ: phương pháp của chúng ta là như thế' nó sẽ dẫn chúng ta đến việc đặt thành những nguyên tắc: vô thần nơi tôn giáo' vô chủ nơi chính trị' vô sản nơi chính trị kinh doanh" (theo Dom Paul Benoit trong La Franc Maconnerie).
(MFU trang 186-188)
Bookmarks