Page 14 of 27 FirstFirst ... 410111213141516171824 ... LastLast
Results 131 to 140 of 265

Thread: ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY

  1. #131
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 11 : XĂ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ T̀NH NGƯỜI


    Nhân số Tù chia vào mỗi Đội, gồm khoảng trung b́nh từ 40 đến 50 người, tùy theo loại công tác. Các Đội được đánh số cho dễ gọi, và quy định đảm nhận những công tác chuyên biệt khác nhau :

    Lâm sản, Mộc, Đan lát, Xây dựng, Rau xanh, Nông nghiệp, Anh nuôi.

    Đội Lâm Sản, được coi là Đội của những “Tù tự giác” (không cần người theo sát canh giữ), đi vào rừng một ḿnh đốn cây, chặt “chổm”, chặt giang, lấy măng. “Chổm” và giang, phải chặt dài tối thiểu là 4 mét, bó thành từng bó 20 cây, rồi kết chung với các thân cây thành bè, thả trôi theo ḍng nước về tới đập nhỏ ở bià rừng, cách trại chừng 5 cây số.

    Cây đốn xuống, lớn th́ giao cho Đội Mộc cưa xẻ thành ván ngay tại trong rừng, chuyển về sau. Các cây nhỏ th́ cắt lấy thân đem về làm cột, kèo, dui nhà, c̣n cành lớn làm củi đun cho các bếp của trại giam Tù và bếp riêng bên khu Cán bộ.

    “Chổm” được dùng làm rất nhiều việc. Hoặc để nguyên cây dài 4 mét, mổ dọc thân banh bẹt ra, đập dẹp, rồi ghép lại đan những tấm phên thật lớn, để dựng quanh nhà làm vách, và làm sàn nằm trong các Láng. Hoặc cắt thành các đoạn ngắn cỡ 1 mét, bổ dọc đập dẹp kết thành những mảng tranh dài 2 mét lợp mái nhà. Hoặc để nguyên cây, chôn sâu xuống đất, kết sát bên nhau làm hàng rào quây chung quanh trại. Hoặc làm cáng (“ki”) khiêng đất, tranh, gạch, và các vật liệu linh tinh khác.

    Giang là loại tre thân nhỏ, đốt dài, gần như đặc ruột, sợi mộc dẻo dai, được cắt thành từng khúc ngắn hay dài, tùy theo công dụng. Có thể chẻ nhỏ chuốt nhẵn thành các loại nan để đan thúng, nia, rổ, rá, xọt, bồ. Hoặc tước mỏng để làm lạt (dây) cột, bện thừng, trăo…

    Măng được coi là một loại thực phẩm có “giá trị kinh tế cao”, có thể dùng “biến chế” được ít nhất là bốn món ăn khác nhau. Hoặc xấy khô để dành dùng trong những dịp Lễ Tết, khẩu phần được gia tăng, nấu với xương làm món măng ninh. Hoặc muối chua để dành nấu canh ăn dần. Hoặc để tươi xào hay kho mặn dùng thay rau, trong mùa mưa măng đâm trồi đầy rừng.

    Măng để tươi ăn ngay rất đắng. Nhưng “bước đầu” trại mới thành lập, trại viên chưa sản xuất được loại rau nào để ăn, nên măng được coi là món chính duy nhất, trong 2 bữa ăn hàng ngày. Hơn nữa, mỗi bữa ăn mỗi người chỉ được chia có vài bốn mẩu bằng ngón chân cái, nên vẫn thấy ngon và thèm. Theo phân tích khoa học ai cũng biết, măng chẳng có giá trị dinh dưỡng nào cho cơ thể con người, ngoài việc cung cấp chất sơ, giúp cho việc đẩy phân trong ruột dễ dàng không táo bón.

    Trách nhiệm của Đội Nông Nghiệp là, quanh năm suốt tháng, nắng cũng như mưa, tùy theo vụ từng mùa, hoặc đi phá rừng cuốc đất trồng sắn (khoai ḿ), khoai lang, ngô (bắp), luá. Hoặc thực hiện những tạp vụ khác tùy nhu cầu kiếm tiền, để trại nộp cho Nhà Nước hàng năm theo quy định. Chẳng hạn, Hợp Tác Xă nào đó trong địa phương cần một số nhân công, để phụ “tịnh kho” (dọn dẹp quét tước sạch sẽ nhà kho), hay gặt luá, đập luá, phơi thóc, lẩy hột bắp…, Trại giam sẽ tùy theo nhu cầu, chỉ định một hoặc nhiều Đội Nông Nghiệp đi làm thuê tính công để lấy tiền. Nhưng cơ quan chủ thuê không bao giờ trả bằng tiền, mà bằng nông phẩm (lúa, khoai, ngô…) trị giá tương đương.

    Tôi được “biên chế” vào một trong các Đội Nông Nghiệp của K1. Nhưng Đội chúng tôi chẳng bao giờ được giao đất để canh tác. Thường xuyên được tăng phái đi làm thuê cho các Đội chuyên nghiệp khác, như đào đất đắp nền nhà, đi vác “chổm”, giang, cây và củi từ đập nước bên bià rừng về trại, đi lấy cát, hoặc làm thuê cho Hợp Tác Xă địa phương lấy tiền công nộp cho Trại.

    Trong những buổi đi vác “chổm” hoặc giang, Quản giáo buộc mỗi người phải vác 1 bó 20 cây, nặng chừng 200 đến 300 kílô. Các bó “chổm” dài lượt thượt, vác trên vai di chuyển trên đường đất nhỏ ṿng vèo, lên dốc xuống dốc quanh theo triền núi, thật vất vả. Chỉ dăm ba anh khoẻ làm được. C̣n phần lớn chịu thua không vác nổi, ngă tới ngă lui, không xê dịch nổi bước nào, đành liều ngồi ́ ra chịu trận xỉ vả của Quản giáo.

    Cuối cùng, Quản giáo cũng phải nhân nhượng, bằng ḷng cho 2 người khiêng chung một bó. Mỗi người ở một đầu, khiêng bó “chổm” trên vai, theo nhau kẻ trước người sau, bước chân lẹ như chạy cho đỡ nặng. Anh nào khoẻ hơn th́ hy sinh khiêng phần gốc, nhường cho anh bạn làm chung yếu hơn khiêng phần ngọn. Ai khiêng phần ngọn đi trước, người khiêng phần gốc đi phiá sau.

    Để chia đều sức nặng của bó “chổm” cho 2 người, phải rút một cây “chổm” ở phiá gốc tḥi ra khỏi bó chừng 1 mét như chiếc đ̣n, cho người đi sau để trên vai khiêng. Cứ đi được chừng 300 mét lại phải ngừng, quăng bó “chổm” xuống đất ngồi nghỉ. Đau vai, mỏi cột xương sống lưng, mệt đừ thở hổn hển muốn đứt hơi.

    Nếu một ḿnh vác nổi 1 bó, mỗi buổi lao động chỉ phải đi về có 1 lần. C̣n 2 người khiêng chung, phải đi 2 lần để “bảo đảm đủ chỉ tiêu” quy định, mỗi buổi lao động mỗi người phải đem về trại 1 bó. Ngày làm 2 buổi, những người khiêng chung phải đi về tới 4 lần trong 1 ngày. Ai xong sớm được về trại nghỉ ngơi thoải mái. C̣n những người yếu chậm chạp, bao giờ “hoàn tất đủ chỉ tiêu” mới được nghỉ. Có người phải làm suốt luôn 2 buổi, không nghỉ trưa, mới đủ th́ giờ để “đạt chỉ tiêu” do Quản giáo quy định. Nhưng cũng có người mạnh, vác nộp luôn 2 bó trong giờ lao động buổi sáng, để nghỉ cả buổi chiều.

    Gần đập nước có một xóm nhỏ, khoảng mươi lăm căn nhà dân địa phương cư ngụ. Mỗi nhà cách nhau bằng những hàng rào cây gai, và mảnh vườn nho nhỏ. Xóm nhà ở dọc dài ngay hai bên đường đi lên đập. Không thấy bóng trai tráng nam nữ nào cả. Chỉ có mấy ông bà già, và dăm bẩy đứa trẻ nít cả trai lẫn gái ở chuồng lồng lộng, lem luốc, chơi đùa giữa sân, giành nhau mấy mẩu sắn hay khoai ǵ đó, la hét chửi nhau ỏm tỏi.

    Khi anh em Tù đi ngang, một bà già tiến ra sát bờ rào, xua chó sủa đuổi người lạ, và lớn tiếng chửi :

    “-Tiên sư cha chúng bay, loài quỷ uống máu, ăn gan người. Sao chúng bay không chết bầm chết dập đi, mà c̣n vác mặt đến đây ăn hại cơm của nhân dân?”

    Mọi người ngỡ ngàng, không biết Nhà nước Cộng Hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam, tuyên truyền huớng dẫn quần chúng miền Bắc như thế nào về Quân lực Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam, mà ḷng hận thù của dân chúng đối với anh em Tù ghê gớm đến như vậy. Thật khó hiểu, nó ngược hẳn với những ǵ mà Cán bộ đại diện Đảng và Nhà Nước Cộng sản Việt Nam đă nói với anh em, qua các bài học tập cải tạo tư tưởng tại miền Nam trước khi ra Bắc.

    Không riêng ǵ dân chúng, ngay cả Cán bộ Bộ đội miền Bắc, chưa bao giờ có dịp thấy thực trạng của miền Nam Việt Nam, cũng có những suy nghĩ sai lầm tai hại như vậy. Các Cụ ta ngày xưa đă từng khuyên :

    “ Phượng hoàng đậu chốn cheo leo, sa cơ thất thế phải theo đàn gà”,

    anh em đành nhẫn nhục chịu đựng chớ biết làm sao bây giờ. Không được phép giao tiếp với dân chúng, làm sao giải thích cho họ hiểu được. Thật khổ tâm vô cùng.


    C̣n tiếp....

  2. #132
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Ngoài công tác đi vác “chổm”, mỗi ngày Đội chúng tôi c̣n phải cử một toán 5 người, đem xe “cải tiến” đi xuống tận vùng bờ sông Âu Lâu để chở cát về cho đội xây dựng, xây Nhà Vệ Sinh công cộng cho cả trại xử dụng. Đường đi xa gần hai chục cây số, dọc ven sườn núi ṿng vèo, khe dốc thẳng đứng sâu thăm thẳm hàng trăm mét.

    Tôi được “Tự quản đội” tức là Đội trưởng, đề nghị Quản giáo chỉ định vào toán đi lấy cát, bằng “Xe cải tiến”. Đây là loại xe khung gỗ, thân dài 1 mét, ngang 90 phân, cao 50 phân, để trên 2 bánh xe niềng sắt với ṿng lốp cao su tṛn đặc. Xe có 2 càng dài khoảng hơn 1 mét ở phiá trước, để người kéo thay v́ dùng súc vật. Để dễ hiểu hơn, “xe cải tiến” là một loại xe ḅ nhỏ để chở vật liệu do người kéo.

    Mỗi chuyến đi phải lấy một mét khối cát. V́ thế phải dùng những tấm ván dầy và cót quây chung quanh thành xe cho cao lên, mới chứa đủ dung lượng một mét khối cát.

    Toán “chuyển vận xe cải tiến” gồm 5 người, phân chia như sau :

    -1 người cầm càng xe để lái hướng đi cho xe,

    -2 người đi trước xe chừng 5 mét để cầm dây kéo,

    -2 người đi sau đẩy phụ cho xe tiến tới. Lần đi nào, Tôi cũng bị anh em trong toán giao cho cằm càng lái xe.

    Việc đi lấy cát thật vất vả, nhưng cũng có nhiều kỷ niệm vui vui khó quên.

    Mỗi chuyến đi lấy cát, ngoài cán bộ Quản giáo c̣n có 2 bộ đội cảnh vệ mang súng dài đi theo canh chừng 5 người Tù. Trưởng Phân trại K1 giải thích rằng :

    “-Cần có bộ đội cảnh vệ đi theo để bảo đảm an ninh, cho các anh không bị dân chúng hành hung, chớ không phải để canh gác v́ sợ các anh trốn. Ở đất miền Bắc Xă hội chủ nghĩa này, dầy đặc “thiên la địa vơng” làm sao trốn thoát mà phải lo.”

    Lượt đi toàn là xuống dốc, xe tự động lao tới vùn vụt, người lái xe phải quay ngược cho xe trước càng sau, để chạy theo xe. Nếu không, lực trôi nhanh của xe có thể làm cho người cầm càng, chạy không kịp vấp chân ngă chúi xuống đường, hậu quả sẽ rất nguy hiểm đến tính mệnh. Những người đẩy và phụ kéo xe như đă phân chia, cũng phải tập trung đi phiá sau, để cầm dây níu cho tốc độ xe lao xuống dốc giảm đi.

    Lượt về th́ ngược lại, xe đầy 1 mét khối cát ướt nặng nề, đường lên dốc liên tục, xe luôn luôn tŕ kéo trôi lui chớ không chịu tự động lăn tới như lúc xuống dốc. Người lái phải gập ḿnh về trước, đè cho càng xe chúi sát đất. Hai người đi trước khoảng 5 mét quàng dây kéo trên vai, cúi rạp người g̣ lưng kéo. Hai người đẩy phiá sau bám chặt một tay vào thành xe, ngả người về trước đẩy cho xe tiến lên, tay kia cầm 1 thanh gỗ để sẵn sàng chặn bánh xe lại khi cần thiết.

    Thật là trần ai vất vả, tinh thần mọi người lúc nào cũng bị căng thẳng. Mặt đường lồi lơm đầy lỗ ổ gà. Nếu sơ xuất, xe có thể bị lật hoặc trôi tuốt xuống khe. Người có thể bị trọng thương v́ xe cán qua hoặc đổ đè lên. Đă có một toán thuộc Đội khác, sơ ư không kiểm soát nổi, xe đầy cát bị trôi tuột xuống khe bên triền núi cao cả hơn trăm mét. Xe gẫy bể tan nát dưới khe sâu. May mà không ai bị lôi theo xuống khe, hoặc bị xe cán gây thương tích. Thật nguy hiểm không sao lường trước được. Quanh năm ngày tháng, cái chết lúc nào cũng sẵn sàng lởn vởn bên cuộc sống của Tù.

    Gần mấy căn nhà dân chúng ở bên đường xuống bờ sông lấy cát, có 1 túp lều bán quà bánh bầy biện thô sơ. Trên chiếc bàn nhỏ để ít keo thủy tinh kẹo bột, kẹo lạc, bánh bỏng ngô, bánh khảo, thuốc lá, thuốc lào, b́nh nước chà tươi… Quản giáo đi theo chúng tôi (Trung úy Khảm) tỏ ra dễ dăi, cho phép anh em mua kẹo, bánh, ăn để “bồi dưỡng”. Nhưng ông ta luôn mồm nhắc nhở, phải ăn hết trước khi về tới trại, và không được kể cho anh em trong trại biết. (Ông Khảm đă thố lộ cho anh em biết, trước 30-4-1975 ông ấy đă từng vào Nam chiến đấu tại vùng Khánh Hoà, và có người anh bà con làm Thiếu tá trong Quân đội thuộc chế độ miền Nam cũ tại Nha Trang.)

    Nhà Vệ Sinh mới được xây bằng gạch mái lợp tôn, ngay bên mặt đường lớn bên ngoài cổng trại, trông như một quán nhà trọ có nhiều pḥng. Dân chúng đi ngang qua, ai có nhu cầu cũng có thể ghé vào giải quyết.

    Kiến trúc Nhà Vệ sinh giống như kiểu nhà sàn, có các bậc thang gạch đi lên cao chừng 1 mét rưỡi, có mái tôn che mưa nắng, và 1 dẫy 10 lỗ cầu ngồi, phân cách nhau bởi những mảng tường lửng cao 1 mét, có cửa gỗ che phiá trước mỗi ngăn. Nền nhà láng xi măng, hơi nghiêng nghiêng cho nước tiểu tự động chẩy xuống một hồ chứa. Phân đặc nằm lại thành từng đống giữa nền.

    Dọc bên hông Nhà Vệ Sinh, có lối đi lát gạch ṿng xuống phiá sau, để Tổ Phân thuộc các Đội Rau Xanh, hàng ngày đến xúc phân, múc nước tiểu đem ra khu sản xuất rau xanh dùng. Anh em được hướng dẫn tùy theo hiện trạng lớn nhỏ của mỗi luống rau, ḥa phân hoặc nước tiểu với lượng nước suối cần thiết cho hợp với nhu cầu bón tưới. Nhờ vậy, rau trồng tăng trưởng nhanh, xanh tốt, và mức “thâu hoạch” rất cao.

    Việc xây dựng Nhà Vệ Sinh thuộc loại “ưu tiên hàng đầu” trong “dự án chung”. V́ hiện tại, trại chỉ có một hố vệ sinh duy nhất, với 2 chỗ ngồi, đào bên sườn đồi gần sát bờ suối, phiá trong cổng trại. Mỗi buổi sáng, anh em Tù phải xếp hàng nối đuôi nhau, chờ cả tiếng đồng hồ mới tới lượt vào giải quyết việc thải vàng ra khỏi cơ thể. Chẳng may, anh nào bị đau bụng tiêu chẩy, nín không được đành ngồi đại ngay bên đường ṃn xả ra, hôi thối nồng nặc. Anh em khác khó tánh có nặng lời, cũng đành tỉnh khô, cắn răng, gục mặt chịu trận. Về sau “rút kinh nghiệm”, nhiều người tập thói quen, nhịn không đi đại tiện vào buổi sáng ở trong trại. Chờ khi ra ngoài lao động, mới xin anh bộ đội cảnh vệ cho đi giải quyết bên bờ bụi gần nơi lao động, vừa sáng sủa thoáng mát, lại không bị nạn muỗi đêm bu đốt hút máu.

    Đội Xây Dựng, chuyên pha cây, đục đục đẽo đẽo làm cột, kèo, dui, mè, để dựng nhà. C̣n lợp mái, dựng vách, làm sàn nằm, là những việc phụ không cần chuyên nghiệp, có anh em Đội Nông Nghiệp chúng tôi tăng phái phụ lực. Dĩ nhiên việc xây cất các kiến trúc bằng gạch, láng xi măng, dựng khung sườn nhà, ráp cửa… là phần vụ chuyên môn, đều do anh em Đội Xây Dựng thực hiện.

    Có một chuyện lạ không ai ngờ, số anh em vốn thuộc gốc Công binh được “biên chế” vào Đội xây dựng, không ai chịu làm Đội trưởng. Trại đă phải chỉ định một anh thuộc ngành Hành chánh Tài chánh (Đại tá Bùi hữu Đặng) làm Đội trưởng Đội Xây Dựng. Thế mà công tác xây dựng vẫn được tiến hành xuông sẻ, đáp ứng đúng “yêu cầu” của Trại và Liên trại đề ra.

    Đội Đan Lát, chuyên pha “chổm”, đập dập để làm tranh lợp mái nhà, đan phên làm vách, sàn nằm, làm “ki”, và pha giang để chẻ lạt cột, bện thừng, đan rổ, rá, thúng, nia, bồ…

    Nhưng “trước mắt” có nhiều “yêu cầu khẩn trương” làm không kịp, Đội Nông Nghiệp chúng tôi được tăng cường tiếp tay làm những công việc này. Nhờ thế mọi người học được nhiều nghề một lúc, bảo đảm sau này khi được tha ra, có thể tự lực lao động mà sống, không ăn bám vào xă hội như trước đây. “Đáp ứng đúng yêu cầu Chính sách Nhà nước” đă đề ra cho các Cải tạo viên.

    Đội Rau Xanh, phá bụi cây dại và cỏ hoang ở 2 bên rià suối, giữa khu cán bộ ở và trại giam Tù, để cuốc xới đất làm các luống trồng rau cung cấp cho trại. V́ “bước đầu” mới khởi công, “trước mắt” chưa có rau để thâu hoạch, nên hàng ngày Đội chúng tôi phải tăng phái một Tổ đi theo Quản giáo Đội Anh Nuôi (hoả đầu vụ), đến các Hợp Tác Xă quanh vùng mua rau cung cấp cho nhà bếp. Toàn là rau muống bè thân dài tḥng dai ngắc, hoặc ít trái bí ngô, bầu già đem về nấu ăn cả vỏ.

    Đội Anh Nuôi, được coi là bận bịu phải thức khuya dậy sớm, lo nấu thực phẩm, đun nước chín cung cấp đúng giờ giấc quy định cho cả trại.

    Nhưng thực ra không vất vả nặng nhọc, bằng công việc của các Đội Lâm Sản, Nông Nghiệp, Xây Dựng, Rau Xanh. Suốt bốn mùa, mưa cũng như nắng, mọi người phải đầu đội Trời chân đạp Đất, lặn lội nơi rừng rậm âm u, b́ bơm nơi đồng ruộng śnh lầy, lạnh cóng, nóng nực. Ngoài ra, vào những dịp Lễ Tết, khẩu phần ăn được tăng cường, Đội Anh Nuôi làm không kịp, lại được anh em Đội Nông Nghiệp chúng tôi đến tăng cường phụ giúp, giải quyết cho kịp thời gian tính.

    Trong khoảng thời gian ngắn ngủi 2 tháng trời, cả trại phải cố gắng “thi đua lao động” chào mừng ngày Lễ Độc Lập 2 tháng 9, và đón Phái đoàn Trung ương đến “tham quan định giá thành quả lao động cải tạo” của trại viên. Mọi người đă phải “khắc phục” “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”, để hoàn tất mọi “đề án” được Phân trại chấp thuận, dựa theo “đề xuất” của “Ban Thường Trực Thi đua” phối hợp cùng các “Tự Quản Đội”, tŕnh bầy trong ngày Đại hội phát động phong trào thi đua mùa Thu 1976.

    Các công tŕnh hoàn tất trong “Đợt Thi Đua” mừng ngày Độc Lập 2 tháng 9 lần thứ 30 này gồm :

    1.- Chiếc Cổng Trại đồ sộ kiểu cách mỹ thuật;

    2.- Dẫy Nhà Vệ Sinh rộng răi sạch sẽ bằng gạch mái lợp tôn;

    3.- Mấy dẫy nhà “chổm” mới cho Tù ở rộng răi hơn;

    4.- Ṿng hàng rào 2 lớp “chổm” nguyên cây bao quanh trại;

    5.- Khu vườn rau xanh mướt nằm dài 2 bên khe suối.

    Trại nhận xét, “thành quả lao động cải tạo bước đầu” rất “khả quan”. Để cả Cán bộ lẫn anh em Tù “hân hoan” ăn mừng ngày Lễ Độc Lập lần thứ 30, của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay đă đổi tên là Cộng Hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam từ cuối năm 1975, được linh đ́nh. Ban Chỉ huy Phân trại K1, đă cho Quản giáo Đội chúng tôi (Trung úy Khảm) dẫn mấy anh Đội Lâm Sản, đến các Hợp Tác Xă t́m mua thịt tươi.

    Con ngựa mua được, già gầy ốm trơ xương, què một chân không c̣n khả năng lao động, của 1 Hợp Tác Xă cách xa trại chúng tôi chừng vài chục cây số đường rừng. Ông Khảm cho biết : “-Tiền Nhà Nước tăng cường cho Tù trong dịp này không nhiều lắm. Mặc dầu quen biết lâu năm với các cơ sở địa phương, ông ta vẫn phải tốn công tới lui thương lượng nhiều lần, họ mới bằng ḷng để cho với giá phải chăng.”

    Làm thịt ngựa, phải dùng búa tạ đập đầu ngựa cho gục xuống mê man, rồi mới thọc huyết bằng ống nứa vạt nhọn tréo một bên. Mấy anh bạn Tù thuộc Đội Anh Nuôi, người cũng lực lưỡng lắm mà làm không được. Lại phải nhờ đến Quản giáo Đội chúng tôi ra tay tế độ.

    Hôm đó, cả trại được nghỉ lao động, nên có dịp xem làm thịt ngựa. Thật là một cảnh thương tâm hăi hùng, Tôi chưa bao giờ được chứng kiến.

    Một sợi thừng to, chắc, một đầu cột ṿng cổ con ngựa, một đầu buộc vào cây cột cao 1 mét, níu cho đầu nó cúi thấp xuống. Một bạn Tù lực lưỡng đứng phiá trước con ngựa, cầm chiếc búa tạ sẵn sàng dơ cao lên đập mạnh xuống đỉnh đầu nó, để hạ cho nó ngất đi.

    Hai mắt con ngựa mở trừng trừng ứa lệ, làm như khóc van xin đừng giết nó. Khi chiếc búa giáng xuống th́ nó lắc đầu né, nên đập hụt. Đập lần thứ hai, chắc v́ xúc động, nhát búa giáng xuống không đủ mạnh. Con ngựa chỉ chúi xuống, rồi lại cố gắng vùng đứng dậy, t́m cách giật cho đứt thừng để chạy trốn.

    Quản giáo Đội chúng tôi đứng hướng dẫn và quan sát, lên tiếng chê : “-Đàn ông ǵ mà nhát gan dở quá vậy, để tôi ra tay cho xem, mà rút kinh nghiệm về sau.” Ông ta sắn tay áo lên, đến trước con ngựa, vung tay búa lên giáng mạnh xuống, chỉ một nhát là giải quyết xong ngay. Thảo nào, các Cụ thường nói “trăm hay không bằng tay quen” là thế.

    Ngựa ngất xỉu nằm sơng soài trên mặt đất. Lẹ tay ông Khảm buông búa ra, nhặt ngay ống nứa đă vạt nhọn để kề bên, thọc từ ức cổ con ngựa đâm sâu xuống ngực nó. Máu từ đoạn nứa tuôn ra như xối vào chiếc chậu nhôm to tướng. Một chậu không đủ chứa, phải tăng cường thêm 2, 3 chậu khác mới hết.

    Thọc huyết xong, người ta lấy rơm rạ phủ một lớp thật dầy che kín hết con ngựa, rồi bật lửa thui nó. Cho đến khi da quanh ḿnh nó đă xém vàng mới ngưng, để mổ banh bụng nó ra, moi lấy bộ ḷng, lột da, xẻ thịt.

    Một đùi sau, hai dải thịt bắp thăn lưng, tim, gan, và bộ óc dành cho Cán bộ Liên trại và K1. Phần c̣n lại, kể cả da lẫn xương, ruột, và huyết, là phần của anh em Tù K1 tổng số khoảng hơn 350 người, nấu nướng chia nhau ăn 2 bữa, để mừng ngày Cách mạng tháng 8 thành công từ 30 năm về trước.


    Xem tiếp chương 12...

  3. #133
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 12 : THIÊN LA ĐỊA VÕNG XĂ HỘI CHỦ NGHĨA

    Công tác xây dựng Phân trại K1 vừa hoàn tất, một số Đội được đưa qua tăng cường xây dựng Khu Nhà Khách cho Liên trại. Khu này gồm 1 dẫy nhà ở, 1 dẫy nhà ăn cho khoảng vài trăm người, 1 nhà bếp lớn, 1 Thư viện, và 1 dẫy nhà vệ sinh công cộng bằng gạch có mái che, ở sườn đồi gần ngay bên K Ḷ Gạch. Tất cả các dẫy nhà đều được lợp mái bằng tôn.

    Đội chúng tôi được tăng cường làm vệ sinh chung quanh khu nhà Máy Phát Điện của Liên trại, bên kia đường đối diện Khu Nhà Khách.

    Sáng nào cũng vậy, đi trên đường đến nơi lao động, anh em thường gặp 1 người da trắng, mũi lơ, tóc quăn mầu bạch kim, mắt xanh, khoảng trên dưới 30 tuổi, cầm chiếc cần câu cá và 1 hộp mồi giun đi ngược chiều về phiá đập nước. Chúng tôi nh́n với vẻ ngạc nhiên, nhưng không ai dám x́ xào ǵ cả.

    Quản giáo Đội chúng tôi lanh lợi tinh ư, chắc là đoán được suy nghĩ của chúng tôi, lên tiếng giải thích :

    « -Anh này là người Mỹ sinh ở Pu-éc-ta-ri-cô. Anh ta vốn là tù binh xin ở lại, và xin được làm Công dân Việt Nam, lấy tên là Nam. Anh ấy có vợ người Việt ở Hànội. Mỗi tháng được phép về thăm vợ 1 lần. Anh ấy nói và viết tiếng Việt rất giỏi. Anh ấy phụ trách máy phát điện của Ban Chỉ huy Liên trại. »

    Kế ngay bên nhà máy phát điện, là dẫy nhà « chổm » 2 gian dành riêng cho anh Nam. Khoảng mươi mét, phiá sau nhà ở và nhà máy phát điện, có 1 nhà vệ riêng của anh Nam. Nhà vệ sinh là 1 căn lều khoảng 4 mét vuông, quây kín chung quanh bằng phên « chổm », bên trong có 1 bục gỗ cao, làm chỗ ngồi đại tiện xuống 1 thùng gỗ đựng phân ở phiá dưới, để hàng ngày anh Nam lấy đi bón cho khu vườn rau riêng của ḿnh.

    Anh em lao động tại đây, nếu có nhu cầu đi đại tiện, cũng được phép bộ đội cảnh vệ cho vào xử dụng. V́ anh Nam thường ngày đi lên phiá đập nước câu cá, nên không có ǵ trở ngại. Tôi cũng đă có dịp vào xử dụng nhà vệ sinh này.

    Trên nền nhà vệ sinh, thấy có vài cuốn vở học sinh viết đầy chữ Việt, vứt bừa băi lẫn lộn với đủ loại giấy vụn, sách báo, giẻ rách dính đầy dầu nhớt. Bià vở, các trang giấy thấy c̣n mới, và chữ viết mực chưa bị phai nhoè hay bạc mầu theo thời gian.

    Tôi ṭ ṃ, nhặt mấy tờ giấy đầy chữ lên đọc, xem viết những ǵ trong đó. Liếc qua ít câu, Tôi sửng sốt ngạc nhiên bỏ ra ngoài ngay, và không bao giờ dám trở lại nữa, v́ sợ Cán bộ thấy sẽ mang họa. Giấy viết toàn những lời hướng dẫn đường trốn trại, từ Việt Cường qua Nghĩa Lộ, Mường La để thoát sang Lào, hay xuôi theo sông Đà ra biển thuộc Vịnh Bắc Kỳ.

    Đêm về nằm mung lung suy nghĩ, trằn trọc không sao ngủ được. Nhiều câu hỏi tiếp theo nhau hiện ra trong đầu. Ai viết ra và vứt tại đó vậy? Phải chăng anh Nam là người của CIA cài lại, để t́m hiểu đường đi nước bước nhằm giúp chúng tôi trốn trại? Hay chính Cán bộ Cộng sản gài bẫy, để tạo cơ hội thực hiện những chính sách cư xử với chúng tôi khe khắt hơn, mà không bị anh em oán thù là tàn bạo vô nhân đạo?...

    Làm vệ sinh khu nhà máy phát điện xong, Đội chúng tôi được đưa đi làm thuê, «tịnh kho» (dọn sạch sẽ kho) cho Hợp Tác Xă ở ngay giữa đoạn đường đi từ Ban Chỉ huy Liên trại đến K1 (nơi giam chúng tôi).

    Công việc phải làm, thoạt nghe thấy rất đơn giản nhẹ nhàng. Chỉ vun gọn bắp và sắn khô c̣n vương văi trong kho, xúc bỏ vào các bồ đựng, khiêng cất sang ngăn khác, rồi quét dọn sạch sẽ để chuẩn bị chỗ chứa lúa Thu Đông sắp sửa gặt

    Khi bắt tay vào việc mới thấy là rất cực nhọc. V́ phải làm liên tục không ngơi tay, giữa bầu không khí bụi mù ngột ngạt, hôi mốc rất khó chịu. Mũi miệng phải bịt khăn kín mít, thế mà bụi vẫn chui qua vải vào đầy lỗ mũi, bám đầy trên mặt, quanh mắt làm cộm ngứa. Suốt từ đầu đến chân, quần áo phủ đầy bụi bặm mạng nhện.

    Kho đóng cửa lâu ngày không mở, từ dưới gầm sàn gỗ giữ cho ngũ cốc không chạm nền đất, chuột, muỗi tuá ra vô số kể. Nhiều ổ chuột con chưa mọc lông, da bóng láng đỏ hỏn, chưa mở mắt, lúc nhúc chúi vào nhau coi thấy mà ghê sởn gai ốc đầy ḿnh.

    Chỉ có một điều mừng duy nhất, khiến ai cũng mong được đi làm thuê cho Hợp Tác Xă là, trong những ngày đi làm cho Hợp Tác Xă, mỗi buổi lao động tùy theo mùa, mỗi người được « bồi dưỡng » thêm 1 khúc sắn luộc to bằng cổ tay dài độ 30 phân, hoặc 1 trái bắp lớn, ngoài phần ăn do trại phát rất nghèo nàn.

    Mỗi tháng, không phân biệt tháng 30 ngày hay 31 ngày, khẩu phần ăn cho Tù được quy định khoán là 12 kí lô gạo. Như vậy « b́nh quân » mỗi ngày, một người chỉ được ăn khoảng 350 gờ-ram, v́ c̣n phải trừ đi phần hao hụt chuyển vận, tồn kho, bàn cân không chính xác.

    Nhưng chẳng bao giờ được lănh gạo. Thường xuyên quanh năm, gạo được thay thế bằng sắn khô, bắp khô, hoặc khoai lang khô, tính theo phân xuất một đổi một. Có nghiă là 1 kí lô sắn khô, hay 1 kí lô bắp (ngô) khô, được tính tương đương với 1 kí lô gạo. Trường hợp đang mùa sắn hay mùa bắp th́ được ăn tươi, tính theo phân xuất 4 kí lô sắn tươi cả vỏ, hoặc 4 kí lô bắp tươi cả lơi và lá bao ngoài, quy bằng 1 kí lô gạo.

    Nếu có gạo nấu cơm, phần của mỗi người được chia là : bữa sáng một phần ba ca cơm, bữa trưa bằng miệng ca, và bữa tối cũng bằng miệng ca. Sắn khô hay bắp khô nấu chín, chia ra mỗi người cũng được một lượng ao tương đương như vậy. Không biết Cách mạng Chuyên chính Vô sản, tính toán đo lường làm sao mà tài đến thế.

    Bắp tươi luộc, phát mỗi bữa được 1 trái lớn, hoặc 2 trái nhỏ, đem tẽ hột ngồi đếm, bữa nào cũng như bữa nấy, được khoảng từ 800 đến 900 hột.

    Dĩ nhiên bữa sáng th́ chỉ được bằng một phần ba bữa trưa hoặc bữa tối.

    Thức ăn mỗi bữa, mỗi người được vài cọng rau muống dài chừng 10 phân nấu canh với muối, hoặc vài khoanh măng tươi kho muối, là căn bản hàng ngày. Chỉ những ngày Lễ lớn hàng năm như Lễ Độc Lập, 3 ngày Tết, phần ăn được tăng cường th́ mới biết mùi thịt, cá, hoặc tương hột đậu nành muối mặn, và 25 phần trăm cơm, 75 phần trăm sắn.


    C̣n tiếp...

  4. #134
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Một hôm, có lẽ vào khoảng cuối tháng 10 năm 1976, Đội chúng tôi đang làm tại Kho Hợp Tác Xă, ở giữa quăng đồng từ K1 (khu nhà ngói) sang BCH Liên Trại 1, th́ nghe 3 tiếng súng nổ liên tiếp nhau. Cán bộ Quản giáo và bộ đội cảnh vệ, ra lệnh cho anh em ngưng lao động, tập họp điểm số “khẩn trương” trở về trại giam. Mọi người vội vă hồi hộp, chẳng ai biết chuyện ǵ đang xẩy ra.

    Tới trại mới thấy tất cả các Đội, dù lao động xa hay lao động gần, cũng đều được lần lượt dẫn về hết. Mỗi Đội phải ở trong láng riêng, không được đi lại lộn xộn giữa các láng. Mọi người hết đứng lại ngồi, đi quanh quanh trong láng, ngó nh́n ra sân, x́ xầm bàn tán chẳng biết chuyện ǵ.

    Măi tới khi anh bạn Tù trực buồng xuống Bếp, lănh thức ăn tối cho Đội mang về, mới th́ thầm cho biết, Đội Lâm Sản có 4 người lạc trong rừng chưa thấy về. Các Đội phải về trại, để tập trung Cán bộ đổ đi t́m từ chiều tới giờ chưa có kết quả.

    Buổi chiều lúc gần măn giờ lao động, các Đội trưởng (gạch nối giữa Cán bộ và anh em Tù) được gọi lên họp với Ban chỉ huy K1. Họp xong trở về, Đội trưởng của chúng tôi tập họp anh em, cho biết 4 anh trốn trại là:

    Vơ Quế (Không quân),

    Đỗ trọng Huề (Hành chánh Tài chánh),

    Thi (Pháo binh),

    Thành (Trung đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 9 BB).

    Tôi không nhớ Họ của các anh Thành và Thi. Đội trưởng cũng chuyển lệnh Trại nhắc nhở, những ai thường có tiếp xúc thân mật với các anh ấy, biết ǵ về hoàn cảnh của các anh ấy phải báo cáo lên Cán bộ. Nếu giấu diếm không khai, sau này điều tra ra, sẽ bị ghép tội tiếp tay cho người trốn trại.

    Tôi giật ḿnh suy nghĩ, trước ngày các anh ấy trốn, anh Vơ Quế có đến gặp Tôi nhiều lần vào buổi tối, để xin thuốc kiết lỵ và hộp quẹt (diêm).

    Tôi hỏi cần để làm ǵ, anh Quế nói là lúc này phải đi Lâm sản, nhiều lúc lạnh quá muốn đốt lửa hút thuốc cho ấm mà không có quẹt, mấy anh cùng đi có nhưng hết cả rồi. Sở dĩ anh Quế đến xin Tôi là v́, suốt từ khi vào trại Long Giao, qua trại Suối Máu, ra đến K1 Liên trại này, anh Quế cùng 2 anh bạn gốc Pháo binh và Tôi, có cùng hoàn cảnh gia đ́nh thiếu thốn, thường chia sẻ cho nhau những ǵ chúng tôi có, nên đă tự nhiên trở thành bạn tâm t́nh rất thương nhau. Đa số anh em trong Đội của Tôi ai cũng biết. (Anh Quế là em ruột Tướng Vơ Dinh bên Không quân.)

    Trong khi thông báo lệnh của Trại, anh Đội trưởng đă cố ư nh́n Tôi nhiều lần, như muốn nhắn nhủ cho riêng Tôi điều ǵ đó. Nhưng Tôi làm ngơ như không biết ǵ cả. Thông báo xong, anh em tản mát mỗi người lo việc riêng của ḿnh. Anh Đội trưởng cũng là một Đại tá Không quân, đến gần Tôi hỏi nhỏ :

    -Mấy bữa trước thấy anh Quế, tối nào cũng xuống gặp anh tại chỗ nằm để làm ǵ vậy? Anh ấy có than van ǵ với anh không?

    Tôi trả lời :

    -Không, anh ấy đến xin thuốc lá hút như hồi c̣n nằm gần bên nhau chung một Đội, chớ không nói ǵ cả.

    Những ngày kế theo, Tôi đă giữ im lặng chẳng khai báo ǵ hết, và sẵn sàng ứng biến với Cán bộ nếu bị thẩm vấn. Tôi đă có kinh nghiệm, bị gọi làm việc với Cán bộ nhiều lần ở trong Nam rồi, nên không sợ.

    Qua ngày hôm sau, mỗi Đội đi lao động được tăng cường thêm 1 tay súng thứ 2. B́nh thường chỉ có Quản Giáo đội và 1 bộ đội cảnh vệ mang súng thôi.

    Đội chúng tôi không ra Hợp Tác Xă lao động nữa, được giao cho công việc đào 4 hầm giam, bên sườn đồi dốc đứng, đối diện khu nhà ở của cán bộ K1. Kỳ hạn phải làm xong trong 2 ngày. Mỗi hầm bề ngang 80 phân, cao 3 mét, sâu vào ḷng núi 3 mét. Mái hầm làm bằng các cây gỗ nhỏ, xếp liền nhau trên mặt đất sườn đồi, rồi cột tranh chổm và đổ đất phủ lên bên trên. Mỗi hầm cách nhau 1 mét. Mỗi hầm có 1 cửa gỗ có khoá riêng bên ngoài, và một gông bằng gỗ dầy có 2 lỗ to vừa bằng cổ chân, ở ngay cuối bệ đất nằm, đóng chắc vào 2 cột sát bên vách hầm.

    Vài ngày sau vào lúc xế chiều, Đội vừa đi lao động về đến trại, nghe tin là 4 anh trốn trại đă bị dân chúng bắt đem nộp cho trại, và đang bị cùm trong những hầm giam mà Đội chúng tôi mới thực hiện xong từ mấy ngày trước.

    Một anh bạn Tù thuộc Đội nhà bếp, Đại tá Trần văn Thăng cũng thân với Tôi, được Cán bộ dẫn đem thức ăn cho các anh bị giam, cho biết là các anh ấy bị đánh nhừ tử như cái rẻ rách, trông rất thảm thương. Những người bị kỷ luật, mức ăn bị giảm xuống chỉ c̣n 9 kí lô một tháng, so với b́nh thường là 12 kí lô.

    Mấy ngày tiếp theo, vào một buổi sáng anh em đang ngồi đợi tại sân tập họp, chờ gọi xuất trại đi lao động. Có tin x́ xầm rỉ tai nhau :

    “-Hồi đêm anh Thành xé chăn đắp, làm dây treo cổ lên mái hầm tự tử chết.”

    Đội chúng tôi ai cũng ngạc nhiên. Từ nền đất nằm lên tới mái hầm cao 3 mét, cả 2 chân bị cùm bằng gông gỗ, chỉ có thể ngồi lên với 2 chân duỗi thẳng sát đất, chớ không đứng lên được. Với tư thế ngồi bẹt dưới đất trên sàn nằm như vậy, 2 tay dơ thẳng trên đầu không cao quá 1 mét rưỡi, các cây phủ nóc hầm ken (xếp) sát liền nhau không kẽ hở, khung cửa lại cách xa nền nằm 1 mét, làm sao tự cột dây lên mái hầm mà treo cổ được.

    Nói như vậy chắc ai cũng biết anh Thành chết v́ sao rồi, khỏi cần giải thích thêm.

    Khi có quyền sinh sát trong tay, người ta muốn làm ǵ nói ǵ mà chẳng được. Ai x́ xào nghi vấn th́ lập tức bị kết ngay tội bôi xấu Chế độ, và sẽ bị kỷ luật tức khắc. Càng tŕnh bầy minh oan tội càng nặng, v́ ngoan cố không chịu nhận tội để sửa sai.

    Không biết mấy bạn Tù trốn trại này, có dịp vào xử dụng nhà vệ sinh của anh Nam (người tù binh Mỹ xin ở lại làm công dân Việt Nam, lấy vợ Việt), mà lượm đọc những trang chữ chỉ đường dẫn lối không?

    Hay là bạn nào đă nhặt đem về đưa cho đọc, mà tin tưởng cả gan liều lĩnh đặt kế hoạch rủ nhau trốn trại như vậy? Bản thân Tôi kính phục ḷng can đảm của các anh ấy vô cùng.
    Nhiều bạn cũng khen là can đảm. Nhưng cũng có bạn chê là liều không đúng lúc, chỉ tạo cơ hội cho bọn Qủy Đỏ bầy đặt thêm biện pháp xiết chặt cách cư xử, hành hạ gây thêm khó khăn cho cả mọi người


    Xem tiêp' chương 13

  5. #135
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 13 : CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG NHÂN ĐẠO CỦA NHÀ NƯỚC XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ TRƯỚC SAU NHƯ MỘT

    Khoảng vài tuần lễ sau vụ trốn trại xẩy ra, một đoàn Cán bộ Trung ương tới trại tổ chức học tập. Người ta nhai lại những ǵ đă học ở trong Nam trước khi ra Bắc.

    Trong buổi “tổng kết thành quả thâu hoạch” tại Hội trường về đợt học tập, đă xẩy ra một chuyện bất ngờ làm anh em ngạc nhiên. Trưởng đoàn Cán bộ Trung ương, yêu cầu anh em “mạnh dạn” cho biết những khó khăn muốn được giúp đỡ để học tập cho tốt, cũng như “thành khẩn” tŕnh bầy những u uẩn trong ḷng làm ảnh hưởng đến tinh thần học tập, kể từ ngày ra đến đất Bắc Xă hội Chủ nghĩa.

    Có mấy anh gan dạ, lên tiếng đưa ra 2 vấn đề xin được “giải toả thoả đáng”:

    1.-Cán bộ cấp Trung ương, tuổi cũng bằng cỡ chúng tôi, mà c̣n gọi chúng tôi là các anh. Thế mà ở đây có một cán bộ rất trẻ, chỉ bằng tuổi con của chúng tôi, lại dùng từ “chúng mày” để nói với chúng tôi. Ông ấy c̣n nói là “con của chúng mày sẽ không bao giờ được vào Đại học”.

    Điều này trái hẳn với Chính sách khoan hồng nhân đạo của Nhà nước Xă hội Chủ nghiă, mà các Cán bộ đă giảng dạy cho chúng tôi bấy lâu nay, làm chúng tôi rất hoang mang.

    2.-Nhà nước thông báo là chỉ đem tiền ăn và quần áo đủ dùng cho 1 tháng học tập. Đến nay đă hơn 1 năm rồi, quần áo mùng mền của chúng tôi đă rách, lại phải ra ngoài Bắc này thời tiết quá lạnh, không quần áo ấm làm sao đủ sức chịu đựng mà học tập lao động cho “tiến bộ” được.

    Chúng tôi tha thiết yêu cầu cho gửi thơ về gia đ́nh, xin tiếp tế thêm quần áo lạnh và mùng mền.

    Để trả lời, Trưởng đoàn Cán bộ Trung ương đă mau mắn khen ngợi tinh thần “thành khẩn” của anh em, và xác nhận rằng :

    “-Chính sách khoan hồng nhân đạo của Nhà Nước Xă hội Chủ nghĩa trước sau như một, không có ǵ thay đổi. Tuổi trẻ bao giờ cũng nông nổi, chúng tôi sẽ “kiểm thảo” để “sửa sai” cho những ai đă có hành động như vậy. Việc quần áo ấm th́ chúng tôi sẽ tŕnh Cấp Trên cứu xét giải quyết “khẩn trương”cho anh em. Hăy cố gắng học tập cho tốt đừng nản ḷng.

    Việc được về sớm hay muộn, tùy thuộc vào tinh thần cố gắng học tập và mức tiến bộ của chính bản thân mỗi người. Các Chị và các cháu ở nhà vẫn sinh hoạt b́nh thường như mọi người khác. Các anh cứ yên tâm học tập cho nó tốt, không có ǵ phải lo lắng.”

    Thật đúng là miệng lưỡi của “Vẹm” xảo quyệt, gian ngoan, lừa đảo, láo khoét, không sao tin được.

    Sau này, khi được tha về vào tháng 2 năm 1988, Tôi mới được gia đ́nh kể cho biết là :

    “Tháng 9 năm 1975, sau khi Tôi đi tŕnh diện tập trung cải tạo được 3 tháng, người con trai thứ của Tôi đang học năm thứ 3 Y khoa, Đại học Minh Đức tại Saigon, đă bị loại ra khỏi trường Đại học bằng 1 biện pháp vô cùng dă man.

    Chiều ngày 26 tháng 9 năm 1975, các bạn thân cùng nhóm học với Con tôi đến nhà báo cho gia đ́nh biết, trong lúc đang cùng mọi người nghe thuyết giảng tại Trường Luật ở đường Duy Tân, Saigon, Con tôi đă bị Công an bắt đưa lên xe chở đi đâu không biết.

    Vợ của Tôi lo lắng chạy ngược chạy xuôi, tŕnh hỏi khắp các cơ quan Công an Quận, Thành phố, không ai biết ǵ. Chồng đă bị bắt đi tŕnh diện học tập, suốt mấy tháng trời bặt không tin tức. Nay, khi không, Con lại bị bắt đưa đi đâu mất tích chẳng biết sống chết ra sao. Vợ của Tôi buồn phiền, lo nghĩ sinh bệnh nặng, phải đưa đi cấp cứu mấy lần mới thoát chết.”

    Thật là “Họa vô đơn chí, Phúc bất trùng lai”. Mặc dù thất vọng, nhưng gia đ́nh chúng tôi theo đạo Phật, thấu hiểu “luật nhân quả”, nên luôn luôn tin tưởng rằng không bao giờ Trời hại người hiền lương. Gia đ́nh chúng tôi chưa bao giờ làm điều thất đức, trước sau ǵ rồi cũng được an toàn thoát nạn.

    “Ngày tháng buồn khổ cứ vô t́nh trôi qua. Bỗng dưng một hôm, vào khoảng tháng 9 năm 1976 tức là một năm sau, tự nhiên có một người trẻ, bạn tù của con Tôi mới được tha, tới nhà báo tin cho biết là con Tôi đang bị giam trong Khám Chí Hoà. Mừng rỡ, Vợ của Tôi chạy đi nhờ người chỉ vẽ cách làm đơn xin và được vào thăm nuôi con.

    Hơn 1 năm xa cách, Mẹ con mới lại có dịp thấy mặt nhau, trong sân của Khám Chí Hoà. Thấy con chỉ c̣n da bọc xương, ốm tong ốm teo, ghẻ lở cùng ḿnh, đầu tóc rụng trơ sọ, quần áo rách nát bẩn thỉu, không đi nổi, phải ḅ lết ra gặp Mẹ. Trước cảnh tượng vô cùng đau thương đó, Vợ của Tôi sót xa, nghẹn ngào, tim gan se thắt, đau đớn như đứt từng khúc ruột.”
    Bây giờ, ghi lại những ḍng này, Tôi vẫn c̣n bị xúc động mạnh, không kềm nổi những ḍng lệ nghẹn ngào, thương sót cho Vợ Con đă v́ ḿnh mà phải chịu họa lây thảm thương đến như vậy.

    “Sau khi thăm Con ra về, Vợ của Tôi phải đi cầu cứu bạn bè quen biết, giúp chạy chọt nhờ các gia đ́nh Cách mạng vẽ lối chỉ đường làm đơn xin bảo lănh cho con được tha. Mọi thủ tục hoàn tất, việc cứu xét kéo dài một năm sau con trai của Tôi mới được tha về, vào tháng 7 năm 1977. Nhưng cậu ấy không được Phường, Quận, chấp nhận cho nhập “hộ khẩu” của gia đ́nh.

    Con của Tôi, phải nhờ bạn bè chỉ vẽ cách xin t́nh nguyện đi làm không công trong Pḥng Y tế của Phường, tham gia đoàn công tác thường xuyên đến vùng Kinh tế mới Lê Minh Xuân, cách xa Saigon 15 cây số, chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào làm Thủy lợi tại đây. Ba năm sau mới được thâu nhận làm nhân viên chính thức của Pḥng Y tế Phường 10, Quận Phú Nhuận, và được giúp đỡ cho gia nhập “hộ khẩu” gia đ́nh.

    Lúc được tha về, cậu ấy kể lại cho gia đ́nh nghe, ngay khi bị bắt đưa lên xe, người ta bịt mắt không cho nh́n đường. Họ chở tới giam trong một căn nhà villa nào đó, đánh đập tra hỏi đủ điều suốt mấy ngày liền về tổ chức Phục quốc. Cậu ấy khai không biết ǵ cả. Tra khảo măi không lấy được lời cung khai nào, họ bèn đem cậu ấy ra xe đưa vào Khám Chí Hoà, Saigon, nhốt trong pḥng biệt giam tăm tối. Hàng ngày, công an đến tiếp tục thay phiên nhau đánh đập tra khảo cả mấy tháng trời, v́ bị nghi vấn tham gia phong trào Phục quốc, chống lại Chính quyền Cách mạng. Không khai thác được manh mối nào để kết tội, nhưng vẫn bị giam giữ suốt 2 năm trường, ngắc ngoải gần chết v́ bệnh hoạn, thiếu dinh dưỡng.”

    Nhờ trước 30-4-1975, Tôi và các Con hàng ngày đến Vơ đường luyện tập Nhu đạo và Thái cực đạo, nên biết cách chịu đ̣n và biết bảo vệ những chỗ hiểm nên không chết. Nhưng cậu ấy vẫn bị hư màng nhĩ lỗ tai trái, không nghe được nữa.

    “Trong khi Tôi đang đi cải tạo, ở nhà Vợ của Tôi và những bà vợ các Sĩ quan, Công chức của Chế độ Saigon cũ, thường xuyên bị Phường buộc đến tập trung nghe cán bộ nói về các chính sách của Nhà nước, thúc đẩy “đăng kư t́nh nguyện” đi vùng Kinh tế mới tham gia sản xuất. Có chịu đi th́ chồng mới sớm được tha về đoàn tụ với gia đ́nh. Trong khi đi vùng Kinh tế mới, Nhà Nước sẽ “quản lư” giùm nhà riêng tại Saigon.

    Sau những đợt học tập như vậy, Chính quyền địa phương c̣n cho các nhân viên Nam Nữ trẻ, tuổi cỡ đôi mươi, ăn mặc sắc phục bộ đội, mang súng, đội mũ “tai bèo”, đến tận nhà hăm dọa đủ điều, để ép phải kư giấy t́nh nguyện đi vùng Kinh tế mới. Nhiều Bà nhẹ dạ cả tin đă ra đi. Một thời gian sau bệnh hoạn, đói rách, con chết, không chịu nổi, t́m cách trở lại Thành phố th́ không c̣n nhà để ở, phải sống trong hoàn cảnh bất hợp pháp không có “hộ khẩu”.

    Riêng phần gia đ́nh của Tôi, v́ đang phải nuôi người con trai út mới sanh hồi tháng 1 năm 1976, nên nhất định lỳ không chịu đi, mặc dù Phường cử nhân viên đến nhà hàng tháng đốc thúc, hăm dọa, nào là không đi th́ Nhà nước sẽ không bán gạo cho, bệnh hoạn sẽ không chữa bệnh cho…

    Cuối cùng, để gia đ́nh không bị sách nhiễu nữa, cô con gái lớn của Tôi cũng là Sinh viên Y khoa, ngoài giờ đi học và thực tập tại Bệnh viện, đă phải t́nh nguyện đến làm việc không công cho pḥng Y tế Phường, phụ trách châm cứu chữa bệnh cho đồng bào. Tới cuối năm 1977, t́nh nguyện và được chấp nhận cho đi làm tại nhà thương Nguyễn văn Cội vùng Củ Chi, cách Saigon chừng vài chục cây số. Đến gần cuối năm 1979, mới xin được chuyển về Saigon làm việc tại nhà thương Đồn Đất, khu Nhi (chữa bệnh con nít).

    Năm người con nhỏ tuổi hơn, sau khi học hết Trung học, không ai được nhận vào Đại học, mặc dù điểm thi tuyển đạt rất cao, chỉ v́ trong hồ sơ có vết tích Cha là Sĩ quan của chế độ cũ đang phải đi tập trung cải tạo. Chúng phải đi làm thợ cho các Tổ sản xuất mành Trúc, do gia đ́nh các cán bộ Cách mạng làm chủ để kiếm cơm ăn hàng ngày.”

    Đấy là chuyện vợ con ở nhà, sau đây xin trở lại tiếp tục chuyện trong tù nơi đang bị giam cầm là K1 Liên Trại 1 tại xă Việt Cường tỉnh Hoàng Liên Sơn..

    Vài ngày sau đợt học tập chấm dứt, một buổi sáng, các Đội đang ngồi tại sân tập họp đợi gọi đi lao động, một chuyện bất ngờ đă xẩy ra. Cán bộ trực trại tuyên đọc lệnh kiểm tra tư trang thay v́ đi lao động.

    Mọi người vào thu vén hết đồ dùng quần áo riêng của ḿnh đem ra sân, bầy trước mặt trên đất, theo từng đội, tại khu vực do Cán bộ quản giáo đội chỉ định. Cán bộ đến kiểm soát kỹ lưỡng tư trang của từng người một, tịch thu những ǵ cán bộ cho là vi phạm quy luật trại giam, Tù không được lưu giữ bên người.

    Kiểm tra suốt từ sáng đến trưa mới song. Một lệnh mới được loan ra, mỗi người chỉ được giữ lại hai bộ quần áo dùng đi lao động, c̣n tất cả phải xếp vào một bọc riêng cất vào kho, trong dẫy nhà ngói. Thuốc âu dược riêng của mỗi người, bỏ vào 1 túi nylon, viết giấy ghi tên ḿnh để bên trong, cột lại, nộp cho trại giữ giùm, khi nào cần sẽ phát tùy theo nhu cầu. Tiền bạc và các vật qúy như đồng hồ đeo tay, nhẫn cưới, dây đeo cổ, đeo tay bằng vàng bạc, đều phải nộp cho trại cất giữ có cấp giấy biên nhận, khi nào được tha trại sẽ hoàn trả lại.
    Một điều làm mọi người e ngại là, vàng th́ ghi là kim loại màu vàng, lỡ sau này vàng sẽ bị trả lại bằng kim loại cũng màu vàng, nhưng là thau hay đồng th́ sao. Lo vậy nhưng không ai dám nói ǵ.

    Thật là thâm độc và xảo quyệt. Đây chính là biện pháp mà bọn Quản lư trại giam theo lệnh Nhà Nước, cần áp dụng đối với Tù chính trị miền Nam. Nhưng trước khi thi hành, họ lại tạo điều kiện xúi Tù trốn trại, rồi mới dựa vào cớ ấy để đưa ra biện pháp quản lư khắt khe, không ai có thể kêu ca quy tội cho họ là vô nhân đạo.


    Xem tiếp chương 14
    Last edited by Tigon; 07-03-2013 at 05:29 AM.

  6. #136
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 14 : YÊU LAO ĐỘNG LÀ YÊU XĂ HỘI CHỦ NGHĨA
    YÊU XĂ HỘI CHỦ NGHĨA LÀ YÊU NƯỚC


    Chung quanh K1 không có đất để canh tác, nên sau khi hoàn tất đợt học tập được khoảng một tháng, tất cả chúng tôi được di chuyển tới một khu khác, vào tháng 12 năm 1976. Mức cao độ của Khu trại mới này, thấp hơn mức cao độ K1 cũ chừng 40 mét. Nó ở về phiá Nam cơ sở BCH Liên trại 1, cách xa khoảng 5 cây số, trên con đường đi xuống hướng sông Âu Lâu.

    Tới khu mới này, anh em chúng tôi bị chia ra làm 2 Phân trại :

    một nửa ở K2 (Trại Cây Khế) và một nửa ở K3 (Trại Cốc), cách xa nhau chừng một cây số.
    Ngay tại ngă 3 đường rẽ vào khu Trại mới này, có một Bệnh xá, nơi điều trị các Tù bệnh nặng, không thể chữa khỏi tại các Pḥng Y tế Phân trại.

    Tôi không biết Bệnh xá có bao nhiều giường. Nhưng thấy có tới 4, 5 dẫy nhà, chắc phải có ít nhất là 50 giường. V́ ngoài các Phân trại giam các Tướng, Đại tá, Liên Trại 1 c̣n quản lư mấy trại khác giam cấp Trung tá, Thiếu tá, cũng ở trong khu vực này. Mỗi trại cách nhau từ 5 đến 7 cây số, dọc 2 bên đường dẫn xuống phiá sông Âu Lâu.

    Khu mới đến, là một thung lũng hẹp nằm giữa 2 dẫy đồi, sườn dốc thoai thoải chừng 30 độ góc, dài khoảng 100 mét từ chân lên đến đỉnh. Một con suối hẹp nằm dọc suốt thung lũng, nước chẩy xiết qua nhiều thác nho nhỏ cao 1 mét, ra đến bên đường lớn rẽ phải xuôi xuống hướng Nam. Đằng sau 2 dẫy đồi là những dẫy núi cao hàng trăm mét, trùng trùng điệp điệp, sườn dốc 60 độ, trồng những cây bồ đề để lấy gỗ làm giấy. Cây nào cây nấy gốc to một người ôm không hết, cao cả chục mét. Miệng thung lũng nơi sát đường cái, bề ngang rộng khoảng 500 mét, càng vào trong sâu càng nhỏ dần lại c̣n chừng 300 mét.

    K2 ở ngay gần miệng thung lũng, cách Bệnh xá một cây số, gọi là Trại Cây Khế. V́ trên giữa đỉnh đồi gần bên trại có một cây khế to cao, xum xuê trái. Đi sâu thêm độ cây số nữa, tới K3 ở trong cùng của thung lũng, gọi là Trại Cốc.

    Đội chúng tôi thuộc nhóm giam tại K2 (Trại Cây Khế). Khu nhà dành cho Tù ở trên sườn đồi phiá Bắc con suối, đối diện với khu Cán bộ ở trên sườn đồi phiá Nam con suối. Con đường dẫn vào K3 (Trại Cốc) chạy dài theo sườn đồi bên phiá khu Cán bộ ở.

    Các dẫy nhà Cán bộ ở sát trên đỉnh đồi, cao hơn so với các dẫy nhà Tù ở phiá bên đối diện. Chạy dài theo rià sân trước những dẫy nhà Cán bộ ở, có đào 1 giao thông hào sâu 1 mét rưỡi, với những vị trí để súng liên thanh, súng cối, hướng sang khu Tù ở.

    Các dẫy nhà Tù ở đều rất cũ, làm bằng “chổm”, cất tựa theo sườn đồi thành 3 nấc. Nấc dưới thấp hơn nấc trên một chiều cao nhà, tính từ nền lên đến mái. Nấc dưới cùng gần bên bờ suối là khu Nhà Bếp, sân tập họp. Các nấc kế trên là những dẫy nhà ở.

    Đường lên xuống giữa các nấc nhà, là những bậc thang đất đào vào sườn đồi. Đội chúng tôi ở trong dẫy nhà trên nấc cao nhất, phải leo tới 30 bậc thang đất, mỗi bậc cao cỡ 40 phân, mới tới nơi. Mùa mưa, lúc đi xuống thường bị trượt chân giáng đít trên bậc đất oành oạch. Có người c̣n bị tuột luôn mấy bậc mới khựng lại, làm dồn xương sống, choáng váng mặt mày. May mà không có ai bị gẫy xương, trật gân v́ những tai nạn nho nhỏ này.

    Dẫy nhà chúng tôi ở chứa 2 Đội. Trước dẫy nhà có một sân rộng khoảng 5 mét, để sáng sớm cả Nhà ra xếp hàng tập thể dục, tối điểm danh trước khi vào Láng ngủ. Sân c̣n được dùng làm mặt bằng để pha “chổm”, đan phên, đan tranh, làm “ki” (cáng khiêng)...

    Trong nhà có 2 dẫy xạp nằm sát dọc 2 bên vách, rộng 2 mét bằng phên “chổm”. Phiá vách sát nóc nhà, bên trên đầu xạp nằm khoảng 1 mét rưỡi, có 1 giàn kệ rộng 60 phân cũng bằng “chổm”, để Tù cất đồ dùng thường ngày của ḿnh trên đó cho gọn gàng. Một đường đi rộng 1 mét rưỡi, dài suốt từ đầu này đến đầu kia, nằm dọc chính giữa dẫy nhà.

    Nhà có 3 lối ra vào đều không có cánh cửa. Hai cửa ở 2 đầu nhà có 1 tấm phên cao rộng 2 mét, đóng xuống đất trên hiên phiá ngoài, cách khung cửa 70 phân, để cản gió mưa không tạt vào nhà. Vách phiá lưng nhà, nằm song song với thành đất sườn đồi, nên không có cửa sổ. Vách phiá trước, trông ra sân nh́n sang khu Cán bộ ở, chính giữa có một khuôn cửa ra vào rộng 1 mét, và 4 khuôn cửa sổ ở 2 bên. Tất cả đều không có cánh cửa.

    Những bọc tư trang riêng, hồi c̣n ở K1 (khu nhà ngói) Tù phải để vào kho chung, nay được trả lại. Nhưng phải xếp tập trung vào một góc nhà, và thuộc quyền kiểm soát thường xuyên của Quản giáo Đội. Không ai được đụng tới, mỗi khi cần lấy thứ ǵ phải xin phép Quản giáo cho mới được.

    Khu trại này không biết do ai dựng lên từ bao giờ, t́nh trạng rất cũ kỹ. Các vách “chổm” đă khô cong, kẽ hở rộng không c̣n khả năng chắn gió Bấc mùa Đông, được dự đoán sẽ “khắc nghiệt” hơn mọi năm. Chung quanh trại chưa có hàng rào. Cần có thêm dẫy nhà làm Hội trường, cho khoảng 200 người ngồi học tập trong những ngày mưa gió. Cần có Thư viện trưng bầy sách báo do các Lănh tụ Cộng sản Việt Nam viết, truyện dài truyện ngắn Xă hội chủ nghiă do các Văn nô Cộng sản sáng tác, hoặc dịch từ các truyện của Liên sô. (Tù sẽ phải mượn đem về láng ở mà đọc, mà nghiên cứu, nghiền ngẫm để thấm nhuần tư tưởng Cách mạng tháng 8, cho mau trở thành con người Xă hội Chủ nghĩa.) Cần có 1 pḥng hớt tóc chung cho mọi người. Cần có 1 Pḥng Y tế chữa trị những bệnh thông thường hàng ngày cho Tù, để luôn luôn bảo đảm nhân số tham gia lao động cao. Mấy dẫy nhà bên khu Cán bộ ở, cần phải phá đi làm mới cho thêm khang trang, an toàn khi giông băo.

    Đấy là những việc cần làm “khẩn trương”. Mùa mưa dầm gió Bấc của miền Bắc Việt Nam, đă bắt đầu rả rích từ gần 2 tháng rồi. V́ thế, trừ 2 Đội Rau Xanh và Đội Anh Nuôi ra, tất cả các Đội đều phải tập trung đi chặt “chổm”, chặt giang, đốn gỗ, cắt sậy, lấy lá chuối rừng đem về thực hiện những công tác cần nêu trên.


    C̣n tiếp...

  7. #137
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Đây là “đợt thi đua mới” được “phát động” để chuẩn bị mừng đón Tết Đinh Tỵ 1977. Mọi người lại phải cố gắng tham gia thể hiện cho nó tốt, mau “tiến bộ”, để hy vọng sớm được tha về “đoàn tụ” bên Vợ Con.

    Thoạt đầu, Đội chúng tôi được đưa đi theo đường cái lớn, xuôi xuống hướng Nam chừng 5 cây số để chặt “chổm”.

    Trên đường đi, cách Trại chúng tôi khoảng 3 cây số, gặp 1 trại gồm chừng 10 dẫy nhà “chổm” nằm sát bên trái đường, không biết giam Tù thuộc cấp bậc nào, bao nhiêu người. Trại này được xây dựng trên sườn núi cao không có khe suối. Nên phải dựng một giàn ống nứa dài, cao hơn mặt đường độ 6 mét, suốt từ suờn núi bên phải nơi có mạch nước chẩy ra, băng qua đường, sang tận sườn núi bên trái nơi dựng trại, để tiếp nước ăn cho Trại.

    Rừng “chổm” cách trại này khoảng 2 cây số, dưới khe phiá bên trái đường. Khu vực sát bên đường người ta đă chặt trụi trơ hết. Chúng tôi phải đi vào trong sâu, cách đường 2 cây số mới có “chổm” để chặt.

    Ít bữa sau, Đội chúng tôi lại được đưa đi về hướng Bắc, cách trại chừng 1 cây số, để đốn cây bồ đề về làm cột, dui, và kèo nhà. Chuyến đi này cheo leo khó khăn vất vả hơn. Muốn tới khu vực có bồ đề được Công ty Lâm sản Nhà Nước đánh dấu loại bỏ, cho phép chặt tiả, phải mất cả tiếng đồng hồ, leo lên tụt xuống 4 ngọn núi cao cỡ trăm mét nối tiếp nhau mới gặp. Không ước lượng được khoảng cách từ đường cái vào là bao xa.

    Ngày thứ 2 đi đốn bồ đề, trên đường về Tôi đă bị một tai nạn khủng khiếp. Vết thẹo oan nghiệt nhớ đời, dài 3 phân, vẫn c̣n khắc rơ ràng nơi cổ tay trái, sát ngay phiá trên chỗ đeo đồng hồ. Từ ngày ấy đến nay, mỗi khi Tôi đưa tay lên xuống làm việc ǵ cũng thấy nó, một dấu ấn hận thù không bao giờ quên được. Tai nạn đă xẩy ra thật bất ngờ, Tôi không có cách nào phản ứng kịp để tránh nó.

    Cán bộ quy định, một ngày mỗi người phải chặt và vác về 4 cây bồ đề dài 5 mét, đường kính phiá gốc tối thiểu là 20 phân. Ai mạnh có thể vác cả 4 cây một lượt về nộp xong th́ được nghỉ, coi như ngày công lao động đă hoàn tất. Ai yếu như Tôi th́ phải cột 2 cây làm một để vác làm 2 chuyến.

    Vác gỗ vượt qua khỏi các đỉnh phiá trong, sườn dốc lài lài khoảng 30 độ góc, th́ ra tới đỉnh sau cùng để xuống đường. Sườn núi sau cùng dốc đứng tới 60 độ, dài chừng 80 mét, nên không thể vác gỗ đi xuống được. Phải thả cho bó cây tự động trôi, tuốt từ trên cao xuống khe chân núi trước, rồi người mới từ từ đi lần xuống sau để vác ra đường.

    Suốt đêm hôm trước, Trời mưa rả rích nên cỏ và đất núi trơn trợt. Sau khi đă thả hết cả 4 cây gỗ, cột thành 2 bó trôi xuống chân núi. Tay phải cầm con dao dựa chặt gỗ rất bén, Tôi từ từ đi xuống. Chẳng may bị trượt chân ngă nhào, lăn ṿng ṿng theo sườn dốc, khoảng chừng 30 mét tới khe chân núi mới khưng lại.

    Sau cơn hoảng hốt, ngồi lên được th́ thấy mu bàn tay trái đầm đià máu. Vén tay áo lên xem th́ thật khủng khiếp, vết dao cắt đứt thật sâu, da miệng vết thương banh ra chừng 1 phân, trông thấy xương cánh tay trắng hếu. Tôi vội lấy chiếc khăn lông, đang cuốn ở cổ chống lạnh, để băng chặt vết thương lại. Rồi dùng bàn tay phải bóp chặt chỗ vết thương cho máu ngưng chẩy, vừa đi vừa chạy theo kiểu Hướng đạo sinh, suốt hơn 2 cây số đường về pḥng Y tế của K2 xin băng bó. Mặc dù ở ngă 3 rẽ vào K2, có Bệnh xá Liên trại nằm ngay đầu đường, nhưng v́ Cán bộ canh cổng không cho vào xin cấp cứu, nên đành chịu.

    Về tới K2, sau khi được anh bạn Tù làm Y tá phụ Cán bộ trưởng Pḥng Y tế, rửa khử trùng và băng bó vết thương xong. Tôi phải năn nỉ nhờ anh ấy đi gặp Cán bộ Y tế, xin giùm giấy chứng nhận bị thương tích trầm trọng không lao động tiếp được để về Láng nghỉ. Tôi cũng nhờ anh ấy xin Cán bộ, cho phép lấy thuốc trụ sinh riêng của Tôi gửi trại giữ để uống liền. Nhờ thế, những ngày kế theo, vết thương không làm độc.

    Tôi chỉ được nghỉ 2 ngày làm việc nhẹ, phụ lặt rau cho nhà bếp, rồi lại phải tiếp tục theo Đội đi ra ngoài lao động như thường.

    Cho đến bây giờ, Tôi vẫn không h́nh dung ra được là dao đă cứa cổ tay của Tôi, vào lúc nào trong khi ngă lăn lông lốc xuống núi. Nếu chẳng may mà dao lại cứa nhằm chỗ khác như cổ, mặt, bụng, hoặc vết cứa ở cổ tay chỉ nhích tới phiá trước chừng nửa phân thôi là đứt gân máu lớn.

    Máu sẽ chẩy nhiều hơn, nằm ngất sỉu nơi khe chân núi đến khi có người phát giác ra, th́ chắc là Tôi đă không phải tiếp tục chịu đọa đầy cả hơn chục năm trời tiếp theo. Xác đă được vùi sâu nơi đồi thông phiá bên trái đường vào K2, như các bạn Đại tá xấu số Bá-Th́n tự Long, và Huỳnh Hữu Ban Trưởng Pḥng 5 Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà rồi.

    Trong lúc vận sui, vẫn có những cái may đến bất ngờ. Ngày Tôi phải đi lao động trở lại, Đội không đi lấy bồ đề nữa, mà đi lấy lá sậy và lá chuối rừng về phơi khô, kết phủ trên xạp nằm và chung quanh vách nhà cho kín gió, để mùa Đông trong Láng ở được ấm cúng hơn.

    Nơi lấy lá ở ngay trên một khoảnh đồi, bên phiá trái con đường gần sát bià khu rừng nằm giữa K2 và K3. Bên sườn đồi, thấy nhiều dấu vết nền gạch của những căn nhà đă bị triệt hạ, chung quanh có những cây ổi, cây tranh. Đặc biệt trên đỉnh đồi, có 1 cây khế khá to đang đầy trái. Tuổi thọ của nó ít ra cũng khoảng vài chục năm chớ không ít. Sau này, một bạn vốn là diện rộng trong K3, trách nhiệm đi trăn trâu hàng ngày, bị chuyển đi trại Tân Lập, Vĩnh Phú một lượt với Tôi cho biết, theo lời tiết lộ của Quản giáo đội anh ta, hồi 1954 khu Cốc này đă từng là nơi có những nhà giam Tù binh Pháp thua trận Điện Biên Phủ.

    Một tuần sau, Đội chúng tôi lại được đổi công tác. Đi lên hướng Bắc, xa hơn BCH Liên trại 1 và K Ḷ Gạch chừng 3 cây số, vào rừng xa đường lớn cả hơn cây số, để chặt giang. Đem về, pha, chẻ, tước thành nan đủ loại khác nhau, làm lạt cột, chuốt nhẵn đan nong, nia, rổ, rá, kết mành mành che cửa nhà ở của Cán bộ.

    Con đường đi lấy giang, c̣n gian khổ hơn con đường đi lấy bồ đề nhiều. Sườn núi dốc đứng, dầy đặc cây gai và dây rừng chằng chịt, không có đường ṃn để đi, phải lội ngược ḍng suối, suốt từ ngoài đường lớn vào đến nơi có giang. Ḷng suối lổn nhổn toàn đá sỏi, lởm chởm đầy rong rêu trơn trợt. Ḍng nước chẩy xiết cóng buốt, có chỗ xấp xỉ cổ chân, có chỗ cao đến gần đầu gối. Chẳng may bị trượt chân, là té lăn đùng ra suối không gượng được. Quần áo ướt sũng từ đầu đến chân, bị ḍng nước cuốn trôi một đoạn xa mấy mét, mới quờ nắm được cây bên bờ giữ cho khựng lại để đứng lên. Phải lội như vậy hơn một cây số, mới gặp rừng giang để chặt.
    Giang là một loại họ nhà tre, nhưng lại mọc nằm ḅ dài từ bờ suối lên sườn núi, chớ không mọc thẳng đứng như tre hoặc “chổm”. Nó chen nhau chằng chịt, vươn dài chồng lên nhau để t́m ánh sáng mặt trời, nên rất khó chặt, và rất nguy hiểm.

    Chặt giang nguy hiểm, v́ chặt ở gốc sát mặt đất không được, phải trèo lên đứng trên đỉnh những gốc người ta đă chặt trước, để chặt từ lưng chừng thân cây cách gốc khoảng hơn 1 mét.
    Hai chân phải đứng trên những gốc cụt. Tay trái nắm vịn vào thân cây khác kề bên, để giữ thăng bằng. Tay phải cằm dao chặt thật mạnh, làm sao chỉ một nhát chéo là đứt băng luôn thân giang. Nếu không thân giang sẽ bị tước ra không c̣n nguyên vẹn, trở thành vô giá trị, phải đi chặt cây khác. Đường kính thân cây giang chỉ khoảng 6 phân là lớn nhất.

    Bao giờ cũng phải ṃ t́m chặt bỏ khúc ngọn trước, rồi mới chặt đoạn gốc sau. V́ thế, khi đoạn thân c̣n lại đứt lià khỏi gốc, là nó lao tuột xuống đất chẳng biết hướng nào. Có thể bật lên rồi mới tuột xuống, đẩy ḿnh ngă ngửa ra phiá sau, gây thương tích cho chính ḿnh. Hoặc có thể lao xa khỏi bụi gốc, đâm nhằm bạn nào đứng gần đó.

    Đây là lần đầu tiên trong đời phải làm việc này. Không ai có kinh nghiệm để mà đề pḥng, nên đă xẩy ra một tai nạn hú hồn hú viá. Một anh đang đứng đảo mắt t́m giang để chuẩn bị chặt, bị cây giang của anh khác chặt đứt ở bụi gần đó lao xuống, sướt qua cạnh ngoài đùi đâm xuống đất. Chỉ chệch sang bên trái độ 10 phân là gẫy đùi, và nhích lên một gang tay nữa là thủng bụng.

    Một ngày mỗi người phải chặt 1 bó 10 cây dài 4 mét, bó chung lại vác về trại.
    Việc đi lấy “chổm”, lấy bồ đề, lấy giang, thường phải làm thông tầm (không về nghỉ trưa tại trại), nên trước khi đi được lănh luôn cả phần ăn sáng và phần ăn trưa, đem theo ăn tại chỗ.


    Xem tiếp chương 15

  8. #138
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 15 : NHÂN QUYỀN TRONG XĂ HỘI CHỦ NGHĨA

    Sau khi chuyển về K2 được ít ngày, Trại cho Tù biên thư về gia đ́nh xin tiếp tế quần áo lạnh, gửi qua đường Bưu điện, bằng những bưu kiện 2 kílô.

    Mỗi trại giam do Bộ đội Cộng sản quản lư đều dùng Ám số hộp thư giống như KBC (khu bưu chính) của Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa, hoặc hộp thư riêng ở bên Hoa Kỳ (P.O. Box và Zip Code, nhưng không ghi tên thành phố), để dùng làm địa chỉ của Trại. V́ thế, gia đ́nh nhận được thư, không thể biết thân nhân của ḿnh đang bị giam tại đâu, thuộc vùng nào trong lănh thổ Việt Nam.

    Thư gửi đi, Tù phải để phong b́ mở không được dán kín, để Quản giáo Đội đọc kiểm duyệt, rồi mới dán lại giùm và chuyển đi. Nếu trong thư ai có lời lẽ xa xôi, bóng gió than khổ, hoặc tiết lộ địa điểm trại giam th́ sẽ bị gọi lên làm việc. Cán bộ lên giọng giáo dục, cảnh cáo cả tiếng đồng hồ, rồi bắt viết lại đúng theo hướng dẫn mới chuyển đi. Bị cảnh cáo một lần là coi như có t́ vết trong hồ sơ cá nhân. Kể từ đó về sau, đến trại nào cũng bị Cán bộ “quan tâm” theo dơi.

    Trong khi chờ hồi âm của gia đ́nh, Trại được Trung Ương tiếp tế một số áo bông cũ dài tay, chăn (mền) bằng sợi pha bông, và màn (mùng) bằng vải sô Nam Định, để phát cho Tù. Áo bông và chăn th́ mỗi người được phát một chiếc. Ai hên, lănh được chiếc áo c̣n tốt th́ mừng. Ai xui xẻo gặp phải chiếc cũ rách, đành buồn thiu cam chịu. Trường hợp gặp chiếc cỡ nhỏ chật hẹp, hay rộng dài thùng th́nh không mặc được, th́ chịu khó t́m bạn bè cùng Đội mà đổi. Nếu không xong cũng đành chịu vậy. Riêng mùng (màn) th́ ai không có, hoặc có nhưng đă quá cũ và bị rách nhiều chỗ mới được phát.

    Khoảng cuối tháng 1 năm 1977, các bưu kiện từ miền Nam gửi ra cho Tù bắt đầu ào ào đến trại. Bưu kiện chỉ được phát vào buổi chiều, sau giờ lănh cơm tối xong. Cán bộ phụ trách bưu phẩm, dùng loa đọc tên Tù lần lượt sang trụ sở BCH trại, để kư hồ sơ lănh nhận bưu kiện của ḿnh, trước sự chứng kiến của Quản giáo Đội.

    Tù phải nói đúng tên người gửi bưu kiện, mới được kư sổ nhận lănh. Trường hợp nói không đúng tên người gửi, được phép đoán thêm những tên khác, cùng với sự liên hệ thân thuộc của người ấy đối với ḿnh. Nếu chẳng may sai cả, Trại sẽ giữ lại điều tra bổ túc và quyết định sau.
    Trường hợp này đă xẩy đến với Tôi. Con gái thứ của Tôi đi gửi bưu kiện, nên phải ghi tên cô ấy là người gửi, chớ không phải tên Vợ tôi. V́ thế mới xẩy ra chuyện rắc rối cho Tôi. Theo nguyên tắc, Sở Bưu điện chỉ nhận Bưu phẩm để gửi đi, nếu so sánh tên và địa chỉ người gửi ghi trên Bưu phẩm, đúng với tên và địa chỉ ghi trên Thẻ căn cước của người mang Bưu phẩm tới gửi. Tôi đọc tên Vợ, không đúng. Cán bộ cho đọc một tên khác. Tôi đọc tên người con gái lớn, cũng không đúng. Cán bộ hỏi c̣n ai khác gửi nữa không? Tôi đọc tên người con gái thứ. Cán bộ mới đưa cuốn sổ kư nhận bưu kiện ra, và nói kư vào đây.

    Quản giáo Đội của Tôi ngồi chứng kiến việc phát Bưu phẩm, cười cười hỏi:

    “-Tại sao vợ anh không gửi mà lại là con gái thứ? Chắc mấy người kia di tản hết rồi phải không?”

    Tôi trả lời không, tất cả Vợ Con của Tôi đều ở Saigon. Cán bộ xem lại bản tự khai lư lịch gia cảnh của Tôi th́ rơ. Tôi đâu có dám nói dối với Cách mạng. Ông ta tủm tỉm tiếp:

    “-Nói chơi vậy thôi. Trung ương, Địa phương toàn là Cán bộ của Đảng và Nhà nước lănh đạo cả, nên biết hết. Các anh dối trá làm sao được.”

    Mọi bưu kiện nhận, phải mở tung ra để Quản giáo Đội kiểm tra tại chỗ, rồi mới được đem về. Một rắc rối đă xẩy ra ngay khi gói quà đầu tiên được mở, làm Cán bộ phải ngưng lại để đi xin chỉ thị của Trại trưởng. V́ lẫn trong quần áo có tiền, thư, và thực phẩm khô: đường cục, mật ong, lạp xưởng, bánh quy, trà, cà phê, thuốc chữa bệnh, sữa bột…

    Cuối cùng th́ mọi việc cũng được giải quyết tốt đẹp. Theo lời giải thích của Cán bộ:

    “-Trưởng trại nhận thấy trong thời gian qua, anh em đă có thiện chí cố gắng cải tạo tốt, t́nh trạng sức khoẻ đang bị xa xút trầm trọng, nên cho phép nhận cả thực phẩm khô để bồi dưỡng mà học tập cho nó tốt hơn nữa. C̣n tiền và Âu dược th́ phải gửi trại giữ như đă quy định trước đây.”

    Dịp này, Tôi cũng nhận được 4 bưu kiện. Trong các bưu kiện Tôi nhận, lẫn với áo len, khăn len quàng cổ, mũ dạ, tất tay bằng da, giầy, bàn chải và kem đánh răng, sà bông, khăn mặt, tất (vớ), có cả thuốc trụ sinh, thuốc kiết lỵ, thuốc tiêu chẩy, thuốc ngừa sốt rét, thuốc bổ tổng hợp các loại vitamin, thực phẩm khô, và thư, nhưng không có tiền. Thư bị Quản giáo giữ lại đọc để kiểm tra, mấy ngày sau mới cho lại.

    Một điều làm Tôi vừa thích thú vừa buồn cười, thán phục cái mánh khoé tinh khôn không ngờ của Vợ và các Con. Đôi giầy Bata cao cổ, được tách 2 chiếc riêng rẽ, để gửi thành 2 bưu kiện khác nhau. Trong mỗi chiếc nhồi đầy thực phẩm khô cho đủ 2 kílô. Nếu chẳng may, 1 trong 2 bưu kiện không đến nơi, th́ chỉ có 1 chiếc giầy làm sao dùng cho cả 2 chân được?!

    Vợ của Tôi là người lười viết thư nhất trần gian, nên đă để cô gái thứ biên thư cho Tôi, dựa theo ư hướng dẫn tổng quát của Mẹ. Trong thư đại ư nói:

    “-Cả nhà b́nh yên, sinh hoạt b́nh thường. Anh Hải đă được đưa đi vùng Kinh tế mới. Má nhớ thương Bố và anh Hải, nên buồn bịnh chút đỉnh, nhưng thường xuyên được Chính quyền Cách mạng địa phương giúp đỡ tận t́nh nên không sao. Cả nhà mong Bố ráng cố gắng học tập cho mau tiến bộ, để sớm được về đoàn tụ với gia đ́nh.”

    Thư gia đ́nh gửi đến mà không viết như vậy, th́ chẳng bao giờ Tù được nhận để đọc. Để được trông thấy tuồng chữ thân thương của thân nhân. Để xoa dịu nỗi cô đơn trong cuộc sống khổ nhục hàng ngày, dù biết rằng những lời nói trong thư đều trái ngược hẳn với sự thật

    C̣n tiếp...

  9. #139
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Đầu năm 1988, Tôi được tha về gặp gia đ́nh mới biết, ư chính trong thư đă nhận được muốn nói là:

    “Anh Hải bị bắt giam trong tù giống như Bố nên Má thương. Má bịnh v́ Chính quyền Cách mạng thường xuyên đến thúc ép buộc gia đ́nh đi vùng Kinh tế mới, nhưng gia đ́nh không chịu đi.”

    Một số bạn Tù không nhận được bưu kiện, v́ vợ con đă di tản hoặc thất lạc không biết hiện ở đâu, để gửi thư liên lạc. Ngược lại, một số khác gia đ́nh giầu có dư giả, lúc đi tŕnh diện tập trung đem theo rất nhiều tiền. Hồi khởi sự học tập 10 bài nhồi sọ tại Long giao, trại mở “Căng tin”, mua ăn “thả giàn” mà vẫn chưa hết. Nay lại nhận được thêm tiền trong các bưu kiện, nên mạnh dạn đề nghị BCH trại mở “Căng tin”, bán đường, bánh, kẹo, sữa… để anh em mua ăn “bồi dưỡng” cho cơ thể khoẻ mạnh, tiếp tục học tập được mau “tiến bộ”.

    Vài tháng sau khi chiếm xong toàn miền Nam Việt Nam, Chính quyền Cộng sản Bắc Việt đă thực hiện Chính sách bóc lột san bằng giai cấp, một cách vô cùng tàn bạo trắng trợn. Họ ra lệnh đ́nh chỉ việc lưu hành tiền miền Nam Việt Nam, để đổi ra tiền miền Bắc với giá biểu 500 đồng bạc miền Nam ăn 1 đồng bạc miền Bắc.

    Cả Thế giới đều biết, tiền miền Bắc thường được gọi nôm na từ hồi 1946 là tiền CỤ HỒ, không được quốc tế công nhận, v́ không có vàng kư thác trong Ngân hàng Thế giới, để bảo chứng khi phát hành như đồng bạc của miền Nam Việt Nam, nên chẳng có giá trị ǵ. Nó chỉ là những mảnh giấy Tín phiếu tượng trưng, để trong nước dùng trao đổi với nhau mà thôi.

    T́nh trạng kinh tế đ́nh trệ từ sau 30-4-1975 tại miền Nam Việt Nam, đă làm vật giá leo thang nhanh chóng, đồng tiền Cụ Hồ liên tục bị phá giá. Số tiền nhỏ nhoi anh em Tù gửi Trại giữ, để dự pḥng trường hợp được tha có tiền ăn đường về với gia đ́nh, cũng sẽ chẳng c̣n giá trị bao nhiêu. Hơn nữa, anh em bắt đầu cảm nhận thấy rằng c̣n lâu mới được tha. Với hoàn cảnh đầy đọa đói ăn, lao động cực khổ vất vả như vầy, chắc ǵ c̣n sống được đến ngày tha về với Vợ con mà để dành. Ḿnh chết đi chắc ǵ Vợ con được biết, để mà xin lănh nhận lại. Do đó, anh em mới đề nghị trại cho mua đồ ăn “bồi dưỡng” hết đi cho rồi.

    Trung úy Khảm, Quản giáo Đội chúng tôi, không biết thứ vị Đảng ủy của ông ta cỡ nào, và sự quen biết ảnh hưởng của ông ấy đối với các Chủ nhiệm Hợp tác xă địa phương ra sao, mà thấy cả Trại trưởng lẫn các cán bộ trong Trại đều mến nể. Ông ta thường được Trại trưởng chỉ định đi cùng Quản giáo Đội Nhà Bếp, tiếp xúc địa phương để trao đổi mua bán thực phẩm cung cấp cho trại. Nhờ thế, khi anh em đề nghị ông góp ư kiến với Trại mở “căng tin” bán các thức ăn bồi dưỡng, th́ ông ta đă sốt sắng “đề bạt” ngay với Trại trưởng.

    Vài ngày sau, ông ta cho biết:

    -Không mở “căng tin” được, v́ trái quy định của Nhà Nước đối với Trại viên Cải tạo. Nhưng Trại trưởng “nhất trí” để ông ấy đi tiếp xúc với các Hợp tác xă, mua giùm “mật đường”, bánh khách, kẹo lạc, cho anh em “bồi dưỡng”

    Tùy theo số tiền riêng của mỗi người đang gửi trại giữ. Ai muốn mua phải “đăng kư” tên với Quản giáo đội, tập trung tŕnh Trại xét đưa người đi mua giùm cho.”

    Giá cả các món hàng được thông báo qua các Đội trưởng. Các Đội trưởng làm bảng liệt kê tên những người xin mua, món ǵ, bao nhiêu, nộp lên Quản giáo đội.

    “Mật đường” là nước miá ép ra, đem đun sôi cho bốc hết hơi nuớc, trở thành 1 chất lỏng sền sệt đặc hơn mật ong mầu nâu xậm. Để nguyên như vậy gọi là “mật đường”. Nếu người ta đem đổ ra các tấm phên lớn, để cho khô cứng lại, cắt thành từng miếng h́nh chữ nhật 10 phân bề ngang, 20 phân bề dài, ngoài Bắc gọi là đường phên hoặc đường thẻ. C̣n ở trong Nam và miền Trung, thường đổ vào những chiếc chén (bát) để khô, gọi là đường chén hay đường tán. Muốn có đường cát vàng hay đường trắng tinh, người ta c̣n phải đem loại đường thô này biến chế và lọc với một loại hoá chất mới thành.

    Kẹo lạc sản xuất tại vùng Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, Xă hội Chủ nghĩa này cũng rất đặc biệt. Đó là những miếng bánh tráng mỏng, h́nh tṛn, đường kính độ 5 phân, có một lớp hột đậu phộng rang chín và “mật đường” mỏng rải đầy trên mặt bánh. Sau đó xếp thành từng chồng 10 cái, cuốn trong những miếng lá chuối khô để đem bán.

    Bánh khách là loại bánh Trung Thu nướng, theo lối gọi của người miền Bắc. Thường th́ vỏ bao ngoài làm bằng bột ḿ, nhân bên trong gồm 2 loại khác nhau. Có thể là nhân chay, làm bằng đậu xanh hoặc hạt sen trộn đường cà nhuyễn. Có thể là nhân mặn, trộn lẫn lộn các thứ thịt khô (lạp xưởng, gà quay), ḷng đỏ trứng muối, mứt bí, hạt dưa, vây (vi) cá… gọi là nhân thập cẩm.

    Nhưng bánh khách ở vùng này, vỏ bánh không biết làm bằng loại bột ǵ mà khô cứng, nhân là khoai lang luộc chín trộn chút đỉnh đường cà nhuyễn, mùi vị lợ lợ chua chua. Bánh đem về có nhiều chiếc bị nứt, mốc xanh, h́nh như không bán được đă trữ trong kho lâu quá. Nhưng Trại đă lỡ mua về không đem trả lại được, đành phải nhận cắt bỏ những chỗ mốc mà ăn cho đỡ tiếc tiền.

    Tôi không nhớ giá tiền của mỗi món là bao nhiêu.

    Cá nhân Tôi cũng c̣n chút tiền gửi trại, nên “đăng kư” mua hết trọn số tiền, được 2 Gô mật đường (lon đựng sữa bột Guigoz, tính tương đương 2 kílô), 2 chiếc bánh khách, và 2 gói kẹo lạc. Có nhiều bạn mua được nhiều hơn v́ họ có nhiều tiền. Nhưng trước sau Trại chỉ đưa người đi mua có 3 đợt là chấm dứt, v́ tiền của mọi người gửi Trại đă tiêu hết.

    Một buổi chiều đi lao động vừa về tới Trại, được gọi tên tŕnh diện kho tiếp liệu của Quản giáo Nhà Bếp, lănh 2 Gô “mật đường” “đăng kư” mua từ mấy ngày trước. Tôi đem về Láng, ngồi múc từng muổng nhỏ nhấm nháp, tăng cường chất ngọt cho cơ thể đă bao ngày thiếu thốn.
    Bụng bảo dạ rằng, chỉ ăn tối đa một phần năm Gô thôi (250 gram). Nhưng “mật đường” thơm thơm ngọt ngọt thấm giọng, t́ t́ hết muổng này đến muổng kia, cạn tới nửa Gô lúc nào chẳng hay.

    Anh bạn trùng tên với Tôi, Tôn Thất Hùng (có biệt hiệu là NGƯỜI VỀ TỪ TÂN CẢNH, v́ anh ấy thoát chết, không bị bắt làm tù binh, trong vụ quân Cộng sản Bắc Việt tràn ngập Sư đoàn 22 đóng tại Dakto, hồi năm 1969) c̣n ngon hơn Tôi nhiều. Anh ấy ăn một hơi, hết luôn 2 Gô trong buổi tối mới lănh về. May không ai bị đau bụng tiêu chảy hay x́nh đầy bụng chi cả.

    Những ai bị đưa ra Bắc cải tạo, mới biết rơ công dụng đa dạng của chiếc lon Gô. Nó nguyên thủy là chiếc lon đựng sữa bột hiệu Guigoz, bằng nhôm, nhẹ, mỏng bền, có nắp đậy kín, cao 20 phân, đường kính cỡ 8 phân. Ăn hết sữa bột rồi, thay v́ vứt chiếc lon không đi, anh em giữ lại dùng để nấu đồ ăn, tích trữ nước uống, cất đường, ḿ ăn liền, và các loại thực phẩm khô khác, không sợ kiến và chuột ăn vụng hoặc đánh cắp mất.

    Khoảng 1 tuần lễ sau khi chúng tôi được đưa tới định cư tại K2, có mấy bạn Đại tá bị bắt từ hồi đầu tháng 4-1975 tại Đànẵng, bị áp giải ra miền Bắc Xă hội Chủ nghiă trước chúng tôi, được đưa về ở chung.

    Các bạn này mặc đồng phục Tù, mầu nâu nhạt có sọc xám, nghe nói là do Trung Cộng viện trợ cho Công sản Bắc Việt. Tư trang các bạn ấy mang theo, đựng trong một túi xách nhỏ chẳng có ǵ. Chăn mùng cuốn tṛn dài, đeo quàng tréo qua đầu, từ vai bên này xuống nách bên kia, trông giống hệt mấy người Tầu chạy loạn Nhật qua vùng Đồng Đăng, Lạng Sơn, Tôi đă gặp hồi 1940.

    Không như chúng tôi, vali, balô cồng kềnh, ngoài mấy bộ thay đổi đi làm hàng ngày, ai cũng có tối thiểu ba, bốn bộ quần áo dự trữ. Trong những kỳ khám xét tư trang, Tôi c̣n thấy có anh đem theo nguyên cả bộ Âu phục lớn (quần dài, áo vét, cà vạt, giầy da thấp cổ bóng loáng). Chắc là để sau một tháng học tập như Nhà Nước thông báo, mặc vào để tham dự lễ phát bằng Công dân Xă hội Chủ nghiă tập thể, cho nó trịnh trọng.

    Các bạn Đại tá mới đến nhập bọn, t́nh trạng cơ thể ai nấy xanh xao, gầy ốm tong teo. Ngắm bạn rồi nh́n lại ḿnh. Mới có 6 tháng “thi đua lao động cải tạo” mà đă suy xụp hơn chục Kílô, da nhăn đen thui như mầu bánh mật, chắc rồi đây sẽ tàn tạ hơn họ nhiều.

    Bây giờ ngồi ghi lại những ḍng này, Tôi c̣n cảm thấy nao nao buồn, xót thương cho bao nhiêu đồng bào đang c̣n bị hành hạ nơi quốc nội.

    Biết đến bao giờ Họ mới thoát được nạn Cộng sản đọa đầy bóc lột.

    Trong hoàn cảnh thiếu đói chung hồi đầu năm 1977 tại K2, một con chuột tinh khôn của rừng miền Bắc Xă hội Chủ nghiă, đă gây ra một truyện buồn giữa anh em Tù, làm tủi ḷng những người nghèo, chẳng bao giờ quên được. Đại để câu truyện như sau :

    “ Hàng ngày, bạn bè ở cùng Láng ai cũng thấy, một anh béo ph́, giầu tiền, nhiều tiếp tế của gia đ́nh, thường để chiếc lon Gô đựng đầy thịt chà bông, tuốt sâu trong sát vách, trên kệ xếp tư trang riêng của anh ấy.

    Bỗng dưng một sáng chủ nhật nghỉ lao động rảnh rang, anh ta kiểm điểm đồ riêng, mới phát giác ra chiếc Gô không cánh mà bay đâu mất.

    Nằm kế bên anh ta là 2 bạn nghèo không có tiếp tế. Anh ta cao giọng nói trống không cho mọi người cùng nghe:

    “-Nếu ai lỡ táy máy đùa dai th́ trả lại, nếu không sẽ thưa Cán bộ khám xét th́ đừng trách.”

    Anh em trong đội nhỏ nhẹ can ngăn, và bỏ cả sinh hoạt riêng tiếp tay anh ấy t́m kiếm. May sao, đúng lúc anh Đội trưởng cúi nh́n dưới gầm xạp ngủ, mặt trời lên cao ánh sáng tỏ hơn chiếu suốt vô nhà, qua các khe hở của vách phên “chổm”, thấy một vật ǵ trăng trắng bóng loáng nằm tuốt trong góc nhà. Khều ra th́ là chiếc Gô đồ ăn có ghi tên người kêu mất. Quanh nắp miệng Gô và chung quanh đáy Gô, đầy những vết răng chuột gặm, có chỗ gần thủng.
    Mọi người thở phào nhẹ nhơm, đem trả lại chiếc Gô cho anh ấy

    Hiện nay, anh ấy cũng đang định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ cùng với vợ con, như các bạn Tù cũ ở chung một Láng tại K2 (Trại Cây Khế) Liên trại 1, Việt Cường, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn.

    Xem tiếp chương 16...

  10. #140
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 16 :LAO ĐỘNG CẢI TẠO, THƯỚC ĐO L̉NG YÊU NƯỚC XĂ HỘI CHỦ NGHĨA

    Mọi công tác chỉnh trang K2 (Trại Cây Khế) vừa hoàn tất, Trại lại phát động đợt “thi đua” mới “Thi đua lao động cải tạo vượt chỉ tiêu Nhà Nước quy định”.

    Theo lệnh Nhà nước, kể từ năm 1977 Tù phải tham gia sản xuất thật sự làm ra tiền để tự nuôi ḿnh, nuôi Cán bộ quản lư Trại và đóng góp cho Nhà nước hàng năm mỗi đầu người 1 đồng một ngày. Ban Chỉ Huy trại được coi như Ban quản lư một Hợp tác xă, chỉ có một điều khác Hợp tác xă là Trại viên cải tạo hưởng quy chế ăn ở quy định cho Tù chớ không phải Hợp tác xă viên.

    Lư do đưa ra giải thích là:

    “-V́ Chiến tranh tàn phá quê hương, nay toàn Dân phải tham gia tái thiết, nên Cải tạo viên cũng phải đóng góp công sức ḿnh vào công việc chung của đất nước như mọi người. Đây cũng là dịp chứng tỏ ḷng yêu nước, và thực tâm ước muốn cải tạo để trở thành người công dân Xă hội Chủ nghiă của các Cải tạo viên.”

    Nghe tin này, nhiều người nhẹ dạ cả tin “phấn khởi” cho rằng Chính sách này giúp ḿnh mau quen với nếp sống của con người Xă hội Chủ nghiă, sẽ sớm có cơ hội được về đoàn tụ với vợ con, thời gian lâu lắm chắc cũng chỉ trong ṿng 2, 3 năm là cùng. Ông Tướng Sư đoàn Việt cộng ra đón ḿnh ở Phi trường hồi mới đặt chân lên đất miền Bắc Xă Hội Chủ nghiă này trước đây mấy tháng, cũng đă từng nói như vậy mà!

    Thi hành lệnh Nhà nước, Trại khởi hoạch nhiều “phương án hành động” làm thước đo mức “tiến bộ” của Cải tạo viên. Mọi người đều tỏ ra “hồ hởi” sốt sắng và cố gắng hết sức ḿnh. Tù tha hồ thi đua liên tục xả thân lao động. Cán bộ “bám sát” thúc đẩy Tù “thi đua đạt năng xuất lao động” ngày một cao hơn, với mục đích duy nhất làm sao Trại và Tù kiếm ra thật nhiều tiền, để đạt cho bằng được trăm phần trăm “chỉ tiêu” do Nhà nước quy định. Nếu vượt được mức “chỉ tiêu” quy định càng cao càng tốt.

    Đợt thi đua bắt đầu bằng tập trung đắp đập đất chắn ngang khe giữa 2 ngọn đồi gần K3 (Trại Cốc), để giữ nước làm hồ nuôi cá. Mặt đập rộng 50 mét, thân đập cao 30 mét, và chiều dài đập là 50 mét. Đào đất trên đỉnh đồi bên trái khênh xuống đổ cho đầy khe.

    H́nh như Phân trại K3 là chủ thuê, nên thấy mỗi buổi lao động Quản giáo Đội chúng tôi dẫn anh phụ trách nấu nước của Đội vào nhà bếp K3 lănh một số sắn sống, đem ra luộc tại hiện trường để phát cho anh em. Mỗi người được 1 khúc bằng cổ tay dài 20 phân vào lúc nghỉ tại chỗ ăn bữa trưa hàng ngày. Đây là tăng cường “bồi dưỡng” của chủ thuê cho Tù, y như hồi đi làm thuê cho Hợp Tác Xă địa phương.

    Các Đội tham dự công tác tại công trường đắp đập được phân chia như sau: 1 nhóm cuốc đất trên đỉnh đồi khiêng xuống đổ dưới khe, 1 nhóm ban đất cho bằng phẳng tại mặt đập, 1 nhóm đầm nện đất nèn cho mặt đập và sườn đập thật mịn và cứng chắc.

    Đội chúng tôi thuộc nhóm đào đất nơi đỉnh đồi, khiêng xuống đổ lấp khe sâu giữa 2 quả đồi. Quản giáo Đội quy định mỗi Tổ 10 người phải đào và khiêng đất xuống đổ vào đập mỗi ngày 5 mét khối. V́ thế, anh em Tổ của Tôi phải chia thành: 3 toán khiêng đất hết 6 người, và 1 toán 4 người c̣n lại vừa cuốc vừa xúc đất vào “ki” (cáng khiêng) cho các toán khiêng đi đổ xuống khe.

    Chúng tôi thoả thuận luân phiên nhau, hôm nay cuốc xúc đất th́ hôm sau đổi lại đi khiêng đất, cho nó công bằng. Cũng như để mọi người có dịp rút kinh nghiệm bản thân về các công tác khác nhau, mà “sáng tạo” ra phương pháp thực hiện cho thật nhanh. Châm ngôn “Lao động là sáng tạo”do lănh đạo Cách mạng đă nghiên cứu xác định như vậy trong các bài học cải tạo tư tưởng, cần phải áp dụng cho Cán bộ nhận thấy là ḿnh đă “thấm nhuần” và “nắm được vững vàng sâu sắc” những ǵ đă học.

    Trong suốt thời gian đắp đập, mọi người phải làm thông tầm (kể cả Cán bộ cảnh vệ và Quản giáo). Chỉ được nghỉ tại chỗ 30 phút lúc giữa trưa để dùng bữa. Ăn xong là phải “tranh thủ” tiếp tục làm ngay. Đến chiều tối, khi nào đạt “chỉ tiêu” quy định trong ngày, báo cáo Quản giáo Đội đến kiểm tra chấp nhận đúng, Đội mới được ngưng để tập họp ra về.

    Đặc biệt trong thời gian lao động vất vả này, Trại được cung cấp bột ḿ thay cho sắn khô hoặc bắp khô. Do đó, buổi sáng mỗi người được lănh một nửa ca cháo bột ḿ sền sệt như loại bột gạo người ta thường khuậy chín cho trẻ con ăn. Bữa trưa và bữa tối, được mỗi bữa một chiếc bánh bột ḿ nhồi nước đổ khuôn tṛn luộc chín, đường kính 10 phân, bề dầy 1 phân. Thức ăn th́ mỗi bữa đôi ba cọng rau muống bung nước muối.

    Thời gian 30 phút nghỉ ăn trưa được coi là dài, v́ sau khi nhơi thong thả từng mẩu nhỏ của chiếc bánh ḿ luộc và khúc sắn cho nhuyễn nhuần với nước miếng trước khi nuốt vào bụng, cũng c̣n dư được ít nhất là 15 phút để nằm dài trên mặt đất chợp mắt xả hơi, trước khi bắt tay vào tiếp tục lao động trở lại.

    Số giờ lao động hàng ngày quy định là 8 tiếng đồng hồ. Nhưng bao giờ anh em cũng phải làm nhiều hơn, mới đạt đủ “chỉ tiêu” quy định. V́ thế, chỉ trong ṿng có 1 tuần lễ ai nấy đều hốc hác xạm xọp đi ít nhất cũng 5 kílô. Nhưng sức chịu đựng vất vả được tôi luyện dẻo dai hơn, và thuần nhuyễn như một cái máy chạy tự động không cần ai bấm nút.

    Hằng đêm, sau giờ “kiểm điểm, phê và tự phê” xong, anh nào cũng lăn đùng ra ngủ say như chết. Nhờ vậy mà ngày hôm sau mới có sức chịu đựng tiếp. Nếu không ngủ được phải thức trắng đêm như hồi mới ra, chắc là bây giờ chẳng c̣n sống trên Thế gian mà ngồi viết Hồi kư.


    C̉N TIẾP...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. HY LẠP BẦU THỦ TƯỚNG LÂM THỜI
    By Hắc Y Hiệp Nữ in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 12-11-2011, 01:31 PM
  2. Replies: 16
    Last Post: 03-09-2011, 09:02 AM
  3. Replies: 59
    Last Post: 29-06-2011, 04:26 AM
  4. Replies: 26
    Last Post: 03-05-2011, 02:12 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 22-04-2011, 10:13 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •