Page 15 of 27 FirstFirst ... 511121314151617181925 ... LastLast
Results 141 to 150 of 265

Thread: ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY

  1. #141
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Ngày thứ 2 đi làm đập, toán của Tôi đến phiên đào và xúc đất vào “ki” cho các toán khác khiêng. Lúc phát quang các bụi rậm trước khi đào đất, Tôi may mắn gặp một ổ 4 chú Cúi con (trông giống như sóc, nhưng mặt mơm giống như lợn, lông đen, đuôi ngắn). Mỗi chú Cúi to bằng nắm tay.

    Tôi đưa cho anh Đại tá Dương Hiếu Nghiă cùng một Tổ với Tôi, biến chế làm món Cúi bỏ ḷ trong lon Gô, để 2 anh em chia nhau thưởng thức lộc của Chúa Sơn Lâm “bồi dưỡng” cho Tù nghèo. Tôi tự làm lấy cũng được, nhưng v́ đồ tiếp tế của Tôi đă hết không c̣n gia vị để ngâm ướp, nên phải đưa cho anh Nghiă lo toan.

    Sau này, qua 5 trại khác nhau trong suốt 13 năm cải tạo, lúc nào anh Nghĩa và Tôi cũng ở chung một Đội. Chỉ có thời gian ngắn khoảng 1 năm ở K5 Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, anh Nghiă ra làm Đội trưởng Đội Gạch gồm toàn các Linh mục, Thượng tọa, Đại đức Tuyên úy QLVNCH (cũng phải đi cải tạo như chúng tôi) th́ 2 anh em chúng tôi mới không ở chung Đội. Tới tháng 1 năm 1980, bị chuyển vào trại Thanh Phong, Thanh Hoá, anh Nghĩa và Tôi lại được “biên chế “ vào chung một Đội. Cuối tháng 4 năm 1982, chúng tôi cùng được đưa trở về Nam một lượt. Sau cùng, anh Nghĩa được tha trước Tôi 6 tháng vào dịp 2 tháng 9 năm 1987, kỷ niệm Lễ Độc Lập của Cộng sản Việt Nam.


    Những ngày nghỉ lao động trong đợt “thi đua muà Xuân 1977”, Ban chỉ huy Phân trại K2 cho phép anh em nấu nướng biến chế thực phẩm “bồi dưỡng”, không cấm đoán như hồi mới ra. Nhờ thế, các món thực phẩm khô do gia đ́nh gửi lén trong các bưu kiện tiếp tế quần áo lạnh, được Tù đem ra trổ tài biến chế. Không theo sách vở nào cả, thế mà mùi vị thức ăn biến chế xông ngào ngạt thơm phức cả một vùng, tưởng như đang đứng trong khu phố tiệm ăn Tầu Chợ Lớn vậy. Chỉ tội cho các bạn không được tiếp tế, phải vào xạp nằm chùm chăn kín mít t́m khuây khoả trong giấc ngủ.

    Từ khi “đợt thi đua mùa Xuân 1977” được “phát động”, tất cả Tù và Cán bộ đều bận rộn. Ngày nào cũng xuất trại lao động rất sớm, và đi đến tối mịt mới trở về. Nhóm đi đắp hồ cá K3. Nhóm đi hạ cây bồ đề trên sườn núi cao gần ngay bên Bệnh xá Liên trại, thả xuống đường xếp thành đống để Công ty khai thác Lâm sản đến đo, tính tiền công theo thước khối rồi chở đi. Nhóm đi làm thuê cho các Hợp Tác Xă, trồng hoa mầu … Sau khi đắp đập hồ cá K3 xong, Đội chúng tôi được đưa đi đắp đập thuê cho một Hợp Tác Xă, ở cách xa trại khoảng hơn 10 cây số về phiá Tây. Ra đi từ sáng sớm, trước khi kiểng tập họp các Đội xuất trại lao động. Đến chiều, trở về đến trại trời đă nhá nhem, mọi người ở nhà đă nghỉ và dùng bữa tối xong xuôi.

    Gần Tết tại vùng này, sáng nào sương cũng mịt mù đến 10 giờ mới tan, nên lúc ra đi phải dùng đường cái lớn, qua BCH Liên trại 1, qua K ḷ gạch, qua một công trường làm đường, rồi rẽ vào con đường nhỏ ngoằn ngoèo theo các sườn đồi lên một vùng b́nh nguyên của Hợp tác xă (không biết tên) có khoảng vài chục căn nhà. Từ trại đến nơi lao động, lúc nào chúng tôi cũng phải đi nhanh như chạy Marathon, thế mà thời gian di chuyển tính ra cũng mất khoảng 2 tiếng đồng hồ.

    Buổi chiều, lao động xong chúng tôi không trở về trại theo đường cái lớn, mà đi theo một con đường ṃn tắt băng rừng. Phải leo lên tụt xuống qua 3, 4 đỉnh đèo, qua đập nước K3 (Trại Cốc), rồi thêm một đoạn sườn núi chừng 1 cây số nữa mới về tới K2 (Trại Cây Khế) của chúng tôi.

    Trong chuyến đi làm xa này, một ấn tượng vô cùng chua chát đă hằn sâu vào bộ năo của chúng tôi không bao giờ quên được, sau khi được thấy tận mắt cái quang cảnh Công trường làm đường và nơi ăn chốn ở của những Công dân Xă hội chủ nghiă miền cao nguyên Hoàng Liên Sơn.

    Theo lời rêu rao của Bác Hồ, của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà Nước Xă hội Chủ nghiă th́, những người vô sản lao động thuộc giai cấp lănh đạo Cách mạng kiến thiết đất nước. Thế mà hoàn cảnh sống “thực tế” của họ, đem so sánh với cảnh sống của vợ con các Chủ nhiệm Hợp Tác Xă hoặc Cán bộ Cộng sản lănh đạo các cấp Địa phương mà chúng tôi cũng đă được tận mắt trông thấy th́ quả là khác xa nhau một trời một vực.

    Giá trị cuộc sống của giới lao động công dân trung kiên Xă hội Chủ nghiă từ hồi Cách mạng mùa Thu 1945 thành công đến nay c̣n như vậy, huống chi ḿnh đă từng cầm súng chống đối chế độ đang phải cải tạo để được trở thành công dân Xă hội Chủ nghiă, th́ tương lai sẽ như thế nào?

    Một tấm bảng to tướng ghi chữ “Công trường làm đường Công ty…” được dựng ngay bên đường, mà chỉ thấy khoảng vài ba chục người, dùng cuốc, xẻng, xà beng, búa tạ, đầm cầm tay, “ki” làm bằng “chổm” khiêng đá, đất cuốc ở sườn núi ra, để h́ hục giặm vá lấp các lỗ ổ gà xâu hoắm trên mặt đường. Trông chẳng khác nào đám phu làm đường miền thượng du thời Thực dân Pháp đô hộ mấy chục năm về trước, mà Tôi đă từng thấy ở miền Lạng Sơn, Thất Khê.

    Nhân công gồm toàn người lớn tuổi và nam nữ thanh thiếu niên trạc 15 đến 17. Người nào trông cũng phong sương, đen xạm, làm việc không ngơi tay dưới sự ḥ hét thúc giục “thi đua” của Giám đốc Công trường và các Trưởng toán
    .
    Gần ngay nơi Công trường có 2 dẫy nhà ở, một khu nhà bếp, và dẫy nhà ăn tập thể. Tất cả các nhà đều lợp mái tôn, vách phên, sườn khung nhà bằng gỗ. Trong khi người lớn đi lao động, mấy đứa trẻ trên dưới 10 tuổi, áo quần rách rưới, lem luốc bẩn thỉu, mắt mũi đầy ghèn, đùa giỡn bên lề đường trước sân nhà ăn.

    Khi đi ngang, trong số anh em Tù chúng tôi có người lên tiếng thân thiện hỏi: “-Các cháu không đi học à?” Lập tức có em lớn hơn cả trả lời ngay, không cần suy nghĩ: “-Ông nội của chúng mày, chớ cháu chắt ǵ, đồ ngụy bán nước.”

    Thật ngỡ ngàng. Từ đó về sau, anh em rút kinh nghiệm không bao giờ c̣n dại dột t́m cách làm quen xă giao với quần chúng địa phương nữa.

    Đến nơi làm thuê, mới biết công việc của chúng tôi là phá đất đỉnh đồi, ban ra để nâng cao mặt đập đă có sẵn từ trước và nèn đập cho thật chắc. Đập dài cả trăm mét, mặt đập rộng 50 mét, sườn đập phiá ngoài từ mặt đến chân khe ước chừng cũng khoảng 100 mét. Đây là đập của hồ thủy lợi, vừa dùng tích trữ nước trong mùa mưa để vào mùa nắng khô cạn có nước tưới ruộng trong b́nh nguyên, vừa lợi dụng thả cá “làm kinh tế” cho Hợp Tác Xă.

    Ngoài Đội chúng tôi từ K2 (Trại Cây Khế) đến, thấy c̣n nhiều Đội khác ở trại nào không rơ, đang làm ở đây trước chúng tôi. Họ lấy đất đỉnh đồi ở đầu đập bên phiá Bắc, khiêng ra mặt đập, ban, nèn, đầm mặt và sườn đập cho chắc. Đội chúng tôi đến sau, được giao việc phạt sườn đồi ở đầu phiá Nam của đập, tạo một mặt bằng thật rộng để sau này xây dựng cơ sở ǵ đó không biết.

    Đất đồi nơi chúng tôi phá vỡ ra, phải dùng “xe ban” hất trôi xuống chân đập. “Chỉ tiêu” quy định mỗi người phải làm 1 mét khối đất một ngày, tức là gấp đôi “chỉ tiêu” làm tại đập hồ cá K3 (Trại Cốc).

    Sau khi Cán bộ quản giáo và các anh Tổ trưởng đi đo đất, đóng cọc mốc diện tích riêng cho từng Tổ theo “chỉ tiêu” quy định xong, các Tổ bắt đầu “thi đua khởi công”. Tổ nào xong trước được nghỉ sớm, ngồi chờ các Tổ khác làm xong mới cùng tập họp rời “hiện trường lao động” trở về Trại.

    Với chỉ tiêu nặng như vậy, chả có Tổ nào có cơ may nghỉ sớm cả. Ngày nào cũng phải làm khoảng hơn 10 tiếng đồng hồ mới xong, vào đúng lúc mặt trời đang tụt xuống ngang đỉnh dẫy núi phiá Tây của b́nh nguyên.

    Để “triển khai thi công”, Tổ chúng tôi phải chia thành 3 toán làm việc: 2 toán kéo “xe ban” hết 6 người, toán 4 người c̣n lại hiệp lực vừa phá đất vừa gom vun thành đống cho “xe ban” kéo đi.

    Nghe chữ “xe ban” ai cũng tưởng là một loại cơ giới nào đặc biệt lắm. Thực ra nó chỉ là một miếng ván dầy 5 phân, dài 1 mét rưỡi, mặt rộng 50 phân, có một khung càng gồm 3 thanh gỗ tṛn đóng vào khoảng gần 2 đầu miếng ván, và 2 sợi dây kéo. H́nh dáng “xe ban” trông y như chiếc bừa nhà nông vẫn thường dùng để làm tơi đất, sau khi đă cầy lật thành từng hàng dài trên ruộng.

    Xử dụng “xe ban”, có thể di chuyển được lượng đất nhiều và nhanh hơn dùng “ki” khiêng, nhưng phải cần tới 3 người. Một người cầm càng điều khiển, 2 người cầm dây kéo dài khoảng 3 mét cột ở 2 đầu miếng ván, y như dùng 2 con trâu kéo 1 cái bừa vậy. Người điều khiển phải biết kỹ thuật cầm càng và phụ đẩy, xe mới trượt đi suông sẻ nhẹ nhàng. Nếu không, xe sẽ khựng lại không kéo đất trơn đi, mà người cầm càng c̣n bị sức kéo lôi cả người lẫn xe ngă chúi về phiá trước, rất nguy hiểm.

    Ngày nào, Tôi cũng bị anh em trong toán đùn cho việc lái “xe ban”. Qua kinh nghiệm học được, muốn “xe ban” chạy được suông sẻ, người cầm càng phải đứng ở khoảng đúng giữa “xe ban”, chân trái đưa ra phiá trước để phần 3 ḷng bàn chân lên cạnh trên của miếng gỗ thân xe, chân phải đứng trên đất soạc ra phiá sau, làm sao cho sức nặng của toàn thân được chia đều trên cả 2 chân. Hai tay dang rộng nắm chặt đà ngang càng xe, và giữ cho càng xe nghiêng khoảng 30 độ góc hướng vào ngang rốn của ḿnh. Khi hô 2 bạn kéo tới, ḿnh phải vừa đè càng cho thân xe sát mặt đất vừa phụ đẩy, xe sẽ chạy nhẹ nhàng và rất nhanh. Sơ ư là cả 3 cùng lăn tuột theo sườn đập đến chân khe luôn.

    Kinh nghiệm phá vỡ đất cho nhanh, chúng tôi được Trung úy Khảm Quản giáo Đội tiếp tay hướng dẫn thật tận t́nh. Ông ta vốn người lanh lợi, tháo vát và có chút “t́nh người” đối với anh em trong Đội. Qua những lúc chuyện văn trong giờ giải lao, ông ta thường khoe trước kia đă từng nhiều lần tham dự các cuộc “thi đua lao động” do các Đại đơn vị Quân đội Nhân dân tổ chức, và lần nào cũng đoạt giải “Anh hùng lao động”.

    Sở dĩ chúng tôi phá vỡ đất được nhanh, là nhờ phần sườn đồi nơi chúng tôi làm đă được vạt thẳng đứng từ trước, cao khoảng 4 mét. Nên trước nhất, phải cuốc khoét đoạn dưới chân sát mặt đập sâu vào khoảng 70 phân, cao 1 mét. Sau đó lên phiá trên, cuốc một rănh dài sâu rộng chừng 3, 4 chục phân và những lỗ xâu cách nhau 50 phân, rồi dùng xà beng bẩy mạnh là từng mảng đất lớn sẽ lở ra tụt xuống.

    Thật rơ ràng “trăm hay không bằng tay quen” là thế. Nhưng “thực tế”, khi bắt tay vào việc mới thấy chẳng đơn giản như vậy đâu. Lẫn trong đất núi c̣n gặp những tảng đá to tướng, phải dùng búa tạ đục đẽo phá cho nó vỡ lần lần ra, cũng trần ai lắm. V́ thế mà chẳng ngày nào hy vọng làm ít hơn 10 tiếng đồng hồ cả.

    Muốn cố gắng lột bỏ cái áo “Giai cấp Tư sản” của ḿnh bằng “Lao động Cải tạo Tư tưởng” để trở thành người “Công dân Xă hội chủ nghiă”, thật không đơn giản dễ dàng ǵ.

    Cái giá phải trả luôn luôn bằng máu, mồ hôi và nước mắt, không chỉ của riêng bản thân ḿnh trong các trại cải tạo mà c̣n phải cộng chung của cả Vợ Con ḿnh tại địa phương đang cư ngụ nữa.

    Xem tiếp chương 17...

  2. #142
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 17 :CÁI GIÁ PHẢI TRẢ,ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ

    Tết Đinh Tỵ 1977, anh em Tù K2 (Trại Cây Khế) được Ban chỉ huy Trại quan tâm săn sóc khá chu đáo, nào là tổ chức thi đua làm Báo tường, tranh giải cờ tướng, đấu bóng chuyền giữa các Láng, và xem chiếu phim Liên sô ngoài trời.

    Ngoài ra, mọi người c̣n phải học hát thuộc ḷng các bài hát của Cách mạng. Giờ học hát, được thực hiện ngay sau buổi họp “phê và tự phê xây dựng” hằng đêm. Các bài hát, do mấy anh bị bắt đưa ra Bắc từ hồi tháng 4 năm 1975, mới được chuyển về ở chung với chúng tôi đọc cho chép và hướng dẫn tập. Có nhiều bài hát của Liên sô, Trung cộng, dịch lời sang tiếng Việt nghe rất là ngô nghê chẳng ra làm sao cả, chẳng hạn:

    “Chúng ta là sắt thép…” của Liên Xô, hoặc những bài của các văn nô Cách mạng sáng tác lời lẽ đầy sát khí: “Quét (giết) cho sạch nó đi…”.

    Riêng bài “Tiến quân ca” (Quốc ca của nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam) th́ anh em không được học, theo sự giải thích của Cán bộ quản giáo Đội: “-V́ đang c̣n là Tù cải tạo chưa xứng đáng được hát bài này!”

    Trong khi chờ đón Xuân c̣n có thêm một tin đồn rất là “hồ hởi”, sẽ có đợt tha vào tháng 4 nhân kỷ niệm 2 năm ngày thống nhất đất nước làm mọi người mừng rỡ, ai nấy chuẩn bị đón Tết với tinh thần “phấn khởi” hơn cái Tết tại Suối Máu năm 1976.

    Trong dịp Tết, mọi người được nghỉ lao động 3 ngày, nhưng ngày mồng 2 tât cả Cán bộ lẫn Cải tạo viên toàn Trại phải “xuất hành” tham gia chương tŕnh “cả nước trồng cây hàng năm”, để tỏ ḷng nhớ ơn “Bác Hồ kính yêu”.

    Các món ăn Tết cũng rất đặc biệt. Ngày mồng Một, cả bữa trưa lẫn bữa chiều đều được ăn 3 món:

    1.- Thịt heo kho (mỗi người 3 mẩu bằng ngón tay cái);

    2.- Thịt ḅ xào rau muống (cũng khoảng 5 cọng rau, và 3 mẩu thịt ḅ lẫn gân mỡ, mỏng bằng 4 đốt ngón tay);

    3.- Trứng cá Mè Thác Bà kho (mỗi người khoảng miệng ca).

    Dĩ nhiên là ăn với bánh ḿ luộc, không có cơm. Hai ngày kế theo chỉ c̣n lại 2 món: cá Mè kho nhừ rục sền sệt như canh củ mỡ, ăn được cả xương mềm mục bùi bùi, và canh rau muống nấu với muối như ngày thường.

    Cá Mè, do Cán bộ Hậu Cần Liên trại 1 đi mua từ hồ Thác Bà về, K2 của chúng tôi được chia 3 con ḿnh to bằng người ta và dài cỡ 2 mét. Tôi chưa từng được thấy loại cá nước ngọt to như thế bao giờ. Nhà bếp phải lấy búa bửa củi tạ mới chặt cá ra từng khúc nhỏ được.

    Hai ngày trước Tết, mỗi Đội phải tăng cường cho Đội nhà bếp 5 người để tiếp tay gói bánh chưng. Theo dự trù, mỗi Tù sẽ được một chiếc bánh chưng nặng cỡ 1 kí lô sau khi luộc chín, và được lănh vào buổi chiều tối ngày cuối năm.

    Tôi được Đội cử tăng cường ngồi gói bánh chưng, nên 2 ngày giáp Tết không phải theo Đội ra ngoài lao động vất vả, nhưng lưng vai cổ mỏi muốn gẫy, cơ bắp 2 chân đau tê cứng, v́ phải ngồi lâu một chỗ làm liên tục không giờ giải lao. Có điều an ủi là mỗi bữa tăng cường làm tại nhà bếp được bồi dưỡng thêm ba, bốn muổng tương hột kho để ăn với bánh ḿ luộc, thay v́ chỉ có vài cọng rau muống bung nước muối như mọi người.

    Anh em tăng cường được chia thành 5 toán. Một toán chuyên lo chẻ lạt, rửa cắt lá giong cho hợp với khuôn. Một toán lo vo gạo nếp để trong từng thúng cho róc nước trước khi gói vào lá. Một toán cà rửa nấu đậu xanh, giă nhuyễn và nắm thành những nắm chặt tṛn cỡ trái banh Tennis. Một toán cắt chia thịt heo thành những miếng dài cỡ 10 phân dầy khoảng 1 phân. Toán sau cùng chuyên ngồi gói bánh theo khuôn gỗ, đă đóng sẵn cùng một cỡ 20/20 phân cao 5 phân.

    Ruột mỗi chiếc bánh chưng gồm: 2 bằng miệng bát đá gạo nếp vo rửa sạch cám (lộn gạo tẻ hơi nhiều), trộn chút đỉnh muối cho đậm đà, 1 nắm đậu xanh, và 1 miếng thịt heo có đủ nạc, mỡ, b́, ướp muối, hành củ thái mỏng, và hạt tiêu xay nhuyễn.

    Có vài anh em Tù gói bánh rất thạo, không cần khuôn mà chiếc bánh rất vuông đủ 8 góc và chắc nịch. C̣n phần lớn toàn là tay mơ vào học nghề, bánh gói không nèn được chặt và vuông vắn cho lắm, mặc dù đă có khuôn gỗ để trợ lực. Bánh chưng gói chặt tay luộc ra nền hơn bánh gói lỏng tay, và lúc chín vớt ra đem nén không bị pḥi ruột nơi các góc chiếc bánh.

    Trong mấy ngày Tết, Trại mở máy thu thanh chuyền qua loa lớn cho cả trại Tù cùng nghe những tin tức của đài phát thanh địa phương và Hànội. Thư viện trong khu Tù ở cũng được mở cửa cả ngày cho Tù vào đọc báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân, và mượn sách, truyện xă hội chủ nghiă đọc tại chỗ hoặc đem về láng ở đọc dần. “Mục đích yêu cầu” của Trại mở Thư viện để Tù có cơ hội t́m hiểu thêm về Cách mạng Xă hội Chủ nghiă tại Việt Nam và tại các nước Cộng sản trên toàn Thế giới, mà noi gương “thi đua cải tạo” cho mau “tiến bộ”.

    Anh Nguyễn văn Lương (Đại tá gốc Địa phương quân, trước 30-4-1975 làm Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị Quân lực Việt Nam Cộng hoà đặc trách Địa phương quân và Nghiă quân) được trại cử làm quản thủ Thư viện. Anh ấy là người bặt thiệp, luôn luôn hăng hái hướng dẫn anh em lựa sách, truyện mà anh ấy cho là hay, cũng như giới thiệu những loại tài liệu quan trọng cần nên đọc. Sau này anh Lương cũng phải chuyển đi Trại Tân Lập, Vĩnh Phú, và trại Thanh Phong, Thanh Hoá cùng một lượt với Tôi.

    Vào cuối tháng 4 năm 1982 Tôi được chuyển về miền Nam Việt Nam, anh Lương được chuyển ra vùng Nam Hà thuộc châu thổ sông Hồng ở miền Bắc. Khoảng giữa năm 1994 trong dịp đến tham dự buổi tiệc họp mặt do các Hội đoàn Quân lực VNCH gây qũy để tổ chức Ngày Quân Lực 19 tháng 6 tại Khu Little Saigon Nam California, Tôi có dịp gặp anh Lương trong bữa tiệc nhờ thế biết được là anh ấy và gia đ́nh cũng đang định cư tỵ nạn tại vùng Nam California.

    Tất cả những cuốn truyện để tại Thư viện trại Tù, đều có nội dung tuyên truyền đề cao tinh thần chiến đấu và thi đua sản xuất của các nam nữ anh hùng vô sản. Qua những cốt truyện dàn dựng cho phép nhận định rằng tŕnh độ hiểu biết của quảng đại quần chúng tại miền Bắc xă hội chủ nghiă, sau hơn 20 năm sống dưới sự cai trị chuyên chính độc đảng của Cộng Sản Việt Nam rất là thấp kém lạc hậu. Chẳng hạn, một đoạn truyện rất phi lư như …

    “phi công Bắc Việt đậu sẵn phi cơ MIG trong các đám mây dầy đặc ở trên không, để phục kích chờ phi cơ B52 của Mỹ tới thả bom Bắc Việt là sông ra bắn hạ, địch không kịp trở tay”...

    Ấy thế mà Sĩ quan quân đội Cộng sản Bắc Việt tin là thật, trầm trồ ca ngợi đề cao óc sáng tạo của phi công Xă hội chủ nghiă một cách hănh diện trước mặt anh em Tù.

    Để kéo dài cái thi vị Tết trong suốt 3 ngày nghỉ, Tôi và 2 anh bạn nằm kế bên đồng thoả thuận canh ty ăn chung bánh chưng. Mồng 1 ăn chiếc bánh của Tôi, mồng 2 và mồng 3 th́ lần lượt ăn những chiếc bánh của các anh ấy.


    C̣n tiếp...

  3. #143
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Sau khi ăn Tết xong, mọi người lại tiếp tục hăng hái xả thân hoàn tất “kế hoạch thi đua” Trại đă đề ra hồi trong năm, với hy vọng ḿnh sẽ có tên trong số “cải tạo tiến bộ” được thả về đoàn tụ với Vợ Con sớm hơn những người khác.

    Đội chúng tôi không đi làm đập ở Hợp Tác Xă nữa, được giao trách nhiệm vét khu śnh úng nước phèn ngập ngang đầu gối chân ở ráp ranh đất giữa K2 và K3. “Mục đích yêu cầu” là dọn sạch rác rến, gai trà, cỏ lác, lội đạp đất śnh cho nhuyễn như bừa, rồi rải vôi bột khử phèn để sẵn sàng trồng lúa vụ “ba giăng” (3 con trăng tức là 3 tháng).

    Làm tại đây, mọi người phải bỏ giầy, cởi quần dài, vắn tay áo lên đến nách, lội xuống làm việc cả tuần lễ mới xong. Thực hiện công tác này, nguy hiểm nhất là loại cỏ lác lá dài 3 cạnh bén như lưỡi dao, phải quấn vải bảo vệ bàn tay cẩn thận rồi mới nắm gốc chùm cỏ lác để nhổ lên, thế mà vải vẫn bị cỏ cứa rách làm đứt tay.

    Nước đục ngầu chẳng trông thấy ǵ, nơi đáy ruộng là đât śnh lầy với rất nhiều mẩu cây gẫy và tre gai, nhặt không hết nên trong khi đạp bùn dù cẩn thận đến đâu cũng không làm sao tránh khỏi bị đâm lũng hoặc xước da bàn chân và các ngón chân. Trên mặt nước lẫn trong đám cỏ lác, cơ man nào là muỗi vằn to bằng đầu tăm xỉa răng, bâu đốt vào cổ vào mặt vào tay đau buốt đuổi không kịp.

    Mỗi lần xuống śnh làm xong bước lên bờ, chân tay anh nào cũng bị nhuộm một mầu vàng nâu nhạt, phải kỳ cọ rửa bằng sà bông mấy ngày mới hết. Da các đầu ngón tay cũng nhăn nheo thật lâu mới phẳng trở lại b́nh thường.

    Để khử phèn, chỉ việc đi dọc trên bờ bốc vôi bột vung rải đều khắp mặt ruộng, không phải lội xuống. Độ khoảng mươi lăm phút sau khi rải vôi bột, th́ eo ôi! đủ thứ loại sinh vật trong ruộng chết nổi lên đầy mặt nước. Nào là cua, cá, rắn, ếch nhái, ễnh ương… đặc biệt là rất nhiều điả trâu to dài cỡ ngón tay út, có con no căng máu có con đói dẹp lép, trông thấy mà rùng ḿnh nổi gai ốc.

    Sau khi đạp đất bùn nhuyễn, phạt sạch cỏ bờ chung quanh, văi vôi bột khử phèn xong, khu śnh biến thành mảnh ruộng vuông vức thật lớn trông rất đẹp mắt.

    Hoàn tất công tác này, Đội chúng tôi được đưa đi tăng cường hạ cây bồ đề trong khu rừng trên đỉnh núi cao, cách Bệnh xá Liên trại chừng 1 cây số, khiêng ra thả xuống bên đường cái.

    “Mục đích yêu cầu” của công tác này là chặt tiả những cây đủ “tiêu chuẩn” ấn định, gốc phải to cỡ một người ôm không hết. Nhiều Đội khác đă làm ở đây từ khi mới bắt đầu đợt thi đua hồi đầu năm Dương lịch, nên những cây gần ngoài bià rừng không c̣n. Chúng tôi phải đi theo triền núi vào sâu cả trăm mét, mới có cây để lựa đốn hạ khiêng ra nộp.

    Trong khoảng 200 mét từ bià rừng ra đến đỉnh thả xuống đường, mọi cây nhỏ và bụi dại đều đă được phát dọn bằng địa, chỉ c̣n cỏ tranh khô héo dưới ánh mặt trời trưa nóng. Không khí bị đốt hiện ra trước mắt bàng bạc loang loáng, tưởng như ḿnh đang bị bao phủ bởi một bầu thủy tinh.

    Quản giáo Đội chúng tôi quy định, anh em trong Đội tự bắt bồ thành từng toán 5 người để cộng tác làm việc. Mỗi ngày, mỗi toán phải đốn hạ 1 cây, chặt bỏ cành và ngọn rồi khiêng ra khỏi rừng, thả theo triền núi xuống bên đường cái lớn. Khi nào hoàn tất các việc vừa kể tức là “chỉ tiêu lao động” trong ngày đă đạt, được phép tự động dắt nhau về Trại nghỉ. Nghe tả sơ như vậy ai cũng tưởng là đơn giản dễ ăn lắm, nhưng khi bắt tay vào việc mới thấy công việc vất vả nguy hiểm gấp đôi việc đi lấy giang hồi mùa Đông vừa qua.

    Chung quanh gốc bồ đề toàn là dây leo, cây nhỏ, bụi gai dại chằng chịt, phải phát quang cả chục mét mới vào được tới sát gốc. Khi hạ cây phải dùng ŕu chặt mở 2 miệng sâu vào thân cây, ở 2 bên đối ngược nhau, một miệng cao một miệng thấp, cây sẽ đổ xuống phiá bên có miệng thấp.

    Trước tiên, chặt mở miệng thấp rộng 45 độ góc ở bên phiá ḿnh muốn cho cây đổ xuống, mặt đáy miệng sâu vào khoảng nửa bề dầy của thân cây, cao hơn mặt đất khoảng 1 mét. Sau đó, mở miệng cao ở bên phiá đối ngược với miệng thấp đă mở. Miệng cũng rộng 45 độ góc, mặt đáy sâu vào khoảng 1 phần 3 thân cây, và phải cao ngang với đỉnh của miệng thấp đă mở bên phiá đối nghịch trên thân cây, th́ cây mới không đổ ngược lại.

    Trong lúc chặt mở miệng cao vào thân cây, tất cả mọi người phải dang xa cách gốc cây ít nhất là 50 mét, chỉ c̣n một ḿnh người phụ trách chặt đứng trên giàn bắc bên gốc cây. Khi chặt đẽo mở miệng cao sâu vào chừng được 1 phần 4 thân cây, phải hô to báo động cho mọi người đang làm việc chung quanh biết là cây sắp đổ về hướng nào. Người đang chặt cũng phải sẵn sàng nhẩy ra phiá sau khỏi giàn, kịp thời đúng lúc trước khi cây đổ.

    Hạ cây đổ xuống rồi, anh em trong Tổ 5 người chia nhau chặt các cành và khúc ngọn khỏi thân cây. Cây thường dài cỡ 10 mét và khá nặng, 5 người khiêng không nổi, phải phối hợp 2 Tổ tiếp tay nhau khiêng đổi công, tức là cả 2 Tổ gồm 10 người xúm nhau khênh từng cây một, ra đỉnh sau cùng của rừng để thả cho trôi xuống đường cái.

    Đi từ sáng sớm khi trời c̣n sương mù lạnh căm căm, cỏ ướt sũng sương đêm, đến nơi thay phiên nhau h́ hục chặt đến trưa mặt trời lên đến đỉnh đầu, mới hạ xong cây và chặt trụi cành để sẵn sàng khiêng đi. Vừa mệt vừa đói, mọi người ngồi nghỉ ăn bữa trưa xong suôi mới tính tới công việc khiêng nộp cho nhanh chóng trọn vẹn, để về trại được sớm sủa.

    Phải mất cỡ một tiếng đồng hồ, 10 người vừa khiêng vừa nghỉ lấy sức, mới khệ nệ men theo triền núi dài khoảng hơn 200 mét đem được cây gỗ ra tới đỉnh sau cùng để thả xuống đường.
    Lúc cả 2 cây gỗ của 2 Tổ được thả hết xuống đường xong xuôi, đồng hồ đeo tay của Cán bộ chỉ đúng 4 giờ chiều. Trời đang c̣n nắng trang trang gay gắt, không một hột gió, mệt vă mồ hôi, khát nước, miệng cổ khô như rang, b́nh đựng nước mỗi người mang theo bên ḿnh cạn queo không c̣n một hột, thật cơ khổ cực cùng không sao tả siết. Mọi người vẫn phải cố gắng quay trở lại rừng, thu nhặt ŕu, rựa, túi mang đồ dùng riêng để trở ra xuống núi về trại.

    Trong lúc đi trở lại rừng, mắt Tôi có lúc hoa lên nổ tia đom đóm, đầu nóng bừng bừng, hai tai reo u, u, chân bước đi lảo đảo như muốn khuỵu xuống. Lo lắng suy nghĩ mung lung, không biết phải làm ǵ để tự cứu ḿnh thoát khỏi bị ngất sỉu v́ thiếu nước. May nhờ số chưa tới lúc, nên Trời đă khiến cho Tôi chợt nhớ ra cách tự cứu ḿnh khỏi khát tạm học được từ hồi c̣n nhỏ tham gia đoàn Hướng Đạo sinh là, tiểu ra mà uống. Tôi vội lấy chiếc túi nylon nhỏ đựng đường thẻ, đă ngậm hết, để tiểu vào đó. Nước tiểu cũng chỉ được dăm giọt vàng khè, đưa lên miệng hút cho hết và chép chép cho nước miếng tiết ra phụ hoạ cho đỡ khô miệng khô cổ. Quả là công hiệu, Tôi thấy dễ chịu hơn và lết được đến bià rừng nơi đang để ŕu, rựa, và các túi xách của chúng tôi.

    Hỏi bạn bè không ai c̣n nước, đảo mắt nh́n quanh may sao thấy một cây chuối nhỏ cao hơn 1 mét mọc sau một bụi xim, cách chỗ chúng tôi đứng chừng 5 mét. Quá đỗi mừng rỡ, Tôi cầm rựa tiến tới chặt phăng cây chuối sát tận mặt đất, chặt bỏ ngọn, lột các lớp bẹ ngoài để lấy nơn non bên trong cùng, cắn từng miếng nhai lấy nước nuốt từ từ. Nhờ thế mà tỉnh táo trở lại, rảo bước ra được khỏi rừng, xuống núi dốc thẳng đứng khoảng 80 mét mới tới đường. Ra về đến ngang Bệnh xá, cầu cứu mấy anh đứng bên bờ rào xin được nước, uống lấy uống để muốn bể bụng mới đă cơn khát.

    Ngày hôm sau, chúng tôi cẩn thận hơn, ai cũng mang theo 2, 3 Gô nước cho chắc ăn. Nhưng tai họa lại xẩy ra trong trường hợp khác, đối với các bạn ở Đội làm việc bên đống gỗ ở cạnh đường. Chuyện xẩy ra vào lúc gần tàn giờ lao động chiều.

    Sau khi 2 Tổ của chúng tôi thả xong cây bồ đề thứ 2 xuống đường, anh em đang ngồi nghỉ ít phút trước khi quay trở lại rừng thu nhặt ŕu và túi đựng đồ riêng, để chuẩn bị xuống núi ra về. Bỗng nghe ở phiá dưới đường có tiếng người la, lẫn với tiếng lăn rầm rầm của đống gỗ bên đường đang đổ ra bừa băi. Nh́n xuống, thấy có một anh nằm dài bất tỉnh trên mặt đất, mấy người khác xúm xít chung quanh hối nhau khênh đi Bệnh xá gấp.

    Lúc xuống đến đường hỏi thăm anh em, biết được người bị nạn là Đại tá Bùi Dzinh, hồi đệ nhất Cộng hoà tại miền Nam đă có lần được Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm cho làm Tư lệnh Sư đoàn trong một thời gian. Anh Dzinh là người luôn luôn có tinh thần lao động “cải tạo năng nổ”. Kể từ ngày mới tŕnh diện đi tập trung tại Đại học xá Minh Mạng bên Chợ Lớn Saigon cũng như khi tới trại Long Giao, anh ấy luôn luôn “tự giác” làm những việc mà anh em ngại khó. H́nh như muốn tỏ cho Cán bộ Cách mạng thấy, anh ấy “năng nổ muốn cải tạo mau tiến bộ” hơn người khác.

    Tai nạn đă làm anh ấy mê man bất tỉnh nhiều ngày liền. Anh em Tù, thân hay sơ ai cũng thương cảm, mỗi người theo cách riêng của ḿnh đều hết ḷng cầu xin Trời Phật cho anh ấy qua khỏi tử nạn. Một tuần lễ sau, chúng tôi mừng rỡ được tin anh ấy đă hồi tỉnh, anh ấy được nằm điều trị tại Bệnh xá Liên trại thêm một thời gian cũng cả tháng sau mới phải trở lại K2 tham gia lao động nhẹ.

    Ngay đêm hôm chứng kiến anh Dzinh gặp tai nạn lao động, Tôi bị lên cơn sốt. Trước tiên rét run lạnh thấu xương, sau đó chuyển sang nóng thân nhiệt lên cao tới khoảng hơn 40 độ Centigrade, miệng khô, hơi thở nóng hừng hực, đầu nhức như búa bổ, các khớp xương đau nhức chịu không nổi. Anh bạn nằm cạnh, phải cơng Tôi xuống pḥng Y tế xin cấp cứu.

    Cán bộ y tế tới khám. Tôi nghĩ rằng ḿnh bị sốt rét rừng hành, v́ hồi nhỏ lúc mới 12 tuổi sau khi đi tham dự trại Hè Hướng đạo ở núi Mẫu Sơn châu Lộc B́nh thuộc tỉnh Lạng Sơn (ngay nơi có cột mốc định ranh giới Bắc Việt và Trung Hoa) Tôi cũng đă bị sốt rét rừng hành phải chữa trị bằng thuốc Quinine cả năm mới hết. Những triệu chứng bệnh trạng hôm nay thấy cũng tương tự như vậy, nên xin Cán bộ cho phép lấy thuốc Chloroquine riêng của Tôi do Trại đang cất giữ giùm để uống. Sau khi uống thuốc được chừng nửa tiếng đồng hồ cơn nóng giảm dần, nên Cán bộ Y tế quyết định không cần di tản ra Bệnh xá Liên trại.

    Kể từ hôm sau, mỗi ngày Tôi đều bị lên một cơn sốt tương tự trong đêm, Cán bộ Y tế cho được nghỉ lao động nằm tại Láng trị bệnh bằng thuốc riêng của ḿnh. Trại chẳng có thuốc ǵ để cấp ngoài những bát nước thuốc Nam nấu bằng các loại lá mót nhặt ở rừng về, và những viên Xuyên Tâm Liên trị Bá Bệnh.

    Tôi mới được nghỉ lao động trị bệnh chừng 3, 4 ngày đă có vài anh trong Đội thắc mắc, nhất là anh Đội trưởng tối nào trong giờ “phê và tự phê xây dựng” cũng nhắc Tôi cố gắng “khắc phục” hôm sau đi lao động với anh em, để bảo đảm cho Đội có nhân số lao động cao trong đợt thi đua. Tôi tŕnh bầy là hàng đêm vẫn bị cơn sốt rét rồi nóng hành hạ, các khớp xương đau nhức di chuyển rất khó khăn đau đớn, ban ngày khi ra ngoài gặp ánh sáng mắt bị chói buốt làm nhức đầu không chịu nổi, nên chưa thể đi lao động được xin anh em “thông cảm nâng đỡ tinh thần” cho Tôi.

    Cán bộ Quản giáo Đội bao giờ cũng đứng ngoài Láng giam theo dơi sinh hoạt tối của Đội, nên đă ít nhất 2 lần lén ŕnh để kiểm tra t́nh trạng sức khoẻ của Tôi. Một lần trong ban đêm gặp ngay lúc Tôi đang bị cơn sốt hành hạ. Một lần vào khoảng 9 giờ sáng, đúng vào thời gian các bệnh nhân từ Láng ở xuống pḥng Y tế để được chẩn bệnh.

    Từ láng ở đi xuống, Tôi phải lần ṃ đi từng bậc thang đất một cũng như phải ngồi bệt xuống đất nghỉ nhiều lần, mắt nhức nhối mở hi hí nên bước hụt chân ngă lăn tuột cả 5, 6 bậc thang tới sát hè Hội trường mới khựng lại. Lúc thấy có người nắm tay đỡ Tôi đứng dậy, ngẩng mặt nh́n lên để cám ơn, Tôi mới giật ḿnh nhận ra người tiếp giúp chính là Quản giáo Đội của Tôi. Lúc này Đội đang lao động nơi hiện trường ngoài trại, tại sao ông ấy lại có mặt tại đây?

    Tôi bị bệnh như vậy được chừng 1 tuần lễ, bỗng một buổi chiều vào lúc nhá nhem tối, trên con đường từ K3 đi ngang K2 của chúng tôi thấy có 3, 4 toán người khênh cáng đi vội vă ra phiá đường cái. Một số anh em hiếu kỳ, giả bộ ṃ xuống suối tắm rửa để ḍ t́m tin tức. Khi trở lên cho biết có 3, 4 anh trong K3 bị sốt nóng bất tỉnh nhân sự, phải đưa ra Bệnh xá Liên trại cấp cứu.

    Sáng hôm sau tin tức rỉ tai nhau cho biết có người đă chết không cứu được, số c̣n lại thoát chết đang được nằm tại Bệnh xá tiếp tục điều trị. Người ta cho biết là sốt vàng da, bị nhiễm trùng v́ lao động tại khu śnh nơi mà Đội chúng tôi phải dọn vét, rải vôi bột khử phèn trong mươi ngày trước.

    Đến giờ điểm danh vào Láng đi ngủ tối không thấy anh Đội trưởng, Tôi hỏi nhỏ anh nằm bên mới biết hồi chiều đi làm về anh Đội trưởng bị sốt cao độ, chẩy máu mũi, xuống pḥng Y tế khám và đă được di tản ra Bệnh xá Liên trại cùng lúc với mấy anh khác, cũng sốt cao độ mê man bất tỉnh. Đội trưởng chúng tôi, anh Lê Minh Luân Đại tá thuộc Quân chủng Không quân hào hoa phong nhă trong Quân lực VNCH lúc nào cũng bay bổng theo mây gió, được nằm điều trị ở Bệnh xá Liên trại khoảng một tuần lễ sau th́ b́nh phục, nhưng vẫn đang c̣n được tiếp tục ở Bệnh xá điều trị tiếp chưa phải về trại đi lao động trở lại.

    Một buổi chiều đi lao động về, anh em cho biết là thấy anh ấy ngồi tắm suối, dơ tay vẫy chào anh em lúc đi ngang rất vui vẻ. Nhưng sáng hôm sau, khi Tôi xuống pḥng Y tế khám bệnh, anh bạn phụ tá Cán bộ Y tế cho biết anh Luân đă chết hồi đêm qua. Mới lúc chiều khoẻ khoắn ra tắm suối vui vẻ là thế, tự nhiên đến đêm bệnh biến chứng ngộp thở cứu không được.

    Thế mới biết, con người ta sống chết đều do mệnh Trời định từ trước, muốn cũng không được, không muốn cũng không được. Tôi là người yếu sức khoẻ nhất trong Đội, bị bệnh sốt vàng da vật đầu tiên đau đớn gần chết và ai cũng cho là giả vờ trốn lao động. Nhưng mệnh Trời đă định Tôi chưa tới lúc phải giă biệt cơi đời, nên đă thoát khỏi chẳng sao.

    Khoảng năm 2007 sau khi Tôi viết xong và phát hành cuốn HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO VIỆT NAM bán từ cuối tháng 5 năm 2005 tại quận Cam và trên toàn nước Mỹ, một người con của cố Đại Tá Luân mua đọc cuốn sách của Tôi, và đă tiếp xúc với các thân hữu trong Quân lực VNCH đang tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ t́m cách liên lạc với Tôi qua Internet để hỏi thăm về nơi chôn ông Bố xấu số của ḿnh. Tôi đă hồi âm kể sơ sơ về địa điểm trại giam chúng Tôi hồi đó là ở xă Việt Cường thuộc vùng Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn, không biết gia đ́nh có đi t́m được hài cốt của cố Đại Tá Luân không?


    Xem tiếp chương 18

  4. #144
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 18 : ĐÔI GIỌT “MẬT ĐƯỜNG” TẠO NIỀM TIN CHO TÙ

    Cả mấy trăm ngàn chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà mọi giới (Quân nhân, Công chức Hành chánh, Đảng phái Chính trị, Báo chí truyền thông, Giáo chức, Văn nghệ sĩ…) thuộc miền Nam Việt Nam đă bị đảng và bạo quyền Cộng hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam đưa đi Lao động Cải tạo Tư tưởng trên đất miền Bắc Xă hội Chủ nghiă, chỉ v́ đă chiến đấu chống sự bành trướng của Cộng sản tại Việt Nam.

    Sau thời gian 2 năm tập trung đầy đọa khổ nhục, tin đồn có đợt tha vào tháng 4-1977 nhân kỷ niệm 2 năm thống nhất đất nước tung ra hồi trước Tết Âm lịch chỉ là cái bánh vẽ đưa ra để phát động đợt thi đua, thúc đẩy Tù làm ra nhiều tiền theo lệnh của Nhà nước mà thôi.

    Măi đến tháng 9-1977 kỷ niệm ngày Độc lập của nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghiă Việt Nam, Đoàn Cán bộ Trung Ương mới từ Hànội tới Liên Trại 1 để tổ chức học tập và thông báo tin tức đợt tha đầu tiên. Con số Đại tá được tha rất ít, có thể đếm trên đầu ngón bàn tay không hết. Chỉ vỏn vẹn có 3 người:

    1/ -Đại tá Huỳnh hữu Ban (nguyên Trưởng Pḥng 5 Bộ Tổng tham mưu) bị đưa ra Bắc hồi giữa năm 1976 cùng lượt với chúng tôi, đă chết v́ bệnh phổi tại Bệnh xá Liên trại 1 vào khoảng cuối năm 1976.

    2/ -Đại tá Thọ (gốc Nhẩy dù, Tôi không nhớ Họ của anh Thọ) bị bắt tại trận Hạ Lào trong cuộc Hành quân Lam Sơn 719. Phái đoàn Trung ương giải thích: “-Anh Thọ được Nhà Nước tha v́ đă cải tạo nhiều năm rất tiến bộ, nhưng Chính quyền Địa phương không nhận v́ lư do không bảo đảm được an ninh cho anh Thọ tại địa phương nơi xin về cư ngụ. Do đó, Nhà Nước đành phải để anh ấy ở lại tiếp tục cải tạo”. Anh Thọ không ở chung Trại với chúng tôi, nên không có dịp tiếp xúc để kiểm chứng.

    3/ -Đại tá Hồng Sơn Đông, ở chung với chúng tôi từ khi bị đưa ra Bắc hồi cuối tháng 6 năm 1976. Anh Đông đă giải ngũ từ thời ông Ngô đ́nh Diệm làm Tổng Thống nền Đệ nhất Cộng hoà tại miền Nam Việt Nam. Từ khi ra khỏi Quân đội, anh Đông sống ở vùng Thủ Đức Gia Định, thường xuyên cộng tác với một Nhật báo tại Saigon. Trong thời Đệ nhị Cộng hoà, anh Đông tham gia NHÓM KƯ GIẢ ĐI ĂN MÀY xuống đường biểu t́nh chống đối Chính quyền, v́ đă kiểm duyệt và đóng cửa các tờ Báo thân Cộng. Tất cả các Đảng phái Quốc gia chống Cộng sản tại miền Nam lúc bấy giờ đều biết rơ, những tờ báo này thường xuyên cố t́nh loan tin gây hoang mang làm suy giảm tinh thần chống Cộng sản của Chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà và Đồng bào tại miền Nam Việt Nam.

    Trước khi có lệnh tha, anh Đông đă từng úp mở khoe với vài bạn thân là “NHÓM KƯ GIẢ ĐI ĂN MÀY tại Saigon trước kia là Cán bộ Cộng sản nằm vùng, sau ngày Giải phóng họ có Uy thế lớn trong Chính quyền Cách mạng tại Saigon. Họ đă vận động cho anh ấy không phải đi cải tạo nhưng không kịp, v́ thế nên cứ kiên nhẫn đi tập trung như mọi người và sẽ nhận được lệnh tha để ra về trong dịp sớm nhất.”

    Đợt học tập này được tổ chức luân phiên tại cả 2 địa điểm K2 (Trại Cây Khế) và K3 (Trại Cốc).

    Ngày nào tổ chức học tại K2 của chúng tôi, anh em trong K3 phải dắt nhau ra học chung.

    Ngược lại, ngày nào tổ chức tại K3 trong khu tận cùng của thung lũng, anh em chúng tôi phải di chuyển vào trong đó để cùng tham dự.

    Hội trường K2 của chúng tôi chỉ có sức chứa 200 người, nay dồn cả 2 Phân trại gồm khoảng 400 người vào ngồi chung chen nhau chặt cứng như nêm. Mọi người phải ngồi chồm hổm sát bên nhau, đầu gối người sau đụng lưng người ngồi trước, vai sát vai không chỗ hở mà cựa quậy, hơi người bốc ra nồng nực. Đă có anh v́ mắc bệnh xuyễn kinh niên bị ngộp thở phải dẫn ra ngoài cấp cứu.

    Trong Hội trường không đủ chỗ, phải ngồi đầy cả ngoài hiên chung quanh bên ngoài.

    Ngày nghe thuyết giảng trong Hội trường, đêm được xem chiếu bóng ngoài trời nơi sân tập họp lớn trước Thư viện. Mọi người ngồi bệt trên mặt đất, sương đêm lạnh buốt, nhiều người phải mang cả chăn ra chùm kín từ đầu xuống chân để không bị cảm lạnh.

    Phim thuộc loại tuyên truyền ngây ngô xảo trá với tựa đề “Anh hùng diệt tăng”, giàn dựng diễn tả lại trận phục kích Chiến đoàn Pháp tại vùng Tây nguyên Trung phần Việt Nam hồi thập niên 1950. Đại ư kể truyện một anh Bộ đội Cộng sản Bắc Việt nằm phục kích bên lề đường, ném lựu đạn lên xe tăng của Pháp, lựu đạn nổ trên đỉnh bên ngoài xe tăng không hề hấn ǵ. Xe tăng tiếp tục chạy trên đường ṿng sang phiá bên kia sườn đồi, anh Bộ đội chạy đường tắt leo qua đỉnh đồi sang phiá sườn bên kia trước khi xe tăng ḅ tới. Nhờ lợi thế ở trên cao sát bên mặt đường, anh Bộ đội nhẩy xuống nóc xe tăng, thả quả lựu đạn vào trong ḷng xe rồi tức tốc nhẩy xuống lề đường vừa xong th́ xe tăng nổ và bốc cháy???

    Trong đợt học tập này, có một sự kiện rất đặc biệt không ai quên được là Đoàn Cán bộ Trung ương dẫn theo ông PHẠM KHẮC HOÈ, nguyên làm Ngự Tiền Văn Pḥng của Hoàng đế Bảo Đại. Ông này đă giác ngộ dứt bỏ giai cấp quan lại của ḿnh trong Triều đ́nh nhà Nguyễn theo Cách mạng từ mùa Thu 1945. Hiện nay đang là người Cộng sản chính tông, được đưa đến đây nói chuyện tâm t́nh với Tù cấp Đại tá thuộc giai cấp cầm quyền như ông Hoè trước kia trong “Ngụy quyền phản động”.

    Ông Hoè khoe rằng, chính ông ấy đă khuyên và đốc thúc Hoàng đế Bảo Đại thoái vị Vua vào tháng 8 năm 1945, nhờ thế đă được Cách mạng trọng dụng từ bấy đến nay không hề bị kỳ thị v́ quá khứ của ḿnh.

    Khi chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ vào tháng 12 năm 1946, ông ấy bị Pháp bắt giam tại nhà tù Hoả Ḷ Hànội. Tháng 1 năm 1947 được đưa vào Saigon và Đàlạt để tiếp xúc với một số nhân sĩ: Vương quang Nhường, Phan huy Đán, Đinh xuân Quảng, Trần trọng Kim, Nguyễn văn Sâm, Trịnh đ́nh Thảo, và Nam Phương Hoàng hậu. Đến giữa tháng 4 năm 1947, Pháp đưa trở ra Hànội và trả tự do cho ông ấy. Tháng 8 năm 1947, ông ấy bỏ Hànội ra Chiến khu theo Việt Minh. Tháng 9 được gặp Cụ Hồ, và ở lại theo Cách mạng luôn kể từ đó.

    Ông ấy cũng đă được Nhà nước Cộng sản Bắc Việt cho cái vinh dự làm một trong các thành viên tham dự Hội nghị Genève 1954, chia cắt đất nước Việt Nam làm hai miền Nam Bắc tại Vĩ tuyến 17.

    Ông Hoè nói rất nhiều để sau cùng kết luận, nhờ suốt mấy chục năm trời theo Cách mạng nên đă học được 2 điều “cơ bản chính yếu” là YÊU và GHÉT.

    “Ghét Giai cấp Thống trị, v́ là kẻ thù bóc lột Giai cấp Vô sản.
    Ghét ăn bám vào xă hội, nhờ thế mới biết Yêu Lao động.
    Yêu Lao động tức là yêu Xă hội Chủ nghiă, và chỉ có Yêu Xă hội Chủ nghiă mới là yêu Nước”.


    Qua sự kiện này ai cũng thấy được rằng, người ta đưa ông Hoè đến với mục đích chính yếu duy nhất là tŕnh diện nhân chứng sống bằng xương bằng thịt, và cho mọi người có cơ hội nghe tận tai thấy tận mắt tấm gương của một người trước kia từng thuộc Giai cấp thù địch với Giai cấp Vô sản, nhờ biết giác ngộ nhiệt thành hối cải tận tụy theo Cách mạng lập công chuộc tội nên đă được đối xử b́nh đẳng trong giai cấp Lănh đạo của Cộng sản như thế nào. Tù hăy yên tâm noi gương mà cố gắng cải tạo cho mau tiến bộ!!!

    “Đường đi khó không v́ ngăn sông cách núi, mà khó v́ ḷng người ngại núi e sông”,

    đấy là câu ông Hoè đă dùng để kết thúc buổi nói chuyện tâm t́nh thật dài của ông ấy với các Tù Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hoà, đang bị tập trung cải tạo tại Liên trại 1 xă Việt Cường Yên Bái tỉnh Hoàng Liên Sơn.


    Trong kỳ học tập này, Đoàn Cán bộ Trung Ương c̣n cho phát thanh một cuộn băng nhựa, ghi âm bài phát biểu ư kiến của Tướng Nguyễn vĩnh Nghi gửi lời khuyên nhủ anh chị em Chiến sĩ thuộc Chế độ Việt Nam Cộng hoà cũ ráng học tập cải tạo cho tốt. Tướng Nghi nguyên là Tư lệnh Bộ Chỉ huy Tiền phương của Quân đoàn III, bị quân Cộng sản Bắc Việt bắt tại mặt trận Phan Rang trước khi Saigon thất thủ và đă bị Cộng sản đưa ra Bắc Việt giam giữ và kết án tù chung thân.

    Không biết kỹ thuật thâu băng dở hay máy phát âm của Trại dở, mà âm thanh phát ra lúc rè, lúc nhỏ, lúc lạo xạo pha trộn các nhiễu âm rất khó nghe. Tôi không nghe được đầy đủ nội dung nói những ǵ. Nhưng sau buổi học tập, nhiều anh em cực đoan khó tánh kín đáo th́ thầm với nhau ngụ ư bất b́nh về những lời nói của Tướng Nghi. Đa số c̣n lại chỉ nhè nhẹ thở dài yên lặng, giữ thái độ “Im lặng là vàng” không biểu lộ ư kiến ǵ. Tôi thuộc nhóm thứ 2, và cũng có vài suy nghĩ riêng nhưng không nói ra với ai trong lúc đó cả.

    Đây là suy nghĩ của Tôi lúc đó, giả dụ như Tướng Nghi có tự nguyện ngỏ lời kêu gọi khuyên anh em cố gắng cải tạo cho tốt, lập thành tích đái công chuộc tội… để sớm được hưởng lượng khoan hồng của Nhà nước Cộng sản đi nữa, th́ cũng chẳng có ǵ đáng trách. “Gặp thời thế, thế thời phải thế”, Chính quyền miền Nam đă hoàn toàn xụp đổ, Quân lực Việt Nam Cộng hoà tan ră, Đồng minh bỏ rơi cuốn gói chạy, các Đại cường tham gia kư Hiệp Ước Paris 1973 im hơi lặng tiếng làm ngơ trước sự vi phạm trắng trợn của Cộng sản trong suốt 2 năm qua. Đang phải sống trong hoàn cảnh vô vọng như thế này th́ dĩ nhiên mỗi người phải tự lo cho số phận riêng của ḿnh, do đó có thể trong thâm tâm Tướng Nghi không muốn làm việc này, nhưng v́ bị áp lực cách nào đó ghê gớm lắm liên quan tới mạng sống của cá nhân và có thể là của cả vợ con ở nhà nữa, nên chẳng đặng đừng phải cắn răng nhịn nhục làm vậy thôi.


    C̣n tiếp...

  5. #145
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chắc mọi anh chị em tù cải tạo ai cũng c̣n nhớ rằng sau mỗi buổi học tập rời Hội trường trở về Láng, mọi người bị buộc phải ngồi bên nhau mổ xẻ đào sâu và phát biểu ư kiến về đề tài đă được nghe trước sự hiện diện theo dơi của Cán bộ.

    Mỗi người bị buộc phải thay phiên nhau tự kiểm điểm và liên hệ với bản thân, phải t́m cho ra những sai trái của ḿnh và của Chế độ ḿnh đă phục vụ trước kia, phải tự buộc tội ḿnh để mà hối hận mà xin Cách mạng khoan hồng tha chết. Mọi ư kiến phát biểu đều phải kết thúc bằng lời hứa quyết tâm cải tạo cho thật tốt, để sớm được về đoàn tụ với vợ con.

    Mặc dù chính ḿnh cũng biết trong các bài thuyết giảng có rất nhiều điều phi lư, suy luận một chiều, sai sự thật, nhưng chẳng ai dám có ư kiến ngược lại. Bởi v́ làm như vậy, cả Đội sẽ phải tiếp tục ngồi xây dựng cho nhau hoài không được nghỉ, cho đến khi nào Cán bộ thấy mọi người tỏ ra “thành khẩn” nhiệt liệt công nhận và “hào hứng” góp ư kiến tán tụng những điều ghi trong tài liệu học tập là rất chính xác khoa học, mới được coi là “đạt mục đích yêu cầu”, “kết quả thâu hoạch tốt”, th́ mới được cho ngưng thảo luận để nghỉ ngơi.

    Đă có lần ở trong Đội chúng tôi, một anh bạo gan góp ư kiến thành thật theo đúng tinh thần Dân chủ mà Nhà nước Cộng sản thường rêu rao. Lập tức được Quản giáo Đội (Trung úy Khảm) nhắc khéo rằng: “Một hai bộ óc dù có thông minh đến đâu, cũng không thể bằng cả trăm cả ngàn bộ óc của Bộ Chính trị Trung ương Đảng được, các anh phải “nắm cho thật vững” điều đó. Chính v́ “bản chất đại ngoan cố” như vậy, mà các anh đă lạc đường phản lại Cách mạng, học tập đến giờ này mà c̣n chưa “giác ngộ” bao giờ mới “tiến bộ” được tha về với Vợ Con?”

    Nhờ có đợt học tập này, 3 anh Quế, Huề, và Thi đang bị cùm trong nhà kỷ luật bên chuồng heo của K2 suốt từ hồi trốn trại cuối năm 1976 bị bắt lại đến nay, được khoan hồng ân xá cho ra khỏi nhà kỷ luật.

    Mỗi người được biên chế vào một Đội khác nhau, để tiếp tục đi lao động với anh em như thường. Thấy hiện trạng cơ thể suy nhược của các anh ấy mà xót xa, thương cho bạn mà cũng lo cho chính bản thân ḿnh, cứ cái ngữ lao động cực khổ đói ăn như vầy, rồi đây chắc cũng chẳng hơn ǵ.

    Sau đợt học tập, anh em tiếp tục chuẩn bị làm vụ lúa Thu Đông. Đội chúng tôi được giao trách nhiệm đi lấy “cây cứt lợn”, một loại thảo mọc từng bụi cao cỡ 1 mét, có hoa từng chùm nhỏ mầu vàng nhụy đỏ mùi hôi hôi hắc hắc như phân lợn, thân và lá có lông li ti đụng vào da làm ngứa ngáy như bị rôm cắn. Hàng ngày, mỗi người phải chặt 2 gánh nặng cỡ 40 kílô đem về bỏ tại khu ruộng của Trại. Có Đội khác ngồi đó chuyên lo bằm nhỏ, văi xuống ruộng đầy nước cho mục rữa lần ra thành phân bón trước khi cấy mạ.

    Đến tháng 10 năm 1977 mọi việc hàng ngày đang tiến hành êm ả, bỗng dưng vào một hôm đẹp trời toàn thể Tù K2 chúng tôi không phải xuất Trại lao động buổi chiều, tập trung tất cả nơi sân tập họp trước Thư viện. Trại trưởng xuất hiện, thông báo tên một số người được lựa đưa đi lao động cải tạo thật sự. Ai nấy hồi hộp chờ đợi, hy vọng có tên ḿnh trong danh sách.

    Khoảng 2 chục người có tên, toàn là dân Chiến tranh Chính trị, An ninh Quân đội, Pḥng Nh́, Tuyên Úy, Tỉnh trưởng, Xây dựng nông thôn, và Ban Liên hiệp Quân sự 4 bên. Đội chúng tôi có tới 4 người gồm các anh Dương Hiếu Nghiă, Vơ hữu Bá, Tôn thất Hùng và Tôi (Nguyễn-Huy Hùng).

    Bữa ăn tối, K2 “đột xuất” được đặc biệt tăng cường thịt heo do chính Toán Chăn Nuôi của K2 chăm vỗ bấy lâu nay. Trại trưởng cho biết:

    “-Đây là dịp “công khai” thanh toán ṣng phẳng tiền dư thực, cho mọi người cùng hưởng trước khi chia tay nhau”. Mọi người được phép nấu nướng ăn uống đăi đằng hàn huyên tiễn biệt nhau thong thả từ chiều tối cho đến giờ đi ngủ.

    Bạn bè thâm giao bị trong hoàn cảnh kẻ ở người đi t́m gặp nhau chuyện tṛ bồn chồn quấn quưt. Đây cũng là lần đầu tiên, Tù được phép qua lại giữa các Láng ở để nói chuyện chào tiễn biệt bạn bè thân quen của ḿnh. Tại K2 của chúng tôi có Linh mục Nguyễn văn Thịnh, Mục sư Dương Kỳ Tuyên Úy Quân đội mang cấp bậc Đại tá nhiệm chức, nên bị bắt đi cải tạo đang ở chung với chúng tôi cũng có tên trong nhóm ra đi lần này.

    Xem tiếp chương 19...

  6. #146
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 19 :Về miền đất Tổ Hùng Vương trở thành tù không án


    Nhóm 20 anh em chúng tôi tại K2 (Trại Cây Khế) được lựa đưa đi, so với tổng số đang bị giam tại K2 chỉ bằng hơn mười phần trăm. Nhóm ra đi toàn là những người thuộc thành phần bị Cộng sản liệt vào hạng nguy hiểm “có nợ máu sâu đậm với Nhân dân” hơn các thành phần khác, v́ thế đêm nằm thao thức suy nghĩ mung lung đủ thứ chuyện không ngủ được.

    Với Việt Cộng gian manh xảo quyệt, làm sao đoán được chuyện ǵ sẽ xẩy đến trong ngày mai. Lúc nào họ cũng “ngọt sớt mía lùi” như sẵn sàng đổ thóc giống cho ḿnh ăn, thế rồi lại trơ trẽn nuốt lời ngay tức khắc, chả biết đâu mà lường mà tin cho được.

    Trằn trọc măi không ngủ được, vừa mới chợp được mắt th́ Cán bộ Quản giáo Đội đă tới lôi chân những người phải ra đi thức dậy, dẫn xuống bếp lănh thực phẩm ăn đường cho cả ngày. Mỗi người lănh phần ăn cho cả 3 bữa (sáng, trưa, tối), gồm cơm nắm và thịt heo kho đă bọc sẵn trong lá chuối. Nước chín để uống được lấy thả giàn 2, 3 Gô hoặc Bi đông tùy theo khả năng đồ chứa riêng của mỗi người, không hạn chế như ngày thường mỗi buổi chỉ được lănh 1 Gô hay 1 Bi đông mà thôi.

    Trời c̣n tối chưa tới giờ báo thức của cả Trại, anh em ra đi lục đục thu dọn hành trang khiến các bạn nằm gần bên cũng bị thức giấc. Bạn bè thân xúm xít tiếp tay người ra đi, gói ghém hành trang cho thật gọn gàng và luôn mồm nhắc nhở coi kỹ xem c̣n sót ǵ không.

    Hai anh bạn cùng Tổ rất thương mến giúp đỡ Tôi xưa nay, các Đại tá Nguyễn quang Chiểu và Vũ quang Chiêm trước 30-4-1975 làm ở Phủ Tổng Thống, đến gần giúi cho Tôi bọc kẹo lạc và bọc bánh quy do gia đ́nh gửi cho từ hôm trước Tết c̣n để dành chưa ăn hết. Cả 2 người cùng xúc động ôm gh́ lấy Tôi, chúc lên đường b́nh an may mắn. Tôi nghẹn ngào rưng rưng lệ nói những lời cám ơn chân t́nh. Từ ngày đến định cư tỵ nạn Cộng sản tại California, Tôi có dịp gặp anh Nguyễn quang Chiểu tại Khu Little Saigon Nam California trong dịp anh em cựu tù Đại Tá họp mặt Xuân.

    Nghe nói Anh Vũ Quang Chiêm cũng đă sang định cư tỵ nạn tại miền Bắc California, Tôi chưa có dịp gặp lại, nhưng vào năm giao điểm giữa 2 Thế kỷ 20 và 21 Tôi t́nh cờ có dịp liên lạc được với anh Chiêm trên Internet.

    Cán bộ hối lên đường và dẫn mấy anh em phải ra đi tay xách vai mang tư trang rời Láng xuống tập trung nơi cổng Trại.

    Cán bộ Phó trưởng trại hôm nay làm trưởng Toán áp tải dặn ḍ mọi người về “Quy luật phải thi hành trong khi hành quân”, xong xuôi c̣n nhắn nhủ thêm:

    “-Đến nơi mới các anh phải thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau để mà cải tạo cho nó tốt”.

    Những điều này làm Tôi suy tư lo lắng. Xưa nay ông ta vốn là người xuề xoà dễ tính đối với anh em, nay nhắc nhở như vậy chắc chắn trong những ngày sắp tới sẽ có nhiều điều không may đến với chúng tôi.

    Các bộ đội áp giải hối chúng tôi: “Lên đường! Khẩn trương!”. Anh em khệ nệ vác hành trang, kẻ trước người sau nối đuôi nhau đi bộ 1 cây số từ K2 (Trại Cây Khế) ra đường cái. Tới ngă 3, nơi có Bệnh xá Liên trại rẽ sang phải chừng nửa cây số thấy một đoàn 4 xe tải Molotova có căng mui và bạt 2 bên hông đang đậu chờ chúng tôi.

    Đến đây, gặp thêm một nhóm anh em ở trong K3 (Trại Cốc) cũng bị đưa đi một lượt với chúng tôi. Trời c̣n tối mờ sương không nhận được mặt nhau, trừ những người cùng đi chung trên một xe.

    Cán bộ áp tải của K2 và K3 bấm đèn Pin đi quanh kiểm điểm nhân số Tù xong, ra lệnh 15 người lên một xe. Mỗi xe có 3 cảnh vệ mang súng AK đi áp tải, một người ngồi nơi buồng lái bên cạnh tài xế, hai người c̣n lại ngồi phiá sau xe với Tù, chặn ngay nơi bửng lên xuống.
    Hành lư của Tù xếp gọn thành một đống, phiá trong cùng thùng xe nơi sát buồng lái, anh em ngồi bệt xuống sàn tập trung ở khoảng giữa, không được ngồi gần phiá bửng sau xe nơi Cảnh vệ ngồi trấn tại đó.

    Đặc biệt lần di chuyển này, tấm bạt phiá sau xe được cuốn lên để cho thoáng hơi, nhờ thế anh em có thể trông thấy được rơ ràng cảnh rừng núi 2 bên đường lùi xa dần phiá sau xe.

    Sau hồi c̣i lệnh của trưởng đoàn áp tải, đoàn xe nổ máy, bật “đèn mắt mèo”, chuyển bánh và lần lần tăng tốc độ, vài phút sau bắt đầu lao đi vùn vụt, lắc qua lắc lại, ṿng vèo xuống dốc theo các sườn núi rừng rậm mịt mù trong sương đêm lành lạnh.

    Trời c̣n tối chẳng trông thấy ǵ, mệt mỏi ngồi ôm đầu gối tựa lưng vào nhau, mắt nhắm nghỉ ngơi mặc cho thời gian trôi. Tiếng động cơ và không khí do lực chuyển động của chiếc xe tạo nên, reo đều đều ù ù vụt vụt ào ào, ru anh em thiêm thiếp ch́m vào giấc ngủ.

    Chẳng biết thời gian ngủ được bao lâu, bỗng dưng xe giảm tốc độ đột ngột làm mọi người bị xô dồn về phiá trước tỉnh giấc. Mở mắt nh́n ra ngoài, thấy mặt trời đă lên cao cỡ ngang hông xe, đoàn xe đang di chuyển ngang qua một dẫy phố có lẫn lộn nhà ngói nhà tranh, người hàng phố thưa thớt đứng ngó đoàn xe chạy ngang dơ tay vẫy vẫy, chắc họ tưởng đoàn Bộ đội nào đi công tác miền núi trở về. Cả chiều dài của khu phố chỉ khoảng 200 mét, đằng sau các căn nhà là những bụi tre và cây cối um tùm. Chắc đây là khu trụ sở Xă hay Hợp Tác Xă nào đó, thuộc vùng ráp ranh miền núi và đồng bằng.

    Qua khỏi khu phố nhỏ, đoàn xe tiếp tục lấy tốc độ trở lại, vùn vụt tung bụi mù băng ngang những cánh đồng không người. Đến khoảng gần trưa lại gặp một Thị trấn nhỏ khác, nhà cửa nằm dọc dài theo một bên đường, phiá bên kia đường là những thửa ruộng đang có những nhóm người cầy bừa. Không phải các đoàn máy cầy hay máy bừa đất như trong các cuốn truyện mà anh em đă đọc tại Thư viện của Liên trại 1, mà là những hàng người kḥm lưng kéo cầy thay trâu. Họ đứng thành 2 hàng ngang, hàng trước cách hàng sau chừng 3 mét. Hàng sau là 5 người cầm 5 chiếc cầy, phiá trước hàng người này là một hàng người đông gấp đôi với những sợi dây kéo cầy quàng nơi vai của mỗi người. Những hàng người này cứ thong thả theo nhau đi ṿng hết ruộng này qua ruộng khác, từ xa trông như những người máy đă được hiệu chỉnh cho di chuyển tự động. Rất nhiều nhóm người làm việc như vậy rải rác trên khắp các thửa ruộng, chẳng thấy bóng dáng một con trâu nào.

    Đoàn xe chạy qua Thị trấn được chừng mươi phút, thấy nơi giữa đồng có một khu nhà tiền chế 2 tầng bằng tôn, cửa sổ dát kính phản chiếu ánh mặt trời sáng loáng. Gần bên có một bồn chứa nước lớn cao khoảng 7, 8 mét và mấy dẫy nhà gạch 2 tầng lợp tôn, trông như một chung cư hay cơ xưởng sản xuất nhỏ. Theo Bộ đội áp tải nói:

    “-Đấy là khu nhà của Cố vấn Liên Sô và chung cư của công nhân”.

    Đoàn xe tiếp tục băng qua một vùng 2 bên đồng khô, rồi ṿng vèo theo các triền núi đồi cây cối cằn cỗi pha lẫn tre gai sơ xác. Đến lúc mặt trời đang xuống tới mức xéo ngang hông xe, th́ bỗng dưng đoàn xe ngừng lại ngay bên một xóm nhà tranh trên sườn núi không một bóng người. Cán bộ cho Tù xuống tiểu tiện nếu ai có nhu cầu, c̣n không th́ cứ ngồi yên trên xe. Thực ra nhu cầu chính yếu không phải vậy, cần ngưng để đợi 2 xe sau đến tập trung đầy đủ trước khi tiếp tục di chuyển, nên lợi dụng thời gian này cho Tù và Cán bộ áp giải xuống đất giải quyết nhu cầu vệ sinh cá nhân đă phải nín suốt cả chục tiếng đồng hồ từ sáng sớm đến giờ. Mọi người ào ào nhẩy xuống xe, kề ngay vào các bụi lau cây dại bên đường xả “xúp bắp”, người tiểu tiện kẻ đại tiện. Lúc này mới thấy rơ ư nghĩa xác thực của 1 trong TỨ KHOÁI ở trên đời mà dân gian thường truyền tụng.

    Các xe sau đă đến tập trung, cả đoàn ngưng nghỉ hút chưa tàn điếu thuốc lại có lệnh lên xe tiếp tục cuộc hành tŕnh. Để tiết kiệm, những người đang hút dở phải dụi tắt điếu thuốc bỏ vào bao để sau này hút tiếp cho khỏi uổng, chẳng như hồi trước 30-4-1975 dù là thuốc “3 con 5” (555) mới bập có vài hơi khi không thích hút nữa là quẳng ngay không luyến tiếc.

    C̣n tiếp...

  7. #147
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Khoảng một tiếng đồng hồ sau, đoàn xe chạy ngang một xóm có nhiều nhà ở dọc 2 bên đường, quanh nhà nào cũng có hàng rào cây gai và cổng tre, phiá sau nhà có những bụi chuối um tùm, nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy bóng người nào qua lại trên đường.

    Qua khỏi xóm dân cư chừng 2 cây số, xa xa bên phiá trái cách đường khoảng 1 cây số, thấy một khu nhà tôn nhà ngói lẫn lộn trông như một cơ sở Hợp tác xă. Phiá trước khu nhà có một cổng lớn, với chiếc Bảng hiệu to tướng đề hàng chữ “Công an Nhân dân”. Gần bên khu nhà này khoảng 300 mét là một khu bao quanh bởi một hàng tường cao có giăng giây kẽm gai trên đỉnh. Sau hàng tường thấy những mái nhà tôn san sát bên nhau, xếp theo hàng lối dọc ngang đều đặn, nơi góc các dẫy tường đụng nhau có những tṛi canh mái lợp tôn có người mặc áo mầu vàng ôm súng ngồi.

    Chắc hẳn đây là khu trại giam tù.

    Đoàn xe tiếp tục chạy, trước khi bắt đầu chui vào quăng đường ṿng vèo leo theo sườn núi 2 bên dầy đặc cây rừng rậm rạp âm u, lại thấy xa xa bên kia bờ sông một khu trại giam khác kiến trúc tương tự. Sau chừng 45 phút ṿng vèo leo núi xuyên rừng, đoàn xe dừng hẳn lại trước một khu trại cũng có tường cao bao quanh với hàng dây kẽm gai giăng trên đỉnh y như 2 trại đă thấy trước.

    Chúng tôi phải ngồi yên trên xe chờ khoảng 10 phút mới được lệnh xuống xe. Mọi người vác hành trang theo nhau hàng một vào qua khung cửa nhỏ của chiếc cổng sắt lớn. Cán bộ mặc đồ kaki mầu vàng đứng tại buồng canh đếm đầu kiểm ghi tổng số người vào trại.

    Ngay phiá sau cổng là một sân tập họp h́nh chữ nhật thật lớn, đủ chỗ ngồi cho cả ngàn người. Anh em chúng tôi được lệnh ngồi tập trung thành 2 hàng dọc vào một góc sân. Một hàng rào Công an cầm súng đứng vây quanh cách chúng tôi chừng 5 mét để canh chừng. Đoàn bộ đội áp tải ngồi lại bên xe đậu phiá ngoài cổng trại.

    Nơi cuối sân, thấy một nhóm khác cả trăm người không biết từ đâu đến, họ cũng phải ngồi theo hàng lối bên cạnh những gói tư trang chờ như chúng tôi. Có bạn trong nhóm chúng tôi nh́n thấy người quen, mới biết là cùng “Phe Ta” với nhau. Nhóm anh em ấy thuộc cấp bậc Trung tá, Thiếu tá.

    Trong khi ngồi chờ đợi Trưởng toán áp tải đi “làm việc” với Ban Chỉ huy, chúng tôi có th́ giờ quan sát cảnh trí bên trong trại giam.

    Phiá cuối sân tập họp có một toà nhà lớn lợp tôn, chắc là Hội trường. Trại giam được chia ra 2 khu giam riêng biệt. Khu bên phải, có một dẫy tường cao 3 mét suốt chiều dài của sân, nơi khoảng giữa bức tường có 2 cửa nhỏ rộng 1 mét cao 2 mét để ra vào. Trong khu này có những dẫy nhà vách gỗ mái tôn, và gần sát tường phiá cổng lớn có dẫy nhà gạch (sau này mới biết dẫy nhà này là “Khu cách ly” giam những tù đặc biệt và “Nhà Kỷ luật”). Bên phiá sân đối diện, có 1 hàng rào kẽm gai cao 2 mét để ngăn cách năm sáu dẫy nhà vách gỗ mái tôn với sân tập họp.

    Ngồi đợi khoảng một tiếng đồng hồ tại sân tập họp, chúng tôi nghe một hồi kẻng oang oang nổi lên rồi thấy 2 cánh cửa sắt lớn được mở rộng ra, và lục tục từng Đội từng Đội Tù từ ngoài cổng trại nối đuôi nhau đi vào. Họ phải bỏ nón ra khỏi đầu khi đi ngang điếm canh tại cổng.
    Những Đội đi vào phiá Phải bên khu có tường quây, gồm toàn những Tù tuổi sồn sồn, dáng mệt mỏi, lặng lẽ cặp đôi theo nhau rảo bước vào khu giam. Có vài người chỉ trỏ về phiá đám Tù đang ngồi giữa sân vẫy vẫy tay, chắc là nhận được mặt người quen.

    Những Đội rẽ vào bên trái khu nhà sau hàng rào kẽm gai, tuổi cỡ choai choai trên dưới 20 nói năng xấc láo ồn ào, cũng có đôi người lớn tuổi. Sau này mới biết đó là đám Tù H́nh sự, chuyên trộm cắp giết người cướp của, hăm hiếp phụ nữ, in bạc Cụ Hồ giả, băng đảng chém giết nhau..., chúng là loại “tù chuyên nghiệp” từng ra vào khám nhiều lần. Những đứa trẻ tuổi bị giam nhiều năm trong trại giáo hoá thiếu nhi phạm pháp, khi đến tuổi trưởng thành chúng bị chuyển qua trại tù của người lớn, để tiếp tục thi hành nốt những năm c̣n lại của bản án đă tuyên phạt từ hồi c̣n vị thành niên.

    Chúng tôi phải tiếp tục ngồi chờ cho đến sẩm tối, sau hồi kẻng điểm danh nhốt hết Tù cũ vào các pḥng giam của họ xong, Cán bộ Công an và mấy người “Trật tự” mới đến dẫn chúng tôi vào 1 dẫy nhà trống trong Khu có tường bao quanh.

    Cán bộ Công an mặt lạnh lùng chẳng nói chẳng rằng, nhưng mấy người “Trật tự” đi theo cầm xâu khoá và chià th́ luôn mồm hối thúc “khẩn trương”. Sau này mới biết họ là Tù bên khu H́nh Sự, được tin cậy lựa chọn chỉ định làm “Thi Đua” đi theo để đôn đốc Tù thi hành lệnh sai bảo của Cán bộ. Họ c̣n có trách nhiệm nghe ngóng thâu nhặt những tin tức sinh hoạt của Tù, qua hệ thống “ăng ten” riêng để báo cáo cho Cán bộ.

    Người sau cùng trong chúng tôi vừa bước lọt chân vào qua ngưỡng cửa, nghe một tiếng rầm phiá sau lưng, hai cánh cửa sắt duy nhất ra vào nhà bị đóng lại, gài thanh sắt chận ngang bên ngoài và móc ổ khoá. Mọi người bàng hoàng xúc động tái tê đôi phút, không ngờ kể từ giờ phút này ḿnh chính thức trở thành Tù, mặc dù chưa hề nghe đọc hoặc nh́n thấy mặt mũi cái án lệnh dành cho ḿnh như thế nào, h́nh thể mầu sắc của nó ra sao? Nhưng rồi ai nấy cũng b́nh tĩnh trở lại, ṃ mẫm thu xếp chỗ nằm trong bầu không khí lạnh lùng tối tăm của NHÀ TÙ XĂ HỘI CHỦ NGHIĂ.

    Một tiếng đồng hồ sau, bóng đèn điện treo ở giữa căn nhà bật sáng anh em mới thấy rơ mặt nhau, ai cũng dáng vẻ bơ phờ mệt mỏi. Nhờ có ánh sáng vàng vàng của chiếc bóng đèn điện, mới thấy được ở phiá cuối nhà có một ngăn riêng để 3 thùng gỗ cho Tù đại tiện tiểu tiện ban đêm ngay trong nhà giam. Thật may mắn, đêm nay chắc là được ngủ yên không bị đánh thức bởi những tiếng hô báo cáo đi tiểu tiện đại tiện như trong suốt 2 năm vừa qua.

    Nhưng qua đêm rồi mới biết ḿnh mừng hụt, “thoát vỏ dưa, gặp phải vỏ dừa” c̣n tệ hơn. Bầy RỆP đói lâu ngày trong kẽ sàn gỗ chui ra thi nhau hút máu, đau nhoi nhói hết chỗ này đến chỗ kia trên toàn thân thể, lo găi ngứa rà rà giết rệp cả đêm không ngủ được.

    Điện chỉ rọi sáng được một tiếng đồng hồ sau th́ tắt cùng một lúc với những tiếng kẻng trại báo giờ ngủ bắt đầu. Sau này mới biết mỗi tối có điện sáng 1 tiếng đồng hồ trước giờ ngủ, để từng Đội Tù ngồi tập họp trong buồng “phê b́nh, kiểm thảo, xây dựng, giúp nhau sửa sai những lầm lỗi vi phạm nội quy trại trong ngày, để mọi người cùng cải tạo được mau tiến bộ”, chớ không phải để cho Tù có ánh sáng thu dọn chỗ ngủ.

    Sáng ngày hôm sau, khi mọi Tù cũ ra khỏi pḥng giam đi lao động hết mới đến lượt chúng tôi được mở cửa cho ra làm vệ sinh cá nhân và lănh phần ăn sáng. Xong xuôi, lại đóng gói hành trang ra xếp hàng tại sân tập họp lớn của Trại, để tŕnh diện làm thủ tục bàn giao giữa các Cán bộ Quân đội và Công an.

    Họ gọi từng người lên trả lại giấy biên nhận giữ các vật tư của Tù (đồng hồ, nhẫn, dây truyền vàng bạc…) do Trại cũ cấp, và lănh giấy biên nhận của Trại mới. Những gói Âu Dược riêng của anh em buộc phải gửi Trại cũ giữ, nay 2 nhóm Cán bộ chuyển giao cho nhau, sau này mất luôn Tù chẳng bao giờ được sử dụng để trị bệnh riêng mỗi khi cần như hồi c̣n ở bên Trại Quân đội quản lư.

    Nhờ vậy biết được đây là phân trại K1 thuộc Trại Tân Lập, Tỉnh Vĩnh Phú. Ban chỉ huy Trại Tân Lập đóng tại K5, Khu trại có tấm bảng hiệu “Công an Nhân dân” nơi đoàn xe của chúng tôi đă chạy ngang hồi chiều hôm qua trước khi đến đây.

    Bàn giao xong, Bộ đội Cụ Hồ phủi tay ra đi để chúng tôi ở lại cho Công an Nhân dân quản lư. Nhóm anh em đến trại này chiều hôm qua một lượt với chúng tôi cũng có mặt trong buổi bàn giao này.

    Sau khi các Bộ đội ra khỏi cổng trại giam, Cán bộ Công An bắt đầu đọc tên “biên chế” tất cả chúng tôi thành các Đội lao động phụ trách những chuyên nghiệp riêng. Nhóm chúng tôi có anh Dương Hiếu Nghĩa được cử làm Đội trưởng Đội làm gạch, gồm toàn Linh mục, Thượng Tọa, Đại Đức Tuyên úy Quân đội VNCH. Linh mục Nguyễn văn Thịnh cũng được “biên chế” vào Đội gạch với anh Nghĩa, c̣n Mục sư Dương Kỳ th́ ở lại với nhóm chúng tôi.

    Nhóm chúng tôi được chỉ định là Đội Nông Nghiệp và được tăng cường thêm 3 người lạ: 1 Trung úy Bộ binh, 1 Đại úy Công binh, và 1 Đại úy Cảnh sát Quốc gia (lâu quá rồi nên Tôi không c̣n nhớ Họ Tên của các bạn này).

    Chúng tôi được dẫn vào giam tại dẫy nhà “Khu cách ly” nơi cuối sân cách biệt hẳn với các nhà mái tôn trong khu giam Tù miền Nam có tường bao quanh. Dẫy nhà gạch này được chia ra 3 ngăn có cửa ra vào riêng cho mỗi ngăn, có tường gạch phân cách giữa các ngăn không thông thương được với nhau.

    Đội chúng tôi bị giam ở ngăn giữa, Đội Gạch của các vị Tuyên úy trong ngăn bên phải phiá sát gần sân tập họp lớn. Ngăn bên trái ngăn giam chúng tôi là Pḥng Kỷ Luật, giam những Tù vi phạm các Điều lệ Nội quy Trại giam. Cửa vào ngăn này ở phía đằng sau dẫy nhà, đi thẳng ra bên ngoài tường rào của “khu cách ly”.

    Ngăn giam chúng tôi chỉ có một cửa ra vào bằng sắt có chốt móc khoá cửa ở phiá bên ngoài, trong pḥng có 2 dẫy sàn nằm 2 tầng chồng lên nhau bằng gỗ, phiá cuối pḥng có một ngăn nhỏ bề ngang 1 mét rưỡi để một thùng gỗ đựng phân cho Tù giải quyết nhu cầu vệ sinh ban đêm.

    Chúng tôi ở đây được một tuần lễ, bỗng một buổi sáng đang ngồi tập họp chờ gọi xuất trại đi lao động, anh em ŕ rầm truyền tai nhau tin Linh mục Hiệu chết trong Nhà Kỷ Luật. Biết được là nhờ anh em Đội Mộc hồi đêm có mấy người phải “đột xuất” ra xưởng đóng áo quan cho một nhóm Tù khác đem chôn. Trại giam phao tin Linh mục Hiệu tự tử chết. Theo anh em Công giáo đây là tin bịa đặt hoàn toàn, v́ hành động này không bao giờ có thể xẩy ra đối với một Linh mục.


    Xem tiếp chương 20

  8. #148
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 20 : ỐC ĐẢO TÂN LẬP (VĨNH PHÚ) ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN

    Kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại dẫn “Thi Đua” đi mở cửa các nhà giam, họ đi ṿng hết nhà này đến nhà kia măi 30 phút sau mới đến lượt Đội Đại tá chúng tôi được mở cửa cho ra sau cùng. Anh Trực Nhà và 2 anh trực phụ (thay phiên hàng ngày) tất tưởi dắt nhau chạy đi lănh phần ăn sáng và nước uống chín ở Nhà Bếp của trại đem về chia cho anh em.

    Chia vội vă vừa xong, kẻng tập họp đi lao động cũng bắt đầu gióng lên, ai nấy cầm phần ăn của ḿnh vừa đi ra sân tập họp vừa ăn. Khi tới sân tập họp, người nào ăn chưa kịp hết phải bỏ vào túi, chờ lúc ra khỏi cổng trại vừa đi vừa ăn tiếp. Nếu không ăn như vậy, ra tới hiện trường phải lao động ngay đói không làm việc được “năng nổ” tối về sẽ bị “phê b́nh xây dựng”. Nếu bị anh em góp ư kiến “xây dựng” hoài, hậu quả tai hại sẽ đến với bản thân là bị phạt giảm phần ăn hàng ngày trong một tháng.

    Phần “sắn duôi” ăn sáng chẳng được bao nhiêu, ém gọn lại được vừa bằng một nắm tay, chỉ đôi người có dạ dầy yếu phải nhai chậm răi như Tôi mới gặp trở ngại, c̣n nhiều bạn khác bụng dạ khoẻ, ăn uống nhậm lẹ th́ chả thấm tháp ǵ.

    Sáng nào cũng vậy, trong thời gian ngồi chờ Cán bộ Trực Trại đến đọc lệnh gọi các Đội lần lượt xuất trại, mấy người “Thi Đua” đi ṿng “kiểm tra” xem áo quần của ai chưa đóng dấu sơn “ám số Trại” th́ họ đem con dấu bằng gỗ to dài hơn bàn tay có tẩm sơn đen pha lẫn dầu đến đóng lên lưng áo và 2 bên ống quần. Người nào quầo áo đă đóng dấu, nhưng lâu ngày sơn bị phai bạc mờ đi th́ đóng chồng lên cho được rơ ràng. Đây là biện pháp phân biệt Tù với người thường ngoài trại để dễ lùng bắt nếu Tù trốn trại.

    Hôm nay, Đội chúng tôi và nhóm anh em mới tới xuất trại lao động lần đầu tiên nên được “Thi Đua” “quan tâm” “chiếu cố” trước nhất. Họ đến đóng dấu sơn “ám số trại” lên quần áo chúng tôi, ngay khi chúng tôi vừa tới ngồi tại sân tập họp.

    Sau này Trại phát cho mọi người loại quần áo Tù bằng vải thô Nam Định, cả áo lẫn quần đều bị may ghép lẫn lộn bằng những mảnh vải nhuộm 2 mầu khác nhau, nếu nửa thân và tay áo bên Phải mầu xanh nước biển, th́ nửa thân và tay áo bên Trái mầu trắng, quần cũng một ống trắng một ống xanh. Thật rơ ràng lồ lộ chẳng lẩn đi đâu lọt, thế mà cả quần lẫn áo vẫn phải đóng dấu “ám số trại”. Cứ mỗi 6 tháng mỗi người được lănh 1 bộ, nếu rách sớm hơn thời gian quy định phải tự vá víu mà mặc. Có thể mặc quần áo riêng của ḿnh, nhưng dĩ nhiên là phải bị đóng dấu sơn “ám số trại” lên trên.

    Đội chúng tôi bắt đầu tham gia lao động tại K1 Trại Tân lập với công tác đi chặt cây xim và cây muông đem về làm củi đun cho Nhà Bếp. Xim được chặt trên những ngọn đồi cách xa trại khoảng 3 cây số, bó gánh về chất đống dài sát tường phiá ngoài cổng trại giam. Nhà Bếp Tù ra lấy vào dùng đun nấu thực phẩm và nước uống chín phát cho Tù. Nhà bếp của Cán bộ canh Tù cũng lấy củi ở đây về dùng hàng ngày.

    Trước khi lên đường, anh em phải ghé vào đống củi cao như núi bên cạnh tường ngoài cổng trại, lấy mỗi người 1 cây dài 2 mét đường kính khoảng 10 phân đem theo làm đ̣n gánh củi mang về.

    Củi xim thân cây nhỏ, cỡ lớn nhất chỉ bằng ngón chân cái, xum xuê cành con và nhiều lá, cao chừng 1 mét rưỡi. Chặt củi chẳng khó khăn ǵ, nhưng muốn có dây để cột củi thành từng bó th́ phải cắt cỏ tranh dài rồi bện nối lại với nhau thành những sợi dây nhợ dài ngắn tuỳ theo nhu cầu. Không biết cách cột cho chắc, khi xốc đ̣n vào đưa lên vai bó củi sẽ xổ tung ra, hoặc tụt rơi văi từ từ dọc đường rất phiền phức.

    Gom xếp một gánh củi với 2 bó nhơ nhỡ vừa với sự chịu đựng của bắp thịt vai ḿnh th́ coi không được, cán bộ nh́n thấy chỉ trích là:

    “-Bó củi ǵ mà chỉ bằng nắm tay, trẻ con nó c̣n chê nhẹ”.

    Nếu gom bó đủ lớn coi cho vừa mắt, dọc đường về sẽ bị chiếc đ̣n gánh và sức nặng của 2 bó củi hiệp nhau hành hạ bắp thịt vai, cổ, cột xương sống lưng của ḿnh đau đớn chịu không nổi.

    Không biết gánh, lúc nào cũng phải gồng vai gân cổ lên chịu sức nặng, cắn răng bước đi dồn dập như chạy, th́ mỗi bước chân đạp xuống đường là một nhát dao cứa trên vai, đau buốt vào óc, dồn xương sống mỏi hông ngang thắt lưng. Ráng hết sức cũng chỉ đi được khoảng trăm mét, lại phải quăng gánh củi xuống đất để nghỉ. Sau mỗi lần nghỉ, lúc đưa gánh củi lên vai đi tiếp cho kịp bạn bè là một lần khổ nạn, v́ sẽ cảm thấy h́nh như gánh củi nặng gấp đôi trước, bắp vai nóng rát đau chẳng khác nào bị vọp bẻ (chuột rút) chịu hết muốn nổi.

    Bị bắt buộc phải làm măi, rút kinh nghiệm lần rồi cũng “giác ngộ” biết được là khi gánh phải hơi cúi đầu kḥm lưng về phiá trước, để cho đ̣n gánh đè tréo từ giữa bả vai bên này qua u thịt sau cổ sang gần bả vai bên kia, bắp thịt vai sẽ không bị đau. Bước đi phải nhịp nhàng, theo đà nhún nhẩy lên xuống của 2 bó củi ở 2 đầu đ̣n gánh.

    Nhiều bạn cả đời chưa có dịp phải gồng gánh, thấy những người buôn thúng bán bưng làm hàng ngày cứ tưởng dễ dàng như ḿnh ngồi lái xe hơi, nay phải làm mới thấm thiá và thán phục cái tài xốc vác chịu đựng của những người “lao động chân tay” trần ai cực nhọc đến mức nào.

    Đi cắt củi được hơn một tuần lễ, Trại phát động Kế hoạch “Thi đua làm Cách mạng xanh”. “Mục đích yêu cầu” là làm cho tất cả những khoảng đồi núi trong phạm vi đất dành cho Trại đang trơ trụi không cây cối, phải được phủ kín bằng một mầu xanh của các ruộng sắn (khoai ḿ) gồm 2 loại khác nhau: 1.-công nghiệp, 2.-để ăn, và miá re thân nhỏ vỏ cứng nhưng rất ngọt, ép lấy nước cô thành “mật đường” để cất rượu trắng. Đây là “kế hoạch làm kinh tế” để Trại có tiền tự túc nuôi Tù và Cán bộ canh Tù, theo lệnh của Nhà nước đă ban hành từ hồi đầu năm 1977.

    Đội chúng tôi phải đi đào hố trồng sắn, ngay trên những ngọn đồi đă chặt củi xim. Mỗi buổi lao động sáng cũng như chiều, mỗi người phải đào 15 hố vuông cạnh 70 phân sâu 80 phân, các hố cách nhau một mét. Trên mặt đồi, cỏ dại cỏ tranh dầy đặc cao cả thước phải phát sạch trước khi đào hố. Đất đỉnh đồi cứng chắc nịch lẫn đá lổn nhổn, không có xẻng nên mỗi người phải múc đất từ dưới ḷng hố lên bằng cuốc của ḿnh.

    Vất vả vô cùng cho những người lănh phải cây cuốc cũ, lưỡi bị ṃn nhỏ cùn hoặc xứt mẻ. Chỉ có 3 anh bạn Tù cấp úy tăng cường nhân số Đội, và vài người khác khoẻ như anh Đội trưởng Lê Đ́nh Luân, Mục sư Dương Kỳ, anh Tôn Thất Hùng... là đạt chỉ tiêu quy định, buổi lao động nào họ cũng dư ít phút ngồi nghỉ ngơi, c̣n đa số anh em chẳng bao giờ hoàn tất đủ “chỉ tiêu” trước lúc măn giờ lao động.

    Mỗi người tham gia lao động được Quản giáo Đội “ghi điểm tính công” hàng ngày. Ai đau ốm nghỉ bệnh nhiều không tham gia đủ số ngày công hay lao động hàng ngày không “đạt chỉ tiêu”, sẽ bị phạt giảm mức ăn quy định hàng tháng xuống. Những người lao động “năng nổ vượt chỉ tiêu”, hàng đêm được anh em trong Đội “b́nh bầu” là “gương mẫu” nhiều lần, sẽ được Quản giáo quyết định thưởng tăng phần ăn. Người được thưởng sẽ được ăn tăng thêm 2 kí lô một tháng, tức là 14 kí lô thay v́ 12 kí lô như mọi người. Người bị phạt phải giảm mức ăn xuống c̣n 11 kí lô, tức là bớt đi 1 kí lô.

    Mức ăn quy định cho mỗi người b́nh thường hàng tháng là 12 kí lô ngũ cốc (gạo, hoặc các loại khác như: bột ḿ, hột bo bo, sắn, bắp, khoai).

    Thời gian chúng tôi tới trại này, phần gạo được thay thế bằng “sắn duôi” theo tiêu chuẩn một đổi một, tức là 1 kí lô “sắn duôi” khô tính bằng trị giá 1 kí lô gạo. “Sắn duôi” là sắn tươi bào thành sợi nhỏ như sợi bánh phở, sấy hoặc phơi khô cho bốc hết hơi nước. Tôi không biết tại sao gọi là “sắn duôi”, nghe anh em Tù cũ tại đây gọi vậy th́ nhận biết như vậy. Để làm cho “sắn duôi” chín, người ta rửa nước như vo gạo rồi để vào các vỉ tre đan và đem hấp từng chồng nhiều vỉ một lượt trên những vạc nước đun sôi. Lúc c̣n sống “sắn duôi” mầu trắng đục rời rạc như gạo, khi chín trở thành trong và dính quện với nhau như cơm nếp, những sợi sắn không chín vẫn giữ nguyên mầu trắng đục. Không biết tại sao lúc nào “sắn duôi” hấp cũng bị nửa chín nửa sống.

    Phần “sắn duôi” ăn sáng được nấu cùng lúc với phần ăn chiều, xúc riêng ra để qua đêm đến sáng mới phát. Gặp mùa lạnh th́ không sao, đến mùa nắng thời tiết oi nóng “sắn duôi” để qua đêm bị thiu nhơn nhớt và có mùi chua, ăn vào nhiều người yếu dạ bị đau bụng tiêu chẩy. Tù vẫn phải lănh về ăn, v́ chẳng có ǵ khác để nhồi vào bao tử duy tŕ sự sống cho cơ thể mà lao động.

    Việc hớt tóc cho Tù ở K1 trại Tân Lập này khác hẳn với bên các Trại do Quân đội quản lư. Ở đây, Trại mua 1 bộ đồ hớt tóc gồm Tông-đơ, kéo và lược, trao cho Ban “Thi Đua” cất giữ. Hàng ngày, theo lịch tŕnh quy định luân phiên cho các Đội mượn đem ra “hiện trường lao động” hớt tóc cho nhau. Hồi c̣n ở K2 (trại cây khế) Liên trại 1 xă Việt Cường Yên Bái, sau khi bị sốt vàng da hành không chết Tôi mất sức nhiều không ra ngoài lao động nặng được, Quản giáo Đội đă tŕnh Phân trại trưởng cho Tôi ở trong trại phụ trách pḥng hớt tóc một thời gian. Anh em trong cùng Đội hiện nay ai cũng biết, do đó ngày nào đến phiên Đội được xử dụng bộ đồ hớt tóc th́ anh Đội trưởng cũng tŕnh Quản giáo Đội cho Tôi miễn lao động để hớt tóc cho anh em.

    Quản giáo bằng ḷng, nhưng buộc anh em trong Đội phải gồng ḿnh làm bù đắp phần của Tôi, nhằm “bảo đảm chỉ tiêu chung” của Đội phải “đạt” trong ngày. Giống hệt trường hợp anh phụ trách nấu nước chín tại “hiện trường lao động” cho Đội, anh em cũng phải làm nhiều hơn để bao phần “chỉ tiêu” hàng ngày của anh ấy.

    Việc hớt tóc giữa trời, có nhiều kỷ niệm khó quên cho cả thợ hớt và người được hớt. Không có ghế cho khách ngồi, nên cả thợ lẫn khách đều phải đứng. Hai người cao xấp xỉ ngang nhau, do đó khách buộc phải đứng dưới ruộng hoặc rănh bên luống, chịu đựng ướt chân và ống quần để nhường cho thợ đứng trên bờ đất cao không phải vói tay nghển cổ mới hớt được dễ dàng. Thời tiết dù mưa hay nắng, cả 2 người cùng phải đứng giữa đồng mà hớt cho nhau, không có một tán cây bóng mát nào để núp. Lúc nắng c̣n đỡ, gặp trời mưa th́ thật là một cực h́nh cho cả 2 người, mặc dù ai cũng có khoác áo mưa. Khách phải dùng hai tay cằm chiếc nón lá dơ cao hơn đầu, để cho mưa không làm ướt đầu và chui qua cổ áo làm ướt người. Thợ luôn luôn phải giơ 2 tay cao ngang vai, nước mưa cứ tự do theo 2 cổ tay áo mưa, dù đă cột chặt bằng dây, để trôi vào làm ướt tay áo vải bên trong, thật là trần ai không bút nào tả xiết.

    Chúng tôi đến đây được khoảng ba tháng, bắt đầu có dịch kiết lỵ lan tràn trong trại. Các khu vệ sinh công cộng dùng thùng đựng phân lộ thiên, ruồi nhặng sinh sôi nẩy nở nhanh chóng bay đi khắp trại nhất là khu nhà bếp. Có thể là trăm phần trăm nhân số Tù đă bị mắc bệnh. Những người khoẻ sức đề kháng trong cơ thể c̣n mạnh, chỉ bị sơ sơ vài 3 ngày rồi hết. Những người suy nhược nhiều, sức đề kháng yếu bệnh ngày một tăng, từ đi đại tiện có phân lần lần chỉ c̣n nước nhờn và máu. Ngày đêm đi liên tục cả 2, 3, 4 chục lần, mệt mỏi hốc hác tiều tụy mà vẫn phải đi lao động như thường. Chỉ những ai ngày đêm đi từ trên năm mươi lần ra toàn máu và thêm sốt nóng lết đi không nổi nữa, th́ mới được Đội trưởng ghi danh cho đi khám bệnh.

    Khi nộp sổ khám bệnh, Tù “Thi đua” làm Y tá tại Bệnh xá buộc Tù phải ra góc sân ngồi rặn ra mũi và máu c̣n nóng hổi tŕnh cho Cán bộ Y tế thấy rơ ràng, mới được cho vào Bệnh xá nằm chữa trị. Rất nhiều anh em khai bệnh nhưng không được Cán bộ Y tế cho vào điều trị tại Bệnh Xá, chỉ được cấp thuốc uống tại chỗ rồi trờ ra theo Đội tiếp tục đi lao động mặc dù họ rất mệt mỏi đuối sức.

    Những người bị kiết lỵ nặng nhưng không bị phù thũng th́ có hy vọng sống, c̣n những ai vừa kiết lỵ vừa phù thũng th́ chỉ ít ngày sau là đi về với Tổ tiên. Tôi đă bị ở trong trường hợp kiết lỵ và sốt nặng đến nỗi bị ngất xỉu bên thùng phân trong pḥng giam ban đêm, phải kêu cấp cứu mới được đưa vào Bệnh xá nằm điều trị.




    C̣n tiếp...
    Last edited by Tigon; 09-03-2013 at 06:56 AM.

  9. #149
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Bệnh xá có 2 pḥng, mỗi pḥng rộng khoảng 16 mét vuông kê 5 giường nhỏ loại 1 người nằm. Tôi và những người kiết lỵ nằm trong pḥng “bệnh truyền nhiễm”. Lúc cấp cứu đưa vào, Tôi phải nằm tạm dưới đất v́ tất cả 5 giường đều đă có 2 người nằm chung. Gần sáng có người chết, sau khi bệnh nhân khiêng anh ấy ra túp lều chứa xác chết nơi giữa băi đất trống phiá sau Bệnh xá, Tôi được lên giường nằm thế vào đó.

    Thuốc chữa trị hàng ngày, chỉ là 1 bát nước đủ loại lá thuốc Nam do nhân viên bệnh xá lên rừng kiếm về, băm nhỏ, phơi khô, bỏ vào vạc ninh nhừ để qua đêm đến sáng lấy nước phát cho bệnh nhân uống. Đây là loại thuốc trị Bá Bệnh, ai đau ốm ra sao không cần biết, hễ cứ đến xin khám bệnh là được cho uống 1 bát. Nếu ai có sốt th́ được thêm dăm chục viên Xuyên Tâm Liên, mầu vàng xậm như nghệ trộn với ǵ không biết vê thành viên tṛn nhỏ bằng hột đậu xanh, bỏ vào miệng cảm thấy mùi vị hắc hắc the the lưỡi.

    Ban ngày, mưa cũng như nắng lúc nào ở góc sân Bệnh xá phiá sau gần bếp cũng có để một thùng gỗ để cho bệnh nhân ra xếp hàng thay phiên nhau ngồi rặn è è, ôm bụng rên đau quằn quại. C̣n ban đêm, cửa các pḥng bệnh bị khoá trái bên ngoài y như các láng giam, nên có một thùng gỗ để nơi góc pḥng cho mọi người tiện dụng. Lúc nào cũng có 4, 5 người ngồi chồm hổm ôm bụng, chụm đít quanh thùng nhăn nhó rặn, cổ bạnh ra mặt mũi đỏ gay.

    Tại Bệnh xá, có anh Tù H́nh Sự được Cán bộ Y tế dùng làm “Thi Đua” cho ở thường xuyên ngày đêm trong Bệnh xá, để kiểm soát bệnh nhân thay Cán bộ. Nếu bệnh nhân nào không gọi anh ta là Bác sĩ hoặc không khéo lời tâng bốc anh ta, th́ dù bệnh t́nh chưa thuyên giảm cũng sẽ bị đề nghị cho xuất viện ngay để nhường chỗ cho người khác. Ai biết điều và nịnh bợ anh ấy, th́ dù đă hết bệnh rồi cũng vẫn được ở nghỉ thêm vài 3 ngày mới phải rời Bệnh Xá.

    Theo tin tức thâu lượm được qua những anh em nằm tại Bệnh xá trước Tôi, và phối kiểm qua những lời ba hoa của anh ta trong thời gian Tôi nằm tại Bệnh xá, biết được anh Tù H́nh Sự này bị án tù trung thân v́ tội “làm giấy bạc Cụ Hồ giả”. Hồi c̣n ở ngoài xă hội anh ta làm nghề Chăn Nuôi chuyên trách về thiến Heo, thiến Gà trống, nên anh ta tự coi ḿnh là Bác sĩ Thú Y.

    Có một chuyện ly kỳ liên quan đến anh “Thi Đua” này, làm anh em Đội chúng tôi hoảng sợ không bao giờ quên được. Số là, Đại tá Tô văn Vân phụ trách nấu nước ngoài “hiện trường lao động” của Đội chúng tôi, một đêm kia tự nhiên bị đau bụng giữ dội phiá bên Phải, nghi là sưng ruột dư phải kêu cấp cứu và được đưa vào Bệnh xá.

    Sáng hôm sau là ngày Chủ nhật nghỉ lao động, Đội chúng tôi bị tập họp lên Hội trường để nghe anh “Thi Đua” này cùng Cán bộ Y tế nói cho nghe về t́nh trạng nguy kịch của anh Vân, cần phải giải phẫu gấp nếu không th́ chết. Họ đưa ra “phương án hành động khẩn trương, thực hiện ca mổ ngay tại Phân trại”, v́ thời gian chuyển qua K5 (Trại trung ương) làm thủ tục đưa ra Tỉnh e không c̣n kịp. Họ tỏ ra rất tự tin nhờ có rất nhiều kinh nghiệm về mổ sẻ súc vật (cũng chẳng khác ǵ người ta), nên rất bảo đảm không có ǵ phải lo ngại. Họ yêu cầu chúng tôi góp ư kiến quyết định, đồng thời hỏi ai có lưỡi dao bào râu c̣n mới th́ cung cấp cho họ xử dụng làm dao mổ.

    Chúng tôi ngỡ ngàng, dứt khoát xin miễn góp ư kiến v́ mạng sống của anh Vân không thuộc phần trách nhiệm của chúng tôi quyết định. Đây là việc thuộc quyền quyết định của Nhà nước và thân nhân của anh ấy. Hơn nữa, trong chúng tôi không ai có lưỡi dao bào râu c̣n mới để cung cấp.

    Buổi trưa ngày hôm sau là Thứ Hai, khi anh em đi lao động về, anh Trực Buồng cho biết hồi sáng lúc đi ngang qua khu Bệnh Xá xuống bếp lănh thực phẩm cho bữa trưa, đă gặp anh Vân đứng bên bờ rào Bệnh xá. Anh Vân cho biết đă hết đau nhờ hồi hôm mửa ra mấy nùi giun đũa, trước khi mửa có con đă chui ra từ lỗ mũi. Thật khủng khiếp !!!

    Sau khi hết đau bụng, không biết anh Vân làm cách nào được “biên chế” vào Bệnh xá phụ giúp anh “Thi đua” nấu thuốc, cháo, và nước uống chín cho Tù nằm điều trị tại đây chớ không phải ra ngoài lao động theo Đội nữa.

    Trong thời gian nằm tại Bệnh xá, Tôi c̣n phải chứng kiến một anh bị kiết lỵ và phù thũng nằm chung giường chết rất thương tâm. Anh ấy được đưa vào nằm cạnh Tôi sau giờ khám bệnh buổi chiều, đến nửa đêm th́ chết. Ngay sau khi được vào Bệnh xá, anh ấy mở túi xách đựng dụng cụ ăn và mấy thứ lặt vặt cần dùng như bàn chải răng khăn mặt… ra xem, lấy mấy bức thư và ảnh của Vợ Con ra khoe Tôi và chăm chú đọc lại rất vui vẻ yêu đời.

    Tôi thấy trong túi có hộp sữa ḅ đặc hiệu con chim và một hộp bánh quy. Tôi nói chúng ta bị bệnh là do thiếu dinh dưỡng mà ra, sao anh không dùng sữa và bánh mà “bồi dưỡng” cho nó khoẻ để dành làm ǵ, lỡ chết v́ đói kiệt sức cơ thể không chống nổi bệnh hoạn th́ chẳng phụ ḷng Vợ Con lắm sao? Anh ấy cười trả lời chưa cần, Tôi c̣n đủ sức chịu đựng mà!

    Đến khuya anh ấy lên cơn sốt nóng như lửa, rồi mê man, Tôi phải kêu cứu và xuống đất nằm để nhường nguyên chiếc giường cho anh ấy. Anh “Thi Đua” nằm ở pḥng khám bệnh kế bên nói vọng sang trả lời:

    “-Để sáng sẽ tính”.

    Đến gần sáng, anh Tù bệnh lịm dần không nghe tiếng rên rỉ nữa, anh ấy đă ra đi vĩnh viễn. Anh ấy là một Sĩ quan cấp Úy thuộc Công binh, Tôi không nhớ tên và đơn vị.

    Phải đợi đến kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại vào mở khoá cửa pḥng giam bệnh và Cán bộ Y tế đến lập biên bản xong, chúng tôi mới được lệnh Cán bộ Y Tế để anh chết nằm vào chiếc chăn dạ riêng của anh ấy, rồi khiêng ra bỏ tại túp lều tranh chứa xác giữa băi cỏ hoang cách Bệnh xá khoảng một trăm mét. Một lúc sau anh “Thi đua” vào lấy tứi đựng đồ riêng của anh tù chết trong đó có hộp sữa và hộp bánh quy, không biết đem nộp cán bộ hay giữ làm chiến lợi phẩm riêng? Người ta đem anh tù chết đi chôn lúc nào không ai thấy, chắc là ban đêm.

    C̣n tiếp...

  10. #150
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tôi nằm Bệnh xá được một tuần lễ th́ bệnh kiết lỵ thuyên giảm. Không biết nhờ 2 bát nước thuốc Nam và 60 viên Xuyên Tâm Liên mỗi ngày, hay nhờ 2 bát cháo gạo lỏng nêm muối của Bệnh xá cho Tù bệnh ăn hàng ngày thay v́ “sắn duôi”, hay nhờ được nghỉ không phải lao động?

    Theo quy định của trại, Tù bệnh nằm điều trị tại Bệnh xá được phát mỗi bữa 3 muổng đường để ăn với cháo, nhưng anh “Thi Đua” chặn lấy dùng riêng và nói rằng kiết lỵ mà ăn đường bệnh sẽ tăng chữa không được. Chẳng ai dám tố cáo v́ sợ bị anh “Thi Đua” hại ngầm th́ thiệt thân. Tôi biết được là nhờ anh Tô văn Vân nói nhỏ cho nghe lúc anh em gặp nhau tại bếp của Bệnh xá. (Anh Vân và Tôi biết nhau từ năm 1967, khi anh ấy c̣n là Thiếu tá được đưa về làm Chánh văn pḥng cho Đại tá Hoàng Gia Cầu đang làm Tổng cục Trưởng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Bộ Tổng Tham mưu thay thế Đại tá Trương văn Xương thuyên chuyển đi Vùng 4 Chiến thuật ở Cần Thơ. Lúc đó Tôi là Trung Tá đang giữ chức vụ Tổng cục Phó.)
    Những người nằm điều trị kiết lỵ trước Tôi, khi nào họ hết hẳn không đi cầu ra máu nữa th́ mới phải ra viện. Nhưng phần Tôi, không biết v́ sao bệnh chỉ mới thuyên giảm chưa dứt, ngày đêm vẫn c̣n đại tiện ra mũi và máu khoảng 6, 7 lần, gầy ốm hốc hác, mệt đi bộ xa chưa nổi, thế mà Cán bộ Y tế nói là Cán bộ Quản giáo Đội đến yêu cầu phải cho Tôi ra khỏi Bệnh xá theo Đội đi lao động để bảo đảm ngày công quy định.

    Tôi ra theo Đội đi phát cỏ và vun gốc sắn. Trong thời gian này, các anh Phạm Tài Điệt, Trần văn Thăng (2 người đều là An ninh quân đội), Nguyễn văn Phúc (Chính huấn Tổng cục Chiến tranh Chính trị) v́ lao động lơ là kém năng xuất, và Tôi (Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến) với cái tội nằm Bệnh xá lâu không bảo đảm đủ ngày công, nên bị phạt giảm mức ăn hàng tháng xuống c̣n 11 kí lô. Hai người khác trong Đội “lao động năng nổ” được thưởng tăng mức ăn lên 14 kí lô là Mục Sư Dương Kỳ và anh Tôn Thất Hùng.

    Bốn người bị phạt giảm mức ăn để tăng mức ăn cho 2 người lao động giỏi được thưởng, thật là bất ngờ làm mọi người xửng sốt. Người bị phạt buồn đă đành, người được thưởng cũng xốn xang áy náy.

    Thoạt đầu các vị này chỉ muốn cố gắng “năng nổ lao động” để được coi là “ cải tạo tiến bộ” sớm được tha, đâu ngờ Cách Mạng lại thâm độc áp dụng luật bù trừ lấy của người bị phạt thưởng cho người “lao động năng nổ” để tạo thù hận chia rẽ giữa anh em Tù với nhau.

    Việc xẩy ra rồi 2 người được thưởng mới tỏ ra hối hận, v́ biết đă bị lừa mắc bẫy của “Vẹm” (Vẹm là chữ lóng dân chúng miền Bắc dùng để ám chỉ Việt Minh từ hồi 1946). Anh Tôn Thất Hùng thỉnh thoảng đưa nguyên phần ăn một bữa của anh ấy tăng cường cho chúng tôi để tỏ ḷng hối hận. C̣n Mục sư Dương Kỳ th́ không dám, ông nói qua trung gian cho anh em biết là sợ làm như anh Hùng chằng may Cán bộ biết được sẽ buộc tội vi phạm Nội quy Điều lệ của Trại, nguy hiểm cho cả người nhận lẫn người cho!!!

    Mới tới K1 Tân Lập được khoảng hơn 3 tháng, mà ai nấy đă hốc hác nhất là sau dịch kiết lỵ phù thủng, mọi người suy xụp rơ ràng chỉ c̣n da bọc xương bơ phờ. Ai cũng sụt đi phân nửa cân nặng của ḿnh, trông chẳng khác nào những h́nh “nộm bù nh́n” trong những bộ quần áo tế thần lụng thụng. Ngày đi tŕnh diện tập trung Tôi cân nặng 67 Kí lô, đến lúc này chỉ c̣n được 30 kí. Chiếc thắt lưng da mang theo, bây giờ muốn dùng để giữ quần cho khỏi bị tụt xuống, phải đục thêm lỗ cách lỗ cũ khoảng 20 phân. Biết chắc là ḿnh chỉ c̣n nặng đúng 30 kí lô, v́ thời gian Đội chúng tôi phụ trách phơi đong cân thóc cất vào kho, anh em đă lén đứng lên chiếc cân bàn để cân cho biết trước khi cân các bao thóc.

    Lúc nào cũng đói, lại phải lao động vất vả với “chỉ tiêu” cao, thiếu dinh dưỡng trầm trọng, nên trong khi lao động ở ngoài đồng hễ thấy sinh vật nào nhúc nhích ăn được là vồ ngay, ngoé, nhái, ễnh ương, chằng hiêu, cóc, thằn lằn, rắn, cào cào, châu chấu, rế cơm, rế mèn, chuột nhắt, ǵ cũng chộp hết ngoại trừ điả và giun. Mặc dù biết làm như vậy là vi phạm Điều lệ Nội quy Trại giam, mọi người đă phải học thuộc ḷng nhưng vẫn làm. Thà mưu sinh để sống c̣n cho tới ngày được cứu thoát, c̣n hơn tôn trọng Nội quy để chết trước khi thấy “ánh sáng ló dạng nơi cuối đường hầm”.

    Thoạt đầu, bắt được nhái ngoé c̣n bỏ túi chờ tới giờ giải lao ṃ đến chỗ nấu nước, giả bộ hút thuốc lào để bỏ vào đống than nướng chín rồi mới ăn. Nhưng về sau, anh nấu nước sợ vạ lây không cho, đành lột da ăn sống tại chỗ hoặc nhét vào túi đem về ngâm nước muối trại phát 3 thià canh mỗi bữa để ăn với “sắn duôi”. Ăn vào thấy cũng rất ngon ngọt chẳng khác ǵ thịt gà cá gỏi.

    Có lẽ trong số anh em mưu sinh linh tinh bất hợp pháp này Tôi là người “năng nổ” nhất, nên thường được anh Tổ trưởng (trước 30 tháng 4 năm 1975 làm Tỉnh trưởng B́nh Dương) thương lo lắng cho sức khoẻ của Tôi, chiếu cố xây dựng hoài trong các giờ họp “kiểm thảo, phê và tự phê” trong Đội ban đêm, luôn luôn có sự ŕnh nghe của “Thi Đua” và Quản giáo Đội từ phiá ngoài cửa sổ pḥng giam.

    Anh ấy cũng thường xuyên bị anh em bắt gặp lén mưu sinh như Tôi và nhiều bạn khác, nhưng chẳng ai góp ư kiến “xây dựng” anh ấy bao giờ. Có lẽ anh ấy làm như vậy, v́ phải thi hành trọn vẹn trách nhiệm do Quản giáo giao phó cho các Tổ trưởng và Đội trưởng, là phải theo sát anh em trong Đội để báo cáo th́ mới được coi là “cải tạo tiến bộ”. Tuy nhiên anh ấy cũng rất thông minh và khôn lỏi, mỗi lần “xây dựng” cho Tôi về vụ mưu sinh linh tinh, anh ấy luôn luôn “tự phê” trước để tự nhận rằng bản thân cũng có vi phạm nhưng hứa sẽ “khắc phục” không tái phạm. Anh ấy cũng phân bua, sở dĩ phải “xây dựng” cho anh em v́ thương và muốn anh em giữ được sức khoẻ tốt “cải tạo cho mau tiến bộ” để về với Vợ Con.

    Qua mùa Thu năm 1979, Đội chúng tôi bị chuyển về K5 nằm gần bên Trụ sở Ban Giám Thị chỉ huy toàn Trại Tân Lập, th́ anh ấy bị cảm sốt nặng được vào Bệnh xá điều trị, ít ngày sau bị biến chứng ho sưng phổi rồi chết v́ ngộp nước trong phổi tắc thở cứu không được. Người ta phải đâm kim vào ngực rút nước ở buồng phổi ra để cứu nhưng vô hiệu.

    Vấn đề vệ sinh cá nhân ở K1, mỗi tuần lễ Tù chỉ được đưa ra sông cách trại khoảng 2 cây số để tắm rửa giặt giũ quần áo có một lần, vào sau giờ lao động chiều thứ bẩy. Ngày thường sau buổi lao động chiều, Tù được đưa tới hồ nước bên Đội Gạch cách trại 2 cây số để tắm rửa. Đây là hầm lấy đất làm gạch, lâu ngày sâu dần xuống và rộng ra thành hồ chứa nước mưa tù đọng, rong rêu cỏ rác đủ thứ xà bần dơ bẩn hôi tanh thế mà vẫn phải nhào xuống tắm rửa cho sạch mồ hôi bụi bặm và bùn đất bám đầy chân tay mặt mũi sau cả ngày lao động vất vả. Cả ngàn con người chờ đợi nối đuôi nhau, mỗi đợt chỉ cho 2 Đội cỡ 80 người xuống trong ṿng 5 phút là phải lên. Những người xuống sau bao giờ cũng phải tắm rửa nước bùn đục ngầu v́ phải đứng gần ven bờ, ra xa một chút là hụt chân ngập đầu không đứng được.

    Làm xong các ruộng sắn, Đội chúng tôi đổi công tác đến kho phụ trách việc đập ṿ đạp các bó luá cho thóc rơi ra, ban mỏng trên sân gạch phơi cho khô, dồn vào bao cân và cất vô kho. Trước khi dồn thóc vào bao, c̣n phải quạt bỏ thóc lép. Một người xúc thóc vào thúng, nâng để lên một bên vai rồi từ từ nghiêng thúng cho thóc chẩy xuống đất, người khác đứng kế bên 2 tay cầm chiếc mẹt quạt liên tục cho thóc lép bay ra khỏi ḍng thóc mẩy đang chẩy xuống. Công việc phải làm giữa sân gạch nắng chang chang cả ngày, bụi bặm bám đầy người phải dùng khăn bịt mồm mũi để bảo vệ buồng phổi. Những bó rơm đă rụng hết thóc phải đem chất thành đống cao cả chục mét ở góc sân gọi là cây rơm, sau này dùng làm ǵ không biết.

    Lúa thóc do Tù reo, cấy, trồng, gặt, đập, phơi khô, xay xát ra gạo để Cán bộ canh Tù ăn hàng ngày, c̣n Tù th́ quanh năm ăn toàn sắn, bắp. Trong mùa thâu hoạch ồ ạt sắn, bắp, th́ một phần cấp cho Tù ăn tươi hàng ngày, phần c̣n lại, bắp th́ phơi khô tách hạt ra khỏi cùi, sắn th́ lột vỏ sắt lát mỏng hoặc chặt thành những khúc ngắn sấy khô, xong xuôi đem cất kho phát ra ăn dần về sau.

    Sau khi hết lúa để đập để phơi, Đội chúng tôi được chỉ định vào quét dọn hót cám lẫn trấu trong nhà máy cà xát lúa ra gạo để nhồi vào bao tải. Cả ngày ch́m đắm trong bụi bậm mịt mù, vất vả hơn đập phơi lúa ngoài sân rất nhiều, nhưng được cái may hàng ngày mỗi người được “bồi dưỡng” một túi cám lẫn trấu đem về sàng rây bỏ trấu đi, c̣n lại cám lẫn tấm nấu chín mà ăn.

    Quản giáo Đội cho phép anh đun nước giúp anh em nấu chín trong giờ lao động. Ai muốn nhờ th́ đổ tấm cám và nước vào Gô riêng, giao cho anh nấu nước vào lúc đầu giờ lao động, đến giờ nghỉ giải lao giữa buổi là có cháo bột tấm cám chín sền sệt để ăn. Mùi vị hơi đăng đắng hôi hôi khó ăn, nhưng phải ráng mà nuốt cho cơ thể có thêm chất bổ của bột gạo tấm và cám để chống phù thũng và cái đói triền miên vô tận.

    Một tai họa thảm thương đă xẩy ra, làm ai nấy đau đớn và lo sợ vô cùng. Có anh ở một đội khác bị trướng bao tử, nghẽn ruột và chết v́ ăn cám, trong khi anh em chúng tôi cũng ăn mà chưa có người nào làm sao cả. Sau này có tin từ Bệnh xá loan ra cho biết, anh bạn tử nạn v́ không rây bỏ trấu vụn lẫn trong cám tấm, cứ để nguyên như vậy nấu ăn cho được nhiều, trấu không tiêu làm nghẽn đường tiêu hoá bể ruột chết. Cũng kể từ đấy, Tù không được mót cám về “bồi dưỡng” nữa.

    Kho vừa hết “sắn duôi” cung cấp cho Nhà Bếp th́ vừa đúng mùa thâu hoạch sắn tươi, mọi người được ăn sắn tươi luộc dài dài ngày 3 bữa. Sắn tươi dùng thay gạo theo tiêu chuẩn 4 kí lô sắn c̣n cả vỏ bằng 1 kí lô gạo. Ăn sắn tươi có một số người bị say. Nghe anh em nói, sắn trồng trên đồi tranh củ nào bị rễ tranh xuyên qua, ai chẳng may ăn phải những củ này th́ khoảng 2 tiếng đồng hồ sau khi ăn là bị say. Khi say sắn, cơ thể cảm thấy nao nao buồn tiểu đại tiện, nôn khan, hoa mắt chóng mặt, người bải hoải như bị trúng gió, say nặng có thể ngất xỉu vài phút sau mới tỉnh lại.

    Tôi chẳng may bị say sắn tới 2 lần.

    Lần đầu vào khoảng 9 giờ đêm, lúc mọi người chuẩn bị đi ngủ, Tôi mót đại tiện, ṃ vào góc nhà nơi để thùng cho Tù đi vệ sinh ban đêm đứng xếp hàng chờ. Tự nhiên Tôi thấy ánh sáng ngọn đèn dầu đổi mầu từ vàng trong sang vàng đục rồi đỏ và tối xầm đi, ngă qụy xuống đất không biết ǵ nữa. Anh bạn đứng sau, thấy Tôi đang đứng bỗng dưng xỉu và ngă gục xuống đất, phải xốc nách bế đặt đại lên một chỗ nằm kế đó, hô hoán kêu mọi người xúm lại cạo gió cấp cứu, vài phút sau th́ tỉnh lại.

    Lần thứ 2 nguy hiểm hơn, nó xẩy ra vào khoảng quá nửa đêm. Chỗ ngủ của Tôi ở sàn gỗ trên cao cách mặt đất 2 mét, đang ngủ tự nhiên thấy bụng quặn đau mót đại tiện,Tôi chui ra khỏi mùng ḅ men theo bià sạp phiá chân của 3 bạn nằm bên để tới cái cột có các cục gỗ nhỏ làm thang bấu chân vào tụt xuống đất. Sau khi đạp được đầu bàn chân trái lên mẩu gỗ thứ nhất, bắt đầu xoay người tụt xuống để đặt đầu bàn chân phải lên cục gỗ kế theo, th́ thấy choáng váng chân tay bủn rủn không kiểm soát được và rớt xuống đất cái rầm, rung động cả nền nhà làm mọi người giật ḿnh thức giấc tưởng có động đất.

    Tai nạn này đă làm cổ chân phải của Tôi sưng vù, đau đớn không đứng được bằng 2 chân, và cũng không leo lên chỗ ngủ ở tầng sạp trên cao của Tôi được. Anh Đội trưởng đă phải nói đi nói lại 2, 3 lần với các bạn nằm ở sạp dưới, vui ḷng đổi chỗ cho Tôi nằm tạm qua đêm.

    Sau mấy phút im lặng, có một bạn tốt bụng đă đáp ứng lời yêu cầu khiến Tôi vô cùng cảm kích, và nhớ ơn bạn ấy đến bây giờ vẫn chưa quên. Sáng ngày hôm sau, bạn ấy c̣n quyết định cho Tôi nằm tạm trên chiếc nệm cao su bơm hơi của bạn ấy thêm mấy ngày, đến khi Tôi chống gậy đi và leo lên sàn cao được mới thôi. Người tốt bụng này là Đại tá Nguyễn văn Hăn (An ninh Quân đội), Tôi chưa có dịp quen trước 30-4-1975. Anh Hăn không những bị cận thị nặng hơn Tôi nhiều, mà lại c̣n bị loạn thị nữa, thật vất vả làm ǵ cũng phải sờ sờ ṃ ṃ gần như người khiếm thị vậy.

    Mỗi buổi sáng, ngay sau khi cửa pḥng giam được mở, Tôi phải 2 tay vịn chiếc đ̣n gánh dư của anh trực nhà cho mượn, co chân phải lên cà nhắc nhẩy từng bước một với chân trái để xuống Bệnh xá khám bệnh. Khám xong lại vội vă cà nhắc nhẩy về sân tập họp, tŕnh sổ khám bệnh cho anh Đội trưởng biết là ḿnh được nghỉ lao động ngày hôm đó.

    Những Tù bệnh được nghỉ không phải theo Đội ra ngoài lao động, sau khi các Đội xuất trại hết phải tập trung vào một nhà giam riêng ở cuối sân bên khu H́nh Sự, cửa khóa trái bên ngoài cho đến hết giờ lao động các Đội trở về nghỉ mới được mở cửa cho ra.

    Khoảng 2 tuần lễ sau, t́nh trạng chân của Tôi hết sưng có thể đi lại với chiếc gậy nạng, Cán bộ Y tế coi là lành không cho nghỉ nữa phải theo Đội đi lao động. Cũng may, lúc này Đội không c̣n làm Nông Nghiệp nữa mà phụ trách Cưa xẻ và Ḷ rèn, ở sát ngay bên cạnh Đội Mộc (đóng giường, tủ, bàn, ghế...) cách cổng Trại giam chừng 500 mét. Chúng tôi xẻ những cây gỗ to tướng ra ván cung cấp cho Đội Mộc, và nung sắt làm cuốc, xẻng, dao... theo “yêu cầu” của Trại. Tôi được cử vào toán Rèn do anh Đại úy gốc Cảnh sát làm Toán trưởng, anh Trịnh Đ́nh Đăng phụ tá quai buá tạ, và Tôi được giao cho việc nhóm Ḷ, kéo Bễ thổi lửa cho than đá lúc nào cũng hồng đủ độ nóng để nung sắt.

    Ít lâu sau, cổ chân của Tôi b́nh thường trở lại, Tổ Rèn không c̣n nhiều việc để làm, Tôi được chuyển qua Tổ Cưa xẻ gỗ đứng cặp với anh Phan Trọng Thiện. V́ anh Thiện đă làm lâu rành kỹ thuật kéo cưa xẻ gỗ, nên đứng trên cao để giữ mực cưa đi được thẳng tắp và bề dầy của tấm ván đều đặn, c̣n Tôi mới vào nghề nên phải đứng phiá dưới, phụ nâng cưa lên và kéo cưa xuống cho được nhịp nhàng đều đặn. Cái khổ của người đứng phiá dưới xúc gỗ đang xẻ là, từ lúc bắt đầu kéo cho đến khi ngưng, lúc nào cũng bị mạt cưa rớt ra bay phủ đầy người từ đầu xuống đến chân, miệng và mũi phải dùng khăn quàng bịt kín để lọc cho bụi không lọt vào phổi nên rất khó thở và mau mệt.

    Từ ngày làm trong xưởng, không c̣n dịp mưu sinh linh tinh các sinh vật ngó ngoáy ngoài đồng nữa, Tôi chờ giờ giải lao giữa buổi lao động chạy ra các băi cỏ sát hàng rào quanh sân để mót rau má, rau tầu bay đem về ăn độn với “sắn nút chai”. Đây là sắn nguyên củ, sau khi lột bỏ vỏ chặt thành từng khúc ngắn cỡ 2 đốt ngón tay đem phơi hoặc sấy khô rồi cất vào kho. Những mẩu sắn khô đổi mầu từ trắng lúc c̣n tươi sang nâu xám khi đă khô, trông như những mẩu xốp người ta thường dùng để làm nút miệng chai, do đó anh em đặt cho cái tên “sắn nút chai”. Muốn làm “sắn nút chai” chín để ăn, người ta rửa sạch rồi bỏ vào chảo nước luộc như luộc bắp luộc khoai. Thấy ngoài mặt các cục “sắn nút chai” luộc đổi mầu từ đục sang trong tưởng là đă chin, nhưng lúc ăn mới thấy trong lơi cục nào cũng c̣n sống nguyên.

    Mùa Hè năm 1978, có lẽ là mùa tử vong cao nhất tại K1 trại Tân Lập-Vĩnh Phú. Có hôm, trong khi các Đội ngồi phơi nắng cả tiếng đồng hồ chờ gọi xuất trại lao động buổi chiều, có đến 3, 4 người ngất xỉu v́ say nắng giữa sân tập họp, được anh em xốc nách đem vào Bệnh xá cấp cứu. Chiều tối lao động về nghe tin 1 người đă chết. Một buổi khác, một anh Đội trưởng Nông Nghiệp cũng cải thiện linh tinh ăn thịt Cóc và trứng Cóc vào bữa trưa, đến chiều ra tập họp đi lao động bị ngất xỉu, anh em cơng vào Bệnh xá cấp cứu không được nên anh ấy đă vĩnh viễn ra đi trước mọi người.

    Đi lao động bị tai nạn chết tại K1 Tân Lập-Vĩnh Phú có trường hợp Trung tá Hưng (trước 30-4-1975 làm Tham mưu trưởng Trường Đại học Chiến tranh Chính trị ĐàLạt). Nghe anh em bạn cùng đi với anh Hưng theo xe tải của Trại công tác ngoài lănh thổ trại giam trở về kể lại:

    “-Xong công tác, lúc quay trở về trại trời đă tối mịt, Xe phải chạy băng qua khúc sông cạn đá lổn nhổn, chẳng may bánh xe bị kẹt đá ở giữa ḍng sông nước chảy xiết không nhúc nhích được. Anh em Tù phải xuống xúm chung quanh đẩy cho xe tiến tới, anh Hưng chẳng may bị hụt chân ch́m mất tích. Măi mấy ngày sau dân chúng mới báo cho trại biết là thấy xác anh Hưng nổi lên tắp vào bờ sông ở phiá hạ lưu”.

    Trại loan tin anh Hưng không biết bơi nên bị chết đuối.

    Nữ Văn sĩ Bích Huyền là vợ Trung tá Hưng hiện đang định cư tỵ nạn tại Nam California đă viết một tuyển tập “Lối cũ chẳng sao quên”, trong đó có đoạn kể lại chuyện đi thăm nuôi anh Hưng tại K1 Tân Lập- Vĩnh Phú, phải lặn lội gian nan khổ cực như thế nào. Ít lâu sau có người nhắn tin về nhà cho biết là anh Hưng đă chết, chị ấy lại phải đi cùng 3 người anh ở Hà Nội (theo Cách mạng từ 1945) trở ra Tân Lập để kiểm chứng. Khi đến Phân Trại nơi gặp anh Hưng lần trước, người ta nói anh Hưng đă chuyển trại nhưng không cho biết tên trại mới. Mấy anh em phải chạy ngược chạy xuôi qua hết các Phân trại, chẳng nơi nào nhận đang “quản lư” anh Hưng. Sau cùng phải đến Ban chỉ huy Trại Tân Lập tại K5, mới được xác nhận là anh Hưng đă chết thật và đă xin được Trại cho phép bốc hài cốt anh Hưng đem về cải táng.

    Vào đêm thứ Sáu mồng 7 tháng 1 năm 1994, Bà Bích Huyền đă được Tổng Hội Ái hữu Chiến tranh Chính trị Quân lực Việt Nam Cộng hoà Hải ngoại tại Nam California bảo trợ tổ chức “Ra Mắt” cuốn sách “Lối cũ chẳng sao quên” lần đầu tiên tại Vũ trường Ritz ở Quận Orange. Lúc đó Trung tá Nguyễn Ngọc Thông là Chủ tịch Tổng hội, Nhạc sĩ Nguyễn Hiền làm Phó Chủ tịch Nội vụ (hai Vị này đă qua đời ít năm sau đó) và Tôi làm Phó Chủ tịch Ngoại vụ của Ban chấp hành Tổng hội. Nhân dịp tổ chức Dạ Vũ Ra Mắt sách này, Tôi đă cảm đề một bài Thơ tặng Bà Bích Huyền như sau:

    D̉NG KỶ NIỆM ĐẸP

    Bích Huyền “Lối cũ chẳng sao quên”,
    Lẻ bóng duổi dong một chiếc thuyền.
    Xă hội nhiễu nhương ḷng sắt đá,
    T́nh đời trao đảo dạ trung kiên.
    Chồng đền nợ nước gương anh dũng,
    Vợ giữ gia phong tiếng nữ hiền.
    Trí sáng khéo ghi ḍng kỷ niệm,
    Bút tài giỏi họa khúc chuân chuyên.

    Little Saigon, Quận Orange, Nam California, 7-1-1994

    KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG.

    Vào năm 2011, bà Bích Huyền đă cùng anh em cựu Sinh viên Sĩ quan hội Ái hữu Trường Đại học Chiến tranh Chính trị tổ chức Lễ tưởng niệm tại Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ ỡ thị xă Westminster quận Orange Nam California, và sau đó đưa di ảnh cố Trung Tá Hưng vào thờ tại chùa Điều Ngự do Văn pḥng II Viện Hoá Đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ quản trị ở số 14472 Chestnut St. Westminster, CA 92683 USA.

    Anh em Tù chết bệnh tại K1 trại Tân Lập th́ nhiều, nhưng cấp bậc Đại tá chỉ có anh Phạm văn Sơn tác giả cuốn “Việt Nam tranh đấu sử Cận đại”. Anh Sơn chết v́ bệnh tiểu đường biến chứng. Trước 30-4-1975 anh Sơn là một trong những người có công lớn trong việc nghiên cứu, biên soạn cuốn “Quân Sử Việt Nam Cộng hoà” gồm 4 Tập, và Pḥng 5 Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Viêt Nam Cộng Hoà đă ấn hành để phổ biến rộng răi trong toàn Quân Đội. Hồi những năm đầu thập niên 1990 khi Tôi và gia đ́nh mới tới định cư tỵ nạn tại quận Orange Nam California, thấy mấy tập Quân sử này được in lại và bầy bán tại các nhà sách trong Khu Little Saigon Quận Cam Nam California, Tôi đă mua lưu giữ để tham khảo khi cần.

    Vào khoảng mùa Hè năm 1978, rất nhiều Tù bị giam tại các vùng Sơn La, Lào Kay, được chuyển về K1 Trại Tân Lập, nhờ thế Tôi có dịp được gặp Trung úy Nguyễn Trung Hoà bút hiệu Huy Vân Chủ bút tờ Nhật báo Tiền Tuyến thời Tôi làm Chủ nhiệm trước 30-4-1975. Ít ngày sau, Huy Vân cùng một số người mới đến bị chuyển sang Phân trại khác cũng thuộc trại Tân Lập. Qua khoảng cuối năm 1979, Đội các Đại tá chúng tôi cũng bị chuyển sang K5 nơi có Ban Giám thị chỉ huy toàn trại Tân Lập. Tại nơi trại mới này, Tôi có dịp gặp một số anh em trước 30-4-1975 cũng từng phục vụ tại Tổng cục Chiến tranh Chính trị cho biết, anh Huy Vân đă qua đời trong mùa Hè chết chóc kinh khủng vừa qua v́ bệnh không thuốc chữa.

    Xem tiếp chương 21...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. HY LẠP BẦU THỦ TƯỚNG LÂM THỜI
    By Hắc Y Hiệp Nữ in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 12-11-2011, 01:31 PM
  2. Replies: 16
    Last Post: 03-09-2011, 09:02 AM
  3. Replies: 59
    Last Post: 29-06-2011, 04:26 AM
  4. Replies: 26
    Last Post: 03-05-2011, 02:12 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 22-04-2011, 10:13 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •