Quân lực Việt Nam Cộng ḥa
Sư đoàn Thủy quân Lục chiến
Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên - Trận An Quí, 21-2-1966
P3
Trung Tá Lê Hằng Minh Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên TQLC
Trung Tá Lê Hằng Minh Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên TQLC
Viết về Cố Trung Tá Lê Hằng Minh
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 / Thủy Quân Lục Chiến
Ngọc Thủy
Gươm đàn nửa gánh,
Non sông một chèo
(Nguyễn Du)
Đất nước Việt đang thời binh biến, Tổ quốc lâm nguy, vang dậy núi sông những lời hiệu triệu anh hào. Khi tôi chưa chào đời th́ vào giữa năm 1954, theo đoàn người trai quyết xếp bút nghiên để lên đường theo tiếng gọi non sông, làm tṛn trách nhiệm người công dân trong thời quê hương khói lửa. Người thanh niên tên Lê Hằng Minh đă từ giă người mẹ hiền, rời bỏ cuộc sống gia đ́nh ấm êm nơi Hàng Keo – Gia Định, từ giă mái trường Huỳnh Khương Ninh & Trương Vĩnh Kư sau khi tốt nghiệp Tú Tài để cùng người anh Lê Minh Đảo (thiếu tướng Lê Minh Đảo gia nhập khóa 10 trường Vơ Bị Liên Quân Đà Lạt, là một trong số những tướng lănh của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa), lên đường nhập ngũ. Ông theo học khóa 5 Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức (Khóa V́ Dân) và sau khi ra trường vào đầu năm 1955 với cấp bậc Thiếu Úy Trừ Bị, người chiến sĩ Lê Hằng Minh đă cùng bao chiến hữu khác ngược xuôi khắp nẻo đường đất nước, xông pha vào những trận tuyến ngăn giữ bước quân thù xâm lăng, hầu mong mang yên vui cho mảnh đất miền Nam Tự Do thân yêu. Đầu năm 1957, v́ muốn vẫy vùng ngang dọc hơn cho thỏa chí tang bồng, ông rời khỏi Sư đoàn 4/ Bộ binh dă chiến (sau này là Sư đoàn 7/ BB) để t́nh nguyện gia nhập Thủy Quân Lục Chiến, Lực lượng Tổng Trừ Bị ṇng cốt của Quân đội VNCH và lần lượt đảm trách các chức vụ: Trưởng Ban 5 TQLC, Trung đội trưởng (Tiểu đoàn 1), Đại đội trưởng (Tiểu đoàn yểm trợ), (Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4), Chiến đoàn phó (Chiến đoàn A) và Tiểu đoàn trưởng (Tiểu đoàn 2/ TQLC).
Tham dự nhiều chiến dịch quan trọng cùng những trận đánh hào hùng trên khắp các mặt trận chiến trường đất nước từ: Đồng Xoài, U Minh, Bời Lời, Đầm Dơi, Bến Cát, Đức Cơ, Plei-me, B́nh Định, Bồng Sơn – Tam Quan, Quảng Ngăi, Thừa Thiên, Huế, Phù Lưu, Quảng Trị v.v… Với những thành tích chiến đấu dũng cảm, Lê Hằng Minh được thăng cấp Trung úy sau hai năm ra trường và được gởi đi du học khóa Sĩ quan TQLC ở Quantico – Hoa Kỳ năm 1959 – 1960. Đầu năm 1959, Lê Hằng Minh đưa Đại đội Trinh Sát TQLC/ Tân Lập về Sài G̣n tham dự khóa học Nhảy dù ở Trung tâm Huấn luyện Hoàng Hoa Thám tại Bà Quẹo. Trong thời gian huấn luyện này, ông chứng tỏ sự gan dạ và là một cấp chỉ huy gương mẫu, xứng đáng làm gương và hướng dẫn quân nhân thuộc quyền noi theo không nề hiểm nguy. Yêu thích đường bay trên những nấc thang mây thênh thang của người lính Nhảy Dù, Lê Hằng Minh luôn hănh diện khi chỉ cho mọi người xem huy hiệu “Cánh Dù” luôn gắn trên túi áo ngực mà ông đă đạt được sau khóa huấn luyện. Trong biến cố 11/11/60, ông cùng Đại Đội Chiến Đấu/ TQLC về giải vây cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Sau đó, năm 1960 ông giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Yểm trợ tiếp vận/ Thủy Quân Lục Chiến. Và rồi nổi trôi theo vận hạn quốc gia cùng t́nh h́nh đất nước rối ren, thêm một lần nữa, vị Tiểu đoàn trưởng Lê Hằng Minh của TĐ4/TQLC lại là một trong những đơn vị tham gia cuộc đảo chánh Tổng thống vào ngày 1/11/63. Những biến cố đất nước cùng những thăng trầm của cuộc đời binh nghiệp vẫn không làm mất đi tinh thần quả cảm của một người chiến sĩ với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cùng tinh thần trách nhiệm đối với đồng bào Tổ quốc, ông vẫn cùng với bao lớp người thanh niên chiến hữu luôn giữ vững sự cang cường chiến đấu như ánh thép gươm đao vẫn lóe sáng mỗi khi lâm trận ngoài địa đầu giới tuyến. Sau khi tu nghiệp khóa AWS ở Hoa Kỳ về (1964 – 1965), đầu tháng 11/1965, Thiếu tá Lê Hằng Minh được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2/ TQLC và tên tuổi ông đă gắn liền với danh hiệu “Trâu Điên”, một tiểu đoàn lừng danh của Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng và của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa nói chung từ trận đánh An Quư vào tháng 2/1966 ở Bồng Sơn – Tam Quan. Từ tư thế bất ngờ bị phục kích khi tiến chiếm mục tiêu ấp chiến lược này, dù bị bao vây tứ phía bởi sự bố trí sẵn bên ngoài lẫn sự pḥng thủ rất mạnh của VC bên trong, bị bắn phá nă đạn như mưa vào các toán quân, nhưng điều đó không làm chùn bước được của những người lính luôn luôn trong tư thế chuẩn bị, sẵn sàng xung phong nên ngay giữa cánh đồng trống, không nơi ẩn nấp, vị TĐT đă cùng với tất cả các chiến sĩ lúc ấy vẫn hiên ngang tràn vào và tiến lên dũng mănh đến nỗi VC phải khiếp sợ với khí thế hăng như trâu điên của TĐ2 quyết băng ḿnh phá tan lằn lửa đạn, dù phải đối chọi với tử sinh chạm gần trong gang tấc. Kết quả TĐ2/ TQLC toàn thắng chiếm hẳn được mục tiêu tuy phải chịu sự tổn thất vừa chết vừa bị thương mất gần một trung đội, trong số đó có Trung úy Nguyễn Ngọc Điệp (khóa 17/ VBĐL) v.v…
Với chiến tích “phản phục kích” vẻ vang này, Tiểu đoàn do Thiếu tá Lê Hằng Minh chỉ huy và yêu cầu sự đề đạt danh hiệu, đă được Bộ tư lệnh TQLC chấp thuận cho mang danh xưng Trâu Điên (Crazy Buffalo) biểu tượng sự Cảm Tử, Hi Sinh và Dũng Mănh. Ngoài ra c̣n được tuyên dương công trạng trước Quân đội lần thứ tư và được mang dây biểu trưng màu xanh Quân Công Bội Tinh. Bắt đầu từ đó, các tiểu đoàn khác cũng được đặt tên để có những danh hiệu riêng như: Quái Điểu, Sói Biển, Ḱnh Ngư, Hắc Long, Thần Ưng, Hùm Xám, Ó Biển, Mănh Hổ.
Người lính Lê Hằng Minh như chúng ta đă thấy là một chiến sĩ rất gan ĺ và quả cảm khi xông pha ngoài mặt trận, bởi ông luôn đặt trọng trách hi sinh v́ Tổ quốc lên hàng đầu. Nhưng bên trong con người của ông lại là một nghệ sĩ giàu cảm tính và nhân hậu. Ông sinh trưởng trong một gia đ́nh lễ giáo gồm 10 anh chị em. Người mẹ đă tần tảo một ḿnh lo bảo bọc các con khi người Cha đă qua đời năm ông 17 tuổi. Sống và lớn lên từ ngôi nhà cổ kính giữa vườn cây bóng mát xum xuê nơi Hàng Keo nằm trên đường Chi Lăng nối dài, gần chợ Bà Chiểu cạnh đền Lăng Ông nổi tiếng hiển linh, khói trầm nghi ngút quanh năm bên mộ Tả quân Lê Văn Duyệt vẫn tỏa sáng uy linh của bậc trung thần đại nghĩa, phải chăng đă ảnh hưởng phần nào đến tâm t́nh con người Lê Hằng Minh từ thuở nhỏ. Thích sống đời trai oai phong dũng mănh nhưng cũng là người yêu văn nghệ, đàn nhạc, thơ văn. Đôi khi cũng rất ủy mị, ướt át. T́nh cảm của ông cũng rất dạt dào đối với anh chị em trong gia đ́nh cùng sự kính trọng, hiếu thảo đối với bậc sinh thành và nhất là t́nh yêu quê hương đất nước được thể hiện rất rơ nét trong những vần thơ mộc mạc được viết ra từ đáy tâm hồn thiết tha:
QUÊ TÔI
Thuận Thành đất của Ba
Rạch Kiến quê hương Má
Quê nội quận Cần Đước
Bên ngoại làng Long Ḥa.
Sinh tại miền Gia Định
Việt Nam vạn nẻo đường
V́ sống cuộc đời lính
Tôi có lắm quê hương.
Pleiku xuống Sóc Trăng
An Giang về Vũng Tàu
Nha Trang ra Đà Nẵng
Bến Hải xuôi Cà Mau…
Gia Định đất linh thiêng
Lăng Ông ôi nhiệm màu!
Xa gần đều biết tiếng
Cầu tài lẫn rể, dâu…
Pleiku miền đất đỏ
Thần sống chốn rừng núi
Người Thượng đeo cung, nỏ
Vai mang nặng chiếc gùi
Sóc Trăng thơm ruộng lúa
Những cô gái gốc Miên
Nắng cháy da đen đúa
Đôi mắt thật mơ huyền…
An Giang xứ mắm ruốc
Thánh địa đạo Ḥa Hảo
Câu kinh buồn năo ruột
Thất Sơn huyền bí sao!
Danh lam đất Vũng Tàu
Tuyệt vời ơi Băi Sau
Băi Trước đông du khách
Bể rộng với trời cao
Xứ dân gầy cát trắng
Cô gái miền Nha Trang
Tháp Bà đến cầu Đá
Tóc thề những cô nàng
Vượt qua đèo Hải Vân
Ḷng luống những bâng khuâng!
Thương năo nề Đà Nẵng
Hải cảng của Trung phần
Chia đôi bờ đất nước
Bến Hải thuộc Đế Đô
Xứ Huế ngàn năm trước
Thành Nội lắm nhiều mồ…
Cà Mau là xứ cá
Đỉa nhiều tợ bánh canh!
Muỗi độc ôi nhiều quá!
Cuộc đời thật mỏng manh!
Tŕu mến đất Thần Kinh (Huế)
Sài G̣n sao dễ thương!
Gia Định tôi yêu kính!
Đất Nước là Quê Hương!
(LMH viết vào ngày 25 Tết, Kỷ niệm ngày giỗ Ba. Kính tặng các bà Mẹ vạn nẻo đường con đă gặp)
Trên con đường rong ruổi nghiệp binh đao, ông cũng mang nặng t́nh thương yêu đối với các chiến hữu, những người cùng chí hướng lên đường nối gót chinh nhân. Cuộc đời của những người chấp nhận Đời Lính Chiến với tất cả những vui buồn gian khổ:
CÁNH CHIM TRỜI
Anh, tôi và chúng ta
Thuộc đoàn quân thiện chiến
Sinh tử siết t́nh ta
Chiến thắng cùng chia, thù quyết trả!
Những buổi dừng quân nơi thôn lạ
Anh đứng gác,
Anh vá áo,
Anh ngủ say,
Anh nấu nướng,
Máy thu thanh với tuồng cải lương
… muôn thuở!
Tôi viết thư bên ngọn đèn dầu
… ngàn thương!
Các em bé, quây quần bên đàn anh xa lạ
Khẽ vuốt lên ṇng súng: Anh ơi súng tên ǵ?
Cô em gái, rộn ràng, nhà vui quá
… cảm giác lạ!
Bà mẹ già, thương xót đàn con muôn phương
… “ôi tội nghiệp”!
Tay ngoáy trầu liên miên
Những cánh chim trời, mai về đâu
… nào ai biết?
… lại giết giặc
… lại cơm vắt với x́ dầu
… lại lên đường!
(LHM thân tặng các chiến sĩ vô danh không vụ lợi và để tang cho cố Thiếu tá Nguyễn Văn Nho và những chiến hữu TĐ4/ TQLC đă hi sinh trong trận chiến B́nh Giả cuối tháng 12-1964)
Những lời ấy là tất cả những tâm t́nh của ông trên bước đường hành quân xuôi ngược đó đây. Qua những trận đánh ác liệt và sau những tiếng súng, người lính trẻ lại trở về với những nỗi niềm cô đơn trăn trở trong những phút giây nhớ nhung và trống vắng:
Lạc mẹ chim nức nở
Thổn thức chi ve sầu
Khúc nhạc buồn muôn thuở
Cuộc đời là bể dâu…!
Lá vàng rơi rụng măi
Mưa thu dài lê thê
Kiếp sống đầy ngang trái
T́nh yêu đâu chẳng về…?
Và trong những ngày mùa đông rét mướt ở Washington trong thời gian du học, ông trải rộng niềm thương nhớ đến người mẹ hiền và cô em gái út ở quê nhà:
Hoa Tuyết triền miên phủ núi đồi
Nhẹ nhàng rơi măi rụng không thôi
Những cô gái Mỹ hây đôi má
Tuyết phới qua mi, đậu cánh môi
Ngập lối vài xe không chạy nổi
Trẻ thơ “đấu tuyết” ném liên hồi
Lăo bà run rẩy lê thê bước
Bóng dáng thanh gầy giống Mẹ tôi!
(Tặng em Ánh Tuyết. Ghi một ngày nhớ má 15/1/65. Mùa đông Washington. LHM)
Cuộc sống ông cũng rất chí t́nh gắn bó với bạn bè đồng đội:
Nhớ Soạn, thương Thông, lại mến Tâm*
Dakbla than văn gió th́ thầm
Đêm đông gối súng, sương nhiều quá!
Dế khóc đêm dài… tôi lặng câm!
(LHM. Kontum – Dakbla ngày 14/12/65. Một đêm nhớ Soạn và trước khi đi hành quân. * Thiếu tá Tôn Thất Soạn, Thiếu tá Hoàng Tích Thông và Trung úy Tâm).
Bookmarks