(Tiếp theo Bài 8)
IV. Đại cương các điểm chính của 27 sách Tân Ước
…..
3. Các Thư Tôn Giáo Chính Thức, hay Giáo Huấn:
…..
[22]. Thư II của Thánh Phê-rô (2 Peter)
Thư II của Thánh Phê-rô c̣n được viết là 2 Thư của Thánh Phê-rô, (2 Pr).
Trong phần “Dẫn Nhập Thư II Phê-rô”, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ viết như sau: “Tác giả tự giới thiệu “là Si-mê-on Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô” (1,1), “đă được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người” (1,16), nay sắp ĺa bỏ chiếc lều thân xác “như Đức Giê-su Ki-tô đă tỏ cho biết” (1,14).
Nhưng thư “thứ hai” này (3,1), cho thấy tác giả đă xem các thư của thánh Phao-lô như là Kinh Thánh (3,15), và các Tông Đồ có vẻ đă vào thế hệ cha ông (3,2.4).
Đàng khác, nội dung giống thư Giu-đa khá nhiều ; văn chương ngôn ngữ cũng khác hẳn thư thứ nhất.
V́ thế, có thể nói được là tác giả thuộc thế hệ thứ hai, mượn danh nghĩa thánh Phê-rô để trao lại cho hậu thế kho tàng truyền thống của các Tông Đồ”.
Trong sách “Kinh Thánh Trọn Bộ”, Nhà xuất bản Tôn Giáo – 2007 - nơi trang 547, Lm. Nguyễn Thế Thuấn đă viết:
“Tác giả Thư thứ hai của thánh Phêrô (2P) cho thấy ḿnh thuộc thế hệ khác thế hệ các Tông đồ (3, 2-6), đă biết đến sưu tập các thư của thánh Phaolô và đặt các thư ấy ngang hàng với các các sách thánh Cựu ước (3,15t), lại đă quen với Ngộ đạo thời sau, và điều thấy được, là đă xử dụng thư của thánh Yuđa (Yđ), nên có lẽ phải đặt thư này vào cuối thời Tân ước (lối cuối thế kỷ I hay đầu thế kỷ II), do một tác giả vô danh”.
(Ngộ đạo là ǵ? Xin bạn đọc đọc các bài viết về “Ngộ đạo là ǵ?” ở đây, hay “Ngộ đạo là ǵ?” ở đây và “Thuyết ngộ đạo” ở đây).
Thư II của thánh Phê-rô nói về những vấn đề của Hội Thánh miền Tiểu Á thời bấy giờ. Người ta tin rằng thư này, giống như thư thứ nhất, đă được gửi đến các Ki-tô hữu của miền Tiểu Á, phần lớn trong số đó là các tín hữu gốc dân ngoại. Các thầy dạy giả hiệu, những người lạc giáo và lừa gạt, và những kẻ từ chối Ngày quang lâm của Chúa Ki-tô cũng như thời cánh chung, những kẻ t́m cách làm lung lạc niềm tin của các Kitô hữu ở Tiểu Á đă được tác giả nói đến. Tác giả viết thư này để củng cố niềm tin của các tín hữu Ki-tô tân ṭng này.
Thư II của Thánh Phê-rô được cũng viết từ Rô-ma (Rome) vào đầu thế kỷ II, trước sau năm 125.
Chúng ta có thể chia Thư II của Thánh Phê-rô làm 4 phần như sau:
I. Lời mở đầu, (2 Pr 1, 1-2):
1. “Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những người, nhờ sự công chính của Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta, cũng đă lănh nhận một đức tin quư giá như chúng tôi”. (2 Pr 1, 1).
2. “Chúc anh em được đầy tràn ân sủng và b́nh an, nhờ được biết Thiên Chúa và Đức Giê-su, Chúa chúng ta”. (2 Pr 1, 2).
II. Kiên định trong đức tin như các chứng nhân của Chúa Giê-su đă dạy để bảo đảm sự cứu rỗi, (2 Pr 1, 3-21):
1. Quyền năng của lời Thiên Chúa hứa. Ḷng rộng răi của Thiên Chúa. “Anh em đă được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, th́ hăy cố gắng hết ḿnh, để làm cho các ơn đó nên vững mạnh”. (2 Pr 1, 3-11).
2. Lời chứng của các Tông Đồ về quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giê-su Ki-tô: “chúng tôi đă được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người”, (2 Pr 1, 12-18).
3. Lời ngôn sứ như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm; “Không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ư muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đă nói theo lệnh của Thiên Chúa”, (2 Pr 1, 19-21).
III. Các thầy dạy giả hiệu và h́nh phạt sẽ dành cho họ, (2Pr 2, 1-22):
1. Các thầy dạy giả hiệu lén lút đưa vào những tà thuyết dẫn tới diệt vong, (2 Pr 2, 1-3).
2. Các bài học của quá khứ: Thiên Chúa không dung thứ cho các thiên thần có tội, không dung thứ cho thế giới cũ. Người thiêu ra tro các thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra để làm gương cho những kẻ vô luân thời sau, (2 Pr 2, 4-10).
3. Các thầy dạy giả hiệu sẽ bị lên án, họ sẽ bị tiêu diệt, (2 Pr 2, 11-22).
IV. Ngày Chúa quang lâm v́ sao đến chậm? (2 Pr 3, 1-18):
1. Các thầy dạy giả hiệu luôn thắc mắc về Ngày Chúa sẽ quang lâm: “Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm?” Họ không tin vào Ngày của Chúa. (2 Pr 3, 1-7).
2. Ngày của Chúa đến chậm v́ “Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, v́ Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải”. (2 Pr 3, 8-10).
3. Lời khuyên: Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm, nên luôn chuẩn bị sẵn sàng, mong đợi và làm cho Ngày đó mau đến, (2 Pr 3, 11-18).
(C̣n tiếp)
*
**
Bản văn sách Thư II Của Thánh Phê-rô:
Sách Thư II Của Thánh Phê-rô theo bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.
Sách Thư II Của Thánh Phê-rô hay Thư Thứ Hai Của Thánh Phêrô theo bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, CSsR.
Sách Thư II Của Thánh Phê-rô hay 2 Peter theo bản dịch New American Bible Revised Edition của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.
Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô:
Được khởi công từ năm 1506 và hoàn thành năm 1626, tức sau 120 năm xây dựng, Vương Cung Thánh Đường được khánh thành với 220 m chiều dài, 150 m chiều rộng và 138 m chiều cao với sức chứa trên 60.000 người. Đây là Vương Cung Thánh Đường lớn nhất thế giới trong Ki-tô giáo.
Quảng trường phía trước Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô:
Quảng trường Thánh Phê-rô (
St. Peter ‘s square) được xây dựng từ năm 1656 và hoàn thành năm 1667 có sức chứa trên 400,000 người.
Mặt tiền Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô:
Tượng Thánh Phê-rô (bên trái, duới cùng) và tượng Thánh Phao-lô (bên phải, duới cùng) ở trước mặt tiền Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô.
Trướng bên trên bàn thờ chính của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô:
Trướng, hay lọng (Baldachin), bằng đồng, bên trên bàn thờ chính của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô. Được thiết kế và thực hiện bởi nghệ sĩ người Ư
Gian Lorenzo Bernini, công tŕnh điêu khắc nghệ thuật này được dùng để đánh dấu nơi ngôi mộ Thánh Phê-rô ở dưới đất, bên dưới.
Mộ của Thánh Phê-rô, bên trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô:
Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô được xây dựng trên nền của hai công tŕnh kiến trúc cũ (đă được phá bỏ để xây công tŕnh kiến trúc mới hơn):
1. Nero’s Circus (màu đỏ): được xây dựng vào thế kỷ I sCN dưới thời Hoàng đế La Mă Nero. Các Circus La Mă (từ tiếng Latin, "ṿng tṛn") là một loại kiến trúc lớn ở ngoài trời được sử dụng cho các sự kiện công cộng trong đế quốc La Mă cổ đại. Circus ở đây không có nghĩa là gánh xiếc mà là toà nhà (building) bao bọc chung quanh, ở giữa là đất trống.
2. Basilica of Constantine (màu xanh nhạt), c̣n được gọi là Old St. Peter Basilica, được xây dựng trong thời đại của Hoàng đế La Mă Constantine I Đại đế vào thế kỷ IV sCN và bị phá bỏ ở thế kỷ XV để xây Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô hiện nay.
Mộ của Thánh Phê-rô nằm trong Vatican Cemetery (màu vàng), nằm bên dưới Vương Cung Thánh Đường, ngay bên dưới trướng bằng đồng của Gian Lorenzo Bernin. Nghĩa trang dưới ḷng đất này chứa trên 100 mộ, trong đó có 91 mộ của các giáo hoàng (trong tổng số 264 giáo hoàng đă qua đời), từ giáo hoàng đầu tiên là Thánh Phê-rô cho đến Thánh Giáo Hoàng John Paul II mất năm 2005.
Trong năm 1950 có một cuộc khai quật bên dưới Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô và Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đă tuyên bố không có thánh tích (Relics) nào là của Thánh Tông Đồ Phê-rô một cách chắc chắn.
Trong những năm 1960, các cuộc khai quật bên dưới nhà thờ Thánh Phê-rô đă được xem xét lại, và bộ xương của một người đàn ông đă được xác định. Một giám định pháp y đă t́m thấy xương của một người đàn ông khoảng 61 tuổi chết từ thế kỷ I. Dựa vào kết quả giám định pháp y này, năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đă thông báo là có nhiều khả năng các thánh tích này là của Thánh Tông Đồ Phê-rô. Vào ngày 24 Tháng 11 năm 2013, lần đầu tiên Đức Giáo Hoàng Francis đă cho trưng bày chín mảnh xương trong bộ thánh tích này cho công chúng chiêm ngưỡng, trong một Thánh Lễ cử hành tại Quảng trường Thánh Phê-rô.
Bookmarks