Page 17 of 27 FirstFirst ... 7131415161718192021 ... LastLast
Results 161 to 170 of 265

Thread: ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY

  1. #161
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Đợt “Thi đua” trồng sắn đầu năm vừa dứt, Đội chúng tôi được chỉ định khai quang và đắp sửa con đường băng qua xóm Hoán Bù cho đủ rộng để xe vận tải có thể lưu thông được.

    Xóm Hoán Bù gồm khoảng chục căn nhà vách đất mái rạ, nằm dọc theo sát bên trái con đường. Trong thời gian lao động tại khu này, sáng cũng như chiều chúng tôi không thấy bóng một Nam Nữ trẻ tuổi nào ngoài vài ông bà già và ít đứa con nít dưới 5 tuổi. Chúng tôi không quan tâm t́m hiểu tại sao lại đặt tên là xóm Hoán Bù, và hai chữ Hoán Bù có ư nghĩa ǵ?

    T́nh cờ trong giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, sương mù chưa tan hết, không khí c̣n ẩm lạnh căm căm, bà cụ nhà ở sát bên đường đon đả mời Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ vào uống trà tươi và khoai luộc c̣n nóng hổi cho ấm ḷng. Đúng lúc đó, một ông cụ từ bìa rừng về tới xà xuống bên chúng tôi, xin điếu thuốc lào hút cho ấm dạ. Chúng tôi phải mặc 2, 3 tầng áo len áo bông dài tay c̣n cảm thấy lạnh, trong khi ông già chỉ phong phanh có 1 bộ quần áo “kiểu bà ba” nâu bằng vải mỏng đă bạc mầu, bên ngoài phủ chiếc “áo bông chấn thủ” cụt tay đă rách phải vá víu nhiều chỗ. Da mặt ông cụ xám ngoét môi tím bầm co ro cúm rúm, xoa 2 tay vào nhau cho đỡ lạnh.

    Một anh trong chúng tôi hỏi:

    “-Cụ năm nay đă đến 70 chưa, già nua vậy mà vào rừng chi sớm vậy?”
    Ông cụ trả lời:

    “-Cám ơn Trời cho năm nay mới được 60 thôi! Sống trong Xă hội Chủ nghĩa, ai cũng phải lao động mới được chấm công để lănh phần “tiêu chuẩn” quy định hàng ngày. Chúng tôi dẫn trâu của Hợp tác xă đi ăn cỏ, lợi dụng trong lúc chúng đang ăn ḿnh ṃ về kiếm chút khoai sắn đỡ dạ vậy mà. Bà nhà tôi ở nhà chăm sóc nhà trẻ cho xóm, c̣n các cháu cỡ 6, 7 tuổi trở lên phải đi hót phân cắt cỏ cho trâu ăn. Mỗi người một việc Qúy ông ạ!”
    Chúng tôi lại hỏi:

    “-Phiếu vải được Nhà Nước cấp hàng năm để may quần áo đâu sao Cụ không mua mà dùng?”
    Ông cụ trả lời:

    “-Ấy, hàng năm Nhà Nước có cấp Phiếu cho đấy, nhưng vài năm nay mỗi lần đến Hợp Tác Xă đều nói chưa có hàng về, nên ḿnh phải đợi thôi! Từ ngày chấm dứt chiến tranh, không c̣n viện trợ của các nước anh em Xă hội Chủ nghĩa nữa cái ǵ cũng thiếu”.
    Trong lúc nói chuyện có dịp quan sát kỹ khuôn mặt ông cụ, Tôi ngờ ngợ thấy h́nh như ḿnh đă có dịp gặp ông cụ này ở đâu, nhưng không nhớ ra. Bèn hỏi:

    -Cụ và bà con Xóm này ở đây bao lâu rồi mà trông các mái rạ c̣n mới quá vậy?
    Ông cụ trả lời:

    “-Ấy cũng chưa lâu lắm đâu. Trước chúng tôi ở vùng Yên Bái, Hoàng Liên Sơn, đủ hạn kỳ Nhà Nước lại điều động đến đây khai phá làm ăn sinh sống”.
    Tôi hỏi tiếp:

    “-Gia đ́nh cụ t́nh nguyện đi lập vùng Kinh tế mới ở đây à?”
    Ông cụ lắc đầu đảo mắt liếc quanh không thấy bóng Cán bộ nào gần chỗ chúng tôi đang tṛ chuyện, mới hạ thấp giọng nói tiếp:

    “-Trước năm 1954, Cha của tôi làm Lư trưởng vùng Tề ở Thái B́nh. Sau tháng 7 năm 1954, toàn miền Bắc được giải phóng khỏi tay Tây và phe Quốc gia, Cha tôi bị Toà án Nhân dân xử tử v́ tội Việt gian bán nước. Cả đại gia đ́nh họ Nội họ Ngoại chúng tôi được Nhà Nước khoan hồng tha tội chết, nhưng phải đi lao động tại các vùng Kinh tế mới. Cứ 4, 5 năm lại rời nơi lao động, miết từ bấy đến nay chẳng biết bao giờ mới được ở yên một chỗ. Khi c̣n ở Yên Bái, gia đ́nh chúng tôi ở Hợp tác xă trong vùng Xă Việt Cường. Hồi đó, chúng tôi cũng đă có dịp gặp bạn bè của Qúy ông đến đắp đập cho Hợp tác xă. Gia đ́nh chúng tôi phải hàng ngày đại diện Hợp tác xă cung cấp sắn bồi dưỡng cho các ông ấy đấy!”
    Tôi im lặng không nói ǵ, nhưng trong óc mung lung suy nghĩ và bây giờ mới hiểu ra tại sao ông cụ này hồi đó cư xử rất tử tế với chúng tôi, trong khi nhiều người khác luôn luôn có thái độ căm thù. Hồi c̣n ở Liên trại 1, Đội chúng tôi được chỉ định đi đắp đập thuê ở quanh vùng xă Việt Cường, Yên Bái (Tôi đă kể trong một đoạn trước). Hàng ngày, Tôi được Đội trưởng cử đi cùng 1 bạn khác theo Quản giáo Đội vào Hợp Tác Xă để nhân viên đưa đi đào sắn sống. “Tiêu chuẩn bồi dưỡng” Hợp Tác Xă cho mỗi người 1 kí lô một ngày. Chúng tôi lănh đem ra trao cho anh Nấu nước của Đội rửa luộc chia đều cho anh em “bồi dưỡng” trong giờ giải lao, sau khi đă lựa mươi củ to ngon để Quản Giáo Đội và Cảnh Vệ dùng trước. Chính ông cụ này, đă được Chủ nhiệm Hợp Tác Xă giao cho việc đưa chúng tôi ra ruộng sắn tự đào củ và cân cho chúng tôi. Bao giờ ông cụ cũng cho chúng tôi lấy nhiều hơn số cân lượng quy định cả chục ký.

    Công việc sửa sang đường băng qua xóm Hoán Bù vừa được chừng 1 cây số, Đội chúng tôi được điều động đi rẫy cỏ phá bụi trồng lúa nương, ngay bên kia bờ sông đối diện với khu trại giam. Đoạn đường c̣n lại chưa sửa không biết do Đội nào tiếp tục phụ trách.

    Đường đi đến khu lao động mới rất gần, chúng tôi chỉ phải lội qua sông nơi khúc cạn nước cao ngang đầu gối, ngay khu bến tắm hàng ngày của Anh Em Tù sát bên hàng rào Nhà Bếp của Trại giam ngó xuống.

    Làm việc tại khu này cá nhân Tôi học được một kinh nghiệm hú viá để đời. Một buổi sáng ra lao động, thấy trên khúc gỗ mục mọc đầy nấm mầu nâu non đẹp y như nấm Đông Cô, đúng loại nấm anh bạn thuộc Đội khác ở chung Láng chiều nào cũng nấu cả Gô đầy để ăn. Bạn ấy ăn ngon lành và khen rất ṛn ngọt chẳng thua ǵ nấm Đông Cô trong các Nhà hàng ăn của Tầu. Tôi liền hái một lố cỡ đầy 2 Gô, rửa sạch sẽ đem về trại giam. Chuẩn bị bữa ăn trưa, Tôi lấy một nửa số nấm hái được nấu chung với bánh ḿ luộc trại phát cắt miếng vuông nhỏ bằng đốt ngón tay và ḿ vụn gia đ́nh gửi tới để ăn thử. Quả không sai, nước súp rất ngọt y như có bỏ bột nêm, miếng nấm ăn rất ṛn ngon lạ thường.

    Anh bạn nằm kế bên, Đại tá Nguyễn Quốc Di (Trưởng Khối Tài Chánh của Tổng cục Chiến Tranh Chính trị) thuộc số anh em nghèo quà của gia đ́nh, thấy Tôi tấm tắc khen ngon ngỏ ư muốn nếm thử. Tôi múc ra tặng một Ca nhỏ, bạn ấy chỉ lấy phân nửa ư chừng sợ gặp nấm độc không dám ăn nhiều. Thấy mấy Bạn khác nằm gần đưa mắt nh́n chúng tôi ăn, Tôi mời nếm thử nhưng họ lắc đầu không ai dám liều.

    Ăn vừa xong bữa, Tôi cảm thấy đầu bừng bừng lâng lâng, giật ḿnh nghi là bị say nấm, Tôi bèn báo cho Đội trưởng và các Bạn nằm kế bên biết để lỡ bất tỉnh th́ các Bạn đem đi Bệnh xá cấp cứu. Sau đó Tôi chạy vào nhà vệ sinh trong Láng móc cổ họng cho mửa ra, nhưng chỉ nôn ra được có chút đỉnh thôi. Người bắt đầu cảm thấy lảo đảo như say rượu, phải vội vă lấy đường và bột đậu xanh ra hoà đầy một ca uống giải độc.

    Hai mắt mỏi xụp xuống buồn ngủ vô cùng, Tôi phải cố hoạt động để cưỡng lại sợ ngủ có thể ngất lịm đi luôn không ai biết th́ nguy. Cứ nằm xuống ngồi lên, Tôi múc từng muổng đường cát cho vào miệng ngậm cho đến giờ kẻng tập họp đi lao động buổi chiều trổi lên, mới cảm thấy dễ chịu hơn không c̣n lảo đảo nữa nên sửa soạn đi lao động như thường. Dĩ nhiên phải mang theo Gô đường cát đầy nhóc, để tiếp tục ngậm liên tục từng muổng một cho mau giải say. Anh bạn Di ăn ít nên chẳng sao.

    Trên đường đi đến hiện trường lao động, lúc lội ngang sông Tôi trầm ḿnh xuống nước cho ướt sũng cả quần áo và đầu, hy vọng cái lạnh làm thay đổi thân nhiệt đột ngột sẽ giúp cho cơ thể trở lại b́nh thường nhanh hơn. Nhưng cái nạn buồn ngủ vẫn đè nặng trên đầu, Tôi phải cố gắng lao động liên tục hăng hái hơn b́nh thường cho mồ hôi vă ra thật nhiều để thải độc. Lạ một điều, lao động hăng hơn b́nh thường mà không cảm thấy mệt. Vừa lao động vừa suy nghĩ “thật chẳng cái dại nào giống cái dại nào” như các Cụ thường ví von, nên Tôi cứ tủm tỉm cười một ḿnh hoài. Anh Bạn Di bông đùa đặt cho loại nấm mà chúng tôi ăn một cái tên thật kỳ lạ: “khích tiếu nấm”, tức là loại nấm kích thích cho ḿnh phải cười hoài.

    Chiều về, Tôi mang chỗ nấm c̣n lại chưa dùng bỏ thùng rác, anh Bạn khác Đội ở chung láng chạy lại xin để ăn. Tôi nói không nên nấm này ăn làm say nguy hiểm. Lúc đó anh Bạn mới tiết lộ cái bí quyết sửa soạn loại nấm đó ăn không bị say, và đêm ngủ ngon thẳng giấc y như uống thuốc ngủ. Đó là, phải luộc thật kỹ, đổ bỏ nước, chỉ ăn xác nấm đă luộc chín sau khi vắt kiệt hết nước như ăn rau, và chỉ ăn vào buổi tối. Thảo nào, thấy anh Bạn ấy ăn hàng ngày không sao, ḿnh vừa mới thử đă bị say làm sợ hết hồn hết vía.

    Mặc dù được anh Bạn chỉ cho bí quyết rơ ràng, nhưng từ đó trở đi Tôi không bao giờ dại dột thử lần thứ hai, kể cả nấm mối hay nấm trứng vẫn thường ăn xưa nay ngoại trừ nấm mèo (mộc nhĩ). Vùng này có nhiều mộc nhĩ to bằng bàn tay và dầy, chúng tôi thường lấy về xắt nhỏ nấu với đậu xanh làm chè ăn rất ngon.

    Một hôm, bỗng dưng toàn K2 được nghỉ lao động buổi sáng tập trung lên Hội trường nghe “Ban” Thùy (Giám thị Trưởng Trại Thanh Phong) từ K1 vào nói chuyện. Ông ta ṿng vo Tam quốc về t́nh người, về ḷng nhân đạo... để đi đến kết luận:

    “-Trại sẽ đem khoảng một trăm Tù H́nh Sự trong K3 (vùng tử địa) đang bệnh hoạn không đủ khả năng lao động về ở chung tại K2. Để cứu sống nhóm “đầu lâu chân tay” này, Trại sẽ trích bớt phần “tiêu chuẩn” ăn hàng ngày của anh em để tăng cường “bồi dưỡng” cho bọn chúng trong ṿng 2 tháng. Theo tinh thần Dân Chủ, Trại yêu cầu anh em cho biết ư kiến để kịp thời quyết định.”
    Thật là “nhân nghĩa Bà Chuá Đễ”, ai cũng biết là không đồng ư cũng chẳng được lại mang tiếng Vô Nhân Đạo, nên mọi người vui vẻ vỗ tay “nhất trí”. Thế là Ban Giám Thị đă đạt được “mục đích yêu cầu” một cách dễ dàng vẻ vang mà không mang tiếng độc tài đảng trị.

    Kể từ hôm sau, mấy Đội nông nghiệp (dĩ nhiên có cả Đội chúng tôi) được tập trung thực hiện một hàng rào tre cao 2 mét, để nguyên cây ken sát bên nhau chôn sâu xuống đất 80 phân. Hàng rào nằm dọc theo bên này con đường rộng 6 mét, phân cách Khu Cách Ly giam chúng tôi và Khu sẽ giam H́nh sự. Sau 1 tuần lễ lao động “khẩn trương” hàng rào hoàn tất, bọn “Đầu lâu chân tay” được xe tải chuyển từ K3 về K2 nhốt trong 2 dẫy Láng ở góc sân thấp nhất của Trại giam, nơi mà chúng tôi bị đưa vào giam từ đêm mới đến hồi đầu năm 1980 đến khi “biên chế” lại và chuyển sang Khu Cách Ly hiện tại.

    Bọn Tù H́nh Sự này c̣n rất trẻ, ốm tong teo chỉ thấy da bọc xương, ghẻ lở cùng ḿnh, quần áo rách rưới bẩn thỉu hôi hám, đầy chí rận. Chúng được ở trong trại “bồi dưỡng” khoảng 2 tuần lễ, tạm coi như đă tỉnh táo trở lại nên phải đi tham gia lao động. Một nhóm đi làm tại Khu trồng rau xanh, một nhóm sang làm gạch và làm mía. Chúng bị cấm ngặt không được “quan hệ” với chúng tôi, nhưng tại hiện trường lao động cũng như tại bến tắm sau giờ lao động, chúng luôn luôn t́m cách mon men đến gần chúng tôi để xin thức ăn, thuốc hút, đồ dùng lặt vặt như khăn mặt, quần áo cũ... Ai tỏ ra hào hiệp sởi lởi được chúng nịnh Bố Bố Con Con ngọt sớt, c̣n ai lạnh lùng làm ngơ không đáp ứng lời năn nỉ, chúng đổi giọng hỗn xược chửi thẳng thừng “Đ..M.. Bố già keo kiệt”. Thật là mất dậy hết chỗ nói.

    Đa số trong bọn Tù H́nh Sự này toàn là thành phần băng đảng, ăn cắp, cướp của, hăm hiếp, giết người ngoài Xă hội, đă bị bắt tập trung trong các Trại Cải Tạo Thiếu Nhi từ thuở c̣n thơ ấu. Đến khi chúng hết tuổi vị thành niên, phải chuyển sang Trại Cải tạo của người lớn tiếp tục cải tạo cho đến hết án phạt.

    Có đứa rất tội nghiệp, v́ hoàn cảnh gia đ́nh đông anh em túng thiếu, cha mẹ bệnh hoạn, phải lập bọn tổ chức ăn cắp của Hợp Tác Xă nên bị bắt Cải Tạo, lúc nào cũng mong cho mau hết hạn trở về với gia đ́nh. Nhưng cũng có đứa thuộc loại “cải tạo chuyên nghiệp” ra vào tù như đi chợ. Ngoài xă hội, chữ nghĩa ăn đong, nghề nghiệp chuyên môn không có, lại thích sống phè phỡn như các cậu ấm cô chiêu con Đảng viên Cán bộ Nhà Nước, nên phải chuyên hành nghề bất hảo trấn lột của người mà tiêu dùng cho đỡ cực nhọc. Cướp một lần sống thoải mái rong chơi đàn đúm đĩ đượi cả tháng, rồi mới chuẩn bị làm mẻ khác. Nếu chẳng may bị thộp th́ vào cải tạo ít lâu đâu có sao! Mấy đứa này thường là các tay “anh chị đầu nậu” hiếp đáp tù khác trong trại, để được cung phụng sống chẳng khác nào Cán bộ cai tù. Trường hợp trại giam có 2, 3 đứa thuộc loại này cùng bị nhốt một lượt, th́ chúng lập phe cánh riêng chém giết nhau để tranh giành ảnh hưởng làm Chúa tể trong Láng ngủ.

    Từ ngày có bọn H́nh Sự về ở chung trong K2, anh em chúng tôi gặp cái nạn bị mất đồ lặt vặt thường xuyên nơi bến tắm. Cán bộ Cảnh Vệ bắt được đánh đập chúng rất tàn nhẫn. Họ dùng báng súng đánh vào đầu cho ngă lăn ra đất, xỉa đầu mũi súng vào ngực vào bụng, đá vào mặt vào đầu. Chúng co rúm người lăn lộn trên mặt đất, chịu đ̣n kêu la xin tha tội, nhưng chẳng được “chiếu cố”. Một người đánh chưa đủ, họ xúm nhau 2, 3 người ùa vô đánh “đ̣n hội chợ” thấy mà khủng khiếp. Thế mà chúng cũng chẳng sợ, chứng nào vẫn tật nấy.

    Mánh khoé cướp đoạt công khai giữa ban ngày của bọn H́nh Sự này rất tinh vi. Muốn lấy cả đôi “dép râu” của ḿnh, chúng lén lấy một chiếc giấu vô trong bờ bụi quanh băi rác bên bờ sông, khi tắm xong lên nạn nhân bị đánh cắp thấy chỉ c̣n một chiếc dép, t́m hoài không thấy chiếc kia đành vứt quách chiếc c̣n lại vào đống rác đi chân đất về trại. Thế là buổi tắm kế theo, thằng qủy sứ ṃ đến đống rác công khai đi lượm trước mặt các Cán bộ Cảnh Vệ, cả 2 chiếc dép mang ra để làm của riêng chẳng ai làm ǵ được nó. Thật vô cùng tinh khôn bịp bợm, phải chăng đây là nền văn hoá giáo dục mà chúng đă tiêm nhiễm được từ khi c̣n nằm trong ḷng mẹ trước khi ra đời?

    Trong giờ lao động, bao giờ chúng tôi cũng nhờ anh Nuôi của Đội nấu chín giùm những Gô ḿ, cơm, hoặc các thức ăn phụ khác để đem vào trại tăng cường cho các bữa ăn của ḿnh. Hết giờ lao động, trước khi trở vào khu giam tất cả các Đội đều được tập trung xuống bến sông tắm, trong khi ḿnh tắm mấy thằng H́nh Sự ốm đói đảo tới khu để quần áo, lén lấy những Gô đồ ăn chạy ra bên đống rác bốc bỏ miệng ăn ngấu nghiến cho kỳ hết, rồi vứt lon Gô không vào đống rác. Trường hợp có người trông thấy tri hô lên, Cán bộ Cảnh Vệ xấn tới đánh nó túi bụi, nó vẫn tỉnh khô chịu đ̣n và tiếp tục nhồi nuốt cho hết mới thôi. Cũng có đứa chậm chạp hơn, chiếc Gô đang ăn dở bị giật ra để trả lại cho sở hữu chủ. Nhưng ai mà dám ăn chỗ c̣n lại đành phải đổ đi, lập tức có một đứa khác chạy ùa tới bốc cho vào miệng ăn lấy ăn để.

    Từ đó về sau mỗi khi xuống sông tắm, chúng tôi phải tổ chức cử người thay phiên nhau đứng canh chừng bên khu quần áo và đồ đạc cho yên bụng.

    Một buổi trưa đi lao động về anh em đang chuẩn bị ăn, nghe nhiều hồi c̣i huưt toét toét liên tục rồi thấy nhiều Cán bộ từ ngoài cổng Trại rầng rầng chạy vào Khu giam Tù H́nh Sự. Khoảng 10 phút sau, thấy dẫn ra 2 đứa tay bị c̣ng quặt ra sau lưng, một đứa vừa đi vừa bị đánh túi bụi ngă xấp ngă ngửa, đứa kia máu me đầy áo quần nơi bụng. Buổi chiều đi lao động hỏi ra mới biết, 2 tay “anh chị đầu băng đảng” thanh toán nhau v́ chuyện xích mích giành đàn em phục vụ trong Láng giam.

    Đứa đâm người là “Bụi đời” gốc Hà-nội bị án tù chung than, v́ tội bắt cóc hiếp và giết chết cô gái con của ông Lănh Sự thuộc Toà Đại sứ Đông Đức đồng minh của Nhà Nước Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đứa bị đâm, là “Anh hùng” khét tiếng của Hải pḥng từng nổi danh đem một toán bạn về tra khảo Bà Nội của chính nó để đ̣i tiền ăn chơi, rồi thay phiên nhau hiếp dâm và giết để phi tang.

    Từ khi có bọn H́nh Sự giam tại K2, các Cán bộ Cảnh vệ có dịp được mua vui thoả thích tại “hiện trường lao động” một cách dă man, y như ta thường thấy các đoạn giải trí của Vua Chúa thành La Mă trong các phim truyện cổ trích từ Kinh Cựu Ước. Họ treo giải thưởng 1 củ sắn để cho 2 đứa đánh đấm vật đá nhau kịch liệt. Đứa nào đánh được đứa kia hộc máu mồm máu mũi phải quỳ lạy xin thua th́ được lấy giải thưởng. Lúc nào cũng có 2 đứa hăng hái ra đấu để tranh giải.

    Thật khủng khiếp, kết quả “to lớn” của nền giáo dục Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam “đấu tranh san bằng giai cấp đem lại công bằng xă hội” nhập cảng từ Liên xô-Trung Cộng, cộng với “Chính sách trăm năm trồng người của Bác Hồ” áp dụng trong suốt hai mươi mấy năm độc quyền cai trị tại miền Bắc Xă hội chủ nghĩa là như vậy sao?

    Một buổi sáng trời trong vắt anh em đang chuẩn bị ra tập họp xuất Trại lao động, có lệnh An ninh yêu cầu các anh Đại tá Lê Đ́nh Luân (Đơn vị 101 thuộc Pḥng 2 Bộ Tổng Tham Mưu), Phạm văn Phô (Đội phó), Trịnh Bảo Chương, Tôn Thất Hùng (dân gốc Pḥng Nh́) ở lại Láng làm việc với Cán bộ. Đến trưa măn lao động vào trại, mới biết các anh ấy đă được Cán bộ từ Hànội tới chở đi khỏi Trại. Đến tối trong giờ sinh hoạt kiểm thảo, Quản Giáo Đội đứng ngoài cửa sổ chuyển lệnh chỉ định anh Đại tá Lê Phú Phúc làm Đội trưởng thay thế anh Luân. (Anh Phúc gốc Truyền Tin, hồi những năm đầu thập niên 1960, Tôi là Thiếu Tá Cục Phó Cục Truyền Tin Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa tại Saigon, anh Phúc là Đại Úy Liên Đoàn trưởng Liên đoàn Truyền Tin. Cơ sở Liên đoàn đóng tại gần Trường đua ngựa Phú Thọ.)

    Mấy ngày sau, bất thần có cuộc tổng xét tư trang Tù Chính trị miền Nam toàn K2, bọn Tù H́nh Sự vẫn xuất trại đi lao động như thường. Sau buổi xét tư trang, có anh Trung tá (Chiến tranh Chính trị thuộc Không Quân) ở một Láng trong cùng Khu Cách Ly của chúng tôi bị bắt giam vào Nhà Kỷ Luật. H́nh như Cán bộ bắt được quả tang anh ấy xé và vứt xuống hố nước tiểu nơi đầu nhà phía sau Láng chúng tôi mấy tờ giấy, ghi chép những điều liên quan tới vụ thành lập Chính phủ lưu vong hay một Hội Cựu Tù Nhân Chính trị ǵ đó.

    Những ngày kế theo, nhiều người bị gọi lên “làm việc” với Cán bộ An ninh. Đội chúng tôi có anh Đại tá Nguyễn văn Lương (gốc Địa phương Quân) cũng bị gọi lên “làm việc”, h́nh như anh ta có ghi danh nhận một chức vị ǵ đó trong Ban Chấp hành của tổ chức dự trù thành lập. Linh Mục Phan Phát Hườn thuộc Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ cũng bị gọi lên điều tra, v́ nghe nói Ngài cũng có nhận một chức vị nào đó trong Ban Chấp hành. (Hồi những năm đầu thập niên 1960, lúc Tôi làm Cục Phó Cục Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu, Linh Mục Hườn là Tuyên úy của Binh chủng Truyền Tin. Ngài đă giúp cho Binh chủng xây dựng được một Nhà Nguyện và một Trường Trung học đệ Nhất Cấp “Tinh Thần” tại Trại Gia binh của Tiểu đoàn Truyền Tin ở ngay phía sau toà Nhà Chánh của Bộ Tổng Tham Mưu. Đức Tổng Giám Mục Nguyễn văn B́nh đă đến Chủ lễ Khánh thành,)

    Ngay sau buổi xét tư trang, Đội chúng tôi có sự thay đổi lớn, một số bạn Đại tá được chuyển qua Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ, ngược lại một số Đại Đức Tuyên úy Phật Giáo và Linh Mục Tuyên úy Công Giáo trẻ khoẻ thuộc Đội Rau Xanh được tăng cường vào Đội chúng tôi. Sau vụ “biên chế” này Đội chúng tôi chấm dứt công tác Nông Nghiệp trở thành Đội Mía. Chúng tôi làm trong ḷ mía chớ không làm ngoài đồng mía như hồi trước. Đội được chia thành 4 toán (gọi là Khâu) để thực hiện 4 công tác khác nhau:

    1.- Khâu Róc Vỏ Mía và chuyển vào pḥng ép mía.
    2.- Khâu Ép Mía chia thành 2 toán thay phiên nhau làm việc từng đợt 30 phút, mỗi đợt 2 người làm trâu đẩy cần quay các trục ép, 1 người ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép, và 1 người lo chuyển mía vào cho người ép rồi đem các thùng nước mía đă ép đổ đầy vào các vạc lớn để trên ḷ.
    3.- Khâu Nấu Mật lo đun các vạc nước mía liên tục suốt ngày đêm, cho sôi đến độ cạn quánh thành “mật đường”.
    4.- Khâu sau cùng, gồm anh Dương Hiếu Nghĩa (Đội phó) và một bạn phụ tá lo ủ nước mía sống cho lên men để cất rượu trắng.
    Mỗi Khâu làm việc có những vất vả nguy hiểm khác nhau. Khâu Róc Mía phải làm thật nhanh mới kịp đủ mía cho Khâu Ép không phải ngồi đợi. Thân cây mía nhỏ cầm nơi tay trái, tay phải cầm dao róc, làm không cẩn thận sẽ vạt đứt luôn mấy đầu ngón tay trái như chơi. Róc bỏ vỏ dầy quá sẽ bị kiểm điểm phung phí của Xă hội Chủ nghĩa.
    Công tác của Khâu Ép Mía có lẽ nặng nhọc vất vả nhất trong các Khâu. “Bộ phận” đẩy cần trục ép gồm 2 người, mỗi người đứng ở một đầu cây cần gỗ dài đi ṿng tṛn đuổi theo nhau, đẩy cho 2 trục ép bằng kim khí cao 1 mét đường kính rộng 50 phân, đầu trục có răng cưa xoay ngược chiều nhau. Khi nào giữa khe của 2 trục không có những cây mía mới đẩy vào để ép, việc đẩy trục quay thấy nhẹ nhàng không tốn sức bao nhiêu, nhưng đến khi có những cây mía mới được đẩy vô ép sức cản trở nên nặng vô cùng. Muốn cho trục quay, cả 2 người đẩy phải để 2 bàn tay ngang ngực đè vào cần trục, bấm các đầu ngón chân xuống đất ra sức đẩy về phía trước theo thứ tự từng chân một. Cứ mỗi 30 phút các người đẩy cần trục quay phải được thay phiên, nếu không chẳng c̣n sức mà tiếp tục. Tôi được chia vào toán phụ trách “bộ phận” đẩy trục ép mía thật vất vả hết chỗ nói.

    Người chuyên ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép ngó thấy có vẻ không vất vả, nhưng lại có nhiều rủi ro nguy hiểm hơn cả. Phải làm sao đưa đều đều liên tục từng ôm 4, 5 cây mía vào khe giữa 2 trục ép một lúc, nếu không cẩn thận bàn tay có thể bị dính cuốn theo và bị ép nát cả cánh tay như chơi. C̣n một điều khó khác nữa là, phải giữ làm sao cho không cây mía nào đẩy vào ép rắt vào các răng cưa của trục. Dù chỉ 1 răng cưa bị rắt, trục cũng sẽ khựng lại không quay được. Mỗi lần trục đang quay ngon trớn bị kẹt khựng lại là một đ̣n nặng đánh dồn vào ngực của những người đẩy cần trục ép, đau tức ê ẩm như muốn gẫy bộ xương lồng ngực.

    Khâu Nấu Mật có những nguy hiểm vất vả khác. Mỗi khi có vạc đầy nước mía bắt đầu đun, phải thay phiên nhau tiếp củi giữ lửa cháy liên tục đều đều suốt ngày đêm, đến khi cạn quánh thành “mật đường” mới hoàn tất nhiệm vụ. Trong khi đun c̣n phải dùng cây bơi chèo thong thả khuậy nước mía sôi trong vạc, liên tục theo chiều quay của kim đồng hồ cho mật không bị lắng khê nơi đáy vạc. Trong ḷ nấu lúc nào cũng có 2, 3 vạc sôi sùng sục, khí nhiệt toả ra nóng nực kinh khủng hơn cả phơi nắng ngoài trời vào giữa trưa mùa Hạ. Khi nước mật bắt đầu xệt lại, việc đứng bên mép miệng vạc cầm gậy khuậy tṛn được coi là lúc nặng nề khó khăn nguy hiểm nhất. Sơ ư có thể bị té vào vạc mật chết phỏng như không. Trước khi Đội chúng tôi vào làm trong ḷ mật đă có một Tù H́nh Sự bị phỏng nặng v́ tai nạn này.

    Công tác của Đội Mía vất vả nguy hiểm như vậy, nên Ban Giám Thị K2 “chiếu cố” chỉ thị Quản Giáo cho chúng tôi một đặc ân làm chúng tôi rất ngạc nhiên. Mỗi buổi lao động hàng ngày, mỗi người trong Đội chúng tôi được “bồi dưỡng” 1 Gô đầy nước mía tươi vừa ép ra. Có thể để uống tươi như vậy hoặc đun sôi lên rồi mới uống tùy ư. Nhờ thế sau vài tuần làm tại ḷ mía, anh em chúng tôi ai cũng có đôi má hồng hồng như thoa phấn.

    Nhưng cuộc sống Tù có bao giờ được phẳng lặng xuôi ḍng êm ả theo mong muốn đâu. Thường xuyên lúc nào cũng có những tai ách bất ngờ hoặc do người hoặc do Trời đem đến, khiến cho mạng sống của Tù mong manh chẳng khác nào “trứng treo đầu chỉ”. Vào một buổi trưa Chủ Nhật, mọi người đang chuẩn bị nấu nướng thêm những món ăn “cải thiện” tăng cường cho ca Bo Bo luộc do Trại phát (loại thực phẩm dành cho ngựa của Ấn Độ viện trợ ghi rơ bằng Anh ngữ ngoài bao đựng), th́ từ Khu bếp lộ thiên bên hàng rào phía cuối Khu Cách Ly của chúng tôi có tiếng xôn xao náo động. Rồi thấy một toán 3, 4 người xúm nhau khiêng một anh mập mạp hôn mê bất tỉnh xuống Bệnh Xá cấp cứu. Tôi chạy ra coi thấy đang khiêng anh Đại tá Nguyễn Ngọc Điệp (trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu, từng nổi danh là “Hùm Xám Rừng Đước”). Đến gần tối, mới thấy xe tải từ Phân trại K1 chạy vào di tản anh Điệp ra Bệnh Xá K1 Trại Thanh Phong điều trị, v́ Bệnh Xá K2 không đủ phương tiện cứu chữa.

    Theo tin tức từ Bệnh Xá do bạn Tù (Bác sĩ Quân Y của QLVNCH) phụ tá cho Cô Cán bộ Y tế của K2 cho biết:

    “-Anh Điệp bị hôn mê có lẽ v́ bị đứt mạch máu năo do cao áp huyết. T́nh trạng rất nguy kịch, với phương tiện nghèo nàn về Y Tế của Bệnh xá Trại giam không biết có cứu được không? Không biết Trại có cho di tản ra Nhà Thương Thanh Hoá cấp cứu kịp không?”

    Chúng tôi rất buồn thương cho hoàn cảnh không may của anh Điệp nhưng chẳng làm ǵ hơn được, chỉ biết cầu nguyện cho Bạn tai qua nạn khỏi. Sống chết đều do mệnh Trời sắp đặt riêng cho mỗi người chẳng ai biết trước mà tránh.

    Chừng mươi ngày sau, anh bạn Tù (Bác sĩ) Phụ tá tại Bệnh Xá K2 có dịp theo Cán bộ Y tế ra K1 lănh thuốc về cho biết:

    “-Anh Điệp nằm mê man nơi Bệnh Xá Trại Thanh Phong cả tuần sau th́ hồi tỉnh. Nay anh ấy đă bắt đầu cử động được nhưng chậm chạp khó khăn, nói năng phát âm hơi ngọng nghịu, quên không biết ḿnh là ai cũng như không nhận ra được bạn bè cũ. Thường xuyên nói chuyện với những người vô h́nh, y như người bị bệnh tâm thần trong các nhà thương điên.”

    Thật tội nghiệp nhưng Trời chưa bắt chết là mừng rồi, sau này được tha chắc chắn bệnh sẽ hết.

    Hai tháng sau anh Điệp lành hẳn đi lại nói năng được b́nh thường, trí nhớ phục hồi được khoảng 80 phần trăm. Rời Bệnh xá Trại tại K1 trở về K2, anh Điệp được Ban Giám Thị Phân trại “chiếu cố” đặc biệt giao cho phụ trách chăm sóc vun tưới vườn bông và vườn rau “cải thiện” nhỏ của các Cán Bộ Trực Trại ngay bên trước cổng ra vào Khu giam.,

    Lúc này anh bạn Tù (Bác sĩ) mới giải thích:

    “-Anh Điệp bị trường hợp Nhũn Năo (stroke) chớ không phải đứt mạch máu năo nên mới có may mắn như vậy.”
    Sau anh Điệp, ở K2 c̣n có thêm 2 người nữa cũng bị trường hợp y như vậy.

    Một là Linh Mục người gốc Trung Hoa cao lớn mập mạp (trước 30-4-1975 cai quản Đặc Khu Hải Yến, gồm toàn người Trung Hoa vùng Quảng Tây chạy sang Việt Nam tỵ nạn từ khi toàn Lục địa Trung Hoa Dân Quốc của ông Tưởng Giới Thạch lọt vào tay Trung Cộng Mao Trạch Đông. Đặc Khu Hải Yến là một vùng biệt lập hẻo lánh giữa ranh giới Cà Mâu và Rạch Giá tại miền Tây Nam Việt. Cư dân có tinh thần chống Cộng rất mănh liệt.) Sau nhiều ngày bị nằm liệt v́ Nhũn Năo tại Bệnh Xá K1, Linh Mục cũng hồi tỉnh trở lại b́nh thường trả về K2 làm chung công tác lo vườn hoa với anh Điệp. Ngày ngày đi xuống leo lên con dốc nghiêng 50 độ dài chừng 50 mét, để sách từng thùng nước sông lên tưới rau và hoa trước cổng Khu Giam.

    Người thứ hai là Trung tá Nguyễn Thủy Chung thuộc Đội Nhà Bếp (trước 30-4-1975 làm Phụ tá Trưởng Khối Tổ chức Tổng Cục Chiến tranh Chính trị, Tôi đă có dịp nói đến trong một đoạn trước). Số mệnh anh Chung không may bằng 2 vị kia, nên bị “bán thân bất toại” và nói ngọng. Một thời gian sau được tha về đoàn tụ với gia đ́nh và đă qua đời tại Phú Nhuận Saigon. Chẳng biết sau này Vợ Con của anh Chung có được Chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho đi định cư tỵ nạn theo diện H.O. hay không?


    Xem tiếp...

  2. #162
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 28 : NHỮNG NGÀY THÁNG CUỐI, LƯU ĐẦY CẢI TẠO TẠI MIỀN BẮC VĨ TUYẾN 17

    Kiếp sống Tù Cải tạo lao động khổ sai buồn thảm cứ vất vưởng lặng lẽ trôi theo thời gian giữa rừng già trong dải Trường Sơn. Nhưng các bà Vợ Tù lại hăng hái gan dạ không ngại gian lao khổ cực đường xa núi thẳm rừng sâu khe suối gập ghềnh, t́m đến thăm nuôi chồng tấp nập tại K2 Trại Thanh Phong. Hầu như ngày nào cũng có bốn năm Bà thay phiên nhau chiếm ngụ Khu Nhà Thăm Nuôi đợi gặp chồng.

    Riêng phần Tôi đă biết rơ hoàn cảnh và sức khoẻ của Vợ Con, nên luôn luôn b́nh tâm chờ đợi những gói Bưu kiện hàng tháng và ngày hết cơn đại nạn ra khỏi Trại Tập Trung cùng Vợ Con đi định cư lập lại cuộc đời, ngoài cái nhà tù khổng lồ Cộng hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam dưới quyền thống trị bạo tàn của Đảng Việt Cộng này.

    Mỗi buổi chiều đi lao động về trong khi các Đội đứng xếp hàng trước cổng đợi đến lượt vào khu giam, không ai bảo ai hầu như mọi người đều hướng mắt về Khu Nhà Thăm Nuôi quan sát như chờ trông một phép lạ sắp xẩy ra. Khi thấy bóng chiếc xe tải của K1 chạy tới, mọi người reo ồ lên:

    “Tới rồi! Tới rồi!”
    khiến Cán bộ Trực Trại phải giật ḿnh xửng sốt hỏi:

    “-Cái ǵ, cái ǵ mà ồn ào vậy?”
    Nhưng sau khi được anh Trưởng Ban Thi Đua giải thích lư do, Cán bộ nhe răng cười không nói ǵ.

    Các Tuyên Úy Phật giáo lẻ tẻ cũng có người được thăm nuôi, có Vị được thân nhân thăm nuôi, có Vị được Phật tử nơi Chùa ḿnh trụ tŕ hồi trước khi đi tŕnh diện học tập đến thăm nuôi. Riêng đối với Thượng Tọa Thích Thanh Long Giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, được Phật tử của Chùa Giác Ngạn nơi Ngài Trụ Tŕ trước 30-4-1975 đến thăm nuôi cũng như gửi Bưu kiện tiếp tế rất đều hòa.

    Mỗi lần Thượng Tọa Thanh Long nhận được tiếp tế th́ các Đại Đức theo nhau lén tới thăm, mỗi người tùy nhu cầu được tự do chia nhau lấy những món quà của Thầy, ngoại trừ thuốc lào không ai dám động tới v́ biết đó là nhu cầu duy nhất mà Thầy cần. Rút cuộc Thầy chẳng c̣n ǵ, y như chưa hề được thăm nuôi hay nhận Bưu kiện.

    Mỗi khi có dịp cho các đệ tử đến chia nhau “xỉa” quà như vậy, Tôi quan sát thấy nét mặt của Thượng Tọa Thanh Long rạng rỡ hẳn ra, chắc là trong tâm Ngài đang rộn rực hoan hỉ v́ đă đem lại niềm vui cho những người khác. Thật là một gương sáng về ḷng Từ bi Hỉ xả của một nhà Tu hành chân chính làm Tôi thán phục vô cùng.

    Những năm 66 và 67 Tôi làm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Trung Ương Địa Phương Quân và Nghĩa Quân (ĐPQ & NQ) tại Saigon, Thượng Tọa Thanh Long là Tuyên Úy trưởng của các Tuyên úy Địa Phương Quân & Nghiă Quân trên toàn 4 Vùng Chiến Thuật tại BCH Trung Ương ĐPQ và NQ. Trong giai đoạn Phật Giáo xuống đường đấu tranh thời Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương, Thượng Tọa Thanh Long đă giúp Tôi hoàn thành một công tác vô cùng khó khăn lúc bấy giờ ngay tại Viện Hóa Đạo ở đường Trần Quốc Toản Saigon. Từ đó về sau Thượng Tọa và Tôi càng thêm thân thiết, y như Ngài là Thầy đỡ đầu cho Tôi Quy Y Tam Bảo vậy.

    Đầu đuôi câu chuyện như thế này:

    “Khắp trên toàn miền Nam Việt Nam, Phật tử dưới sự lănh đạo của một số Tăng Ni tranh đấu chống Chính phủ xuống đường thường xuyên ngày đêm. Đặc biệt tại Saigon, Viện Hóa Đạo ở đường Trần Quốc Toản được coi là trụ sở Trung ương lănh đạo Phong trào, các Đại Lăo Hoà Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử và quần chúng hiếu kỳ ra vào tấp nập suốt ngày đêm.
    Một buổi sáng, đúng vào lúc cao điểm người và xe cộ đang vội vă chen nhau đi làm, đi học, đi chợ búa cho kịp giờ. Bỗng dưng, có một xe vận tải của Quân lực Hoa Kỳ chạy ngang trên đường Trần Quốc Toản, khi xe tới gần trước cổng Viện Hóa Đạo đang có đồng bào Phật tử tụ tập di chuyển hỗn độn đầy cả mặt đường đến bu quanh chiếc xe, làm người lính Đồng Minh Hoa Kỳ ngồi bên tài xế sợ hăi nổ súng chỉ thiên hướng ra phía trước, với hy vọng làm cho mọi người giật ḿnh tránh sang 2 bên đường cho xe chạy qua. Nhưng không may, một viên đạn lạc trúng nhằm người đàn ông cưỡi xe gắn máy gục ngă ngay bên lề đường phía gần Chợ Cá Trần Quốc Toản. Mọi người giạt sang bên cho chiếc xe chạy qua, rồi xúm nhau khiêng người bị nạn vào bên trong Viện Hóa Đạo để cấp cứu, nhưng không kịp và ông ta đă chết.
    Một lúc sau tin t́nh báo cho biết, người đàn ông mặc thường phục gặp nạn ấy là một Chiến sĩ Địa Phương Quân thuộc Tỉnh Biên Hoà. Cùng lúc đó Tôi nhận được điện thoại từ văn pḥng Tham Mưư trưởng Liên quân Bộ Tổng Tham Mưu, ra lệnh cho Bộ Chỉ huy Trung Ương ĐPQ và NQ (trụ sở ở tại đường Hùng Vương Chợ Lớn) phải nhờ Tuyên Úy Phật Giáo của Bộ Chỉ Huy là Thượng Tọa Thích Thanh Long giúp can thiệp đem xác Chiến hữu này ra khỏi Viện Hóa Đạo, để tránh việc Ban tranh đấu lợi dụng xác chết làm rùm beng gây thêm chuyện khó khăn cho Chính Phủ Nguyễn Cao Kỳ. Lệnh ra phải tức tốc thi hành và báo cáo kết quả lên Bộ Tổng Tham Mưu trong thời gian sớm nhất.
    Là Tham Mưu trưởng của Bộ Chỉ huy Trung ương ĐPQ & NQ, Tôi phải cử ngay người lên tận Biên Hoà tiếp xúc với thân nhân của người Chiến hữu bất hạnh để trấn an, và yêu cầu Bộ Chỉ huy ĐPQ và NQ Biên Hoà cho người canh chừng không cho ai có cơ hội đến tiếp xúc với gia đ́nh nạn nhân mua chuộc lợi dụng. Đồng thời Tôi phải đích thân chạy tới nơi cư ngụ của Ban Tham mưu các Thầy lănh đạo Viện Hóa Đạo trong Khu Bàn Cờ t́m gặp Thượng Tọa Thích Thanh Long, nhờ tiếp xúc giàn xếp giúp cho Tôi diện kiến Thượng Tọa Thích Tâm Châu để tŕnh bầy xin giúp đỡ tránh trường hợp những phần tử quá khích lợi dụng xác chết làm lớn chuyện. Thượng Tọa Tâm Châu không có mặt tại đó, Thượng Tọa Thanh Long phải lên xe mở đường dẫn Tôi vào Viện Hóa Đạo để t́m Thượng Tọa Tâm Châu xin diện kiến.
    Thoạt đầu chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn, Thượng Tọa Thanh Long phải đích thân đi gặp hết Thầy này đến Thầy kia qua lại cả giờ đồng hồ sau mới được diện kiến Thượng Tọa Tâm Châu. Sau khi nghe tŕnh bầy cặn kẽ mọi khía cạnh của sự việc, Ngài suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu thông cảm hoan hỉ giúp đỡ chúng tôi. Nhờ thế vào lúc nửa đêm ngày hôm đó, chúng tôi đă dùng xe Quàn Mai Táng của ĐPQ & NQ có anh em Nhẩy dù đi theo hộ tống, không mở đèn chạy lén vào đường cổng hậu của Viện Hóa Đạo đem xác Chiến hữu xấu số ra khỏi ṿng vây của hàng ngàn người đấu tranh lúc nào cũng tấp nập ra vào tràn ngập Viện Hóa Đạo.”
    Cuối tháng 4 năm 1982 Tôi được rời Trại Thanh Phong chuyển về Nam, Thượng Tọa Thanh Long bị đưa trở ra vùng đồng bằng Bắc Việt. Ngài được tha ra khỏi trại tập trung trước Tôi mấy tháng, trở về tiếp tục tu tại Chùa Giác Ngạn ở Phường 10 Quận Phú Nhuận Saigon. Ngài đă qua đời ngày 22 tháng 10 năm 1991 (Tân Mùi) v́ bệnh hoạn, hậu quả của mười mấy năm chịu đọa đầy trong các Trại Tập trung cải tạo của Cộng sản Việt Nam.

    Phần các Tuyên Úy Công giáo, việc thăm nuôi tiếp tế được các Toà Giám Mục và Tổng Giám Mục tổ chức quy củ hơn. Ngoài những Bưu kiện nhận được hàng tháng, các Ngài c̣n được Toà Tổng Giám Mục cử các D́ Phước đến thăm nuôi Vị Linh Mục cao niên để trao vật phẩm tiếp tế. Vị này nhận lănh đem vào Trại chia lại cho các Linh Mục khác cùng hưởng. Các D́ Phước được tổ chức xin đi thăm nuôi dưới danh nghĩa thân nhân, chớ không nhân danh đại diện Toà Tổng Giám Mục. Do đó Cán bộ Cộng sản ác tâm xấu miệng phê phán rằng:

    “-Thầy Chùa, Cha Cố đi tu mà cũng có vợ có con như mọi người thường?”
    Việc thăm nuôi Tù càng tấp nập, tin tức về Chương tŕnh Hoa Kỳ vận động giải thoát Tù Chính trị miền Nam càng được cập nhật, đem lại niềm tin và tinh thần phấn chấn cho anh em tiếp tục chịu đựng đợi chờ ngày được giải phóng. Mọi nét ưu tư bi quan xưa nay hằn trên khuôn mặt mọi người tiêu tan hết, và h́nh như trong những giờ lao động cực nhọc không c̣n ai cảm thấy là đang bị hành hạ vất vả nữa.

    Cán bộ không c̣n kiểm soát gắt gao như những năm trước 1980. Hệ thống “ăng ten” của Trại h́nh như cũng được chỉ thị giảm cường độ hoạt động, có lẽ Việt Cộng muốn tránh trường hợp sau này các “ăng ten” của họ bị vạch mặt chỉ tên hoặc bị trả thù bởi các Cựu Tù nhân Chính trị đi định cư lưu vong nơi hải ngoại.

    Vào giờ thứ 25 này anh em cũng chẳng c̣n e ngại bao nhiêu, nên trong giờ nghỉ thường lén qua lại giữa các Láng để thăm nhau, tṛ chuyện, ăn uống, trao đổi tin tức. Đặc biệt vào những ngày Chủ Nhật và nghỉ Lễ, những Bạn dư giả đồ tiếp tế của gia đ́nh thường bầy vẽ tổ chức nấu nướng biến chế các món ăn theo sở thích, mời dăm bẩy Bạn thân tới cùng đánh chén chuyện tṛ vui vẻ. Lần nào cũng không quên mời một Bạn có trí nhớ tốt tham dự, để sau khi ăn bạn ấy kể những truyện kiếm hiệp của Kim Dung, hoặc truyện Đông Châu Liệt quốc, Tam quốc chí, Tây du kư... cho mọi người nghe giải trí giết th́ giờ rảnh rỗi.

    Thông cảm nỗi khó khăn của các Vị Đại Đức trẻ không có quà cáp, Tôi thường lấy các thực phẩm khô do gia đ́nh tiếp tế như: tôm khô, nước mắm khô, mứt cà chua, ḿ ăn liền, miến, sữa bột, bột đậu xanh và đường, góp cùng các Vị trồng được các luống rau “cải thiện” hoặc có sắn tươi do Cán bộ “bồi dưỡng” nhờ “lao động năng nổ” để biến chế các món ăn đặc biệt cùng nhau thưởng thức. Những lần như vậy, chúng tôi không quên nấu miến chay có rau và mộc nhĩ nêm bột ngọt để biếu Thầy Thanh Long chia sẻ niềm vui “bồi dưỡng”.

    Thầy Thanh Long không bao giờ ăn mặn, phần thịt, cá, hoặc mắm được Nhà Nước tăng cường cho các bữa ăn trong những ngày Đại Lễ và Tết đều được Thầy cho người khác lănh mà dùng. Nhưng đối với các Đại Đức trẻ, Thầy rộng lượng răn rằng:

    “-Giữ ǵn ư chí cao để tiếp tục Tu hành trong những lúc khó khăn như thế này mới là điều quan trọng. Nhưng trong giai đoạn hiện tại, việc Trai Giới có thể tùng biến tùy theo cái nghiệp và sức chịu đựng của mỗi người để duy tŕ mạng sống.”

    C̣n tiếp...

  3. #163
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tháng 6 bắt đầu mùa mưa lũ hàng năm, có khi mưa suốt đêm đến sáng th́ tạnh, có khi mưa kéo dài từng cơn ṛng ră 2, 3 ngày mới dứt. Con sông và các suối nhỏ hồi chiều tối c̣n cạn queo, qua một đêm mưa đến sáng đă tràn trề mênh mông nước lũ cuồn cuộn chảy, cuốn theo những cây rừng bật gốc, những bụi chuối rừng, những khóm khoai ḿ... Diện tích trồng rau bên bờ sông bị ngập hơn phân nửa, nhiều luống rau bị nước cuốn đi chẳng c̣n vết tích ǵ.

    Trong mùa mưa băo đi lao động thật là một cực h́nh, lúc phải dăi nắng chói chang oi nồng muốn ngộp thở, lúc lại dầm mưa xối xả như thác đổ lên người ướt sũng từ đầu đến chân lạnh cóng.

    Khoảng giữa tháng 7 năm 1981 bỗng dưng Trời âm u mấy ngày liền, tiếp theo là những cơn mưa rừng tầm tả đổ xuống, nước sông dâng cao nhưng vẫn phải đi lao động.

    Vào nửa đêm 14 tháng 7 cơn băo nhiệt đới đầu tiên trong năm ập tới tàn phá toàn vùng, từng đợt gió thét ù ù xé không gian làm náo động như có những đoàn phản lực cơ đang bay ngang, khiến mọi người tỉnh giấc bàng hoàng sợ hăi.

    Tôi nằm trên xạp ngủ tầng cao sát mái nhà, cảm thấy sợ hơn những người nằm ở xạp dưới gần mặt đất. Mỗi lần nghe tiếng gió gầm ù ù nho nhỏ từ đàng xa rồi lớn dần, dẫy nhà bị xô nghiêng đi kêu răng rắc. Khi những miếng tôn trên mái nhà bị giật kêu rầm rầm xoảng xoảng, là lúc đợt gió đang thổi qua đầu. Lúc tiếng ầm ầm ào ào xa dần và im bặt, dẫy nhà bị đẩy ngược lại đu đưa kêu cót két như muốn xập đổ. Thật khủng khiếp!

    Đợt gió đầu tiên đi qua, Láng của chúng tôi có miếng tôn trên mái bị bứt đanh bay đi mất. Đợt gió tiếp theo bóc thêm 2 miếng nữa tạo thành một lỗ hổng khá lớn ở khúc giữa nhà, mưa gió lùa vào trong nhà xối xả làm ướt hết mùng mền chiếu đồ đạc, người cũng bị ướt lạnh lo sợ run như cầy sấy. Một số anh em gan dạ phải hiệp sức gỡ dây kẽm cột màn dọc kệ nằm tầng trên, leo lên giàn nóc nhà t́m cách cột giữ những miếng tôn chung quanh lỗ hổng cho những đợt gió sau không bóc thêm. Những người gan dạ tự nguyện xông xáo làm cái việc vô cùng nguy hiểm này là các bạn Đại tá Dương Hiếu Nghĩa, Trịnh Đ́nh Đăng, và Hoàng Trọng Trị.

    Hoàn cảnh lo âu sợ xệt này làm Tôi hồi tưởng nhớ những năm đầu Thập niên 1940, phi cơ chiến đấu của Hoa Kỳ từ Trung Hoa lục địa bay sang Lạng Sơn oanh kích thả bom phá các trụ sở Quân Phiệt Nhật ở lẫn lộn trong các khu cư ngụ của dân chúng trong thành phố. Lúc đó Tôi là Hướng Đạo Sinh tham gia công tác “giúp ích” nên đă phải đeo khăn quàng Hướng Đạo vào cổ chạy trên đường phố băng qua các hầm trú ẩn, để tiếp tay các đoàn y tế băng bó tiếp cứu di tản các nạn nhân bị thương máu me bê bết đầy người. Nhưng chưa hề cảm thấy sợ hăi như trong những giây phút thịnh nộ của Thiên nhiên tại K2 Thanh Phong trong cái đêm “cát tó duy dê” 14 tháng 7 năm 1981 này. Thật kinh hoàng chẳng bao giờ Tôi quên được!

    Chừng 3 giờ sáng cơn băo dứt, dưới ánh sáng tù mù của chiếc đèn chai dầu hôi treo lửng lơ dưới khung cửa pḥng vệ sinh nơi cuối Láng, anh em chúng tôi thu vén lại chỗ nằm và ngủ thiếp đi v́ mệt mỏi.

    Sáng hôm sau được mở cửa ra đi lao động, mới thấy rơ sức mạnh tàn phá hung tàn của trận băo. Trong khu giam Tù, những Láng nằm về phía Tây và Tây Nam thế đất thấp bị nước dâng ngập ngang bụng.

    Những người nằm xạp ngủ sát đất phải leo lên tá túc trên xạp cao. Đồ đạc thực phẩm khô do nhà tiếp tế chuyển lên không kịp bị ướt sũng thấm nước phân từ các thùng chứa trong pḥng vệ sinh nổi lên trôi ra, coi như hư hỏng trăm phần trăm. Có đôi người tiếc của mồ hôi nước mắt do Vợ Con chắt chiu tần tiện từng đồng mua gửi cho, nên đem phơi khô để dung v́ bỏ đi sợ “phí của Trời, mười đời không có mà ăn”. Thật tội nghiệp!

    Gần nhà Bếp của trại giam có một cây lim cao bị bật gốc đổ nằm dài giữa 2 Láng, ngọn với cành lá um tùm choáng hết khoảng đất trống bên Hội trường nên đă không gây thiệt hại ǵ cho người và của. Thật may cho Đội nhà Bếp. Hội trường v́ các tường phên chung quanh có nhiều cửa sổ rộng với những mảnh liếp kéo lên hạ xuống không kín chắc, nên bị gió luồn vào bóc cuốn đi nhiều miếng tôn làm mái hư hại nặng. Có miếng bị gió cuốn băng ra ngoài hàng rào Khu giam, rớt rải rác trên đường hoặc mắc trên các tàn cây cao. Cũng có miếng rớt ngay trong sân hoặc xuyên kẹt trên hàng rào gần bên cổng trại giam. Cách cổng trại giam Tù chừng 500 mét vào khúc giữa con đường đi tới Khu nhà Cán bộ ở, có một cây cổ thụ cao trên 50 mét gốc to cỡ 7 người dang tay ôm, thân cây phiá trên cao chia ra 2 nhánh bị bẻ gẫy một dính đùng đưa ngọn gục là là mặt đất. Ai cũng sợ chẳng dám đến gần, thế mà anh em Đội Lâm Sản phải làm đủ mọi cách trèo lên đốn cho rơi xuống. Trên suốt dọc đường ra “hiện trường lao động” của các Đội, cây đổ ngổn ngang nhà lô tốc mái xiêu vẹo, sông suối nước đục ngầu tràn bờ cuồn cuộn chảy.

    Trại làm báo cáo lên Nhà Nước là tài sản hoa mầu thiệt hại 100 phần trăm. Một đợt “thi đua khắc phục Thiên tai, đón mừng ngày Đại lễ 2 tháng 9” lập tức được tung ra. Mọi người phải “khẩn trương” dọn dẹp tu sửa những đổ nát hoang tàn do cơn băo để lại, và tích cực gia tăng trồng hoa mầu gấp rút trong suốt 2 tháng trời.

    “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, vừa mừng Lễ Độc Lập xong một Thiên tai thứ 2 lại ập tới vào ngày 19 tháng 9. Lần này mưa tàn bạo hơn gió, mới chỉ có một ngày một đêm mà nước lũ đổ về mênh mông. Trong trại giam Tù, những Láng ở vùng thấp nước ngập lưng chừng nhà mấp mé ngang xạp nằm tầng trên, chỉ c̣n mấy dẫy gần sát cổng và Nhà Bếp th́ nước chưa dâng tới. Mọi Tù bị giam trong các Láng bị ngập được lệnh quăng đồ đạc lên xạp tầng cao, và tản cư tới các dẫy nhà chưa bị ngập sát bên cổng trại cạnh sân tập họp để tá túc. Nhóm Tù H́nh Sự di tản tập trung trong Hội trường gần khu nhà bếp.

    Nước dâng thật nhanh, lúc đó là sau giờ điểm danh tối, mọi người đang bị giam trong các Láng cửa khóa trái bên ngoài. Chúng tôi nh́n qua cửa sổ và khe vách liếp quan sát thấy các Bạn cư ngụ tại các Láng phía Tây bị ngập tản cư ngang. Người cuối cùng của nhóm tản cư vừa đi qua xong th́ nước đă theo chân họ dâng đến tận nền Láng ở của chúng tôi, và chỉ khoảng 10 phút sau tràn vào trong nhà dâng cao đến đầu gối chân. Các thùng chứa phân trong pḥng vệ sinh nổi lên lềnh bềnh trôi sang khu ngủ trong Láng. Chúng tôi tự động tiếp tay nhau chuyển đồ đạc của các Bạn nằm ở xạp dưới lên xạp trên vừa xong, th́ Cán bộ Trực Trại đến mở cửa hối “khẩn trương” quăng hết đồ đạc lên xạp ngủ tầng trên và di tản ngay qua dẫy nhà ngay bên kia sân tập họp, khu cao nhất trong trại giam.

    Trời vẫn mưa tầm tă không ngớt. Láng chúng tôi gồm gần 100 người được dồn vào tá túc trong một Láng cũng đang chứa khoảng gần 100 bạn Tù khác. Chen nhau ngồi chặt cứng như nêm đầy cả 2 tầng xạp ngủ sát đất và trên cao.

    Khoảng nửa đêm mọi người đang thiu thiu ngủ, có tiếng loạch xoạch mở kh cửa, Cán bộ Trực Trại, Quản Giáo Dội, và Thi Đua ập vào chiếu đèn pin lia lịa điểm danh từng Đội trong Láng. Lúc đó mới biết là nước đă dâng ngập sân tập họp và đang tràn vào nền nhà nơi chúng tôi tá túc. Trong khi Cán bộ điểm danh, nước từ từ dâng cao ngập bàn chân rồi đến nửa ống quyển chân. Chúng tôi hoang mang suy nghĩ nhưng không giám nói ra:

    “-Cứ cái đà này, không biết nước sẽ c̣n dâng lên đến đâu? Liệu có được di tản lên vùng đất cao khu Cán bộ ở không? Cả K2 gồm khoảng 5, 6 trăm Tù, Hội trường Khu Cán bộ nhỏ xíu làm sao đủ sức chứa?”
    May thay, nửa giờ rồi một giờ trôi qua nước lên gần xấp xỉ mặt xạp nằm tầng dưới th́ ngưng lại không dâng tiếp.

    Kiểm tra xong Cán bộ đi ra, cửa Láng được khóa lại, tiếng mưa tiếp tục gơ rào rào trên mái tôn. Khi ánh đèn của Cán bộ vừa khuất, từ chỗ anh Đội trưởng nằm cạnh bên cửa bắt đầu có những tiếng th́ thầm truyền tai nhau cho biết là, có một anh thuộc Đội Nhà Bếp vắng mặt nên mới có cuộc đi các Láng kiểm tra nhân số từng Đội.

    Đến giờ điểm danh sáng, Cán bộ mở kHóa các Láng cho Tù ra, nước lụt đă rút ra khỏi ṿng rào Trại để lại một lớp bùn sền sệt nâu xám ngập cổ chân. Anh em không phải ra ngoài lao động, được ở trong trại thu dọn sạch sẽ. Nhờ dấu bùn c̣n ghi lại trên vách phên, mới biết Láng chúng tôi bị nước ngập cao khoảng 1 mét. Trong nền nhà và trên mặt xạp ngủ tầng dưới bị phủ một lớp bùn dầy nhăo nhoẹt. Anh em tiếp tay nhau quét vét bùn khỏi mặt xạp, trên nền nhà, và sân chung quanh nhà, cho trơ nền đất cứng ra để đi lại được dễ dàng.

    Lúc gần hết giờ lao động sáng anh em Đội Nhà Bếp khênh đồ ăn tới phát, tin về anh bạn mất tích đêm qua mới được x́ xầm loan truyền như sau:

    “Nửa đêm, nước dâng ngập chuồng lợn (heo) “cải thiện” của Tù ở sát bờ rào gần Nhà Bếp, Cán bộ phải vào mở cửa Láng Đội Anh Nuôi điều động mấy người ra lội mưa di tản lợn. Làm xong việc nhóm công tác trở vào Láng thấy thiếu một người, Cán bộ gạn hỏi, các bạn trong toán báo cáo anh ta bị hụt chân nước cuốn trôi mất tích. Cán bộ bủa đi t́m quanh bờ rào không thấy liền trở lại kiểm tra tư trang của anh mất tích, thấy thiếu một số vật dụng và thực phẩm khô cần cho nhu cầu nhiều ngày. Cán bộ nghi là trốn trại và sợ có thể nhiều người khác cũng lợi dụng mưa lụt để đào ngạch xé vách trốn, do đó phải “khẩn trương” đi kiểm tra tất cả các Láng trong đêm.”

    Anh bạn Tù mất tích là một Sĩ quan cấp úy thuộc Binh Chủng Hải quân, nên không ai nghĩ là anh ấy bị chết đuối. Nhiều ngày qua đi, Trại giam không có tin tức ǵ về việc vớt được xác người chết đuối ở vùng hạ lưu, cũng không thấy có ai bị bắt đem trở lại Trại. Chúng tôi nghĩ rằng anh ấy đă trốn trại, mọi người đều nguyện cầu mong cho anh ấy thoát được ra khơi và sớm có Tự do.

    C̣n tiếp...

  4. #164
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Trận lụt này làm dẫy nhà 3 gian Khu Thăm Nuôi bị xập, Đội chúng tôi được chỉ định đến dỡ bỏ để Đội Xây Dựng cất lại nhà mới 5 gian, có nhiều pḥng hơn để tiếp đón khách “thăm nuôi”.

    Xong công tác này Đội chúng tôi được “biên chế” lại thành Đội Gạch, nên phải cải tiến tổ chức Đội thành nhiều Tổ để đảm trách nhiều Khâu khác nhau. Những người khoẻ vào các Khâu Thái đất, Quần trâu, Lên quả, Vận chuyển đất, và Đóng gạch. C̣n những người yếu như Tôi, làm trong các Khâu Đóng than đá cám thành bánh phơi khô, hoặc Chuyển gạch mộc mới đóng xong ra phơi ở giữa sân cho khô rồi đem xếp vào nhà chứa chờ khi nào gạch đóng được đủ mẻ khoảng 7 ngàn viên sẽ Vào Ḷ nung.

    K2 Thanh Phong có 2 Đội Gạch, một Đội gồm toàn Tù H́nh Sự phụ trách ḷ nhỏ cỡ mỗi mẻ 5 ngàn viên, c̣n Đội chúng tôi toàn là dân Tù Chính trị miền Nam gồm một số Đại tá và Linh Mục, Đại Đức, Mục sư Tuyên úy Quân đội phụ trách ḷ lớn cỡ hơn 7 ngàn viên một mẻ.

    Các Vị Tuyên úy tương đối tuổi c̣n trẻ khoẻ nên được chia vào các Khâu nặng. C̣n nhóm Đại tá chúng tôi già yếu được chia vào 2 Khâu nhẹ. Đến giai đoạn “Vào ḷ” tức là xếp gạch mộc vào ḷ để nung, tất cả các Khâu phải “hợp đồng” cùng làm theo dây chuyền.

    Thoạt đầu Tôi và 3 Bạn nữa được giao phó công tác đóng than đá cám thành bánh h́nh chữ nhật to dầy cỡ viên gạch. Công việc tương đối không nặng nhọc nhưng vất vả, v́ phải làm theo “chỉ tiêu” quy định hàng ngày hơi cao, chúng tôi phải “hợp đồng” làm liên tục không ngơi nghỉ để thực hiện lần lượt từng công đoạn một. Trước tiên, cùng đi “thái đất” sét ở hầm xúc lên xe chuyển về đổ bên đống than đá cám. Sau đó đập bằm cho đất nhỏ tơi rồi trộn đều với than đá, phải ước lượng sao cho mỗi mẻ đủ đóng 10 khuôn 6 miếng than to dầy bằng cỡ viên gạch. Tiếp đến là ban mỏng mẻ than trộn đất thành một mặt tṛn đường kính cỡ 2 mét, gánh nước đổ vào trộn đều liên tục cho đất và than quện với nhau thành một loại hồ mầu đen, vừa sền sệt không khô mà cũng không lỏng quá rồi xúc vào “ky tôn” khiêng ra sân, đổ vào từng mảng khuôn 6 miếng một để phơi và xoay trở mặt hàng ngày cho mau khô. Sau cùng đem xếp vào nhà lô tồn trữ chờ ngày nung gạch sẽ chuyển về xếp xen kẽ với gạch trong ḷ.

    Hiện trường làm than của chúng tôi ở phía bên kia hồ nước, đối diện với hiện trường lao động của Đội ngay bên ḷ gạch. Hai tuần lễ sau đóng xong đủ số than cần cho một kỳ nung gạch, chúng tôi được điều động về lao động chung bên Đội để phụ trách Khâu chuyển phơi gạch mộc mới đóng, xoay trở hàng ngày cho khô rồi đem xếp vào nhà lô.

    Được về làm bên anh em phụ trách các Khâu khác, Tôi mới có dịp quan sát để hiểu được thế nào là Thái đất, Quần trâu, Lên quả.

    “Thái đất” là sắn đất chung quanh hầm đất sét, hất mạnh cho đất tơi rải đều trên mặt nền giữa hầm thành một lớp dầy bằng phẳng. Hầm đất, thoạt đầu nông hẹp lần lần rộng ra và sâu xuống thêm sau mỗi đợt “thái đất”.

    “Quần trâu” là dắt trâu đi ṿng tṛn trong hầm đạp cho đất nhuyễn thành một loại bùn xệt đặc, y như chúng ta thường được xem các phim chuyện thời Phong kiến bên Âu Châu bắt nô lệ đứng trong các bồn gỗ lớn đạp nho cho nát nhuyễn ra để đem cất rượu vang vậy. Trong khi Quần trâu phải có những người thường xuyên gánh nước đổ vào đều đều đủ lượng cần thiết sao cho đất quện vào nhau sệt quánh lại như hồ, không khô và cũng không nhăo.

    Khi đất đă thật nhuyễn sệt quánh vào nhau gọi là “đất chín” là đến phiên Khâu Lên Quả xuống sắn xúc “đất chín” gom thành một đống tṛn, cao vồng lên như nửa quả cầu ở giữa hầm đất.

    Tiếp theo là nhiệm vụ của Khâu Chuyển Vận, xén “quả đất chín” đem lần lần từ hầm đất lên giữa sân cho Khâu Đóng Gạch làm nhiện vụ của họ. “Đất chín” được xúc đổ thành đống tṛn trên một mảnh ván dầy để trên xe cải tiến, kéo đến bên bàn đóng gạch. Khâu Chuyển Vận Đất Chín phải thường xuyên theo dơi công việc đóng gạch, để lúc nào cũng có đất tiếp tế đều hòa liên tục cho những anh đóng gạch không phải chờ. Hai công tác Chuyển Vận Đất Chín và Đóng Gạch phải được phối hợp làm “khẩn trương” liên tục cho mau xong, nếu không “quả đất” sẽ bị khô không dùng được sẽ phải phá ra làm lại từ đầu.

    Mỗi người đóng gạch có một bàn riêng với 3, 4 chiếc khuôn gỗ, 1 dao cắt đất và một thùng tro. Mỗi khuôn đúc ra 2 viên gạch một lượt. Người đóng gạch phải có đôi cánh tay rất mạnh và sức khoẻ dồi dào dẻo dai mới cáng đáng nổi. Công việc đóng gạch coi thấy chẳng khó khăn ǵ, nhưng rất vất vả mệt mỏi yếu sức không thể làm nổi. Tôi đă tập đóng thử một khuôn, kết quả là đất không nhồi được đầy ḷng khuôn, 2 viên gạch lấy ra đều bị vẹt góc và cạnh dưới phía chạm mặt bàn không đầy đặn phẳng nhẵn như mặt trên cắt bằng dao.

    Các công đoạn đóng gạch được thực hiện theo thứ tự sau đây:

    1,- Rắc một lớp tro mỏng lên mặt bàn, đặt khuôn gỗ lên rồi tung một nắm tro khác vào trong ḷng khuôn, để đất sét không dính khuôn khi đổ gạch mộc đóng xong ra sân phơi.
    2.- Lấy dao cắt một viên đất thật to vừa đủ đóng 2 viên gạch một lần theo khuôn, dùng 2 tay bê viên đất dơ cao lên ném xuống mặt bàn nhiều lần để nhồi cho mịn và tṛn cạnh. Sau đó bê viên đất đă nhồi lên cao ném mạnh xuống khuôn cho đất rập đầy ḷng khuôn. Rồi dùng dao cắt sát một đường dài từ đầu bên này sang đầu bên kia khuôn, để hớt đám đất dư ngoài khuôn bỏ đi.
    3.- Đẩy khuôn gạch đóng xong sang bên để người phụ trách phơi bê đi, đổ ra trên mặt sân thành từng hàng dài nối tiếp nhau.
    Khuôn gạch đóng xong vừa được mang đi, người Đóng Gạch lấy một khuôn khác tiếp tục làm lại từ đầu những công đoạn thực hiện việc đóng gạch của ḿnh.
    “Dao cắt đất” không phải loại ta thường thấy dùng để cắt thịt hay chặt cây, nó là một khung gỗ h́nh chữ U, nơi hai đầu chữ U căng ngang một sợi dây kẽm nhỏ thật thẳng. Sợi kẽm này chính là lưỡi dao cắt đất.
    Công việc làm của những người Đóng gạch, Quần trâu, Lên quả và Chuyển vận đất được coi là loại “lao động nặng” nên lănh phần “tiêu chuẩn” ăn hàng ngày cao hơn mọi người trong Đội. Thỉnh thoảng Quản giáo Đội c̣n cho lén đi lấy trộm từng bao tải sắn của Trại về “bồi dưỡng”. Dĩ nhiên bao giờ Quản giáo và Cảnh vệ cũng có phần “bồi dưỡng” thoả thê trước khi chia cho những tù được hưởng “bồi dưỡng”. Nếu chẳng may, người đi lấy trộm sắn bị bắt th́ ráng mà lănh chịu kỷ luật, không được khai là Quản giáo Đội cho phép đi.

    Thấm thoát cuộc đời Tù của chúng tôi đếm thêm mùa Thu thứ sáu nơi rừng núi miền Bắc xă hội chủ nghiă, mưa Ngâu và nắng Hanh làm lá rừng đổi màu từ xanh sang vàng, đỏ, nâu, để đợi gió heo may về theo nhau lả tả trút xuống mặt đất, mặc cho cây cành trở nên trơ trụi chịu đựng mưa Phùn gió Bấc lạnh lùng suốt mùa Đông.

    Tết “Con Chó” Nhâm Tuất 1982 đến với nhiều tin dồn dập khác thường đem lại niềm vui riêng cho mỗi người, khiến cả Tù lẫn Cán bộ K2 Trại Thanh Phong đều hân hoan chuẩn bị đón Tết nhộn nhịp khác hẳn mọi năm.

    Anh bạn Đại tá Hồ Hồng Nam (gốc Chiến tranh Chính trị) nằm bên cạnh Tôi, vẫn thuộc nhân số của Đội nhưng được tăng phái làm việc trong Ban Văn Hóa để chuẩn bị Hội trường đón Tết cho biết: “-Cán bộ Giáo dục tiết lộ tin Trại Thanh Phong sẽ đóng cửa trao lại cho Chánh quyền địa phương quản lư tiếp tục khai khẩn, Tù Chính trị được đưa hết về Nam chờ ngày tha, Tù H́nh Sự sẽ chuyển đi nơi khác.”

    Anh bạn Đại tá Tô văn Vân cũng nằm bên cạnh Tôi, phụ trách nấu nước tại nhà Lô của Đội cho biết trong một lúc vui câu chuyện, Quản giáo Đội hỏi ḍ:

    “-Thủ Đức và Hàm Tân thuộc tỉnh nào tại miền Nam?”
    Thân nhân đến “thăm nuôi” đưa tin:

    “-Có nhiều đợt Tù Chính trị được di chuyển về Nam bằng Tầu Hoả và nhiều đợt tha lẻ tẻ dăm bẩy người hoặc từng nhóm đông cả trăm người. Có người được tha từ miền Bắc, có người được tha sau khi về các trại trong Nam.”
    Để chuẩn bị ăn Tết, Anh Đội trưởng xin Quản Giáo Đội cho Tôi nghỉ công tác chuyển phơi gạch trong vài ngày để thực hiện việc hớt tóc cho anh em trong giờ lao động, được Quản Giáo chấp thuận. Trong khi Tôi hớt tóc cho anh em, Quản Giáo theo dơi quan sát thấy Tôi hớt được đủ kiểu cao, thấp, vừa vừa với tóc mai xanh... theo ư muốn của khách hàng. Sau khi hớt cho anh em trong Đội xong, ông ta yêu cầu Tôi đến sân sau nhà Lô phía nh́n xuống ḍng sông nơi ông ấy cư ngụ, hớt tóc cho ông ấy và mấy người Bạn Cán bộ khác từ xa có dịp đi ngang ghé thăm. Quản Giáo Đội chúng tôi là Thượng sĩ Công An, mới mua được chiếc xe đạp do Trung Cộng sản xuất, bạn bè ai cũng trầm trồ khen đồ tốt và tỏ vẻ thèm muốn được làm chủ một chiếc như vậy.

    Trong lúc hớt tóc, ông ấy hỏi chuyện Tôi về t́nh trạng gia đ́nh và trước kia gia đ́nh Tôi sống ra sao? Đời sống của đồng bào lao động ở trong Nam như thế nào?

    Vào giờ thứ 25 này th́ chẳng c̣n sợ hăi e dè ǵ nữa, Tôi thủng thẳng kể cho ông ấy và các bạn của ông ấy nghe sự thật nếp sống của gia đ́nh Tôi và một ví dụ về nếp sống của người lao động tại Saigon trước 30-4-1975 như thế nào?

    Đại để:

    “Dưới Chế độ cũ tại miền Nam, Vợ Con của Tôi được phép làm “kinh tế” (buôn bán tự do) như mọi người dân thường khác, dĩ nhiên là phải đóng thuế cho Chính phủ theo luật định. Vợ của Tôi hùn vốn với bạn bè lập xưởng sản xuất quần áo trẻ con và người lớn gửi đi bán cho các bạn hàng trên khắp các tỉnh. Lợi nhuận kiếm được hàng tháng nhiều gấp 4, 5 lần lương Chính phủ phát cho Tôi. Do đó lương của Tôi chẳng bao giờ phải dùng tới, nên Tôi mở cho mỗi người con một Trương mục Tiết kiệm trong Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín để gửi tiền tích lũy lấy lời hàng tháng. Sau này khi chúng đến tuổi trưởng thành th́ mỗi đứa có sẵn một món tiền riêng làm vốn vào đời, ngoài mớ khả năng văn hoá học được tại nhà trường trong thời niên thiếu. Nhưng bây giờ chẳng c̣n ǵ, v́ sau ngày Cách mạng giải phóng Saigon th́ Ban Quân Quản tiếp thu Ngân hàng không ai trách nhiệm cứu xét hoàn trả cho chúng tôi.
    Tiền dành dụm bao năm nay tiêu biến hết đúng như các Cụ ta ngày xưa thường nói: “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Số Trời đă định tai ách đến với ḿnh như vậy đành phải chịu chớ biết làm sao?
    Hai người con lớn của Tôi học Đại học Y khoa và 3 người học Trung học, đều được Vợ Tôi mua cho mỗi người một xe máy dầu hiệu Honda làm phương tiện riêng để di chuyển hàng ngày. Loại xe này giống như chiếc mô tô Side-Car mà Đại úy Giám thị Trưởng Phân trại K2 mới được cấp, nhưng nhỏ hơn và không có thùng ghế cho người ngồi bên cạnh. Sau ngày giải phóng phải bán đi để mua xe đạp dùng, v́ tiền ăn c̣n không có lấy đâu dư mua săng chạy xe máy dầu.”
    Về phần dân lao động trong Nam, Tôi kể chuyện gia đ́nh một bác đạp xe xích lô tại Saigon. Tôi biết rơ v́ Tôi có hùn vốn kinh doanh với người bạn làm chủ công ty nhỏ cho mướn xe xích lô đạp.

    “Gia đ́nh bác X ở một thôn trong vùng xôi đậu thuộc Tỉnh Tây Ninh. V́ chiến tranh giữa quân Cách mạng và quân Quốc gia xẩy ra thường xuyên, sinh hoạt nông nghiệp gặp khó khăn và mạng sống cũng không được bảo đảm an toàn. Bác X đă giắt gia đ́nh gồm Vợ và 2 con nhỏ lên Saigon tá túc tại nhà người anh bà con bên Vợ để kiếm việc làm. Xưa nay sống nơi đồng quê chỉ biết làm ruộng vườn trồng tỉa không thông thạo các nghề của người công nhân, Bác X đă phải nhờ người anh bà con giới thiệu và hướng dẫn cho làm nghề đạp xích lô đưa đón khách trong Thành phố, vừa hợp khả năng dễ kiếm tiền lại không cần phải có vốn nhiều.
    Anh bà con Vợ của Bác X là quân nhân tài xế lái xe cho Tôi, anh ấy nhờ Tôi giúp đỡ thân nhân trong cơn hoạn nạn. Tôi đă bảo lănh cho Bác X thuê xe tại công ty Tôi có hùn vốn để chạy kiếm sống hàng ngày không phải đóng tiền thế chân. Sáng đến kư nhận xe đạp quanh khắp các đường trong Thành phố kiếm khách chở lấy tiền. Tối đem xe về hoàn trả công ty và đóng tiền thuê xe cho ngày hôm đó. Chỉ vài tháng sau, Bác X đă dành dụm được món tiền kha khá đủ cho Vợ Bác làm vốn sắm đồ nghề mở một gánh cháo ḷng bán rong trong khu gia binh, nơi gia đ́nh Bác X cư ngụ chung với người anh bà con.
    Đến dịp Tết, gia đ́nh Bác X được người anh bà con dẫn đến nhà Tôi để cám ơn và chúc Tết. Bác X khoe mới mua được một căn phố lợp tôn để ở riêng và hiện cuộc sống gia đ́nh đă ổn định thoải mái, chờ khi nào t́nh h́nh chiến sự yên ổn sẽ trở về quê làm ăn như trước. Trong lúc vui câu chuyện, Bác X c̣n cho biết bây giờ đă có vốn đóng tiền thế chân trước khi lấy xe đi. Hàng ngày thức dậy từ lúc tờ mờ quăng 5 giờ sáng ăn uống lót ḷng xong, đi lănh xe chạy chở các khách quen mang hàng ra chợ, sau đó tiếp tục chạy đón khách trên các đường phố đi chợ và về, đến khoảng hơn 11 giờ đă kiếm được gấp đôi số tiền cần đóng để thuê xe. Bác ghé đậu xe bên lề đường mua một phần cơm hàng gánh rong, ăn xong Bác ngồi lên xe gác chân chữ ngũ hút điếu thuốc lá rồi chợp mắt ngủ khoảng nửa tiếng đồng hồ sau mới thức dậy, tiếp tục đạp xe đi kiếm khách. Trong khi nghỉ nếu có khách đánh thức cần thuê chở một cuốc nhưng lại mặc cả trả giá rẻ quá, Bác nhẹ nhàng lịch sự xin lỗi là đang mệt cần nghỉ ngơi đôi chút chưa chạy được. Ngày nào Bác ấy cũng kiếm được nhiều gấp 3 lần số tiền cần để thuê xe. Vào những ngày thứ Bẩy và Chủ Nhật đông khách đi dạo phố mua bán, bao giờ cũng kiếm được nhiều hơn ngày thường.”
    Trong khi kể truyện Tôi luôn luôn đưa mắt quan sát, thấy các Cán bộ im lặng lắng nghe một cách thích thú say sưa y như đang nghe truyện kiếm hiệp không có sắc thái phản ứng khó chịu nào. Nên Tôi yên tâm hứng thú vừa hớt tóc vừa kể truyện liên tục bỏ cả giờ nghỉ giải lao giữa buổi, thanh toán cả thẩy 5 cái đầu tóc cho Cán bộ chuẩn bị ăn Tết không mảy may mệt mỏi.

    Thật là một dịp may thích thú an toàn hiếm có, Tù Chính trị được tự do làm công tác Địch vận khai sáng cho Công An Nhân dân trẻ miền Bắc biết về sự thật tại miền Nam Việt Nam trước ngày được Cách Mạng giải phóng 30-4-1975, những điều mà từ nhỏ đến lớn họ chưa bao giờ được nghe nói cũng như không có dịp thấy tận mắt.

    Hớt xong cái tóc chót vừa đúng giờ nghỉ lao động buổi sáng, Tôi thu vén đồ nghề ra tập họp cùng anh em trong Đội đi tắm trước khi trở vào khu giam.

    Đón mừng Tết Nhâm Tuất 1982 tại K2 Thanh Phong có vài sự việc đặc biệt đáng ghi nhớ. Nội quy trại giam cấm Tù không được tồn trữ cũng như uống rượu, thế mà có vài bạn Tù thuộc Đội Vôi ở chung Láng với chúng tôi được Quản giáo Đội “chiếu cố” mua giúp rượu để đón giao thừa trong Láng. Đội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ cũng có bạn Tù cấp Trung tá gốc Chiến tranh Chính trị, trong đêm giao thừa được Cán bộ cho phép sang Láng giam của bọn Tù H́nh Sự vui nhậu đón Xuân với chúng. Những Bạn có cơ may hưởng các đặc ân này dĩ nhiên phải là người được Cán bộ tin tưởng, ghi nhận kết quả “học tập cải tạo tiến bộ” hơn những người khác về mọi mặt, và đặc biệt việc đối xử rộng răi này chỉ dành cho các Tù “Tự giác” và “Thi đua” mà thôi. Tù “Tự giác” là những Tù được Ban Giám Thị Trại tin tưởng giao cho thực hiện các công tác đi lao động một ḿnh ngoài Trại giam không cần Cán bộ theo sát canh pḥng. “Thi Đua” thuộc thành phần được lựa chọn phụ lực cho Cán bộ Trực Trại, ban ngày được phép ra vào tất cả các Láng giam Tù thong thả bất cứ giờ giấc nào để thực hiện những lệnh riêng của Cán bộ Trực trại và Cán bộ An ninh, trong khi những Tù khác bị cấm không được qua lại các Láng tiếp xúc với người khác Đội.

    Sau 6 cái Tết (một tại miền Nam, 5 tại miền Bắc) đau khổ tủi buồn của kiếp sống Tù, đến cái Tết thứ 7 Nhâm Tuất “Con Chó”1982 t́nh thế đang thay đổi lạc quan hơn giúp mọi người lăng xa lăng xăng chuẩn bị đón Xuân hân hoan yêu đời một cách lạ lùng.

    Vui Tết xong, như thường lệ một chương tŕnh “ra quân thi đua” mới lại được phát động rềnh rang để mọi người tiếp tục làm công cụ sản xuất ra thật nhiều của cải cho Xă hội Chủ nghĩa.

    Gần cuối tháng 4 năm 1982, một sự kiện lạ đă xẩy ra vào giờ xuất Trại lao động buổi chiều, các Đội Tù H́nh Sự được gọi xuất trại xong th́ toàn thể Tù miền Nam ngồi tại chỗ nghe lệnh “biên chế “ lại các Đội, sau đó là lệnh “khẩn trương” chuyển đổi pḥng giam. Một vài bạn Đại tá đang trong Đội Rau Xanh được chuyển trở về chung Đội với chúng tôi, ngược lại mấy Đại tá khác trong Đội chúng tôi được “biên chế” qua Đội Rau Xanh kiêm Văn nghệ, và Đội Rau Xanh di chuyển ra khỏi “khu cách ly” của chúng tôi.

    Sáng hôm sau, toàn Khu cách ly của chúng tôi bị giữ lại trong Láng cho đến khi tất cả các Đội xuất Trại lao động hết mới được mở cửa Láng ra sân chờ Cán bộ “làm việc”. Đội trưởng phải lập danh sách anh em trong Đội với đầy đủ các loại tin tức lư lịch cá nhân gia cảnh..., loại danh sách ngang thường phải thực hiện mỗi lần chuyển trại. Sự việc cho phép chúng tôi mừng tin tưởng chắc chắn là trong đêm sẽ được rời khỏi cái nơi thâm sơn cùng cốc này.

    Đúng như dự đoán, một lúc sau Cán bộ và anh em Ban Thi Đua vào đặt một bàn “làm việc” sát ngay bên ngoài cổng ra vào Khu Cách ly của chúng tôi. Từng Đội một theo “biên chế” mới, lần lượt tập họp ra gặp Cán bộ nhận lại những qúy vật tư (nhẫn, đồng hồ, giây chuyền…) bị Trại thu giữ bấy lâu nay, rồi vào chuẩn bị tư trang gọn ghẽ sẵn sàng “Hành quân” khi có lệnh.

    Khoảng xế chiều có mấy chiếc xe tải từ K1 vào, chúng tôi được lệnh từng Đội một xếp toàn bộ tư trang lên đầy trên xe. Công việc hoàn tất, xe chở đồ đi trước người lội bộ theo sau trực chỉ hướng K1 nơi có cơ sở làm việc của Ban Chỉ huy Trại Thanh Phong. Suốt dọc đường đi dài khoảng gần chục cây số ai nấy hân hoan thoải mái, vừa đi vừa tṛ chuyện nổ như bắp rang.

    Vừa sẩm tối chúng tôi tới K1, được hướng dẫn vào tập trung riêng từng Đội quanh sân rộng bên Hội trường lớn gần bên khu cơ sở của Ban Chỉ huy Trại. Nhà Bếp và Khu giam anh em Biệt Kích thuộc K1 nằm tập trung phía bên kia con đường xe hơi chạy băng qua Trại.

    Đêm xuống, một đống lửa lớn được đốt lên bập bùng cháy ở giữa sân, anh em Biệt Kích khiêng phần ăn tối đến phát cho chúng tôi. Khuya thêm chút nữa lại đến phát phần ăn cho cả ngày hôm sau đi đường. Nhân dịp này anh em tiết lộ cho biết:

    “-Đêm nay sẽ có xe đến chở ra Ga Thanh Hóa để lên tầu hỏa vào Nam.”

    Đây là đêm sau cùng nghiệt ngă tại Thanh Phong không bao giờ quên được. Không có pḥng để giam, chúng tôi phải nằm trên đất ngoài trời qua đêm không mùng mền, và Trại giam đốt một đống lửa lớn ở giữa sân để vừa soi sáng vừa có khói hun xua muỗi.

    Mọi đồ đạc đă gói ghém gọn gàng không được mở ra, quần áo giầy dép phải luôn luôn mặc đầy đủ trên người sẵn sàng “hành quân”. Anh em đành chùm áo mưa phủ kín đầu và tay cho khỏi bị muỗi đốt, tựa lưng vào nhau hoặc vào đống tư trang của ḿnh mà ngủ.

    C̣n tiếp..

  5. #165
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Ghi chú :

    Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hóa, Trung Việt.
    Cuối tháng 4 năm 1982.


    * (Chiều ngày 24-4-1982 rời K2 di chuyển sang K1, ngủ đêm tại đây để chờ xe di chuyển ra thị xă Thanh Hóa.

    * Hừng sáng ngày 25-4-1982 xe chở ra ga Thanh Hóa đợi đến tối lên tầu hoả đi về miền Nam.

    * Tới trại Hàm Tân (Z30C) Thuận Hải vào khoảng giữa đêm 26 rạng ngày 27-4-1982.)

  6. #166
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 29 : CHUYẾN TÀU HỎA VỀ MIỀN NAM SAU 6 NĂM LƯU ĐẦY BIỆT XỨ

    Sương đêm càng lúc càng dầy đặc, Tôi dùng miếng ni lông rộng thay áo mưa nửa nằm nửa đắp phủ kín toàn thân (cả đầu lẫn chân) cho muỗi không làm phiền, nghiêng ḿnh dựa lên chiếc túi vải đựng quần áo nằm co quắp giữa sân vừa lạnh vừa ngột ngạt khó chịu. Trằn trọc măi không ngủ được, đến lúc mới chợp mắt thiếp đi th́ tiếng động cơ của đoàn xe tải đến đón nổ rầm rầm, c̣i lệnh the thé rúc lên đốc mọi người “khẩn trương” tập họp chuẩn bị “hành quân”.

    Sau khi anh em cùng nhóm tiếp tay nhau chuyển chất đồ đạc lên xe xong, từng đôi Tù một bị khoá tay chung vào sợi xích nhỏ và lần lượt dắt nhau leo lên xe. Màn đêm c̣n phủ trùm vạn vật, đoàn xe lăn bánh tiếng động cơ rên đều đều thân xe rung rung nẩy nẩy, lúc nghiêng qua trái lúc nghiêng qua phải, lúc nhẹ nhàng vù vù lao xuống lúc nặng nề vo vo leo lên, từ từ nuốt con đường băng suối vượt đèo rời núi rừng Thanh Phong xuống đồng bằng ven biển Đông. Mọi người mệt mỏi ngồi tựa vào nhau im lặng ngủ thiếp đi.

    Đang ngủ ngon giấc, bỗng xe giảm tốc lực đột ngột xô dồn mọi người chúi về phía trước bừng tỉnh, mở mắt thấy Trời đang tờ mờ sáng và xe đang chạy ngang khu ngă ba đi Huyện lỵ Như Xuân nơi có trại huấn luyện bộ đội Việt Cộng, hồi đầu năm 1980 xe chở chúng tôi đến Thanh Phong đă chạy ngang vào lúc hoàng hôn bị bọn trại viên đứng phía trong hàng rào ném đá hét chửi om x̣m. Hôm nay Trời c̣n sớm quá chúng đang ngủ chưa thức giấc, quang cảnh lưa thưa mấy dẫy nhà tôn vắng hoe như Chùa Bà Đanh mờ ảo ẩn hiện trong lớp sương mai dầy đặc.

    Đến ngă ba đoàn xe rẽ vào đường đi Thanh Hoá, chạy miết đến khoảng mặt Trời lên gần tới đỉnh đầu đoàn xe tới vùng Thị xă Thanh Hoá, chạy ṿng ra phía sau ga xe hoả đến gần khu có những toa chở hàng trống rỗng. Anh em giật ḿnh hoảng sợ, nếu trở về Nam bằng những toa xe này sẽ là một tai họa lớn.

    Hồi ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú, chúng tôi gặp một số anh em gốc Chiến tranh Chính trị bị đưa ra Bắc vào giữa năm 1976 bằng tầu thủy tới bến cảng Vinh lên bộ đi tiếp bằng xe hỏa. Họ kể lại những cực h́nh phải chịu đựng trên các toa chở hàng hoá, nghe mà phát lạnh xương sống sởn gai ốc cùng ḿnh.

    “Mọi người ngồi bệt xuống sàn toa chen chúc nhau chặt ních, trong thời gian tầu chạy th́ cửa toa bị đóng kín khoá trái bên ngoài nên rất nóng nực ngột ngạt thiếu dưỡng khí. V́ là chuyến tầu suốt đặc biệt chạy từng đoạn nhiều trăm cây số mới ngừng một lần để tiếp nhiên liệu cho đầu máy, và lúc đó Cán bộ áp giải tới mở cửa kiểm tra nhờ thế mới có dịp được thoáng khí đôi chút. Trung tá Ngô văn Hùng trước 30-4-1975 làm việc tại Tổng Cục Chiến tranh Chính trị ở Saigon, đă bị chết ngộp trong khi tầu đang di chuyển. Nhiều người khác trong cùng toa cũng ngất ngư nhưng không có cách nào kêu cứu, phải đợi tới khi tầu ngừng Cán bộ tới mở cửa để kiểm tra mới báo cáo được. Người ta đem xác anh Hùng xuống không biết đem đi đâu để làm ǵ?”

    Thật vô cùng dă man, mạng sống của những chiến sĩ chống Cộng sản một khi bị thất thế lọt vào tay Việt Cộng luôn luôn bị coi rẻ chẳng khác nào mạng súc vật. Thế mà Bác Hồ trước kia và các đàn em của Bác trong Đảng hiện tại, luôn luôn rêu rao là Cách mạng Vô sản đại lượng khoan hồng nhân đạo nhất Thế giới.

    Sau ngày Quốc hận 30-4-1975, nhiều trăm ngàn người chống Cộng tại miền Nam đă bị Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam đọa đầy thập tử nhất sinh, sống vô vọng chờ chết v́ bệnh tật, đói khát, kiệt lực… hàng chục năm trời trong các Trại cải tạo của Cộng sản Việt Nam nơi rừng sâu nước độc trên cả 3 miền đất nước. May nhờ sự can thiệp của Chính phủ Hoa Kỳ theo chương tŕnh nhân đạo mới được giải thoát, để cùng Vợ Con đi định cư tỵ nạn tái lập cuộc đời trên đất nước xa lạ ngoài quê hương của chính ḿnh. Thế mà bây giờ có một số nhỏ trong tập thể Cựu Tù Chính trị và người di tản trước 30-4-1975 đang được cùng vợ con định cư tỵ nạn tại nước ngoài với cuộc sống đầy đủ hạnh phúc, lại v́ danh lợi cá nhân xiêu ḷng ngả theo lời mê hoặc của Việt Cộng quên đi quá khứ dă man của chúng, cấu kết cùng các nhóm Tài phiệt Quốc tế dấn thân hoà hợp tiếp tay củng cố cho chúng giữ vững Bạo quyền tiếp tục bóc lột trấn áp nhân dân ở trong nước, thay v́ tiếp tay cùng Đồng bào Việt Nam tranh đấu lật đổ chúng. Thật đáng khinh miệt biết chừng nào!

    Đang lo lắng suy nghĩ lung tung th́ lại chợt mừng v́ đoàn xe tiếp tục chạy vượt qua khu những toa chở hàng hoá trống hốc đến ngừng lại bên một dẫy nhà sườn sắt, dài cao to mái và 3 mặt quây quanh bằng tôn đang có chiếc đầu máy xe hoả đậu trong đó chắc là để tu bổ hay sửa chữa.

    Chúng tôi được lệnh mang đồ đạc xuống xe ngồi tập trung theo từng Đội trên bệ xi măng dài giữa 2 dẫy đường rầy. Tất cả anh em ở trại Thanh Phong về Nam chuyến này được khoảng 100 người. Nhóm anh em Đại tá gồm: Nguyễn ngọc Điệp, Trần văn Thăng, Phạm tài Điệt, Lại đức Nhi, Trịnh đ́nh Đăng, Đỗ văn Sáu, Hồ hồng Nam, Dương hiếu Nghĩa, Vơ hữu Bá, Nguyễn quốc Quỳnh, Tô văn Vân, Nguyễn văn Phúc, Trần Kim Hoa và Tôi Nguyễn-Huy Hùng.

    Khoảng chừng 2 tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi xuống xe, lại thấy một đoàn xe khác đến đổ người xuống gần chỗ chúng tôi đang ngồi. Hỏi ra mới biết anh em thuộc Trại Lam Sơn (Đầm Đùn hay Lư bá Sơ) ǵ đó Tôi không nhớ rơ, cũng ở trong địa hạt của Tỉnh Thanh Hoá được đưa về Nam một chuyến với chúng tôi.

    Trong suốt buổi chiều ngồi giữa trời phơi nắng chờ đợi, chúng tôi có dịp quan sát mấy chuyến tầu từ phía Nam ra Bắc đi ngang ga Thanh Hoá. Hai ba đoàn tầu chạy suốt không ngừng, gồm toàn những toa chở hàng hoá đóng kín và những toa hàng lộ thiên chất đầy thùng gỗ hoặc thùng kim khí đồ sộ, những chồng ống sắt to dài, những cây gỗ dài chưa xẻ, những chiếc connex của Quân đội miền Nam chẳng biết chứa ǵ ở trong, những chiếc xe hơi kiểu nhỏ, những chiếc Mini Van, những dẫy xe máy dầu Honda, Suzuki quen thuộc tại Saigon trước 30-4-1975... Chỉ một đoàn tầu có lẫn lộn toa chở hành khách và toa chở hàng hoá ngừng lại ga khoảng ba mươi phút cho hành khách lên xuống, cắt bớt ra và nối thêm vào đoàn tầu vài toa hàng hoá.

    Từ ngày bị đưa ra miền Bắc học tập Cải tạo đến nay đă được 6 năm rồi, hôm nay Tôi mới có dịp thấy tận mắt cảnh tượng hành khách lên xuống tầu tại ga xe lửa trên đất miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa do Nhà Nước và Đảng Cộng sản Việt Nam quản lư điều hành từ mấy chục năm qua.

    Không biết việc bán vé cho khách đi tầu được tổ chức ra sao? việc kiểm soát ra vào sân ga như thế nào? mà trong toa không đủ chỗ chứa hành khách phải ngồi đứng đầy cả trên các bậc lên xuống ở 2 đầu toa. Có người liều lĩnh gác đ̣n gánh ngang trên lan can nối giữa 2 toa, ngồi ṭng teng như đang làm xiệc biểu diễn giữ thăng bằng cho mọi người chiêm ngưỡng sự can đảm khác thường của ḿnh. Số người ngồi lộn xộn bừa băi bên các đống thùng trên các toa chở hàng hoá lộ thiên, cũng đông chẳng kém ǵ trên các toa dành cho hành khách. Thật không hiểu nổi!

    Khi đoàn tầu vào sân ga vừa đậu lại, không biết từ đâu những người bê b́nh nước với đôi chiếc bát đá, xâu bánh gói bằng lá chuối khô, chiếc bao tải đựng bánh ḿ, hoặc rổ đầy ổi chuối... ào ra chạy dọc các toa mời chào rao hàng ầm ĩ. Trong lúc đó hành khách lên xuống tầu tranh nhau ném hành lư hàng hoá qua cửa sổ toa. Các bậc thang ở 2 đầu toa nghẹt cứng người xô đẩy giành nhau lên xuống la í ới chửi thề tán loạn. H́nh như người ta phải vội vă sợ lỡ chuyến nếu lên xuống không kịp giờ tầu chạy. Thật vô cùng hỗn độn!

    C̣n tiếp...

  7. #167
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Trước 30-4-1975 tại miền Nam và miền Trung Việt Nam, Tôi cũng đă từng dùng xe lửa đi công tác giữa nhiều Tỉnh suốt từ Nam ra Trung nhưng chưa bao giờ thấy cảnh hỗn loạn như vậy. Có lẽ v́ hồi đó Công ty Hoả xa miền Nam tổ chức thường xuyên nhiều chuyến tầu, số toa bao giờ cũng dư để cung cấp nhiều chỗ ngồi hơn cho khách so với số vé dự trù được bán ra. Hơn nữa dưới Chế độ Tự do Dân chủ theo nền Kinh tế Thị trường tại miền Nam Việt Nam trước 30-4-1975, ngoài phương tiện Hoả xa c̣n có nhiều Công ty Tư nhân cạnh tranh cung cấp các phương tiện chuyển vận khác như xe đ̣, tầu thủy và tầu bay đầy đủ cho khách cần di chuyển, nên dân chúng không phải chịu đựng cái thảm cảnh mất tiền mua vé mà vẫn phải tranh giành nhau như vậy.

    Thấy cảnh trước mắt Tôi trạnh ḷng thương các bà vợ Tù, tay xách nách mang ôm đồm những bao thực phẩm khô nặng cả trăm kí lô từ Nam ra Bắc “thăm nuôi” Chồng, chắc chắn cũng đă phải chịu đựng những cực h́nh mà chúng tôi đang được chứng kiến.

    Sau ngày Tôi được tha về nhà, Vợ tôi đă kể cho nghe truyện chuyến tầu lửa bà ấy đi từ ga Hà nội đến ga Ấm Thượng Vĩnh Phú để “thăm nuôi” Tôi vào cuối năm 1979, c̣n thê thảm hơn nhiều.

    “Người ta xếp hàng hoá đầy trên các ghế ngồi, chật cả lối đi ở chính giữa toa không có chỗ mà len chân. Kiếm được một chỗ rồi phải ngồi lên hành lư của ḿnh mà giữ, nếu không khi tới ga tầu ngừng lại kẻ cướp trà trộn trong đám hành khách xách đại hàng hoá của ḿnh chuyền tay nhau vất xuống sân ga chẳng có cách nào mà giằng lại. Kêu cứu chẳng ai tiếp, mọi người tỉnh khô nhướng mắt nh́n không nhúc nhích v́ họ cũng đang phải lo giữ cho phần riêng của họ.

    Tầu tới ga Ấm Thượng vào lúc nửa đêm sân ga tối như bưng không đèn đóm. Hai Chị Em (Vợ tôi và bà Chị) tay xách tay khênh đồ đoàn len ra được tới đầu toa thả hành lư rớt xuống đất trước, rồi mới lần ṃ các bậc thang bước xuống sau. Bậc cuối cùng cách mặt đất khá xa, tối không thấy ǵ nên bước đại xuống hụt chân té lăn nhào xuống đất. Hoàn hồn lồm ngồm ngồi lên được vừa đúng lúc tầu x́nh xịch chuyển bánh đi tiếp. May mà lúc bị té lăn ra ngoài, chớ vô phúc bị lăn vào phía đường rầy khi tầu chạy thân ḿnh bị nghiến nát chẳng ai hay.”
    Thật vô cùng nguy hiểm!

    Chúng tôi phải ngồi giữa trời phơi nắng chờ măi cho tới gần tối mới thấy một chiếc đầu máy chạy đi dồn tới kéo lui cả tiếng đồng hồ tập trung một số toa chở hành khách hạng nh́. Sau cùng đến đậu ngay khu chúng tôi đang ngồi. Cán bộ phụ trách Đội đến mở khoá xích tay cho mọi người, và ra lệnh Đội trưởng điều động anh em khuân đồ đạc chất lên một góc toa dành cho chúng tôi. Xong xuôi, toàn Đội phải tập trung 2 hàng dọc để Cán bộ đếm đầu cho lần lượt lên toa kiếm chỗ ngồi 2 người một ghế. Mọi người lên hết vừa ngồi yên chỗ, Cán bộ đến từng ghế khoá tay 2 người chung một sợi xích y như lúc bắt đầu lên xe di chuyển từ Thanh Phong ra ga Thanh Hoá.

    Bên trong toa ở giữa là lối đi, 2 bên dọc theo bề dài của toa có 2 dẫy ghế gỗ có tựa lưng, mỗi ghế dành cho 2 người. Các ghế được sắp xếp đâu mặt vào nhau thành từng nhóm 4 người ngồi đối diện, 2 người hướng về phía đầu tầu, 2 người hướng về phía đuôi tầu. Anh Trịnh Đ́nh Đăng và Tôi bị khoá tay chung một sợi xích, chúng tôi ngồi chiếc ghế quay lưng về phía đầu tầu thành ra không quan sát được quang cảnh phía tầu sắp chạy tới như những bạn ngồi đối diện. Hàng ghế chúng tôi ngồi ở bên nửa phải của toa nên chỉ thấy toàn rừng núi của dẫy Trường Sơn, không thấy được cảnh đồng ruộng làng mạc phần lớn tập trung bên phía ven biển.

    Đến xẩm tối, có đoàn tầu gồm toàn xe chở hành khách từ Bắc vào ngưng ngay giữa sân ga. Sau các khung cửa sổ toa thấp thoáng đầy bóng người, không thấy ai xuống mà cũng chẳng thấy khách mới lên. Nhóm người bán hàng rong cũng không thấy xuất hiện.

    Đang chú tâm quan sát th́ cảm thấy đoàn tầu chứa chúng tôi di động, tiến tới thối lui bốn năm lần cả tiếng đồng hồ chuyển từ đường rầy này sang đường rầy khác để cuối cùng nối vào đoàn tầu vừa tới. Trời tối ga không đèn đóm nên cũng chẳng biết được nối vào khúc nào trong đoàn tầu chính. Măi sáng hôm sau, khi đoàn tầu chạy đến khúc ṿng quanh sườn núi nơi chân đèo Hải Vân (giữa Huế và Đà Nẵng) nh́n thấy được cả đoàn tầu từ đầu đến đuôi, mới biết toa của chúng tôi nằm ở khúc giữa. Đoàn tầu có khoảng hơn chục toa, 2 đầu máy kéo ở phía đầu và 1 đầu máy đẩy ở phía đuôi.

    Suốt từ lúc lên tầu, ai nấy phải ngồi nguyên tại chỗ không được di chuyển lộn xộn ngay cả trong toa, nên chẳng biết khách trên các toa khác là những thành phần nào. Nhưng chúng tôi đoán chắc là các bạn Tù từ miền đồng bằng Bắc Việt được di chuyển về Nam cùng lượt với chúng tôi.

    Toa xe chỉ có một pḥng vệ sinh nhỏ ở khoảng giữa dành cho một người dùng nên rất chật hẹp. Mỗi lần anh nào cần tiểu hoặc đại tiện đều phải kéo theo anh bạn xích tay chung cùng đi. Người giải quyết ngồi làm nhiệm vụ của ḿnh, người đi theo phải đứng kè ngay bên cạnh chờ hít thở mùi xú uế của bạn ḿnh thải ra. Thật thảm năo nhưng phải ráng chịu chớ biết làm sao hơn!

    Toa xe chở cả 4, 5 chục người thay phiên nhau đi giải quyết vệ sinh dài dài suốt ngày đêm. Chỉ có 3 Cán bộ áp giải vơ trang súng AK của Liên Xô ngồi nằm trên 4 ghế trấn thủ ở 2 đầu toa, đời nào họ lại chịu cực đi tới đi lui mở khoá xích cho hết người này đến người khác hoài hoài được. Cũng may họ không buộc phải hô to báo cáo xin phép mỗi lần rời khỏi chỗ ngồi để đi giải quyết vệ sinh là tốt rồi.

    Đoàn tầu rời ga Thanh Hoá khoảng lúc 9 giờ tối, anh em đăm chiêu ngồi nh́n những ngọn đèn vàng thưa thớt trong thành phố lùi dần ngoài khung cửa sổ toa tầu. Độ chừng dăm phút sau chẳng c̣n thấy ǵ, ngoài Trời tối đen như mực, trong toa không có đèn mọi người ṃ mẫm lấy đồ ăn ra nhấm nháp cho xong bữa tối rồi ai nấy thiu thiu ngủ.

    Khoảng nửa đêm, gió lạnh lùa vào toa làm chúng tôi tỉnh giấc, nh́n ra thấy tầu đang chạy ngang một khu có lưa thưa mấy dẫy đèn điện vàng vọt sáng. Tấm bảng treo nơi hàng hiên dẫy nhà sát bên đường rầy cho biết đây là Ga Vinh, tầu tiếp tục chạy không ngừng. Bốn anh em chúng tôi ngồi đối diện nhau đồng thoả thuận kéo mành cửa sổ toa xuống cho khỏi lạnh để ngủ tiếp.

    Lối đi giữa 2 chiếc ghế chẳng rộng răi ǵ, đầu gối chân người ngồi ghế bên này chỉ cách đầu gối người ngồi ghế bên đối diện khoảng 10 phân, muốn duỗi thẳng chân ra cho khỏi mỏi cả 4 người phải thoả thuận cùng duỗi tréo xen kẽ bên nhau.

    Hai người bị khoá tay chung một sợi xích, một bên tay cứ phải để yên không nhúc nhích sợ làm phiền bạn, thật khó chịu. Ngủ ngồi phải ngửa đầu tựa lưng vào ghế, 2 vai, sống lưng, hông và 2 chân tê mỏi vô cùng.

    Anh Trịnh đ́nh Đăng bị xích tay chung với Tôi là người có nhiều sáng kiến rất hay để ứng phó với mọi t́nh huống. Không biết làm cách nào anh ấy rút được bàn tay ra khỏi ṿng xích khoá, rồi ghé miệng sát tai Tôi th́ thầm đề nghị để anh ấy chui nằm dài dưới gầm ghế c̣n Tôi nằm một ḿnh trên ghế, như vậy 2 anh em cùng được nằm ngủ thoải mái. Tôi đồng ư ngay và để tránh không bị Cán bộ phát giác khi đi kiểm tra, Tôi phải bỏ tḥng tay có xích xuống sát ngực anh ấy y như 2 tay vẫn xích liền bên nhau. Chỉ có một điều bất tiện duy nhất là phải nằm nghiêng co chân không duỗi thẳng được v́ bề dài chiếc ghế chỉ độ 1 mét rưỡi, nếu duỗi thẳng chân sẽ cản đường đi giữa toa xe.

    Hai anh bạn ngồi đối diện thấy sáng kiến hay nên bắt chước, nhưng các anh ấy không ai rút được bàn tay ra khỏi ṿng xích như anh Đăng. Bốn đứa chúng tôi ngủ được một giấc dài thoải mái đến sáng, bị một bạn đi giải quyết vệ sinh ngang qua đụng vào chân mới giật ḿnh tỉnh dậy.

    Chúng tôi ngồi trở lại vị trí trên ghế mở cửa sổ toa nh́n ra ngoài, thấy tầu đang chạy song song bên trái Quốc Lộ 1, đường vắng hoe không một bóng người. Chừng nửa giờ sau tầu băng qua cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải, Quảng Trị. Mấy dẫy nhà tiền chế bằng tôn dành cho anh em Công An thuộc Việt Nam Cộng Hoà giữ an ninh vùng phi quân sự ở đầu cầu phía Nam có từ ngày thi hành Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 vẫn c̣n đó, chỉ không thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phới trên ngọn cột cờ cao dựng trước dẫy nhà như hồi trước 30-4-1975 mà thôi.

    Đi ngang khu này Tôi nhớ lại dịp đến công tác tại Tiểu khu Quảng Trị hồi Tết Âm lịch năm 1958. Tôi được ông Quận trưởng Quận Gio Linh dẫn đi thăm khu phi quân sự, đặc biệt là cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải. Chúng tôi đi bộ lên cầu tới cách vạch sơn trắng phân ranh Nam Bắc ở giữa cầu chừng 10 mét th́ ngừng lại, đứng quay lưng về phía Bắc chụp tấm h́nh kỷ niệm. Bên kia đầu cầu có một viên an ninh Cộng sản Bắc Việt mặc sắc phục vàng đội nón cối lá đứng gác. Xa hơn đầu cầu chừng vài trăm mét là một dẫy nhà tranh 5 gian, đằng trước có một cột thật cao treo lá cờ đỏ sao vàng to tướng bay phất phơ theo gió.

    Vạch sơn trắng oan nghiệt ghi trên sàn giữa cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải từ cuối tháng 7-1954 đến 30-4-1975 là ranh giới chia đôi đất Việt Nam thành 2 nước: Nam Việt theo Chế độ Tự do Tư bản, và Bắc Việt theo Chế độ Cộng sản quy định bởi Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Tại cái vạch sơn trắng (bức tường vô h́nh oan nghiệt) này cũng từng là “cửa khẩu trao đổi Tù binh” giữa 2 bên Nam Bắc, sau khi Hiệp Định Paris 27 tháng 1 năm 1973 chấm dứt cuộc chiến “huynh đệ tương tàn” dài một phần năm Thế kỷ 20 được kư kết.

    Hôm nay Tôi được đi ngang cầu Hiền Lương bằng xe hoả từ miền Bắc về miền Nam, với tư cách một Tù nhân Chính trị sau hạn lưu đầy suốt 6 năm trên đất miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa. Ḷng xúc động nghẹn ngào rưng rưng lệ sung sướng, v́ không ngờ qua bao năm cay đắng lao khổ cực nhục vô vọng ḿnh c̣n sống trở về gặp lại Đồng bào miền Nam thân yêu và Vợ Con thân quyến ruột thịt, mà trong suốt thời gian 6 năm qua cứ tưởng rằng chẳng bao giờ c̣n được thấy mặt.

    Đoàn tầu chạy qua hết địa phận Quận Gio Linh, khi sắp tới chiếc cầu sắt dài băng ngang sông Thạch Hăn ngay giữa tỉnh lỵ QuảngTrị mới thấy lẻ tẻ xuất hiện đôi ba chiếc xe đạp, xe máy dầu, xe Lam chở hành khách tất bật vội vă ngược xuôi trên đường cái. Không như trước 30-4-1975 vào giờ này người và xe cộ đủ loại nối đuôi nhau chạy như mắc cửi trong thành phố.

    Chừng một giờ sau tầu chạy chậm lại, x́nh xịch băng qua cầu Bạch Hổ trên sông Hương đậu lại ga ngay gần đầu cầu. Bên kia sông Hương là Thành Nội Cố đô Huế, nơi mà Tết Mậu Thân 1968 Việt Cộng theo kế hoạch Tổng công kích toàn miền Nam đă chiếm đóng cả tháng trời, bắt bớ sát hại chôn sống tập thể cả chục ngàn dân vô tội và Quân Cán chính Việt Nam Cộng Hoà.

    Đoàn tầu vừa ngưng bánh tại sân ga, Cán bộ dẫn anh Đội trưởng và 2 người nữa xuống khỏi toa vào nhà ga lănh nước và thực phẩm tiếp tế ăn đường cho cả ngày.

    Toa chở chúng tôi ở đoạn giữa đoàn tầu nên may mắn ngưng đúng ngay chỗ có nhà ga, nhờ thế quan sát được đầy đủ mọi việc xẩy ra trong sân ga.

    Những người bán hàng rong nấp sau những toa xe bỏ trống trong sân ga ùa ra rao hàng mời mua rối rít. Anh em chúng tôi dơ tay bị xích lên cho họ biết ḿnh là Tù làm ǵ có tiền để mua. Bỗng dưng, một trong những người bán hàng lên tiếng nói lớn:

    “-Các Anh là Chiến sĩ ra Bắc cải tạo trở về à? Vậy th́ đâu cần tiền, cứ nhận lấy mà ăn không phải trả tiền nong ǵ cả.”


    Rồi lần lượt những người bán hàng rong đua nhau quăng bánh ḿ, trái cây... đủ thứ qua cửa sổ toa cho chúng tôi.


    Cán bộ áp tải và Công an giữ an ninh tại ga thấy vậy, bắt chúng tôi phải kéo mành che cửa sổ toa xuống không cho nh́n ra ngoài nữa, rồi dồn đuổi những người bán hàng kia đi chỗ khác.

    Phía ngoài hàng rào nhà ga, đàn ông đàn bà thanh niên nam nữ chen nhau đứng đông nghẹt gọi với vào hỏi thăm:

    “-Có Đại úy X, có Trung úy Y, có Thiếu tá Z... trên đó không? Từ Trại nào về vậy?...”


    Lạ thật! làm sao bà con thân nhân biết sáng nay có chuyến tầu chở Tù từ miền Bắc về mà ra t́m gặp hỏi thăm vậy?

    Đoàn tầu đậu gần hai tiếng đồng hồ tại ga Bạch Hổ Huế rồi mới chuyển bánh tiếp tục con đường xuôi Nam. Ngừng lâu như vậy chắc là để tiếp nhiên liệu cho các đầu máy sau quăng đường dài đă chạy cũng khoảng hơn 5 trăm cây số từ Thanh Hoá đến Huế. Rời ga Bạch Hổ đoàn tầu lần lượt băng qua các vùng Phú Cam, An Cựu, núi Ngự B́nh, Phi trường Phú Bài, Bạch Mă, Truồi, Lăng Cô, để bắt đầu quanh co ḅ lần lên cao ṿng theo các sườn núi chui qua hầm đèo Hải Vân dài cả chục cây số để đổ xuống phố Đà Nẵng.

    Hồi những năm 1948-1949 theo học khoá đầu tiên của Trường Sĩ quan Việt Nam tại Huế, Tôi và các bạn cùng khoá đă phải lặn lội ngày đêm tôi luyện chiến thuật hành quân tại vùng này nên không quên được. Có những buổi thực tập hành quân đêm, đụng độ với các toán Việt Cộng vơ trang ṃ về hăm doạ buộc dân chúng tiếp tế hoặc đóng thuế. Cũng có lần tập hành quân an ninh mở đường bộ và thiết lộ vào lúc sáng sớm, đă khám phá ra những quả ḿn do Việt Cộng lén lút cài ban đêm để phá hoại xe hơi hoặc tầu hoả chuyên chở dân chúng di chuyển trong ban ngày. Những cuộc hành quân thực tập này nằm trong phần chương tŕnh “Giai đoạn thử lửa” trước khi măn khoá.

    Từ hầm đèo Hải Vân chui ra đoàn tầu từ từ ṿng vèo trườn xuống dốc, nh́n được toàn cảnh vùng thành phố Đà Nẵng rất đẹp và nên thơ, đặc biệt là pho tượng Phật trắng toát đồ xộ cao lênh nghênh nổi bật giữa tấm thảm rực rỡ đủ mầu sắc của các mái nhà và ngọn cây dưới ánh nắng của mặt trời buổi sáng.

    Tuốt xa xa xừng xững dẫy Ngũ Hành Sơn um tùm cây chen đá nối liền cảnh đồng ruộng và bầu trời xanh trong, nơi dân địa phương khai thác đá hoa mầu hồng để đẽo tượng, b́nh bông, lư hương... bán cho khách thập phương qua lại.

    Két két x́nh x́nh xịch xịch đoàn tầu từ từ xiết bánh sắt trên đường rầy tụt xuống hết dốc đèo Hải Vân, th́ lại bắt đầu tăng tốc độ vùn vụt nuốt tuyến thiết lộ trải dài trên dải đất hẹp nằm giữa Biển Đông và Dẫy Trường Sơn (bộ xương sống của quê hương Việt Nam thân yêu h́nh chữ S).

    Suốt cả ngày dưới trời nắng chang chang không ngừng lại bất cứ ga lớn nhỏ nào, đoàn tầu băng băng chạy ngang các địa phận Quảng Ngăi, B́nh Định, Qui Nhơn, rẽ ṿng theo chân núi qua các vùng Vân Canh, La Hai xa bờ biển, rồi lại ṿng trở ra An Mỹ tiếp tục chạy sát biển. Tới lúc xế chiều đến Tuy Hoà (Phú Yên) đoàn tầu chạy ngang sườn rặng núi trên đỉnh có Ḥn Vọng Phu rêu phong xừng xững đứng thi gan cùng tuế nguyệt. Theo tục truyền đây là h́nh người thiếu phụ bồng con trung kiên đứng đợi chồng đi chinh chiến lâu không về, nên biến thành tượng đá.

    Chừng nửa giờ sau đoàn tầu từ từ tụt xuống Đèo Cả vùng Đại Lănh ranh giới Phú Yên – Khánh Hoà, rồi từ Ninh Hoà chạy dọc bờ biển băng Đèo Rọ Tượng vào đến ga Nha Trang lúc nhá nhem tối. Sát dọc hai bên thiết lộ dẫn vào ga Nha Trang thấy chi chít toàn là nhà dân chúng cư ngụ. Trong khi đoàn tầu di chuyển ngang, thấy Đồng bào trong khu ùa ra chạy dọc theo tầu vừa nói vừa làm hiệu tay, chỉ bảo viết lời nhắn và địa chỉ gia đ́nh ném xuống để họ gửi đi báo tin giùm.

    Thật bất ngờ, trong số anh em chúng tôi cũng có đôi người vội vă lấy giấy viết vứt xuống nhờ, nhưng phần lớn c̣n lại cho rằng việc làm có vẻ phiêu lưu không tin tưởng nên không thực hiện. Nhưng ai nấy cùng tỏ lộ sắc thái hân hoan cảm kích tấm thịnh t́nh của Đồng bào đối với ḿnh. Đồng bào miền Nam không thù hận “Ngụy Quân” như Cộng sản Bắc Việt rêu rao trong các bài học Cải tạo nhồi sọ bấy lâu nay.

    Vào đến ga Trời đă tối mịt chẳng c̣n thấy ǵ, dưới những dẫy đèn điện vàng yếu ớt chiếu sáng đoàn tầu lại được điều khiển dồn tới dồn lui cả tiếng đồng hồ chẳng biết nối thêm hay cắt bớt toa để lại. Xong xuôi, tầu đậu thêm chừng 1 tiếng đồng hồ rồi chuyển bánh chạy trở ra ngang khúc đường cũ có nhà dân chúng ở dọc 2 bên. Đồng bào lại cằm đuốc chạy theo vẫy tay chào, mục đích chính có lẽ để nhận thêm những mảnh thư anh em Tù ném xuống nhờ gửi về nhà trước nếu ai cần. Tiếc quá, chúng tôi đâu biết tầu phải chạy trở lại đoạn đường này để nhập vào con đường chính tiếp tục xuôi Nam mà chuẩn bị.

    Sau khi ra khỏi vùng thị xă Nha Trang đoàn tầu bắt đầu tăng tốc độ chạy vùn vụt trong đêm tối, anh em lo ăn uống và thu xếp chỗ ngủ để giữ sức chứ thức làm chi cho mệt. Tiếng bánh sắt lăn trên đường rầy tạo ra một loạt âm thanh đều đều rào rào rào! kịch kịch kịch! rào rào rào! kịch kịch kịch!... liên tục, thân toa tầu không nẩy xóc rung nhẹ nhẹ êm êm giúp mọi người ch́m vào giấc ngủ dễ dàng hơn cả dùng thuốc an thần.

    Anh Đăng và Tôi đổi chỗ nằm, anh ấy lên nằm trên ghế, Tôi xuống dưới gầm ghế nằm trên mặt sàn toa. Mỗi lần nhắm mắt để ngủ, những hoạt cảnh tại ga Bạch Hổ ở Huế lúc buổi sáng và khúc đường vào ga Nha Trang mới hồi tối thi nhau diễn lại trong đầu làm Tôi trằn trọc không sao ngủ được. Cũng phải khoảng cả hơn tiếng đồng hồ sau, nhờ những tiếng ngáy ro ro đều đều của các bạn nằm bên cạnh và trên ghế hoà nhịp cùng tiếng chuyển động vượt không gian của đoàn tầu, hợp thành một điệu ru trầm trầm êm ái mới khiến được mí mắt của Tôi nặng trĩu rồi xụp xuống ngủ đi lúc nào không biết.

    Đang say sưa ngon giấc, các tiếng xôn xao lục đục làm Tôi bừng tỉnh mở mắt thấy tầu đă ngừng chẳng biết tại đâu. Có lệnh chuẩn bị xuống, anh em lần lượt nối đuôi nhau ra đầu toa, xuống đến bậc thang chót th́ thấy Cán bộ áp tải đang đứng tại đó mở khoá xích tay cho anh em.

    Sau khi mọi người đă xuống hết, Cán bộ leo lên toa tầu rọi đèn pin kiểm tra để chắc chắn không c̣n sót ai, rồi mới ra lệnh tập trung chuyển đồ đạc chất lên chiếc xe chuyên chở đậu gần bên. Trời tối thui, chung quanh ga chẳng có đèn đóm ǵ cả ngoài mấy luồng ánh sáng đèn pin của Cán bộ quẹt qua quẹt lại, soi đường đi kiểm tra theo dơi mọi người khuân chuyển đồ đạc từ toa tầu xuống chất lên xe.

    Trong khi anh em chúng tôi làm dây chuyền ṃ mẫm chuyển xếp đồ đạc, anh tài xế mặc thường phục loanh quanh lại gần hỏi nhỏ: “-Ở Bắc về hả?” Tôi trả lời cụt lủn: -Thanh Hoá về.

    Anh ấy nói tiếp cho biết đây là ga Gia Rai, xe thuộc nghiệp đoàn chuyển vận ở Saigon được thuê lên chở vào Trại Hàm Tân. Tôi th́ thầm hỏi: -Có thể đưa tin về nhà giúp được không?

    Anh ấy trả lời được, Tôi liền lấy mẩu giấy nhỏ viết vội mấy chữ “Bố đă về Hàm Tân” tiếp sau là tên người con gái của Tôi cùng địa chỉ của gia đ́nh, rồi xếp làm tư giúi vào tay anh tài xế. Xong xuôi Tôi lỉnh nhanh ra chỗ khác tiếp tục khuân đồ đạc bên mọi người.

    Ba tháng sau, Tôi được Vợ giắt 3 người con tới Trại Z30C Hàm Tân thăm nuôi, Tôi hỏi thăm về mẩu tin nhắn lúc mới về tới Nam. Vợ tôi xác nhận:

    “-Anh tài xế tốt bụng, có đem mảnh giấy nhắn tin của Tôi tới tận nhà. Gia đ́nh biếu anh ấy chút tiền uống nước để cám ơn. Anh ấy vui vẻ nhận, và chúc cho gia đ́nh chúng tôi sớm được đoàn tụ.”

    Mọi đồ đạc chất lên xe xong, mọi người phải tập họp hàng 2 để Cán bộ đếm đầu người lên xe về Trại giam. Chạy ṿng vo một hồi đoàn xe rẽ qua một cổng lớn bên trái con đường rồi đậu tại một băi sân rộng 2 bên có những dẫy nhà tôn, giữa sân có một đống lửa bập bùng cháy để soi sáng thay đèn.

    Anh em được lệnh xuống xe khuân đồ đạc vào trong một dẫy nhà mái tôn vách gỗ chỉ có một lối vào ở đầu nhà. Xong xuôi, mọi người phải trở ra đứng xếp hàng đôi để Cán bộ đếm đầu cho lần lượt vào nhà giam rồi khoá trái cửa bên ngoài.

    Trong nhà chứa được khoảng 100 người, có 2 dẫy xạp ngủ 2 tầng bằng gỗ dọc 2 bên tường, một lối đi ở giữa nhà rộng khoảng hơn 1 mét. Một ngọn đèn dầu leo lét cháy treo nơi khung cửa lối vào căn pḥng vệ sinh nhỏ ở cuối nhà. Nhóm anh em Đại tá chúng tôi thuộc Đội phải nằm xạp tầng trên, một vài bạn có quá nhiều rương, thùng, bao đựng đồ tiếp tế không khuân lên cao được, đành để đại thành từng đống tại lối đi giữa nhà làm nhiều người đi vệ sinh ban đêm vấp đau chân bực ḿnh lẩm bẩm cằn nhằn.

    Xạp ngủ tầng trên được ghép bằng nhiều tấm ván dầy mỏng khác nhau, những miếng mỏng lâu ngày bị khô cong lên vơng xuống nằm bị cấn lưng đau khó chịu vô cùng. Nhưng cũng may, không có rệp như ở các K1, K5 thuộc Trại Tân Lập tỉnh Vĩnh Phú ngoài miền đất Bắc Việt Nam Xă hội Chủ nghĩa.


    Xem tiếp...
    Last edited by Tigon; 16-03-2013 at 11:58 PM.

  8. #168
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 30 : TRẠI Z30C HÀM TÂN,TIA SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM

    Sau 6 năm bị lưu đầy biệt xứ trên đất miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa được trở về hít thở bầu không khí ôn hoà của miền Nam vào đúng cuối tháng 4 năm 1982, Tôi cảm thấy nao nao buồn vui lẫn lộn.

    Vui mừng sung sướng v́ không ngờ sau thời gian dài 2125 ngày bị đọa đầy hành hạ cực khổ đói khát bệnh hoạn, đă không phải bỏ thây trên đất miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa như dự tính của Đảng Cộng sản Việt Nam mà vẫn c̣n sống trở về miền Nam đợi ngày được Tự do đoàn tụ với Vợ Con và thân quyến bằng hữu.

    Buồn v́ nhờ chuyến tầu hoả xuyên Việt mới có dịp nh́n thấy tận mắt cảnh quê hương tiêu điều suốt dọc con đường dài 1456 cây số hai bên thiết lộ từ Thanh Hoá vào tới Gia Rai Thuận Hải, sinh hoạt của dân chúng không nhộn nhịp như trước ngày bị Cộng sản xâm lược dưới chiêu bài Giải phóng miền Nam.

    Không ai có thể quên được ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái mốc thời gian lịch sử đau thương nhất của toàn dân tộc Việt Nam trong hậu bán Thế kỷ 20 do Việt Cộng tay sai Cộng sản Quốc tế đă ghi vào cuốn sử hơn bốn ngàn năm Văn Hiến của ḍng giống Tiên Rồng chúng ta. Cả triệu người cằm súng chống Cộng sản Quốc tế xâm lăng miền Nam Việt Nam phải đau ḷng nuốt hận buông súng, v́ bị Đồng minh Hoa Kỳ và nhóm Lănh đạo Chính trị hoạt đầu đón gió trở cờ tại miền Nam phản bội.

    Chế độ Cộng hoà Dân chủ Tự do tại miền Nam Việt Nam tan biến, hàng triệu người dân vô tội đang sống yên vui hạnh phúc phải tất tưởi sợ hăi dắt díu nhau t́m đủ mọi phương tiện bỏ nước ra đi, v́ họ đă thấy tấm gương tầy liếp “tắm máu diệt chủng” của dân tộc Cămpuchia khi bọn Khmer Đỏ tay sai Cộng sản Quốc tế cướp được Chính quyền tại Nam Vang đă thực hiện hồi đầu tháng 4 năm 1975 trên đất nước xứ Chùa Tháp Đế Thiên Đế Thích. Cả hơn 2 triệu người dân Cămpuchia bị đập đầu đến chết một cách rất man rợ, chẳng khác nào Việt Cộng đă chém giết chôn sống gần chục ngàn đồng bào Việt Nam tại Huế trong cuộc “Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968”.

    Sau suốt mấy chục tiếng đồng hồ tù túng ê mông đau lưng nằm ngồi trên chuyến xe lửa Thống Nhất đặc biệt, nay được nằm dài duỗi thẳng chân tay trên sàn ván nên mọi người thoải mái từ từ ch́m vào giấc ngủ mê mệt chẳng biết trời trăng ǵ.

    Đang mê man trong mộng Hoàng Lương th́ những tiếng cồng đánh thức sáng oang oang vang trong sương mù làm mọi người tỉnh giấc. Uể oải mắt nhắm mắt mở ngồi dậy Tôi cứ tưởng ḿnh đang ở Thanh Phong, nhưng khi chống tay ngồi lên cảm thấy chiếc sàn nằm bằng ván cứng mới nhớ ra ḿnh đang ở Trại Hàm Tân tỉnh Thuận Hải trong miền Nam.

    Chờ hoài không thấy Cán bộ đến mở cửa nhà giam nhưng anh em chẳng ai ngạc nhiên, v́ mọi người đă quá quen thuộc với cái quy luật cố hữu của Trại Cải tạo Cộng sản là Tù mới tới bao giờ cũng được ở nhà một đôi ngày làm thủ tục khai báo lư lịch, sau đó Ban Chỉ huy Trại dựa theo lư lịch xếp loại thành phần để “biên chế” vào các Đội rồi mới đưa ra ngoài lao động.

    Tất cả Tù cũ theo nhau xuất Trại lao động hết xong xuôi Cán bộ mới đến mở cửa cho chúng tôi ra, làm vệ sinh cá nhân và đi lănh phần ăn sáng về chia nhau. Được ra sân nh́n quanh giữa ban ngày, thấy Trại giam này rộng răi hơn K2 Thanh Phong Thanh Hoá rất nhiều. Trại ngự trị trên một khoảng đồi rộng và được chia thành 2 khu riêng biệt cách nhau bởi con đường đủ rộng cho 2 xe tải chạy ngược chiều không phải ngừng để nhường nhau. Khu bên phía Đông con đường có nhiều cây cao to tàn lá um tùm mát mẻ, với những căn nhà khang trang như một xóm dân cư dành cho Cán bộ và các cơ sở Ban Chỉ huy Trại. C̣n khu bên phía Tây trơ trụi không cây, với một lũy đất cao 1 mét trồng tre gai tươi dầy đặc rộng cỡ 2 mét bao quanh để nhốt Tù.

    Bên phần đất giam Tù được chia thành 2 khu cách nhau bởi một khoảng trống rộng và hàng rào kẽm gai. Khu trên cao nơi đang giam chúng tôi gồm toàn nhà mái tôn, Nhà Bếp, Hội trường, Bệnh xá và một giếng nước lớn. Khu dưới thấp gồm 3 dẫy nhà gạch, 2 dẫy mái lợp ngói và 1 dẫy lợp bằng những miếng fibro ciment sóng gợn. Anh em Tù cũ gọi là Khu Nhà Ngói giam những Tù bị Trại coi là nguy hiểm cần cách ly, Nhà Kỷ Luật giam Tù vi phạm Nội quy Trại cũng ở trong Khu Cách Ly này.

    Tại trại này, mỗi dẫy nhà giam đều bị quây chung quanh bởi một hàng rào kẽm gai đan ô vuông cao 2 mét. Nhà nọ cách nhà kia một khoảng đất trống chừng 50 mét và có một đường đi rộng 5 mét ở chính giữa. Dọc bên hàng rào phía cuối của mỗi dẫy nhà là nơi Tù được phép gây bếp để nấu nướng linh tinh tăng cường cho 2 bữa ăn hàng ngày của ḿnh.
    Hết giờ lao động sáng, từng Đội Tù cũ lần lượt trở vào Láng giam sau đó ùn ùn kéo nhau ra khu bếp ngoài trời nấu nướng. Chúng tôi ra sát hàng rào bên Láng đứng quan sát ngóng t́m bạn bè quen cũ trao đổi tin tức. Nhiều Bạn gặp người quen cùng đơn vị cũ hỏi thăm nhau rối rít. Tôi không nhận ra được ai quen v́ phần lớn anh em thuộc đơn vị tác chiến. Bỗng nhiên có một anh cỡ hơn 3 chục tuổi, loay hoay nhóm bếp xong đứng lên vẫy tay về phía Tôi lớn tiếng gọi:

    “-Trưởng Hùng! Trưởng Hùng! Em là X đây, Hướng đạo Quân đội Tiểu khu Định Tường đây, Trưởng có nhận ra không? Ôi chao! sao lúc này Trưởng già ốm quá vậy? Trưởng có cần ǵ không? Cho biết em ném sang tiếp tế cho Trưởng.”
    Ngờ ngợ một lúc lâu Tôi mới nhớ ra anh bạn X Trung úy thuộc Khối Chiến tranh Chính trị ở Mỹ Tho, đă theo Trại huấn luyện Huynh Trưởng Hướng đạo Quân đội tại Căn Cứ Tiếp vận Long B́nh do Tôi làm Trại trưởng. Bạn ấy học Trại Ngành Thiếu để về tổ chức hướng dẫn con em gia đ́nh quân sĩ trong Tiểu khu sinh hoạt trau dồi Trí, Đức, Thể lực, và hoạt động Giúp Ích xă hội trong những giờ nhàn rỗi ngoài học đường. Tôi lắc đầu trả lời:

    “-Không cần thực phẩm, chỉ cần ít củi đun thôi.”
    Anh bạn X liền chạy ra góc sân lấy một bó củi ngắn nhỏ ném qua đỉnh 2 hàng rào sang cho. Tôi cám ơn rồi đem vào đưa cho anh bạn ăn chung chuẩn bị nấu nướng món tăng cường cho bữa trưa của chúng tôi.
    Hôm sau là mồng 1 tháng 5 Lễ Lao động Quốc tế cả Trại nghỉ không phải ra ngoài lao động. Việc nấu nướng “cải thiện” được thực hiện cả ngày không hạn chế, anh em tha hồ đứng bên hàng rào hàn huyên thăm hỏi nhau thoải mái. Tôi đang ở trong Láng giam viết thơ gửi về gia đ́nh báo địa chỉ liên lạc mới, th́ một bạn ở chung Láng từ khu nấu nướng chạy vào cho hay có người nhắn muốn gặp Tôi. Thủng thẳng đi ra khu nấu nướng bên hàng rào nh́n sang coi ai kiếm ḿnh, Tôi thấy Trung úy X đứng bên một người cao lênh nghênh. Anh bạn cao như c̣ sếu dơ tay vẫy vẫy rồi chào theo kiểu riêng của Hướng đạo sinh và lên tiếng:

    “-Chào Trưởng Hùng, Em là “Hươu Lém” đây, Trưởng có nhớ ra Em không?” Bạn này th́ Tôi nhớ ra ngay v́ cái dáng dấp cao đặc biệt, hồi bạn ấy tham dự Trại huấn luyện Trưởng ngành Kha đă được Toán Huấn luyện tổ chức cuộc săn đêm theo lối sinh hoạt của Hướng đạo để đặt Tên Rừng Hướng Đạo Sinh cho bạn ấy nên Tôi nhớ măi không quên được.
    Tôi cười gật gật đầu nói:

    “-Nhớ! Nhớ! làm sao quên được kỷ niệm cuộc săn đêm ở Trại Kha ngày nào.”
    Bạn ấy vỗ tay cất tiếng ha hả cười và ném qua hàng rào sang cho Tôi một túi ni lông. Tôi nhặt mở ra xem thấy trong có bó rau muống và một chiếc mũ rộng vành đan bằng lá buông, kiểu Hướng đạo sinh thường đội. Trong suốt 6 năm ở trong các trại Z30C và Z30D tại Hàm Tân, Tôi đă dùng chiếc nón lá này đội để che mưa nắng và khi dược tha về Tôi cũng đem theo làm kỷ niệm, nhưng tiếc quá khi lu bu chuẩn bị hành lư cùng gia đ́nh đi định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ vào đầu tháng 8 năm 1992 Tôi đă quên không mang theo.

    Nghỉ Lễ Lao động xong mọi người tiếp tục đi lao động, nhóm anh em chúng tôi mới đến được ở trong trại chờ “biên chế”thành Đội. Nhóm Đại tá chúng tôi được tăng cường một số Trung Tá gốc Pháo binh, Công binh, Tổng quản trị, Biệt động quân, An ninh quân đội, Chiến tranh Chính trị, có cả Cảnh sát Quốc gia và 4 Đại tá từ nơi khác về (trong đó có anh Đại tá Hải quân Nguyễn văn Tấn) lập thành Đội Nông Nghiệp.

    Anh Tấn nguyên là Tham mưu phó Chiến tranh Chính trị Bộ Tư lệnh Hải quân, được “biên chế” vào chung một Tổ với Tôi. Chúng tôi chiếm chỗ nằm gần bên nhau để dễ tâm sự, có lần Tôi hỏi anh có biết ǵ về tin tức Trung tướng Trần văn Trung Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị không? Anh Tấn đă kể cho mọi người cùng nghe: “-Lúc 11 giờ sáng ngày 30-4-1975 sau khi Tướng Dương văn Minh kêu gọi Quân đội buông súng qua làn sóng đài phát thanh Saigon, th́ Trung tướng Trung đến Bộ Tư lệnh Hải quân gặp anh ấy và anh ấy đă lo thu xếp chiếc tầu thủy chót c̣n lại đang đậu trong Hải quân Công xưởng chở Trung tướng Trung xuôi theo sông Ḷng Tào thoát khỏi Saigon ra ngoài khơi Vũng Tầu đi tỵ nạn, nhưng cá nhân anh Tấn không đi theo.” Tôi không t́m hiểu lư do tại sao anh Tấn không đi, v́ mỗi người có hoàn cảnh cá nhân riêng không muốn người khác biết.

    Tại Trại Hàm Tân này cũng như ở những Trại khác, các Đội được phân biệt bằng một số riêng, Đội chúng tôi mang số 6, tổng số gồm 42 người (17 Đại tá, và 25 Trung tá). Trung tá Phạm ngọc Xuyến (gốc Tổng Quản Trị làm việc tại Bộ Tổng tham mưu) được chỉ định làm Đội trưởng của chúng tôi. Trung tá Nguyễn văn Sáu (gốc Biệt động quân, làm việc tại Trung tâm thẩm vấn tù binh, thuộc Pḥng Nh́ Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà) làm Đội phó.

    “Biên chế” xong chúng tôi được lệnh khuân vác đồ đạc tư trang di chuyển ngay xuống Khu Nhà Ngói (tức là khu cách ly). Khoảng cách giữa 2 khu trên dỉnh đồi với khu cách ly nơi dưới chân đồi cũng cỡ hơn nửa cây số. Có người nhiều đồ tiếp tế quá một ḿnh vác không xuể phải nhờ bạn bè tiếp tay, đi qua đi lại 2, 3 lần mới khiêng hết được đồ đạc và tư trang. Đến nơi giam mới chúng tôi phải mở hết tư trang và đồ tiếp tế riêng của ḿnh, bầy mỏng trên mặt đất giữa sân y như ngồi bán chợ trời để Cán bộ lục soát kiểm tra. Cuộc kiểm tra lần này thật là tỉ mỉ khác thường, phải phơi nắng suốt ngày đến gần chiều mới xong để được dọn vào nhà ở.

    Nghe nói các dẫy nhà giam này được xây cất theo khuôn mẫu nhà giam bên Liên xô, hèn chi thấy nó thoáng rộng hơn các nhà giam xây cất ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú trên đất Bắc Xă hội Chủ nghĩa rất nhiều. Mỗi dẫy nhà được ngăn đôi y như 2 căn phố nối dài liên tiếp để giam 2 Đội khác nhau, nhân số mỗi Đội khoảng trên dưới 4 chục người. Cả hai bên kiến trúc giống y nhau chia thành 3 pḥng, nhưng thứ tự sắp xếp các pḥng th́ đối ngược lại. Trong mỗi pḥng có một bóng điện thắp sáng mỗi tối từ 7 đến 9 giờ.

    Pḥng đầu nhà được ngăn riêng, có cửa ra vào với nhiều cửa sổ (không có cánh cửa) dành làm nơi ăn, đồng thời cũng là nơi cất các dụng cụ cần cho việc nấu nướng và thực phẩm tiếp tế riêng của Tù. Củi đun nấu riêng mỗi cá nhân được phép nhặt gom trong giờ lao động đem về xếp đống tại khu bếp ngoài sân sát hàng rào phía cuối dẫy để dùng dần.
    Pḥng kế tiếp là pḥng giam, bề ngang rộng 6 mét, có 2 dẫy sàn ngủ 2 tầng dọc theo chiều dài nhà, bề rộng sàn ngủ là 2 mét. Sàn ngủ dưới thấp được xây bằng gạch láng xi măng cao hơn mặt nền nhà 50 phân, giàn sàn ngủ trên cao dát ván dầy chắc chắn bằng phẳng. Mỗi người được chia một khoảng nằm bề ngang 70 phân vừa bằng bề ngang chiếc chiếu con dành cho 1 người. Pḥng giam có một cửa ra vào duy nhất ở chính giữa, với cánh cửa có cây sắt dài chặn khoá trái bên ngoài. Hai bên cửa ra vào có 2 cửa sổ cao rộng gắn song sắt nhưng không có cánh cửa, nhờ thế những người nằm sàn ngủ trên cao cũng có thể nh́n ra ngoài được, và ở bên ngoài nhà cũng có thể quan sát các hoạt động bên trong rất rơ ràng. Hàng tường mặt trước pḥng giam được xây thụt vô 1 mét làm hàng hiên cho Tù đứng xếp hàng đợi vào pḥng giam khi trời mưa lớn.

    Nối liền bên pḥng giam là pḥng vệ sinh, có 2 lỗ hầm cầu tiêu 1 máng tiểu cho Tù dùng cả ngày lẫn đêm, và 1 hồ chứa nước để xối rửa cầu tiêu sau mỗi lần xử dụng. Nước chứa trong hồ được xe bồn do Tù đi lấy từ sông nhỏ chảy ngang Trại, đem về tiếp tế mỗi ngày 1 lần vào buổi sáng. Pḥng vệ sinh là pḥng cuối cùng, nên bức tường của pḥng này là điểm ngăn cách tiếp giáp với pḥng vệ sinh của nửa nhà thuộc phía Đội bên kia.

    Dẫy nhà giam chúng tôi là dẫy thứ 2 tính từ cổng khu đi vào. Dẫy nhà thứ 3 ở phía đằng sau dẫy của chúng tôi, 1 nửa làm Nhà kỷ Luật, nửa kia giam 1 Đội cũng gồm lẫn lộn Đại tá, Trung tá. Tôi biết được là nhờ lúc ra nấu nướng vào trưa ngày hôm sau, có mấy bạn cũ cùng ngành Truyền Tin với Tôi trước kia ra nấu nướng gọi sang hỏi thăm.

    Kiểm tra tư trang xong, anh Đội trưởng đưa các Tổ trưởng vào nhà chia khu vực nằm cho từng Tổ, sau đó mọi người mới ùa nhau vào giành chỗ nằm tốt trong khu vực quy định cho Tổ của ḿnh. Những chỗ nằm thường được mọi người coi là tốt phải xa cửa vào pḥng vệ sinh và gần cửa sổ. Hai chỗ nằm ở sạp ngủ dưới thấp sát ngay hai bên cửa chính ra vào pḥng giam phải dành cho Đội trưởng và Đội phó. Vừa ổn định xong chỗ nằm chưa kịp ăn bữa tối, kẻng báo tập họp kiểm tra nhân số vào pḥng giam đă điểm, mọi người phải đem thức ăn vào pḥng giam để thanh toán tại chỗ ngủ riêng của ḿnh.

    Sáng hôm sau ra quân lao động lần đầu tại Trại này, Đội chúng tôi được dẫn lên Khu Nhà Tôn dọn dẹp rác rưởi trên mấy nền nhà cháy bỏ không từ lâu ngày. Theo tin tức mấy anh em cũ cho biết, đây là vết tích của cuộc đốt phá chống đối Ban Chỉ huy Trại của các anh em bị giam tại Trại này trong những năm cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980.

    Sau một tuần lễ dọn dẹp khu nhà cháy cũ xong, chúng tôi được điều động ra băi đất trống gần cổng khu giam Tù ngồi đập đá hộc thành đá vụn. Anh em phải ngồi giữa trời nắng chang chang suốt buổi để đập, trong khi ngay gần bên đống đá có một cây cao tàn lá um tùm râm mát. Buổi lao động chiều, Tôi đề nghị anh Đội trưởng xin Quản giáo cho anh em vần đá vào gần gốc cây có bóng mát để ngồi đập cho đỡ nắng. Đợi măi chẳng thấy kết quả ǵ, Tôi bèn tự động vần đá vào bóng mát bên gốc cây ngồi đập. Anh Đội trưởng thấy nhưng không có ư kiến và cũng không bắt chước, tiếp tục ngồi giữa trời đập đá bên các bạn khác. Một lúc sau có thêm vài bạn làm theo Tôi, và chúng tôi thoải mái ngồi đập đá đến hết giờ lao động chiều không có chuyện ǵ xẩy ra. Buổi sinh hoạt tối trong Láng giam thảo luận rút ưu khuyết điểm công tác trong ngày, cũng không ai đề cập nhắc nhở tới hành động của Tôi.

    Nhưng sáng hôm sau vào lúc bắt đầu giờ giải lao, anh Đội trưởng thông báo lệnh Quản giáo gọi Tôi vào túp nhà tranh ngay gần bên chỗ Đội lao động để “làm việc”. Tôi hơi chột dạ nhưng vẫn b́nh tĩnh đi gặp Quản giáo ngay không do dự ǵ, chuyện đă lỡ rồi đành phải liều tùy cơ ứng biến chớ biết làm sao bây giờ.

    Tôi thong thả bước vào cửa gian lều thấy Quản giáo ngồi sau một chiếc bàn, Cảnh vệ cằm súng đứng gác chân lên chiếc ghế khác gần bên. Tôi dừng lại thẳng người làm đúng quy luật báo cáo:

    “Tôi là Nguyễn Huy Hùng tŕnh diện Cán bộ”.

    Ông ta chỉ tay xuống đất nói:

    “-Anh ngồi xuống đây.”

    Không có ghế, Tôi ngồi chồm hổm trên nền nhà cách phía trước bàn chừng 2 mét ngẩng mặt lên chăm chú nh́n ông ta, chờ đợi.

    Mở màn giáo dục cố hữu của các Cán bộ đối với Tù, ông ta nhắc lại những ǵ đă phải nghe suốt 7 năm qua về Đế quốc Mỹ sen đầm quốc tế, Ngụy quân Ngụy quyền tay sai của Đế quốc cặn bă của xă hội..., rồi kết thúc bằng câu hỏi:

    “-Anh học tập bao lâu rồi mà chưa tiến bộ, vẫn c̣n ngại mưa sợ nắng vậy?”
    Tôi b́nh tĩnh thủng thẳng trả lời:

    “-Thưa Cán bộ, từ ngày đi học tập cải tạo đến nay cũng được 7 năm rồi. Dầm mưa dăi nắng lao động cải tạo cực nhọc trong mọi thiếu thốn trên đất miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa, Tôi đă học được nhiều điều hay của Xă hội Chủ nghĩa. Tôi đă “nắm được” những điều răn dạy của Cách Mạng về “lao động là vinh quang” th́ có lư nào c̣n ngại mưa sợ nắng. Các Cán bộ đại diện Đảng và Nhà Nước cũng đă dạy cho biết “lao động là sáng tạo” th́ làm sao Tôi quên được. Muốn đạt “năng xuất cao” phải biết “khai thác óc sáng tạo” để tạo “môi trường lao động” thích hợp. Sở dĩ Tôi lăn đá vào gần gốc cây có bóng râm mát là để nâng cao “năng xuất” và giữ được sức bền dai để làm nhiều ngày, chớ đâu phải sợ nắng. Cán bộ cứ ra đo thử xem khối đá do Tôi và anh em ngồi trong bóng râm sản xuất, có nhiều hơn những người ngồi ngoài nắng không? Đấy là chúng tôi “khai thác óc sáng tạo” để “lao động với năng xuất cao”, nếu Cán bộ không bằng ḷng th́ Tôi trở ra giữa nắng ngồi như mọi người”.
    Ông ấy không bắt bẻ vào đâu được, đành nói trớ rằng:

    “-Anh đừng ngoan cố biện minh, hăy nhớ cố gắng mà tiếp tục học tập lao động cho mau “tiến bộ” để sớm được về “đoàn tụ” với vợ con. Lâu hay mau là tùy ở tinh thần phấn đấu và mức tiến bộ của chính bản thân các anh”.
    Tôi gật đầu và đứng lên nói:

    “-Rơ, báo cáo Cán bộ Tôi đi ra.”

    Thời gian “làm việc” với Cán bộ kéo dài hơn một tiếng đồng hồ mất toi cả buổi giải lao. Trở ra chỗ lao động thấy mấy anh em ngồi gần gốc cây đă di chuyển ra giữa nắng ngồi bên các người khác. Tôi đi ngang khoa tay nói nhỏ đủ cho họ nghe:

    “-Chuyện không có ǵ đừng lo”

    và Tôi đi về chỗ ngồi cũ bên gốc cây tiếp tục đập đá cho đến hết giờ lao động.

  9. #169
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Buổi lao động chiều khi vừa tới “hiện trường lao động”, anh Đội trưởng nói cho biết là Cán bộ bảo Tôi ra ngồi lao động chung một chỗ với anh em. Không có biện pháp kỷ luật nào đối với Tôi về vụ này, nhưng kể từ đó trở đi Tôi biết ḿnh bị theo dơi thường xuyên cả trong lẫn ngoài giờ lao động. Rút kinh nghiệm thời gian c̣n ở các K1, K5 Trại Tân Lập và K2 Trại Thanh Phong ngoài miền Bắc, Tôi lại phải nhẫn nhục giữ mồm giữ miệng và làm như mọi người, kẻo “tai vách mạch rừng” có thể vướng ṿng kỷ luật bị hạ mức ăn hàng ngày, không được gửi nhận thư và tiếp tế của gia đ́nh, sẽ làm cho gia đ́nh lo sợ buồn ḷng v́ ảnh hưởng đến việc tha về “đoàn tụ”.

    Đập đá chẳng được mấy ngày th́ đá hết, Đội đổi công tác đi làm cỏ ruộng mạ. Nước ngập ngang bắp chân phải vắn ống quần cao lên trên đầu gối, vén tay áo sát tận nách, lội xuống ruộng cúi gập người dùng 2 tay quơ quơ dọc theo các hàng mạ để cào nhổ cỏ vứt lên bờ. Cả Đội xuống xếp hàng ngang cùng làm, liên tục suốt từ đầu này đến đầu kia của ruộng mới ngừng. Làm chậm một ḿnh lùi lại sau anh em th́ coi không được, nên cứ phải ráng mà theo cho kịp các bạn làm nhanh. Lưng bị cúi gập lâu bắp thịt mông và lưng như đông cứng lại đau đớn, mỗi lần muốn đứng thẳng lên nghỉ đôi chút phải dùng 2 mu bàn tay đập đập nhẹ vào 2 thăn lưng khúc ngang hông một hồi cho răn ra hết đau mới ngẩng thẳng người lên được. Hết ruộng này sang ruộng khác, cứ phải cúi lom khom như vậy làm liên tục suốt buổi lao động, ngày này qua ngày khác, không nặng nhọc nhưng đau lưng mỏi gối tê chân v́ ngâm nước cả ngày, đêm về nằm ê ẩm mỏi mệt người hâm hấp nóng khó chịu vô cùng. Có điều lạ khiến Tôi ngạc nhiên, không biết tại sao ruộng ở đây đỉa nhỏ con và ít hơn ở ngoài Bắc.

    Trong thời gian làm cỏ ruộng mạ, anh Đại tá Trịnh Đ́nh Đăng và Tôi ăn chung được dịp “cải thiện” đồ ăn tươi không mất tiền mua, lộc của Thổ Thần ban cho rất thích thú. Cá nhỏ, cua, ốc có rất nhiều trong ruộng mạ, anh Đăng là tay rất thông thạo nghề nông nên vào giờ giải lao giữa buổi lao động nào cũng bắt được một số đem về nấu canh chua, hoặc rim mặn để 2 anh em cùng ăn dần.

    Sát cạnh khu lao động của chúng tôi, có một túp nhà tranh 1 gian 2 trái dựng bên một thửa ruộng vuông mỗi cạnh dài cỡ trăm mét cũng đang có mạ đă cao. Hai người một nam một nữ khoảng 40 tuổi cặm cụi làm cỏ ngoài ruộng, c̣n 2 đứa nhỏ một trai một gái cỡ 3, 4 tuổi lăng xăng đùa rỡn với con chó vện quanh hiên nhà. Đứa chị mặc cả quần lẫn áo ngắn cũn cỡn c̣n thằng em chỉ có một chiếc áo thun để chuồng lồng lộng. Theo lời Quản giáo Đội đây là gia đ́nh của Đại úy Bộ đội “phục viên” (đă giải ngũ) được Chính quyền địa phương cấp cho mảnh đất này để khai khẩn sinh sống.

    Cả vùng ruộng chúng tôi đang lao động chỉ có căn nhà này là khoảnh đất nổi cao duy nhất không ngập nước, nên Quản giáo cho Anh Nuôi của Đội dựng ḷ nấu nước ở góc sân. Giờ nghỉ giải lao anh em cũng được phép tụ tập ngồi hút thuốc ăn uống nên có dịp lấy bánh kẹo cho 2 đứa trẻ. Cha mẹ chúng cũng lợi dụng cơ hội nghỉ giải lao, đến ngồi gần chúng tôi hút thuốc uống nước nói chuyện với Cán bộ Cảnh vệ và Quản giáo. Qua câu chuyện trao đổi giữa họ với nhau, chúng tôi biết được: “Anh Đại úy Bộ đội “phục viên” này người gốc địa phương Hàm Tân, trước thuộc một đơn vị trong Mặt Trận Giải phóng miền Nam có nhiều công trạng trong “Chiến dịch hành quân Hồ Chí Minh Thần Thánh mùa Xuân năm 1975”. Anh ta bị tước Đảng tịch cho giải ngũ v́ không chịu tuân hành chỉ thị của Đảng ủy đơn vị, ngoan cố nhất định khăng khăng kết hôn với người vợ hiện tại mà ngặt một nỗi Chị ấy không phải là thành phần đảng viên Cộng sản như anh ấy”!!!

    Mang tiếng Đội Nông Nghiệp nhưng chúng tôi không có “hiện trường lao động” riêng, bị thường xuyên tăng phái đi làm thuê cho các Đội khác. Làm cỏ ruộng mạ vùng này xong, chúng tôi được điều động đi tăng cường phát quang cuốc đất lên luống trồng khoai lang cho một Đội Nông Nghiệp ở vùng khác, phía gần cổng vào Trại cách khu Nhà Thăm Nuôi khoảng nửa cây số. Lượt ra lao động tại hiện trường mới, chúng tôi được dẫn đi theo đường ra khu Nhà Thăm Nuôi để rẽ vào, nhưng hết giờ lao động lại được dẫn về theo lối khác. Đi theo con đường dẫn xuống nơi có một đập đá mặt rộng chừng 8 mét ngăn ngang ḍng sông, để tắm rửa giặt giũ trước khi trở về Trại giam. Cái đập đá này vừa dùng để ngăn ḍng sông lấy nước tưới cho các khu ruộng cao của Trại Z30C, vừa làm con đường kè đá cho xe hơi chạy vào phân trại K2 cách bên kia sông chừng 5 cây số.

    Đông người xuống tắm cùng một lúc, gần bờ nước bao giờ cũng bị ngầu đục. Những người biết bơi thường bơi ra giữa ḍng có một cồn đất, đứng thẳng người chỉ ngập ngang ngực để tắm nước trong cho thoải mái. Sau khi đă tắm sạch sẽ bằng nước trong ở giữa ḍng, phải bơi xuôi tới quăng giữa đập leo lên rồi đi trên mặt đập vào bờ để tránh cho khỏi bị nước đục ven bờ sông bám vào người. Tôi vẫn thường tắm như vậy. Một hôm lúc Tôi đi trên mặt đập vào gần tới bờ, một bạn Tù cũ tốt bụng đă khuyên không nên bơi vào cạnh đập ở khu giữa sông như vậy nguy hiểm. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao, bạn ấy mới kể cho nghe một chuyện không may đă xẩy ra một năm trước khi chúng tôi về đây như sau:

    “Thường thường mọi người đều thấy anh Y tắm nơi cồn đất giữa ḍng sông, tắm xong bơi vào khúc giữa đập để leo lên. Nhưng một hôm vào mùa mưa mực nước sông cao hơn b́nh thường và cuồn cuộn chẫy rất xiết, sau buổi tắm chiều cả Đội tắm xong tập họp kiểm số về Trại không thấy anh Y đâu. Quần áo của anh ấy cởi ra để xuống tắm vẫn c̣n nguyên bên bờ. Cán bộ đổ đi t́m khắp các nơi 2 bên bờ đều không thấy. Cho mấy người bơi lội giỏi lặn ṃ t́m dọc đáy đập cũng không thấy. Ai cũng cho là anh ấy đă trốn trại. Nhưng mấy ngày sau xác anh ấy nổi lên ở phía hạ lưu của ḍng sông, cách xa đập cả mấy trăm mét. Lúc đó người ta mới suy luận, có lẽ anh ấy đă bị nước xoáy cuốn xuống lỗ cống ở gần đáy giữa đập, bị mắc kẹt không ra được chết ngộp trong ḷng ống cống.”

    Lúc b́nh thường trong mùa khô nước sông chẩy liên tục thủng thỉnh nhẹ nhàng, vừa tràn qua mặt đập vừa thoát theo một ống cống ở đáy đập khoảng giữa sông xuống phía hạ lưu, tạo nên một âm điệu ŕ rầm rào rào êm êm đều đều như tiếng quay của cối xay lúa, quang cảnh mặt đập thấy rất là hiền hoà nên thơ, nhưng vào mùa mưa nước lũ dâng cao hơn mặt đập gần 2 mét tràn lan làm cho ḷng sông mở rộng thêm lấn vào 2 bên bờ khoảng vài chục mét, chẩy xiết không lưu thông trên mặt đập được. V́ thế người ta đă dựng một chiếc cầu treo bằng tre có sàn ván song song gần đập, cho người đi bộ và đẩy xe cải tiến chở đồ tiếp tế qua lại giữa K2 và K1 (nơi có Ban Chỉ huy Trại Hàm Tân và khu Nhà Thăm Nuôi).

    Trong thời gian tăng phái làm tại khu gần cổng trại, chúng tôi có dịp thấy các xe lô chở thân nhân “thăm nuôi” Tù tấp nập đến vào buổi sáng từ khoảng 10 giờ trở đi, và buổi chiều vào quăng 4 giờ xe trở lại tập trung đón các bà rời khu Nhà Thăm Nuôi. Các bạn Tù ra thăm nuôi thường được đưa ra làm 2, 3 đợt liên tiếp nhau, đợt trước thăm nuôi xong sắp rời Nhà Thăm Nuôi trở vào Trại th́ đợt kế theo được dẫn ra.

    Từ ngày về Trại Z30C Hàm Tân chúng tôi không được cấp phiếu gửi Bưu Kiện nữa, nhưng gia đ́nh Tù được đến Trại xin “thăm nuôi” 3

    Ttháng 1 lần đem tiếp tế cho Tù bao nhiêu cũng được không hạn chế. Chừng 2 tháng sau khi về đây các bạn trong Đội chúng tôi lần lượt có gia đ́nh đến “thăm nuôi”. Những bạn vốn giầu đồ tiếp tế xưa nay vẫn là những người được vợ con “thăm nuôi” sớm nhất, y như hồi c̣n bị giam ở ngoài Bắc. Có nhiều bà rất khôn ngoan, chưa kịp chuẩn bị đi thăm chồng th́ nhờ những bạn thân quen đem giúp thư và chút đỉnh quà vào trại giam cho chồng. Người được “thăm nuôi” nhận chung một lượt vói quà của ḿnh rồi đem vào trại đưa lại cho bạn. Quà gửi như vậy không được nhiều khoảng dăm ba kí lô thôi, nhưng một tuần lễ được 2, 3 bạn đem giùm như vậy cộng chung cũng đủ dùng trong đôi tháng.


    Phần Tôi phải đợi hơn 3 tháng mới được Vợ dẫn cô gái út tới “thăm nuôi”. Lâu ngày mới gặp nhau, Vợ Chồng Cha Con mừng rỡ nghẹn ngào không nói được nên lời. Cô gái út của Tôi lớn quá, ngày từ biệt gia đ́nh đi tŕnh diện học tập cải tạo 7 năm về trước cô ấy đứng đầu chỉ cao ngang nách Tôi, bây giờ th́ đă cao ngang Mẹ xấp xỉ bằng Bố.

    Sau khi nhóm anh em được “thăm nuôi” làm thủ tục tŕnh diện xong, Cán bộ vừa đưa tay ra hiệu cho phép mọi người vào pḥng thăm nói chuyện th́ Cô gái út chạy ùa tới ôm Tôi hôn, tíu tít nói: “-Bố ốm quá! Bố đen quá!...” làm Tôi xúc động rưng rưng nước mắt, ôm con hôn cố gắng giữ cho khỏi bật ra tiếng khóc mừng ngày Cha Con tái ngộ. Rồi quay qua ṿng tay ôm vợ hôn hỏi thăm sức khoẻ và dắt nhau vào pḥng thăm kiếm chỗ ngồi.

    Có 2 pḥng thăm sát bên nhau, trong mỗi pḥng kê 2, 3 chiếc bàn dài cho Tù và thân nhân ngồi nói chuyện. Tù ngồi một bên và thân nhân ngồi bên đối diện. Thời gian “thăm nuôi” nói chuyện ở đây rộng răi hơn Trại Tân Lập ngoài Bắc, được tới 30 phút tha hồ thong thả nói đủ thứ chuyện. Chỉ có một Cán bộ phụ trách, nên ông ta đi qua đi lại các pḥng để theo dơi chớ không ngồi tại đầu bàn theo dơi như ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú ngoài Bắc. Mọi người tha hồ nhỏ to nói chuyện thoải mái không e ngại ǵ cả. Nhờ vậy Tôi được biết Vợ đang lo cho 2 người con đi vượt biên, nên không dư dả để có thể tiếp tế cho Tôi đều và nhiều như mong muốn. Tôi cũng được biết các con đang phải lao động vất vả để kiếm sống hàng ngày. Mấy người con trai đứa làm gia công cho Tổ hợp sản xuất mành trúc do gia đ́nh các Cán bộ Cộng sản làm chủ, đứa đạp xe đi bỏ mối nước ngọt và bia cho các nhà hàng ăn. Mấy người con gái nhận đồ về nhà làm gia công thêu và may ráp quần áo của các tổ hợp sản xuất quần áo cũng do các thân quyến của các Cán bộ Lănh đạo tại địa phương làm chủ. Vợ của Tôi phải nấu cháo vịt bán ngay trên lề phố trước cửa nhà riêng của chúng tôi.

    Nghe chuyện Tôi rất xót xa đau khổ thương Vợ Con vô cùng. Nhất là Vợ của Tôi, từ ngày kết hôn với nhau cuối năm 1949 đến 30-4-1975 chưa bao giờ phải vất vả khổ cực như vậy, lúc nào trong nhà cũng có 2 người giúp việc đi chợ lo bếp núc, giặt giũ, quét dọn nhà cửa...

    Từ đó trở đi Tôi không biên thư yêu cầu gia đ́nh tiếp tế món này món kia như các bạn nữa, tùy gia đ́nh gửi cho thứ ǵ cũng được, có ǵ dùng nấy và luôn luôn tiết kiệm. Thời hạn “thăm nuôi” cũng không cần thiết phải 3 tháng một lần, lúc nào thuận tiện th́ đi năm sáu tháng một lần cũng được, miễn là biên thư cho biết tin gia đ́nh thường xuyên hàng tháng là đủ.

    Cũng v́ quyết định này nên Tôi đă tách ra không nấu nướng ăn chung với anh Đăng nữa, sợ phần đóng góp của ḿnh không cân xứng gây thiệt tḥi cho bạn.

    Thời gian tăng cường rẫy cỏ và vun đất cho các luống trồng khoai lang gần cổng Trại, Tôi được Thổ Thần thương tặng cho món quà đặc biệt một cách thật bất ngờ. Trong một buổi lao động chiều dưới trời nắng chang chang, Tôi đang b́nh thản cuốc vun đất giữa hai luống khoai, bỗng thấy anh em làm gần tay chỉ miệng hô: “-nó kia! nó kia!” và rầng rầng đua nhau rượt đuổi bắt con ǵ không rơ. Tôi định thần quan sát thấy một con thỏ rừng nhẩy qua các luống t́m đường thoát thân. Nó chạy qua hướng nào cũng có người đuổi chặn đầu vồ nhưng hụt. Không biết Thổ Thần xui khiến sao, nó quưnh quáng nhẩy ngay vào rănh giữa hai luống Tôi đang làm để chạy tiếp. Tôi dựa cuốc vào sườn luống, dạng 2 chân đứng im không nhúch nhích đợi nó chạy tới sát chân mới cúi thật nhanh xuống dùng 2 tay chộp bắt nó. May làm sao Tôi đă hành động rất đúng lúc, nên nắm được ngay bụng và cổ nó nhấc lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Con thỏ hết thời đương nhiên thuộc quyền sở hữu của Tôi, để được yên bụng không lo con thỏ tinh khôn t́m đường trốn thoát, Tôi đập đầu nó vào lưỡi cuốc hoá kiếp cho nó ngay.

    Thịt thỏ rừng thường dai và cứng nên chiên xào ăn không được, đồ tiếp tế của Tôi không c̣n gia vị để ướp trước khi đem hầm mềm, nên Tôi thương lượng giao thỏ cho anh bạn Đại tá Dương Hiếu Nghĩa giải quyết. Hết giờ lao động ra sông tắm, anh Nghĩa lột da cắt đầu 4 chân và bộ ḷng bỏ, chỉ lấy bộ gan và thân ḿnh với 4 chiếc đùi chặt thành 8 miếng đều nhau. Về tới khu giam lấy gia vị ướp và đun một lửa cho chin rồi cất dó, đến trưa hôm sau đem ra đun thêm lửa thứ hai cho thật nhừ và đợi bữa cơm chiều mới đem ra chia nhau mỗi người một nửa. Phần của Tôi 4 miếng, đem tặng anh Đội trưởng và anh Đăng người ăn chung với Tôi hồi trước mỗi người một miếng, c̣n lại 2 miếng Tôi thủng thẳng ngồi thưởng thức và trước khi ăn không quên lẩm nhẩm khấn cám ơn ḷng thương của Thổ Thần.

    Trong Khu Nhà Ngói Tôi có dịp gặp rất nhiều bạn cũ thuộc Binh chủng Truyền Tin và Chiến tranh Chính trị, và đặc biệt không biết cơ duyên nào xui khiến cả 3 người từng nối tiếp nhau giữ trách vụ Chủ Nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến của Quân đội đều hội ngộ tại Khu Nhà Ngói này. Đó là Thiếu Tá Thạch (đă giải ngũ) Chủ Nhiệm đầu tiên điều hành tờ báo từ khi mới ra đời, Trung tá Ninh (Thi sĩ Hà Thượng Nhân, đă giải ngũ) Chủ nhiệm thứ 2, và Tôi người thay thế anh Ninh làm Chủ Nhiệm sau cùng từ năm 1972 cho đến ngày Quốc hận 30-4-1975.

    Trong những tháng cuối năm 1982 có tới 2, 3 đợt tha, mỗi đợt hàng trăm người, các anh Thạch và Ninh được tha trong các dịp này cùng nhiều bạn bè của Tôi thuộc Binh Chủng Truyền Tin. Một đợt tha khác rất đông đă xẩy ra vào dịp trước Tết Quư Hợi-1983, trong đó có anh Trung tá Xuyến Đội trưởng của chúng tôi. Chừng mươi ngày sau Đội chúng tôi lại có thêm 2 Đại tá được tha là anh Điệp (người bị nhũn năo (stroke) ở K2 Thanh Phong, Tôi đă kể trong một đoạn trước) và anh Tấn (Hải quân). Sau khi Tôi và gia đ́nh đến định cư tỵ nạn Cộng sản tại quận Orange Nam California hồi cuối năm 1992, có nghe nói anh Điệp và gia đ́nh định cư tại Los Angeles nhưng Tôi không có dịp gặp, c̣n anh Tấn th́ đă có dịp làm việc chung với Tôi một thời trong cơ quan từ thiện USCC tại Orange County Nam California.

    Sau khi anh Xuyến được cuốn gói hành trang tạm biệt anh em trong Đội, Trung tá Cảnh sát Phan Trung Chánh được chỉ định làm Đội trưởng thay thế, anh Trung tá Sáu vẫn làm Đội phó. Mọi người hân hoan ăn Tết vui vẻ chúc nhau y như đang sống trong trại tạm trú tỵ nạn chớ không phải trong Tù. Sau 3 ngày Tết thoải mái mọi người lại phấn khởi “ra quân thi đua” tiếp tục “lao động cải tạo năng nổ” để chờ đợi tới phiên ḿnh được gọi tên tha.

    Xem tiếp...

  10. #170
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Chương 31 : DÙNG CHÍNH SÁCH THÂM ĐỘC LAO ĐỘNG CẢI TẠO TƯ TƯỞNG, CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐĂ THẤT BẠI Ê CHỀ


    Chuẩn bị mừng lần thứ 9 ngày Đại thắng mùa Xuân 30-4-1975 của Cộng sản Việt Nam, Trung Ương Đảng gửi phái đoàn hùng hậu đến Trại Z30C tổ chức học tập 2 tuần lễ liền.

    Thật là may mắn kỳ học tập này Đoàn Cán bộ không nhai lại như ḅ những ǵ đă nhai liên tục suốt 8 năm qua, nhưng lại phải ngồi chồm hổm trên nền đất nhà Hội trường mái tôn chặt cứng như nêm, ngột ngạt đủ thứ mùi vị nồng nặc từ cơ thể mọi người toát ra, để xem liên tục nhiều ngày cuốn phim dài cả chục tập c̣n mệt mỏi hơn đi lao động ngoài đồng nhiều.

    Đây là bộ phim được dàn dựng theo loại phim tài liệu lịch sử ghi lại các chiến thắng của Cộng sản Việt Nam từ năm 1945 cho tới 30-4-1975, với mục đích tuyên truyền khoa trương những góc cạnh có lợi nhằm đánh bóng và thần thánh hoá các hành động của các lănh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam.

    Nhưng đối với những người có tinh thần Quốc gia Nhân bản kiên định, không những chẳng xiêu ḷng thán phục mà lại càng thấy rơ ràng hơn mặt thật xảo trá bịp bợm tinh vi trơ trẽn vô nhân đạo dă man của Cộng sản Việt Nam “Hại Dân Hại Nước” chớ không phải “V́ Dân V́ Nước” suốt mấy chục năm qua, và nay vẫn c̣n đang tiếp tục.

    Người ta đưa vào phim những khuôn mặt lớn của Cộng sản như Hồ Chí Minh, Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Vơ nguyên Giáp, Lê dức Thọ... Bên phía Quốc gia chống Cộng, họ cũng đưa vào h́nh ảnh của Cựu Hoàng Bảo Đại, Thủ tướng Trần văn Hữu, Nguyễn văn Tâm, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, một vài Tướng lănh Việt Nam Cộng hoà... và một số nhân vật Chính trị Quân sự của Hoa Kỳ và Pháp đă nắm những vai chính yếu trong cuộc chiến Việt Nam. (Thời gian qua đi đă lâu quá rồi, hơn nữa ngồi xem trong t́nh trạng bị ép buộc không quan tâm chăm chú xem những dự kiện ghi nhận một chiều, nên Tôi không nhớ các chi tiết “cụ thể” trong phim nên không ghi lại được chi tiết như mong muốn).

    Tất cả những người thuộc phe Quốc gia Tư bản chỉ được cho xuất hiện trên phim trong một thời gian rất ngắn với những trích đoạn lời phát biểu dưới góc cạnh có lợi cho Cộng sản, c̣n các nhân vật Lănh tụ Cộng sản th́ bao giờ cũng được phô trương lâu nói dai nói dài với những lời lẽ chải chuốt tuyên truyền, tâng bốc cái khí thế của làn sóng Cách mạng Vô sản đang cuồn cuộn dâng lên trước cái thế yếu xuy thoái đang rẫy chết của Hoa Kỳ và phe đồng minh Tự do Tư bản.

    Sau đợt học tập, các Đội lại phải thi hành cái thông lệ họp riêng tại Láng dưới sự giám sát của Quản giáo để mọi người thay phiên nhau phát biểu ư kiến tổng kết “thâu hoạch”, ghi biên bản tŕnh những ǵ đă hấp thụ được sau các buổi học tập lên đoàn hướng dẫn phán xét kết quả kỳ học tập tiến bộ như thế nào.

    Dĩ nhiên kết quả bao giờ cũng mỹ măn “đạt mục đích yêu cầu”, và mọi người đă đều “nhất trí”

    “Cách mạng Vô sản Việt Nam là đỉnh cao trí tuệ” “anh hùng vô địch đă đánh thắng cả 2 Đế quốc Pháp và Mỹ giầu mà không mạnh”..., và sau cùng mọi người cũng đă đồng thanh hứa là “luôn luôn cố gắng cải tạo cho tốt để sớm được Nhà Nước tha cho về đoàn tụ với Vợ Con, tiếp tục tuân theo luật lệ của Đảng và Nhà Nước Cộng hoà Xă hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng đất nước xă hội chủ nghiă giầu mạnh gấp trăm ngàn lần hơn các nước Tư bản đang dẫy chết...”,
    chớ không ai ngu dại ǵ mà nói rằng

    “-Cộng sản Việt Nam là tay sai của Đế quốc Đỏ Liên Xô, Trung Cộng, được các nước Cộng sản quan thầy cung cấp vũ khí đạn dược và Cố vấn tham gia điều khiển thi hành kế hoạch xâm lược miền Nam Việt Nam và toàn Bán đảo Đông Dương để làm bàn đạp cho Cộng sản Quốc tế bành trướng xuống toàn vùng Đông Nam Á Châu...”

    Kỳ Học tập chấm dứt, nhiều đợt tha Tù lại tiếp tục xẩy ra, và những tin đồn Chính phủ Hoa Kỳ đang chuẩn bị đón tiếp Tù Chính trị tới định cư cũng dồn dập vào trại theo các đợt “thăm nuôi” hàng ngày. Các sự kiện này cho phép nhận định, mục đích chính của đợt học tập kỳ này nhằm tuyên truyền lôi cuốn Tù Chính trị c̣n “nhẹ dạ cả tin” ở lại trong nước, đừng xin đi định cư nơi nước ngoài để sau này Việt Cộng c̣n có cơ hội lợi dụng làm công cụ câu tiền của Hoa Kỳ.

    Khi lúa sắp sửa trổ đ̣ng đ̣ng, chúng tôi lại được tăng phái đến làm cỏ và phát bờ ruộng cho một Đội Nông Nghiệp khác ở phía mút hướng Tây của Trại. Cây lúa cao ngang bụng, cả Đội xếp hàng ngang dùng cuốc vừa cà cỏ nhặt vứt lên bờ vừa vun gốc lúa. Lá lúa nhỏ dài ngọn lá nhọn cạnh bén như lưỡi dao, mỗi khi cúi xuống ngẩng lên đều bị lá lúa đâm cứa vào mặt vào tay làm rặm ngứa xót khó chịu vô cùng.

    Làm trong ruộng lúa dưới trời nắng nóng bực bội khiến cho người ta dễ nổi tính cáu bẳn một cách vô lối. Tôi đă lỡ làm một việc khiến cho anh em cả Đội rơi vào một hoàn cảnh thật khó xử. Đầu đuôi câu chuyện như sau:

    Hàng ngày khi vừa tới “hiện trường lao động” là Quản giáo Đội ra lệnh ngay cho anh Đội trưởng cung cấp 2, 3 người để chuốt đũa bằng cuống lá buông cho ông ấy đem bán kiếm tiền xài. Anh em trong Đội phải nỗ lực làm nhiều hơn để bao phần của các bạn đó th́ mới hoàn tất được chỉ tiêu quy định cho Đội phải thực hiện trong ngày. Mọi người vừa làm vừa nói chuyện bông đùa cho quên thời gian vất vả, bỗng tôi nghe thấy anh Z (gốc Cảnh sát) được chỉ định chuốt đũa cho Cán bộ đến báo cáo với Cán bộ là, anh ta đă đến gặp thủ kho Đội chủ nhà mượn dao bén nhưng không có. Cán bộ cứ nhất định là có, hai người nói qua nói lại hoài không chấm dứt, sau cùng anh Z kết thúc bằng câu đại ư nói

    “nếu Cán bộ không tiếp xúc thẳng để có dao đưa cho anh ấy th́ anh ấy chịu không thể thi hành lệnh của Cán bộ được”.
    Tôi ngứa miệng nói đổng một câu

    “-Sao ngu quá vậy, không có dao th́ lấy răng mà cạp.”

    Các bạn làm gần quay lại ngó Tôi rồi từ từ lảng dần ra chỗ khác cách xa nơi Tôi đang làm.

    Một lúc sau, anh Đội trưởng (Trung tá Cảnh sát Phan trung Chánh) đến khu chúng tôi đang làm hỏi

    “-Anh nào vừa nói ǵ mà lấy răng cạp vậy?”
    Không ai trả lời, anh ấy đến bên từng người hỏi có nghe ai nói không? Mọi người đều lắc đầu nói không nghe, riêng Tôi th́ anh ấy không hỏi. Đến hết giờ lao động buổi chiều, Đội tập họp đi tắm trước khi về Khu giam, Cán bộ đến đứng trước Đội hỏi

    “-Trong lúc lao động anh nào nói ǵ, có ai biết ai nói không?”
    Không ai trả lời, Tôi cũng yên lặng. Cán bộ nói tiếp

    “-Nếu không t́m ra được người đă phát biểu linh tinh lúc năy, bắt đầu từ chiều nay Đội bị phạt không được đi tắm sau giờ lao động cho đến khi nào t́m ra được người nói mới thôi.”

    Chiều đó chúng tôi không được đi tắm, anh em trong ḷng chắc phiền lắm nhưng không ai nói ǵ, mọi người yên lặng trở về Khu giam không x́ xầm hay nói một tiếng nào tỏ ư phiền hà Tôi cả. Buổi sinh hoạt Đội trong pḥng giam hàng đêm, cũng không thấy ai nhắc tới chuyện đă xẩy ra. Tôi cảm thấy ân hận suy nghĩ trằn trọc măi không ngủ được, Tôi bàn với anh Nguyễn văn Sáu Đội phó nằm kế bên là sáng mai Tôi sẽ gặp Cán bộ để nhận tội rồi ra sao th́ ra. Anh ấy gạt đi nói

    “-Cứ lờ đi, rồi mọi việc sẽ qua”.

    Nhưng Tôi nghĩ chuyện không đơn giản như vậy, hồi mới về đây Tôi đă bị Quản giáo gọi “làm việc” về vụ tự động vần đá vào bóng râm ngồi đập, chắc hẳn Quản giáo vẫn đang theo sát Tôi t́m sơ hở để kỷ luật rằn mặt. Nếu không công khai nhận lỗi này th́ ông ta sẽ t́m cách làm cho sự việc trầm trọng khác đi để kỷ luật th́ rất nguy hiểm.

    Sáng hôm sau, từ lúc bắt đầu lao động anh Đội trưởng được lệnh đến gọi lần lượt từng người chiều hôm trước lao động gần bên Tôi đến gặp Cán bộ “làm việc”. Mỗi người phải “làm việc” lâu từ 10 đến 15 phút, khi trở ra chẳng anh nào nói năng ǵ lẳng lặng tiếp tục lao động. Tôi đến gần hỏi th́ các bạn cho biết là hỏi chuyện chiều hôm qua, ai cũng nói anh em vừa làm vừa nói chuyện bông đùa với nhau nên không nghe và cũng không biết người nào đă nói như vậy. Không muốn để anh em tiếp tục bị phiền hà v́ việc làm của ḿnh, Tôi yêu cầu anh Đội trưởng xin cho Tôi gặp Cán bộ Quản giáo tŕnh bầy về việc chiều hôm qua. Anh ấy xửng sốt nh́n Tôi với vẻ ái ngại, nhưng rồi cũng đi tŕnh Quản giáo theo lời yêu cầu của Tôi. Một lúc sau anh Đội trưởng đến cho biết Quản giáo bằng ḷng gặp Tôi vào giờ giải lao.

    Lúc bắt đầu nghỉ giải lao, Tôi đem Gô nước trà và bao thuốc lá thơm tới gặp Quản giáo. Ông ta đang ngồi một ḿnh bên gốc cây, xa chỗ anh em ngồi nghỉ khoảng 100 mét. Tôi đến cách 1 mét đứng lại báo cáo tŕnh diện như thường lệ mỗi khi Tù gặp Cán bộ. Ông ta nói:

    “-Anh ngồi xuống đây, có việc ǵ vậy?”

    Tôi thong thả ngồi xuống đưa Gô trà nóng và bao thuốc lá thơm mời ông ta dùng, rồi chậm răi tŕnh bầy:

    “- Trước nhất Tôi xin lỗi đă làm phiền ḷng Cán bộ và anh em trong Đội từ chiều hôm qua đến giờ. Tôi là người đă nói câu “sao ngu vậy, không có dao th́ lấy răng mà cạp”.

    Tôi nói câu này v́ trong lúc anh em vừa lao động vừa kể lại câu chuyện cũ xẩy ra từ hồi c̣n ở ngoài trại Thanh Phong, có một anh khát nước quá muốn ăn vụng mía trong ruộng nhưng lại không có dao nên chẳng biết làm sao. Tôi buột miệng góp chuyện bằng câu:

    “-Sao ngu quá vậy, không có dao th́ lấy răng mà cạp”.

    Chắc Cán bộ cũng “nhất trí” với Tôi là đâu phải lúc nào ăn mía cũng cần tới dao, ḿnh có thể dùng răng tước vỏ rồi cắn gẫy từng mẩu nhỏ để ăn cũng được. Như vậy lời góp ư của Tôi vào câu chuyện anh em đang nói là thật t́nh không có ư ǵ khác đâu? Tôi không hề nghe thấy anh Z báo cáo với Cán bộ là không mượn được dao để chuốt đũa cho Cán bộ. Đây là sự trùng hợp đáng tiếc, Tôi không ngu dại ǵ mà nói anh Z như vậy, xin Cán bộ rộng xét bỏ qua cho, nếu Cán bộ muốn kỷ luật th́ kỷ luật một ḿnh Tôi chớ anh em trong Đội không can hệ ǵ.


    C̣n tiếp...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. HY LẠP BẦU THỦ TƯỚNG LÂM THỜI
    By Hắc Y Hiệp Nữ in forum Tin Việt Nam
    Replies: 0
    Last Post: 12-11-2011, 01:31 PM
  2. Replies: 16
    Last Post: 03-09-2011, 09:02 AM
  3. Replies: 59
    Last Post: 29-06-2011, 04:26 AM
  4. Replies: 26
    Last Post: 03-05-2011, 02:12 PM
  5. Replies: 0
    Last Post: 22-04-2011, 10:13 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •