...Thời kỳ ổn định chính trị và phát triển của ông Diệm kéo dài không được bao lâu. Những người dân, cũng như giới trí thức, đă có dấu hiệu bất măn. Ông Bùi Diễm kể lại, tại trường Phan Sào Nam nơi ông dạy tư, từ Hiệu trưởng đến Giáo sư đều chống chính phủ. Giờ giải lao, quư vị giáo sư, phần đông là người của các đảng phái như Duy Dân, Đại Việt, Quốc Dân Đảng của Nhất Linh hay của Vũ Hồng Khanh, tụ tập xung quanh chén trà để kể lại những mẩu chuyện hoặc chỉ trích chính phủ. [1] Trong số đó, có những giáo sư như Vũ Khắc Khoan, nghị sĩ Phạm Văn Tâm (tự Thái Lăng Nghiêm) và Nguyễn Phan Châu. Đặc biệt, trong thời VNCH, có một số giáo sư đi dạy tư để chờ thời, nghe ngóng, để chuẩn bị hành động khi thời cơ đến. Phần đông trong số này là người của các đảng phái.
Theo Stanley Karnow, ông đă thăm nhiều vùng và đi đến đâu cũng thấy có chuyện tham nhũng. Người dân bắt đầu mất tin tưởng vào chính quyền. Những năm tháng tốt đẹp của nền đệ nhất cộng ḥa bắt đầu có vết rạn nứt.
Mặc dầu, cho đến thời điểm này, ai cũng thừa nhận rằng cuộc sống của nguời dân đă có nhiều cải tiến. Về mặt giáo dục, các trường tiểu học, trung học đă được thành lập từ cấp tỉnh đến quận. Y tế cũng vậy, mỗi tỉnh đều có trạm y tế và nhà thương. Vấn đề đào tạo giáo viên, y tá, cán sự y tế, giáo sư trung học được thúc đẩy mạnh. Các trường đại học, trường kỹ thuật, trường Quốc gia Hành chánh, các trường sĩ quan, mỗi năm đă đào tạo được một số lượng chuyên viên, sĩ quan đáp đủ nhu cầu của đất nước.
Nhưng cạnh đó, việc phát triển giáo dục đă đào tạo ra một lớp thanh niên trí thức trẻ thành thị. Các trào lưu tư tưởng Tây phương, các chủ thuyết mới, như chủ nghĩa Hiện sinh, và thậm chí cả chủ nghĩa Cộng sản, được tiếp thu và giảng dạy một cách rộng răi. Thêm vào đó, họ được tiếp cận với nhiều ḍng văn hóa và văn học ngoại quốc do việc đọc trực tiếp nguyên bản hay qua bản dịch. Nhờ vậy, giới thanh niên trí thức thành thị ở miền Nam tương đối có được một nếp sống văn hóa cao. Cũng v́ thế, họ nhạy bén với các vấn đề chính trị thế giới, các thể chế độc tài hay dân chủ, số phận các nước kém mở mang và các nước nhược tiểu.
Chính lớp thanh niên, trí thức trẻ, được đào tạo dưới thời Ngô Đ́nh Diệm, đă trở thành thành phần chủ lực trong các phong trào đ̣i hỏi dân chủ, xuống đường, cũng như trong biến cố Phật đản 63 sau này. Lần đầu tiên ở miền Nam có hiện tượng trí thức đám đông, cùng đứng chung trong một hàng ngũ, tranh đấu cho một mục đích chung. (Miền Bắc, do đào tạo và do chế độ toàn trị, đă không bao giờ có được một đội ngũ trí thức như thế.)
Lần đầu tiên thanh niên trí thức bộc lộ sự bất măn là vào tháng 8 năm 1959, khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm tổ chức các cuộc bầu cử dân biểu Quốc hội. Đám quan chức địa phương đă thúc ép dân chúng phải bầu cho người này, không bầu cho người kia, ở Sài G̣n th́ vô hiệu hóa một số phiếu bầu của người đối lập. Chẳng hạn như trường hợp Bác sĩ Phan Quang Đán và ông Nguyễn Trân. Hai ông này đắc cử vào Quốc hội miền Nam với tỉ lệ nhiều phiếu nhất, nhưng đă bị loại trừ. Phan Quang Đán đắc cử ở quận 2, nhưng bị tuyên bố bất hợp lệ.
Cuộc bầu cử dân biểu Quốc hội, do vậy, đă biến thành cuộc vận động chống độc tài dân chủ. Đây là lá phiếu bất tín nhiệm đầu tiên của người trí thức miền Nam chống chính quyền Ngô Đ́nh Diệm.
Nếu giai đoạn 1955-1960 cho thấy vai tṛ và sự đóng góp của giới trí thức về mặt văn hóa, th́ đây là lần đầu tiên, họ đóng vai tṛ người trí thức trước những hoàn cảnh chính trị, áp dụng các h́nh thức chống đối dựa trên những nguyên tắc dân chủ. Tuyên ngôn Caravelle ra đời trong hoàn cảnh này.
Ngày 26 tháng tư năm 1960, 18 nhân sĩ trí thức tiêu biểu của miền Nam họp báo [2] và ra tuyên ngôn gửi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, gồm: Trần Văn Văn, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Trần Văn Lư, Nguyễn Tiến Hỉ, Trần Văn Đỗ , Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm Hữu Chương, Trần văn Tuyên, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất và Linh mục Hồ Văn Vui.
Những người kư tên vào bản tuyên ngôn này đại diện cho nhiều thành phần trí thức của cả ba miền Trung Nam Bắc, của các tôn giáo và các khuynh hướng chính trị khác nhau. Trong số họ, có nhiều người đă từng cộng tác với chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, như ông Lê Trọng Luật, Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Văn Đỗ, v.v...
Có lẽ cần nói rơ thêm về nội dung bản tuyên ngôn Caravelle, v́ sau này có người hiểu như một kháng thư nhằm lật đổ chế độ Diệm. Thật ra, nội dung bản tuyên cáo rất ôn ḥa, xây dựng, chỉ nhằm yêu cầu Ngô Đ́nh Diệm mở rộng chính quyền và các nhà trí thức sẵn sàng hợp tác với chính phủ nếu được yêu cầu.
Theo hồi kư chính trị của ông Bùi Diễm [3] , và theo Karnow [4] , thoạt tiên, những người như Trần Văn Văn chỉ muốn viết một lá thư đề đạt lên chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, với chủ ư nói thẳng với ông Diệm nhưng vẫn kín đáo. Do đó, lời lẽ bức thư hết sức trang trọng và ôn ḥa. Nhưng bức thư đó bị ông Diệm làm ngơ, không trả lời. V́ thế, nhóm trí thức trên mới quyết định đem công bố với báo chí tại khách sạn Caravelle. (Tên gọi “Tuyên ngôn Caravelle” từ đó mà ra.) V́ chủ ư là một lá thư gửi cho ông Diệm một cách trực tiếp và kín đáo, nên ngôn từ trong đó hiển nhiên không có dụng ư khiêu khích hoặc bất xứng với ông Diệm, cũng không có ư muốn lật đổ ông Diệm.
Ông Nguyễn Thành Vinh, trong bài “Mặt trận Quốc dân Đoàn kết trong biến cố 11-11-60,” cho biết:
“Tôi gặp anh Văn mấy lần về bức thư trên và chúng tôi kết luận rằng lời lẽ trong bức thư không được mạnh, và kế hoạch đó không áp lực được chính phủ Diệm.” [5]
Tiếc thay, chính phủ Diệm lại coi những đ̣i hỏi đó như một sự mạo phạm đến quyền bính, một thứ tội khi quân (Lèse-majesté). Ngay ngày hôm sau, ông Diệm đă ra lệnh bắt giam hầu hết những người có tên trong danh sách của bản Tuyên ngôn (theo lời ông Bùi Diễm). Trong số những người kư tên trong bản tuyên ngôn có Phan Quang Đán bị bắt giam và lên án khổ sai, đày đi Côn Đảo v́ đă ủng hộ cuộc đảo chánh 11-11-1960. Những người bị bắt trong nhóm trí thức Caravelle - có người không có trong danh sách 18 người - gồm các ông: Trần Văn Văn, Trần Văn Tuyên, Phan Bá Cần, Trần Bá Nhật, Trương Bảo Sơn, Trương Khánh Tạo, Nguyễn Chữ, Vĩnh Lợi, Trần văn Lư, Lê Ngọc Chấn, Trần Tương, Trần Văn Hương và Nguyễn Lưu Viên.
Thay v́ nới rộng thành phần chính phủ, ông Diệm đă ra lệnh cấm báo đối lập, bắt giam các nhà báo, sinh viên và các thành phần trí thức khác. Họ c̣n bị gán cho tội liên hệ với Cộng sản. Nhưng, chế độ càng tỏ ra cứng rắn, giới trí thức càng tỏ rơ sức mạnh tinh thần của họ bằng sự phản kháng. Những mắt xích đưa đến chỗ sụp đổ chế độ ông Diệm bắt đầu từ đó.
Riêng người Mỹ, mặc dầu đă đổ ra hơn tỉ đô la vào Việt Nam ở thời điểm đó, cái nh́n về ông Diệm đă không c̣n được như trước nữa. Công điện của Đại sứ Durbrow gửi về Hoa Thịnh Đốn, ngày 4 tháng 12 cùng năm, có đoạn: “Chúng ta rất có thể trong một tương lai không xa nữa phải t́m và theo đuổi một giải pháp thay đổi người.” [6] Ba năm sau, lời đề nghị này trở thành đường lối chính thức của chính phủ Hoa Kỳ.
Ngă rẽ quan trọng của Tuyên ngôn Caravelle đă đưa đến cuộc đảo chánh không thành ngày 11-11-1960. Những người như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đă nhận xét bản tuyên ngôn lời lẽ quá yếu, không hy vọng có chút thay đổi ǵ về phía ông Diệm. V́ thế, cũng theo ông Nguyễn Thành Vinh [7] , các ông đă yêu cầu nhóm Caravelle đứng vào Mặt trận Quốc dân Đoàn kết. Mặt trận này, dĩ nhiên do Việt Nam Quốc dân Đảng điều động, có kế hoạch đi biểu t́nh, tuyệt thực trước Quốc hội. Nhất Linh đă đi gặp Giám mục Lê Hữu Từ, cha Oánh, cha Hiền. Ông Nguyễn Thành Vinh ra miền Trung gặp Thượng tọa Đôn Hậu, bác sĩ Trần Đ́nh Nam. Ông Trần Văn Văn đi gặp cha Lộc, cha Vui. Nhưng kế hoạch của Nhất Linh không thành, v́ một số người trong mặt trận tỏ ra ngại ngùng về lối đấu tranh trên.
Bookmarks