(tiếp theo)
3.3. Lên bờ
Tầu Sông Hương đă đến Hải Pḥng. Tuy nhiên, chúng tôi không được lên bờ tại bến cảng chính – nơi có nhiều tầu thuyền ngoại quốc ra vô – v́ chúng (Việt Cộng) không muốn cho ai biết việc chúng đưa chúng tôi ra Bắc.
Hải Pḥng có nhiều bến phụ, dùng cho tầu bè loại nhỏ. Những bến này thường vắng vẻ. Khi lên bờ, tôi chỉ thấy có duy nhất là chiếc tầu Sông Hương chở chúng tôi mà thôi. Chỗ lên bờ của chúng tôi là bến Hạ Lư (theo sự hiểu biết của một số anh đă từng sống ở Hải Pḥng trước năm 1954).
Chúng tôi lên bờ lúc đó vào khoảng 9-10 giờ đêm. Bước chân lên bến là chúng tôi thấy một đoàn công an đă chờ sẵn. Bọn công an này rất nặng về phần tŕnh diễn: Đứa nào cũng mũ "kết", đồ bốn túi ủi láng coóng, giầy đen thấp cổ bóng lộn (có lẽ kiến ḅ cũng phải trượt té, giống như thời kỳ chúng tôi c̣n học ở quân trường). Rồi mỗi đứa lại dắt theo một con chó bẹc giê to tổ chảng, so với vóc dáng của mấy tên công an th́ chẳng cân xứng tí nào cả. Chúng đứng cách nhau độ 20 mét (60 ft), mặt gườm gườm như đang muốn ăn thịt tụi tôi vậy. Có đứa th́ mặt cứ vênh lên, ra cái điều ta đây. Tôi nghĩ có lẽ v́ mặc cảm tự ti cho nên chúng phải cố làm ra cho có vẻ ta đây cũng văn minh như ai, đâu có dép râu “như tụi bay tưởng”.
Một tên công an cầm loa phóng thanh, nói lớn: “Chào mừng các anh đă đặt chân lên Miền Bắc Xă Hội Chủ Nghĩa. Lúc nữa các anh sẽ được làm thủ tục nhập cảnh.”
Uả! Sao lạ vậy? Cùng một nước Việt Nam mà lại có màn lập thủ tục nhập cảnh nữa à? Sau này mới hiểu ra “thủ tục nhập cảnh” của tụi nó có nghĩa là chích ngừa. Chúng tôi chẳng ai biết là ngừa cái ǵ nữa. Trên bến có một số bàn kê sẵn, có y tá mặc áo choàng trắng ngồi chờ sẵn. Bọn chúng cho chúng tôi ngồi thành hàng, mỗi nhóm là 100 người, sẽ tới bàn chỉ định để chích ngừa. Tôi chẳng biết đó là thuốc ngừa bệnh ǵ; trong ḷng nghĩ thầm rằng, không chừng nó lại chích cho ḿnh một loại thuốc độc nào đó; thuốc không giết ḿnh ngay nhưng dần dần sẽ có tác dụng lên cơ thể th́ sao? Chỉ có trời biết! Đến bây giờ , tôi c̣n sống nhăn răng th́ chắc đó không phải là thuốc độc rồi.
Sau màn chích ngừa, chúng tôi được phát mỗi người một bịch ny-lông, trong đó có hai trái chuối tiêu (chuối già) nhỏ, một củ khoai lang luộc và ba tờ giấy bản (loại giấy xấu nhất, màu vàng khè, dùng để lau chùi).
Chúng cho bọn tôi đi tiêu, đi tiểu ở một hố dài (giống như giao thông hào) đă đào sẵn ở gần bến tầu mà tôi thấy đă có dấu phân mới, chắc là của những chuyến tầu trước. Qua mấy ngày không đi tiêu, tôi bị bón nặng, rặn hết sức cũng không được. Cuối cùng tôi phải nhờ "chị năm" (bàn tay năm ngón) giúp tôi moi từng viên nhỏ bằng hạt bắp, cứ thế cho đến khi hết "hạt bắp" th́ phần c̣n lại mới từ từ ra được. Tôi thở phào nhẹ nhơm v́ đă trút được một gánh nặng. Người ta bảo “Thứ nhất tắm sông, thứ nh́ ỉa đồng,” nhưng tôi chẳng cảm thấy cái thú ỉa đồng lúc này v́ tâm trạng đâu có yên ổn, phải cố gắng làm sao cho “công việc” chóng xong kẻo đang dở chừng mà nó thổi c̣i tập họp th́ khổ lắm. Khi mọi người đă xong xuôi, bọn công an kêu tập họp, rồi phân chia từng nhóm 50 người (đủ cho một toa xe lửa) để chuẩn bị đi tiếp. Chúng tôi đi bộ chừng 15 phút th́ ra tới chỗ xe lửa đậu, và chúng tôi lên xe.
Một số bạn cùng đi chuyến tầu với tôi th́ nói khác.
Anh Nguyễn Quang Ngọ kể rằng khi tầu cặp bến, tù lên bờ và ngay lập tức, tù được chia từng nhóm nhỏ và chuyển sang loại tầu há mồm loại nhỏ (có người gọi là phà). Sau đó tầu nhỏ chở tù đi tiếp trong một con sông nhỏ, cũng mất khoảng trên một giờ th́ cặp bến; tù lên bờ và làm các thủ tục như đă kể trên.
Anh Vũ Ngự Chiệu và Dương Ngọc Phú kể rằng tầu Sông Hương không cặp sát bến, mà đậu ở ngoài xa. Tù được chuyển xuống xà lan, rồi xà lan đưa tù vào bờ. Thậm chí xà lan cũng không vào sát bờ được; tù phải lội một quăng rồi mới lên bờ được. Anh Phú nói rằng anh có một kỷ niệm khó quên trong lúc anh lội vào bờ như sau: Trong lúc đang lội, một cái dép Nhật (loại dép bằng cao su xốp, có quai h́nh chữ V ngược) bị kẹt dưới bùn, anh quay lại ṃ mẫm t́m dép; nhưng dép của ḿnh không thấy, mà lại vớ được một cái dép râu (làm bằng vỏ xe hơi mà bọn Việt Cộng gọi là dép B́nh-Trị-Thiên), chắc là của người nào đó đi chuyến trước bị mất. Thôi th́ dép râu cũng được, miễn là có dép.
Anh Vơ Tấn Tài và Nguyễn Tiến Xuyên th́ kể lại sự việc lên bờ giống như trường hợp của tôi, nhưng giờ giấc lên bờ th́ khác nhau. Các anh lên bờ sớm hơn tôi.
Nên nhớ rằng đằng sau mỗi bến, cách độ 70 – 100 mét (200 – 300 ft) là có đường rầy xe lửa, và xe lửa đă chờ sẵn ở đó để chở tù.
Sao lạ vậy? Cùng một chuyến tầu mà mỗi người kể lại khác nhau. Có vô lư không? Không đâu. Lư do là v́ tầu Sông Hương chở trên dưới ba ngàn người, tạm coi như có sáu khoang (chỉ phỏng đoán thôi); mỗi khoang chừng 500 người. Mấy bến tầu phụ không đủ chỗ tiếp nhận một lúc ba ngàn người. V́ thế, bọn Việt Cộng chỉ cho một khoang (500 người) lên một bến, rồi lại cho 500 người kế tiếp lên một bến khác. Cứ thế cho đến khi đổ hết tù lên bờ th́ tầu Sông Hương quay trở về Miền Nam chở chuyến kế tiếp.
Chương 4
Hồ Thác Bà, Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn
4.1. Hồ Thác Bà
Đêm đă gần về sáng, chúng tôi được dẫn đi bộ từ chỗ chích ngừa tới chỗ xe lửa đang đậu, đi mất chừng 15 phút là tới.
Chúng tôi bị dồn lên các toa xe lửa chở súc vật; trong toa xe c̣n dính bê bết phân ḅ, mùi hôi nồng nặc. Chúng tôi ngồi trên sàn tầu v́ toa chở súc vật làm ǵ mà có ghế. Tầu chạy dằn qua xốc lại, chúng tôi phải ráng mà bấu víu vào nhau cho khỏi té. Cửa lên xuống không bị đóng lại nhưng có một tên vệ binh đeo súng đứng ngay tại cửa; có lẽ hắn đứng đó là để tránh phải ngửi mùi phân ḅ trong toa tầu. Hai bên hông toa, ở phía trên cao, có mấy ô trống nhưng không đủ gió lùa vào để đẩy mùi xú uế ra ngoài; không khí thật là ngột ngạt và khó thở.
Xe lửa chạy, tờ mờ sáng th́ tới ga Gia Lâm (gần Hà Nội) rồi dừng lại. Mỗi toa được lệnh cử hai người đi lănh đồ ăn trong ngày cho cả toa. Đồ ăn gồm có bánh ḿ, thịt chà bông (Miền Bắc gọi là ruốc) và đường trắng.
Xe chạy tiếp. Trên toa xe lửa tôi đi, có một anh bị bí đường tiểu tiện mấy ngày liền cho nên anh đi không được, anh vừa ḅ vừa kêu la thảm thiết v́ tức bọng đái. Hai người bạn anh phải cho anh quàng tay vào vai rồi d́u anh lết đi. Bọn lính áp giải chẳng có hành động nào để giúp anh, mà chỉ nói “Ráng khắc phục, tới nơi tập trung sẽ được chữa.” Xe lửa ở Việt Nam là loại tồi tệ nhất thế giới, nó dằn xóc kinh khủng, càng làm cho người bệnh đau đớn hơn. Sau khi hết chặng đường đi bằng xe lửa, tôi không hiểu người bệnh đó nhập với nhóm nào và đi về đâu. Không hiểu anh có qua khỏi cơn ngặt nghèo ấy không, hay là bị bể bọng đái và đă gửi xác đâu đó ở Miền Bắc rồi?
Xe chạy tiếp, đến trưa th́ tới ga Yên Bái.
Chúng tôi xuống xe và được dẫn đi bộ một quăng phố tương đối dài. Bọn Việt Cộng đă dàn dựng sẵn một màn kịch, cho dân chúng đứng đầy hai bên lề đường để nh́n rơ mặt bọn “Mỹ-Ngụy”. Cứ cách vài ba chục mét, lại có một du kích gái (mượn chữ của Việt Cộng), tay cầm súng lăm lăm như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi. Đám dân chúng, đủ cả già trẻ lớn bé, vừa la hét, vừa chửi bới, vừa ném đá vào chúng tôi. Một vài người trong bọn tôi bị trúng đá, u đầu sứt tai, ráng mà chịu trận. Nhục nhă quá! Nghĩ tới một câu mà tôi cùng đồng đội thường hát ở quân trường năm xưa, “Ta anh hùng, đời đời Lục Quân Việt Nam” mà tủi thân quá! Bây giờ đâu c̣n “ta anh hùng” nữa, mà là một đoàn người ôm hận “thất trận” đang lầm lũi đi giữa trưa nắng dưới con mắt canh chừng của những kẻ được coi là “người thắng trận”. Tôi đưa tay lên quệt nước mắt nhưng nếu người ngoài nh́n thấy, th́ sẽ tưởng rằng tôi vuốt mồ hôi v́ đang đi bộ giữa buổi trưa. Tôi đang mang tâm trạng con cọp bị nhốt trong cũi sắt của Thế Lữ:
………………………………………
C̣n đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi, đứng uống ánh trăng tan.
……………………………………….
Than ôi! Thời oanh liệt nay c̣n đâu!
Quăng đường đi bộ cũng khá dài; v́ thế bọn chúng để rải rác hai bên đường mấy vại nước vối (nấu bằng lá cây vối, người b́nh dân Miền Bắc thường dùng để uống thay cho nước trà). Rồi chúng tôi tới một băi đậu đầy xe Molotova, đang chờ sẵn để chở chúng tôi. Mọi người lên xe và được chở tới nhà máy thủy điện Thác Bà. Tới đây th́ trời đă gần tối, chúng tôi ngủ lại qua đêm quanh khu vực nhà máy thủy điện (có lẽ là đêm 30/6/1976).
Sáng hôm sau, chúng tôi xuống bến ca-nô cạnh nhà máy thủy điện. Ca nô chạy trên hồ Thác Bà chừng 3 – 4 tiếng th́ táp vào bờ, chúng tôi bắt đầu đi bộ, leo dốc và leo dốc để hơn một giờ sau th́ ngừng lại tại mấy lán (căn nhà dài) mới được ai đó dựng lên sơ sài bằng tre và nứa. Lán chỉ có mái và sạp ngủ bằng nứa, xung quanh c̣n trống trơn. Ai đă từng ở miền quê ngoài Bắc th́, thoạt nh́n mấy cái lán này là nghĩ ngay đến mấy dẫy nhà bán hàng ở những chợ quê khi xưa.
Họ cho biết đây là nơi lập trại của chúng tôi (Trại 5). Chúng tôi được chia ra làm 5 nhóm, mỗi nhóm 50 người ở vào một lán, tổng cộng là 250 người. Chúng tôi nhận phần “cơm” trưa, thực ra là ngô (bắp) tẻ, có màu vàng mà nh́n xa th́ cứ nghĩ là “Hôm nay nhà nước chào mừng tù Miền Nam bằng xôi đậu xanh.” Khi đến gần th́ mới bật ngửa ra, đó là bắp tẻ (bắp nếp có mầu trắng và dẻo hơn). Ở đấy mà ham! Xôi với chẳng xôi!
Ăn “xôi đậu xanh” xong, chúng tôi cùng nhau sắp xếp chỗ ngả lưng, chuẩn bị cho một giấc ngủ mà chắc chắn là phải thoải mái hơn những ngày ngồi tầu, đi xe. Đây là đêm đầu tiên tại Trại 5, Liên Trại 4, thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, có lẽ là đêm 01/7/1976.
Hầu hết người nào cũng ngủ như chết sau mấy ngày di chuyển mệt mỏi. Khi tôi tỉnh dậy th́ trời đă gần sáng, chim rừng kêu inh ỏi trên sườn núi ngay phía bên kia đường ṃn (đường ở vùng này chỉ vừa đủ rộng cho một người đi). Trong số những tiếng chim kêu, có một loại mà tôi nghe như là “bắt vô trói cột”. Tôi thầm nghĩ tới thân phận ḿnh, đúng là ḿnh bị tụi nó “bắt vô trói cột” rồi, hết đường cựa quậy! Một số bạn tù khác th́ lại diễn giải tiếng chim kêu đó như là một lời nhắn nhủ “khó khăn khắc phục”. Thôi th́ “bắt vô trói cột” hay “khó khăn khắc phục” cũng đều là những điều chẳng tốt lành ǵ cho chúng tôi cả! Tôi tự nhủ, hăy chuẩn bị tinh thần để đối phó với những cay đắng và khắc nghiệt sắp tới.
Vị trí nhốt tù ở bờ hồ gồm có 3 trại là 3,5,và 7. Trại tôi ở là Trại 5, ở giữa Trại 3 và Trại 7. Tôi đứng ở Trại 5 có thể nh́n rơ Trại 3 và Trại 7. Trại 5 gần với Trại 7 hơn; đứng ở Trại 5, tôi có thể nghe được tiếng nói lớn ở bên Trại 7. Nói về vị trí cao thấp th́, Trại 7 ở cao nhất, kế đến Trại 5, rồi đến Trại 3. Cả ba trại nằm dọc theo bờ hồ, ngay dưới chân một dẫy núi đá tai mèo; đá có mũi nhọn hoắt và rất sắc; sườn núi dốc đứng. Từ hàng rào trại tới chân núi cách nhau chừng trên năm chục mét (gần 200 ft). Chúng tôi đi chặt cây, đốn nứa về làm nhà đều phải leo lên dẫy núi này, leo cao cỡ chừng hơn trăm mét th́ hết dốc đứng, có thể đi lại trên đó t́m cây để chặt.
Mấy tháng sau, Trại 5 dời sang một vị trí khác ở phía bên kia bờ hồ. Có lẽ là ba trại ở liền nhau quá, không đủ rộng cho ba trại canh tác. Cuối năm 1978, Trại 5 lại dời vị trí một lần nữa, trở ngược lại khu vực chúng tôi đă dựng trại khi mới ra Bắc. Tuy nhiên, lần này chúng tôi nhập chung với thành phần c̣n lại của Trại 3, đang chờ chúng tôi ở đó để chuẩn bị di chuyển về Vĩnh Phú trước khi bọn Tầu "cho một bài học."
Cả ba Trại 3,5, và 7 thuộc Liên Trại 4, Đoàn 776. Sở dĩ Việt Cộng gọi tên là đoàn 776 v́ nó được thành lập tháng 7/1976 để quản lư tù Việt Nam Cộng Ḥa từ Miền Nam chuyển ra. Ba trại nằm trong phạm vi xă Cẩm Nhân, Yên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Lương thực và thực phẩm do Liên Trại 4 cấp phát. Chúng tôi phải đi khiêng về. Thời gian đi từ trại tới liên trại mất chừng hai tiếng đồng hồ. Lúc đi th́ không sao nhưng khi trở về th́ thật là vất vả. Hai người khiêng một bao gạo 45 hoặc 50 kư (100 - 110 pounds), đi trên một quăng đường núi gập ghềnh dài 6 – 7 cây số (4 – 5 miles) là một điều khó khăn đối với chúng tôi. Sau chuyến khiêng gạo đầu tiên, hầu hết mọi người đều bị sưng ở bàn chân và nhất là ở hai mắt cá chân. Người nào cũng đi cà nhắc; có người bị nặng quá phải chống gậy mới đi lại được. Chúng tôi phải xin dầu nóng của bạn bè để thoa bóp cho đỡ đau. Do đó ngày hôm sau chúng tôi phải khai bệnh để được nghỉ ở nhà. Những lần khiêng gạo kế tiếp th́ t́nh trạng đau chân giảm đi dần dần v́ lâu ngày chân cẳng của chúng tôi đă thích nghi được với hoàn cảnh khó khăn của ḿnh.
(c̣n tiếp)
Bookmarks