Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà Thành tao nhă, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục sức, và giao tế.
Cái văn hóa của người Hà nội xa xưa, là h́nh ảnh của những người đàn ông phong lưu, lịch lăm, tề chỉnh mỗi khi bước ra khỏi cửa, là các bà nội trợ nề nếp, đảm đang, khăn nhung, áo lụa, khoe tài nữ công gia chánh qua những mâm cỗ thịnh soạn vào các ngày giỗ, ngày Tết, là các cô thiếu nữ duyên dáng, e ấp trong tà áo nhung, tấm khăn quàng, lên chùa lễ Phật buổi đầu năm.
Người Hà nội, khi vui không sôi nổi, ồn ào, khi bất b́nh, giận dữ, biết kiềm chế lời ăn tiếng nói, để tránh xung đột. Cái thanh lịch của người Hà Nội không phải chỉ tập tành trong một sớm một chiều mà có được. Cái phong thái đó, phải có sẵn trong nếp nhà, từ trước khi đứa trẻ sinh ra đời, để rồi khi lớn lên, đứa trẻ cứ rập khuôn theo cái nếp có sẵn, mà học theo cách cư xử, phép giao tế, lời ăn tiếng nói, nếp sinh hoạt của những bậc trưởng thượng.
Thêm vào đó, là sự theo dơi, uốn nắn, dạy dỗ của các bậc phụ huynh, để rồi khi tới tuổi trưởng thành, người con trai trở nên một thanh niên phong lưu, lịch lăm, mạnh dạn bước vào đời, và người con gái trở thành một thiếu nữ đức hạnh, đảm đang, có khả năng quán xuyến một gia đ́nh mới.
Có người nhận xét, người Hà nội khéo ăn khéo nói, nhưng không thực ḷng, xử sự mềm mỏng nhưng thiếu chân t́nh, lịch sự, nhă nhặn nhưng ngầm kiểu cách. Có người c̣n nói, người Hà Nội coi trọng thể diện, giữ ǵn mặt mũi, và sợ dư luận, nên họ sống cho người ngoài, nhiều hơn cho chính họ.
Những nhận xét đó, không phải là sai. Ngày tôi c̣n nhỏ, mẹ tôi thường nhắc nhở: “ Ở trong nhà thiếu thốn, th́ cũng chỉ có ḿnh biết, nhưng bước ra ngoài, mà xử sự hẹp ḥi, th́ sẽ bị thiên hạ chê cười, làng nước đàm tiếu.” Bởi vậy, các khoản chi tiêu về giao tế như hiếu, hỷ, hay mọi đóng góp, mẹ tôi đều rất hào phóng. Để bù lại, bà thẳng tay cắt xén những khoản chi tiêu trong gia đ́nh, kể cả khoản tiền chợ mỗi ngày.
Mẹ tôi c̣n kể cho tôi nghe rằng ngày bà c̣n trẻ, trước khi đi ăn giỗ, ăn cưới, bà đều bị bà ngoại tôi ép ăn cơm trưóc ở nhà, để khi tới nơi, không v́ đói mà ăn uống thô tục. Con gái của gia đ́nh lễ giáo là phải … khảnh ăn, thanh cao, và đài các.
Nhiều người nh́n tấm ảnh này đều dễ dàng nhận ra bức tượng “Nữ thần Tự do” đă quá quen thuộc, sừng sững ở cửa ngơ TP New York của Hoa Kỳ… Bức tượng trong ảnh này đúng là Tượng nữ thần Tự do, nhưng rơ ràng là nó nhỏ hơn, lại nằm trên một đường phố của Hà Nội.
Với những người từng sống ở Hà Nội trước ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) th́ vẫn có cơ hội trông thấy bức tượng này, được dựng tại Vườn hoa Neyret (nay là Cửa Nam) ngay đầu phố Hàng Bông và nh́n sang đường Cấm Chỉ.
Tượng Công lư, thường được dân gian gọi là tượng Bà Đầm X̣e.
-----------
Tôi đă từng theo mẹ tôi đi tham dự các buổi họp mặt với bạn bè của bà. Vừa ăn xong, là các bà tranh nhau trả tiền, để chứng tỏ rằng ḿnh là người lịch sự, hào phóng, nhưng khi về nhà, th́ lại ngồi tiếc tiền. Có lần tôi nghe bà bạn hỏi ư kiến mẹ tôi về cái áo choàng của chồng bà vừa mua tặng từ Hồng Kong. Mẹ tôi hết lời khen ngợi, nhưng khi bà khách vừa ra về, th́ mẹ tôi lại nói với ba tôi là cái áo màu mè, coi thiếu thẩm mỹ.
Tôi thắc mắc về thái độ này, th́ mẹ tôi giải thích rằng: “chiếc áo đă lỡ mua rồi, không thay đổi được, th́ can chi làm buồn ḷng người khác !”
Ngày c̣n nhỏ, tôi cứ phân vân, không biết những thái độ này là đúng hay sai, nhưng từ khi biết suy nghĩ, tôi lại thấy, có lẽ những cách xử thế này, đă góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo cái xă hội thanh lịch của người Hà thành. V́ họ luôn muốn vui ḷng người khác, trọng“thể diện”, và sợ tai tiếng, nên họ thận trọng từ lời ăn, tiếng nói, tới cách thức giao tế, và dạy dỗ con cái. Thà là bản thân và gia đ́nh chịu o ép, thiệt tḥi, chứ không để cho thiên hạ dị nghị, chê cười.
Đó là những người Hà Nội của hơn nửa thế kỷ trước. ( Còn tiếp )
Ô Quan Chưởng 1928
Bookmarks