Page 23 of 24 FirstFirst ... 13192021222324 LastLast
Results 221 to 230 of 231

Thread: ANH HÙNG BẮC CƯƠNG

  1. #221
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    Tiểu sinh nghe nói, hôm nay có sứ đoàn Đại-Việt qua đây, nên chờ đợi tấu nhạc kiếm tiền. Người ta đồn trong sứ đoàn có công chúa Bình-Dương sắc nước hương trời, đẹp hơn Tây-Thi, Dương-phi. Nay mới thấy lời đồn không đúng sự thực.
    Mỹ-Linh cười:
    - Chắc anh thấy tôi xấu như con ma, con quỷ phải không?
    - Bậy nào! Tôi thấy lời đồn thực vô phép. Tây-Thi, Dương-Phi chỉ đẹp thôi, chứ vô hạnh, bất tài. Còn công chúa vừa đẹp, vừa thông thái, vừa ôn nhu, đức độ. E khắp thế gian không có hai.
    Lão Tôn hỏi:
    - Này huynh đệ, người thiếu tiền, được công chúa ban thưởng, rồi nịnh công chúa phải không? Tại sao người biết công chúa thông thái, ôn nhu, đức độ?
    - Ông cụ ơi! Ông cụ khinh người quá vậy? Này nhé, các ông trên dưới bẩy mươi tuổi, mà không hiểu hết những nhạc khí tôi xử dụng. Duy công chúa nhận ra. Có phải công chúa thông thái không? Tôi nói một câu nước đôi, ngụ ý chê công chúa xấu. Thế mà công chúa không giận, còn cười với tôi. Như vậy có phải là ôn nhu không? Công chúa ban thưởng cho tôi, hai tay trịnh trọng cầm nén bạc tung sang. Như vậy có phải là đức độ không?
    Y nói với Mỹ-Linh:
    - Công chúa là người Việt, ắt thích bản Động-đình ca của Trương Chi chứ? Tiểu sinh xin tấu hầu công chúa. Nếu hay xin ban thưởng.
    Không đợi Mỹ-Linh trả lời, thiếu niên rút thanh kiếm bên cạnh, tay cầm cái cần có lông ngựa căng thẳng. Y cọ cái cần vào thanh kiếm. Một âm thanh vọng ra như tiếng nhị (đàn cò). Trong khi đó chân y điều khiển buồm, tiếng tiêu, tiếng trống tiếng phách vang lên.
    Động-đình ca là bản nhạc tối cổ của tộc Việt, nội dung ca tụng Quốc-tổ, Quốc-mẫu phong đất cho trăm con, qui dân lập ấp thành lập tộc Việt. Suốt mấy nghìn năm được dùng làm bản nhạc tế Quốc-tổ. Đến thời Lĩnh-Nam, anh hùng Nguyễn Tam-Trinh nhuận sắc lại, thành bản nhạc thiết triều của vua Trưng. Chư tướng dùng làm nhạc xuất quân. Sau thời Lĩnh-Nam, tộc Việt lại chỉ dùng để tế Quốc-tổ vào ngày mười tháng ba. Từ Khai-Quốc vương cho tới Thiệu-Thái đã từng nghe nhiều lần. Những lần đó, phường bát âm cùng tấu. Nhưng lần này bản nhạc được tấu lên giữa cánh đồng Tương, nơi mà mấy nghìn năm trước tổ tiên hàng năm hội ở đây. Vì vậy mọi người đều ngồi nghiêm trang, sửa sang quần áo cho ngay thẳng, im lặng lắng nghe.
    Thiếu niên vừa tấu nhạc, miệng cất tiếng ca. Giọng của y thực tốt, vang đi rất xa. Khi đến câu cuối cùng Đời đời chính khí Tiên-Rồng y lập đi lập lại ba lần, rồi co chân lại. Cánh buồm thu nhỏ, gió không căng, con thuyền bớt sóng, tiếng tiêu, tiếng trống dứt cùng tiếng phách và tiếng nhị kiếm.
    Mọi người vỗ tay hoan hô.
    Khai-Quốc vương nhìn Vương-phi, Mỹ-Linh. Cả ba mỉm cười với nhau. Thiệu-Thái móc đĩnh vàng trong bọc đưa ra trước ngực, rồi trịnh trọng tung sang tặng thiếu niên. Thiếu niên phẩy tay một cái, nén vàng rơi tọt vào túi y. Y nói vọng sang:
    - Đa tạ giáo chủ ban vàng. Giá giáo chủ có thịt lợn, cho xin một miếng thì quý quá.
    Thiệu-Thái kinh ngạc tại sao thiếu niên lại biết tên húy lợn của mình? Chàng hỏi:
    - Này bạn trẻ. Cao danh quý tính của bạn là gì vậy?
    - Cao danh quý tính ư? Để tôi nói cho anh biết, anh sẽ hết hồn. Danh tôi trấn giang hồ Hoa-Việt. Tôi họ Chu tên Bội-Phản. Tôi phản tổ phản tiên, phản quốc phản dân, phản thầy phản bạn. Khi lưu lạc kiếm ăn, tôi có tên là Trôn bất đức. Hiện chuyên làm nghề giặt váy cho người đàn bà họ Lưu.
    Mọi người đưa mắt nhìn lão Tôn. Ai cũng đều biết thiếu niên chửi xéo lão, vì lão hiện mang tên Tôn Đức-Khắc, nhưng thực sự lão họ Chu tên Bội-Sơn.

  2. #222
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    Mặt lão Tôn xám như tro, lão hỏi vọng xuống:
    - Thiếu niên kia! Ai sai người đến đây trêu ghẹo lão gia?
    Thiếu niên không trả lời, duỗi chân một cái, cánh buồm dương phồng lên. Con thuyền vọt về trước. Tay y cầm cây đàn bầu bật lên mấy tiếng hợp với tiếng trống, tiếng tiêu tiếng phách. Y tấu bản Xuân Việt-nữ chiến Trường-an của Nguyễn Giao-Chi.
    Thủy thủ quát lên:
    - Chú bé con kia! Quốc công gọi chú, mà chúng không trả lời, như vậy thực vô phép quá. Mau ngừng thuyền lại.
    Thiếu niên như không nghe tiếng nói quát, y để hết tâm tư vào tiếng đàn. Con thuyền của y vượt qua thuyền Vương-Văn, đang song song với chiến thuyền phía trước.
    Lão Tôn hướng sang thuyền phía trước ra lệnh:
    - Lão Ngũ! Người bắt thiếu niên kia phải ngừng thuyền lại cho ta.
    Lão Ngũ là một trưởng lão bang Nhật-hồ, giả làm thị vệ. Nghe lão Tôn ra lệnh, y cầm một cuộn dây tung lên cao. Dây cuốn lấy mũi thuyền. Lão Ngũ cầm dây ghì mạnh, con thuyền nhỏ đang chạy mau, từ từ trôi song song với chiến thuyền phía trước. Bản nhạc bị rối loạn, vì tiếng trống, tiếng tiêu không phát ra như ý muốn.
    Thiếu niên cầm lấy cái cần câu bên cạnh, tay vung lên, véo một tiếng, sợi dây đứt đôi. Thủ pháp của y nhanh vô cùng. Tuyệt ở chỗ tay y chụp cần câu vung lên, mà điệu nhạc không đứt đoạn. Con thuyền của y lại phăng phăng vọt về trước. Dây đứt, khiến lão Ngũ mất đà chao người đi suýt ngã. Xấu hổ, lão chạy về phía đầu chiến thuyền, rồi tung mình nhảy xuống con thuyền nhỏ.
    Thiếu niên lại cầm cần câu vung lên. Véo một tiếng, viên chì ở đầu dây câu trúng huyệt Đại-truy của lão. Người lão rơi bộp xuống giữa thuyền của thiếu niên. Lão nằm dài bất động. Bấy giờ con thuyền của thiếu niên mới vọt lên như tên bắn.
    Lão Tôn hô lớn:
    - Chèo thuyền đuổi mau.
    Cả đoàn chiến thuyền chèo hết sức. Nhưng con thuyền nhỏ đã đi khá xa. Lão Tôn kinh ngạc:
    - Âm nhạc của thiếu niên này đường đường chính chính, mà võ công có vẻ tà môn. Tại sao chỉ với viên chì trúng huyệt Đại-trùy mà làm cho lão Ngũ như người tê liệt không phản ứng được?
    Lão Lê cau mặt:
    - Động tác vung cần câu cắt đứt dây dường như là chiêu Hoa khai vọng nguyệt thuộc Mê-linh kiếm pháp biến chế ra. Chiêu vung cần câu đánh lão Ngũ giống như Thiên-vương chưởng. Tại sao giữa vùng này lại có thiếu niên biết xử dụng võ công Đại-Việt? Rõ ràng y nói giọng Trường-sa, chứ không phải giọng Quảng.
    Con thuyền của thiếu niên tới ngã ba sông, thì rẽ vào. Các chiến thuyền cũng rẽ theo.
    Vương Văn than:
    - Dường như thiếu niên chủ tâm trêu ghẹo quan quân thì phải. Nếu y chạy ắt đã đi xa lâu rồi. Y cố tình giữ khoảng cách với chúng ta.
    Mỹ-Linh hỏi Vương Văn:
    - Vương tướng quân! Con sông nhỏ này là sông gì vậy?
    Vương Văn đáp:
    - Khải công chúa chúng ta đang rẽ vào Tĩnh-giang.
    Mỹ-Linh reo lên:
    - Tôi biết rồi! Chúng ta đã vào địa phận Tương-Âu phải không? Tôi đọc sách thấy nói rằng cánh đồng Tương-Âu nằm về bên trái sông Tương. Phía Đông giáp sông Tương. Phía Tây giáp sông Tư-thủy. Phía Nam giáp sông Âu-giang. Phía Bắc giáp hồ Động-đình. Để vào cánh đồng Tương, thuyền tới Tĩnh-giang thì theo sông này đi về phía Tây. Khoảng năm dậm, tới một cái hồ, gọi là hồ Âu-Tương. Nơi này là chỗ Quốc-mẫu thường tắm gội.
    Thuyền đi một lát quả nhiên tới cái hồ, nằm giữa cánh đồng mênh mông, cây cỏ xanh tươi. Khu bãi cỏ bờ hồ, hàng nghìn con chim âu đang rỉa lông. Trên trời, nhiều con đang bay lượn.
    Thiếu niên ghé thuyền vào bờ. Trên bờ, sau bụi cây có hai con ngựa. Y nhảy lên một con, cầm cương cho ngựa thả bước, tay rút trong bọc ra một đồng tiền. Y cầm đồng tiền cọ vào cái roi ngựa. Một điệu nhạc nhu hòa phát ra nghe rất lọt tai.
    Lão Tôn hô lớn:
    - Lão Tứ hãy nhảy hảy xuống nước, bơi vào bờ đuổi theo.
    Lão Tứ tung mình xuống sông. Sông không sâu cho lắm. Nhảy nhót mấy cái, đã vào đến bờ. Lão vọt nhảy lên lưng con ngựa còn lại ra roi đuổi theo thiếu niên. Phút chốc cả ba biến mình vào khu đồng rộng bao la.
    Không hổ là đại tôn sư võ học, dù biến chuyển xẩy ra đột ngột, hai lão Tôn, Lê vẫn bình thản như không có gì quan trọng. Lão Tôn nói với Khai-Quốc vương:

  3. #223
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    - Chúng ta đang ở giữa cánh đồng Tương-Âu. Kia là khu Tương-đài. Kính thỉnh Vương-gia cùng Vương-phi lên bờ, thăm lại đất tổ.
    Chợt lão động tâm cơ:
    - Con bà nó, mình định không cho bọn này thăm Tương-đài, rút cục mải đuổi theo thằng ôn con, bây giờ đã ở Tương-Âu rồi. Không lẽ tên Lý Long-Bồ bầy ra vụ này để được thăm Tương-đài?
    Lão ra lệnh cho Vương Văn:
    - Vương tướng quân lên bờ kiểm điểm đã, rồi hãy thỉnh Vương-gia, Vương-phi cùng Công-chúa.
    Thuyền đã bắc cầu. Vương Văn lên trước cùng đám thủy thủ kiểm soát khu bờ xung quanh. Sau khi không thấy có gì lạ. Y hướng xuống dưới:
    - Trình quốc công, hoàn toàn an ninh.
    Lão Tôn chỉ tay vào cầu:
    - Thỉnh Vương-gia, Vương-phi, cùng Công-chúa.
    Theo luân lý Đại-Việt hồi đó, Thiệu-Thái, với Mỹ-Linh phải đi sau Khai-Quốc vương với vVơng-phi. Nhưng trong khi đi sứ, Khai-Quốc vương là chúa, Thiệu-Thái phải đi trước, xem có an ninh không đã. Vì vậy Thiệu-Thái lách mình cùng Mỹ-Linh lên trước. Chàng quan sát xung quanh bãi rồi nói:
    - Xin mời cậu mợ lên.
    Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai lên bờ.
    Vương Văn chỉ về phía trước:
    - Khải tấu Vương-gia, trước kia là Long-đài, Tiên-đài cùng Bách-tộc đài, nơi hàng năm Quốc-tổ, Quốc-mẫu hội các vị hoàng-tử.
    Tuy trông thấy đài, nhưng từ bờ hồ đến nơi cũng khá xa. Trong đài thấp thoáng bóng xanh, đỏ, trắng vàng, dường như có người đang vãng cảnh.
    Mặt hai lão Tôn, Lê đăm lại như mặt nước hồ mùa Đông. Về võ công, hiện trong thiên hạ khó ai địch nổi hai lão. Tổ tiên lão Tôn xuất thân phái Cửu-chân. Tổ tiên lão Lê xuất thân phái Khúc-giang. Cả hai theo phò Thái-tử Ngô-triều sang Quảng-Đông mong tìm kho tàng. Nhờ có bộ Lĩnh-Nam võ kinh trong tay. Cả hai nhà đều luyện tới mức cao thâm khôn lường. Lúc hai lão khi mới hai mươi tuổi đã nổi danh vô địch, được nối nghiệp cha, thụ phong tới chức tước cao nhất triều Ngô-Việt.
    Triều đình Ngô-Việt đầu hàng Tống. Hai lão cũng sư huynh Ngô Quảng-Thiên thủ tiết lui về ẩn ở thôn dã, mưu phục hồi nghiệp tổ. Thế rồi chỉ vì nóng lòng, muốn bước tắt trong sự nghiệp phục hưng, hai lão theo Nhật-Hồ lão nhân. Nhật-Hồ lão nhân nhận ra thiên tài trong hai lão, nên dốc túi truyền Hồng-thiết kinh cùng Hồng-thiết tâm pháp cho, rồi phong làm Tả, Hữu hộ pháp. Hai lão được phụ trách giáo chúng vùng Nam-hải, Quế-lâm thời Lĩnh-Nam, bao gồm vùng Lưỡng-Quảng, Đàm-châu, Quế-châu của Tống.
    Trong cuộc đại hội Hổ-môn, anh hùng Ngô-Việt bàn định phục quốc. Ngay ngày đầu, hai lão đưa ra ý kiến nên lấy tinh thần Hồng-thiết giáo làm khởi điểm cho cuộc phục hưng. Các anh hùng đều chống lại. Ngay đêm đó, mật sứ của Lưu thái hậu âm thầm gặp hai lão bàn định hợp tác. Hai lão nghĩ: Nếu dùng võ thắng anh hùng, thì lực lượng Hồng-thiết của hai lão bị hao tổn không ít. Hai lão nghĩ tới dùng binh lính Tống diệt anh hùng các nơi, rồi một mình Hồng-thiết giáo cầm đầu cuộc nổi dậy.
    Thế là cuộc trao đổi diễn ra: Hai lão trao cho Lưu hậu bản đồ kho tàng Tần-Hán. Ngược lại Lưu hậu trọng đãi, phong chức tước thực lớn cho hai lão. Hôm sau, giữa lúc buổi họp diễn ra, thiết kị Tống xuất hiện, hợp với Hồng-thiết giáo diệt chư lộ anh hùng. Ngô Quảng-Thiên võ công cao hơn hai lão, nhưng vì không đề phòng, bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng. Tuy bị trúng độc chưởng, nhưng Ngô Quảng-Thiên cũng kịp thời học thuộc bản đồ cùng mật ngữ kho tàng rồi đốt đi.
    Lưu hậu bèn đem Quảng-Thiên cùng vợ, ba con trai về Biện-kinh an trí, hẹn rằng hễ khai ra kho tàng, bà sẽ thả ra. Một mặt bà giam lỏng Ngô Cẩm-Thi ở Tuyệt-phong làm mồi câu anh hùng Ngô-Việt xuất hiện để giết chết. Cho đến nay cả hai lão được phong tới Quốc-công. Một người thống lĩnh binh mã Nam-thùy. Một người coi Ngự-lâm quân cùng thị vệ.
    Lưu hậu nhận sớ tâu rằng sứ thần Đại-Việt là một thiếu niên tài ba xuất chúng, được anh hùng tộc Việt tôn làm trừ quân tên Lý Long-Bồ. Long-Bồ đang cùng vợ trên đường sang cống. Nhưng sự thực để đào kho tàng. Bà muốn chiếm kho tàng ấy , nên lập tức bà sai hai lão Tôn, Lê cùng bọn mười trưởng lão Hồng-thiết giáo đi cùng Tào Khánh tiếp dẫn. Còn hai lão theo dõi trong bóng tối. Hai lão mật sai anh em họ Phương dẫn Trường-giang thất quỷ bắt sống Vương uy hiếp.

  4. #224
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    Nào ngờ, bọn Trường-giang thất quỷ lại được Thiệu-Thái giải Chu-sa ngũ độc chưởng cho. Chúng cảm động qui phục Nam-triều.
    Hai lão tâu về triều rằng Định-vương Nguyên-Nghiễm đã có bản đồ kho tàng trong tay, đang điều động binh tướng Lưỡng-Quảng đào kho tàng. Lưu hậu sai bang trưởng Nhật-hồ Đặng Đại-Bằng đón đường mong giết Vương. Nào ngờ Vương được Khai-Quốc vương cứu thoát. Hai người kết anh em. Còn kho tàng bị Đại-Việt đào mang đi mất.
    Hai lão nghĩ:
    - Truyện kho tàng hỏng, ít ra cũng diệt hết vây cánh Định-vương, như vậy Lưu hậu ắt hài lòng.
    Bất đắc dĩ hai lão phải xuất hiện, đánh thuốc độc gây chia rẽ giữa Định-vương với Khai-Quốc vương. Nhưng trên đường từ Khúc-giang về đến đây, hai lão cảm thấy như có nguy cơ ẩn tàng hại hai lão, mà hai lão không biết do ai điều khiển. Hai lão khuất phục bang chúng Nhật-hồ Hành-nam theo hai lão, thì chỉ mười lăm ngày sau, toàn thể đám này bị giết.
    Khi sắp tới Hành-nam, hai lão gặp bọn ứng thí phò mã đón đường. Năm trưởng lão đuổi theo đều bị mất tích. Mới đây, một thiếu niên đi trên thuyền tấu nhạc, dùng thứ võ công kỳ ảo bắt sống thêm một trưởng lão bang Nhật-hồ trước mặt lão, mà lão không đoán được hành tung.
    Cuối cùng lão sai trưởng lão thứ Tư đuổi theo thiếu niên, nhưng cũng biến mất trên cánh đồng Tương này. Tuy trong lòng lo lắng, mà hai lão vẫn giả bộ bình tĩnh.
    Lão Tôn ra lệnh cho Vương Văn:
    - Tướng quân cùng thủy thủ ở lại giữ thuyền. Còn lại lão Nhất, Nhị, Tam theo chúng ta hộ tống Vương-gia được rồi.
    Chín người rảo bước hướng các đài. Càng đến gần, càng trông rõ. Trên khoảng đất rộng, bên phải một đài cao xây bằng những tấm đá hình vuông. Giữa đài tạc tượng một người ngồi rất uy nghiêm, đầu hơi giống đầu rồng. Cạnh đó một đài vuông vức cũng bằng đá. Trên đài tạc tượng một phụ nữ trang phục như các tiên trong tranh. Hai đài song song hướng về phía Nam.
    Mỹ-Linh nhận ra, nàng chỉ hai đài giảng cho Thiệu-Thái:
    - Em đọc sách Văn-lang di sử nói: Đài có tượng hình rồng đá kia là Long-Đài. Đài có tượng hình chim âu là Tiên-đài. Còn lại mười đài, gọi là Bách-tộc đài. Khi hội họp Quốc-tổ ngự trên Long-đài, Quốc-mẫu ngự trên Tiên-đài. Còn mười đài dành cho các hoàng tử.
    Thiệu-Thái ngơ ngác hỏi:
    - Bách tức một trăm. Tại sao lại chỉ có mười.
    Mỹ-Linh phì cười:
    - Thì mỗi đài dành cho mười hoàng tử.
    Càng đến gần, càng trông rõ khu lễ đài. Hai bên Long-đài, Tiên-đài đều có cờ xí bay phất phới, khói hương nghi ngút. Gần lễ đài, dăm ba trẻ mục đồng đang ngồi trên mình trâu. Chúng đưa con mắt ngơ ngác nhìn đoàn người.
    Lão Tôn ngạc nhiên:
    - Không biết ai mà đến đây hội họp, tế lễ thế kia?
    Nói rồi lão thúc mọi người rảo bước.

  5. #225
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    Mỹ-Linh chỉ cho Thanh-Mai:
    - Thím nhìn kìa! Cạnh Long-đài, Tiên-đài có đủ cờ của các triều đại tộc Việt: Cờ Văn-lang, Âu-lạc, Lĩnh-Nam. Còn mười đài Bách-tộc có cờ Đại-lý, Ngô-Việt, Lão-qua, Chiêm-thành, Chân-lạp, Xiêm-la.
    Thiệu-Thái đưa mắt nhìn các đài rồi nói:
    - Ờ kìa đài thứ nhất có cờ của Lý Nam-Đế, Bố-cái đại vương, triều Ngô, triều Đinh, triều Lê, bản triều và cả cờ Bắc-biên nữa.
    Lão Tôn vốn coi thường Thiệu-Thái, dọc đườnglão thấy hết Khai-Quốc vương đến Vương-phi, Mỹ-Linh giảng giải cho chàng. Bây giờ tự nhiên chàng nhận ra được những loại cờ, mà chính lão không rõ. Lão đâu biết rằng, tại đền thờ Quốc-tổ ở Bắc-biên có đủ thứ cờ trong lịch sử tộc Việt. Vì vậy nhác trông thấy chàng nhận ra được ngay.
    Cả đoàn đã tới khu Tương-đài. Khu Tương-đài rộng tới hơn mười mẫu. Xung quanh rào trúc thấp, có tám cửa ra vào. Bên ngoài hàng rào năm sáu đứa trẻ chăn trâu, đưa mắt nhìn đoàn người.
    Long-đài, Tiên-đài đối diện với mười đài Bách-Việt. Chính giữa có một đài nữa, theo hình vuông. Trên đài bầy lễ vật nào trâu thui, nào lợn luộc, nào gà quay, nào xôi nén, nào hoa quả. Hương khói nghi ngút. Nhưng tuyệt không một bóng người. Nhất là hai bên bàn thờ còn treo cái trống đồng với cái chuông thực lớn.
    Khai-Quốc vương vờ làm như lão Tôn, Lê sai người sắm lễ cho mình lễ Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vương trịnh trọng:
    - Đa tạ nhị vị quốc công chu đáo sắm sửa lễ cho cô gia tế tổ.
    Lời nói của Vương khiến hai lão Tôn, Lê ngẩn người ra. Vì sợ bóng sợ gió Khu-mật viện Đại-Việt. Hai lão cho rằng từ chín thiếu niên bầy ra cuộc cản đường bắt mấy trưởng lão của hai lão, cho đến cuộc thảm sát Hành-Nam, thiếu niên tấu nhạc bắt người cho đến lễ này đều do bàn tay của Khu-mật viện Việt bầy ra. Bây giờ nghe Vương cảm tạ. Hai lão ngơ ngác nhìn nhau khóc dở, mếu dở.
    Chợt động tâm cơ, lão Tôn dùng Lăng-không truyền ngữ nói với lão Lê:
    - Thôi rồi, đúng tên Long-Bồ bầy ra. Ta không chịu cho y thăm Tương-đài, lập tức y sai tên ôn con tấu nhạc để dẫn dụ ta vào đây. Nhưng tại sao y lại chuẩn bị lễ vật chu đáo, mau chóng thế này?
    - Ôi thôi, nào có khó gì. Trước khi đến đây, y đã cho bộ hạ chuẩn bị lễ vật, cờ xí. Nếu ta thuận cho y thăm Tương-đài, thì đã có lễ sẵn. Vì ta không đồng ý vào Tương-đài, y mới bầy ra tên ôn con tấu nhạc trêu ta, dụ ta vào chỗ này.
    Khai-Quốc vương thấy chuông trống treo trên hai cây cột quá cao, thì mỉm cười:
    - Hai quốc công cho treo chông trống cao thế kia, ai mà với tới thỉnh được?
    Vương dắt Vương-phi, hai cháu đến trước lễ đài quỳ gối lễ tám lễ. Vương vừa lễ, tiếng tiêu tấu bản Động-đình ca, cùng tiếng chuông trống vang rền.
    Lão Tôn kinh hãi ngơ ngác nhìn xem ai đánh trống, thỉnh chuông. Bất giác mặt lão tái đi vì giận. Chân tay lão run lẩy bẩy.
    Mỹ-Linh nhìn lên chỗ treo trống, chuông. Nàng hiểu liền, chỉ cho Thiệu-Thái:
    - Anh coi kìa, một đầu cái dùi treo lủng lẳng trước chuông trống. Cán dùi cột đính với cái chong chóng. Gió thổi chong chóng quay, khiến dùi đập vào chuông trống giống như ta gióng vậy. Nhưng không hiểu người ta làm thế nào, mà khi chú thím lên đài, dùi mới đánh vào chuông trống.
    Thiệu-Thái chỉ vào những vật treo trên cột cờ lễ đài. Đó là những ống tre, khiến gió thổi vào thành tiếng tiêu.
    Khai-Quốc vương với Vương-phi lễ xong, thì tiếng chuông tiếng trống cũng im, chỉ còn tiếng tiêu. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái lên đài. Hai người vừa quỳ gối, thì tiếng chuông trống lại vang lên, nhịp điệu không sai trật, giống như người cầm dùi thỉnh vậy.
    Hai lão Tôn, Lê đưa mắt cho ba trưởng lão bang Nhật-hồ, rồi năm người tung mình ra xung quanh tìm kiếm. Lão Nhất về phương Bắc. Lão Nhị về phương Đông. Lão Tam về phương Nam. Còn hai lão về phương Tây. Hai lão tìm kiếm một lúc, cũng không thấy một bóng người, một vết tích gì cả.
    Chán nản, hai lão trở về lễ đài.
    Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đã lễ xong. Âm nhạc chấm đứt.
    Khai-Quốc vương hỏi lão Tôn:
    - Quốc-công, chúng ta có nên thụ lộc tổ tại đây không? Hay mang về thuyền?
    Lão Tôn đổ quạu, y đáp gọn lỏn:
    - Ăn tại đây quách.
    Biết rằng mình lỡ lời, y hỏi Mỹ-Linh:
    - Công chúa! Ba thị vệ đâu rồi?
    - Ba vị chẳng tuân lệnh nhị vị quốc công đi tìm gian nhân đó ư? Vãn sinh chưa thấy họ trở về.
    Hai lão không dằn được. Lão Tôn chạy về phương Bắc. Lão Lê chạy về phương Đông. Cả hai sục xạo. Nhưng chỉ thấy cây cỏ rậm rạp, cùng tiếng chim kêu. Tuyệt không một bóng người.
    Lão Tôn vận nội lực hét lên:
    - Lão Nhất! Lão Nhị! Lão Tam ở đâu?
    Không có tiếng đáp lại. Lão trở về Tương-đài, đã thấy lão Lê ôm gối ngồi đó từ bao giờ. Lão nghiến răng:
    - Thực lạ lùng! Ba gã thị vệ đi đâu? Ai mà có bản lĩnh bắt nổi ba gã?
    Khai-Quốc để ý thấy giữa Long, Tiên đài có tấm bia khá lớn. Thiệu-Thái la lên:
    - Mỹ-Linh! Bia bằng chữ Khoa-đẩu. Mỹ-Linh đọc lên đi.
    Thực ra từ Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Mỹ-Linh cho đến Thiệu-Thái đều học văn tự Khoa-đẩu. Nhưng Thiệu-Thái sợ đọc lên, gặp những chỗ khó khăn không hiểu. Vì vậy chàng mới gọi Mỹ-Linh.
    Mỹ-Linh cất tiếng đọc:
    Bia ghi công đức Quốc-tổ Lĩnh-Nam
    Đại phàm mọi việc ở đời đều do thiên mệnh an bài. Xưa vua Đế-Minh cháu ba đời vua Thần-Nông đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh kết hôn với tiên nữ, sinh ra thái tử Lộc-Tục. Ngài phong cho con trưởng làm vua phương Bắc. Phong cho Lộc-Tục làm vua phương-Nam. Triều đại Thần-Nông phân ra Nam, Bắc từ đấy.
    Thái tử Lộc-Tục làm vua phương Nam, hiệu là Kinh-Dương. Vua Kinh-Dương kết hôn với công chúa con vua Động-đình sinh ra Quốc-tổ Lạc-Long. Quốc-tổ Lạc-Long kết hôn với công chúa Âu-Cơ sinh ra trăm hoàng tử. Lịch sử tộc Việt được hình thành kể từ đây, biệt hẳn với triều Thần-Nông.
    Vua Lạc-Long truyền các hoàng tử đi khắp nơi qui dân lập ấp:
    Hoàng tử trưởng được kế vị làm vua, đóng đô ở Phong-châu. Lại cắt đất Giao-chỉ thành chín vùng phong cho hoàng tử thứ nhì tới thứ mười. Mỗi người làm vua một vùng.
    Hoàng tử thứ mười một đến thứ hai mươi được phong vùng phía Đông, tức đất Nam-hải, đảo Hải-Nam.
    Hoàng tử thứ hai mươi mốt đến thứ ba mươi được phong vùng đất Quế-lâm thuộc Nam Ngũ-lĩnh.
    Hoàng tử thứ ba mươi mốt đến thứ bốn mươi được phong vùng đất Cửu-chân ở về Nam Giao-chỉ.
    Hoàng tử thứ bốn mươi mốt đến thứ năm mươi được phong vùng Tượng-quận ở về phía Tây Quế-lâm, Bắc Giao-chỉ.
    Hoàng-tử thứ năm mươi mốt đến thứ sáu mươi được phong vùng Nhật-Nam ở về Nam vùng Cửu-chân.
    Hoàng tử thứ sáu mươi mốt đến thứ bẩy mươi, được phong vùng Kim-biên ở về Nam Nhật-Nam, nay là vùng Phù-Nam.
    Hoàng tử thứ bẩy mươi mốt đến thứ tám mươi được phong vùng ở vùng Tây-biên nay thuộc Lão-qua.
    Hoàng tử thứ tám mươi mốt đến chín mươi được phong vùng Cực-Tây, nay thành Xiêm-la.
    Hoàng tử thứ chín mươi mốt đến một trăm được phong vùng hồ Động-đình.
    Khi các hoàng tử lên đường qui dân lập ấp, Quốc-tổ dạy rằng: Mỗi năm về cánh đồng Tương hội một lần. Từ đấy, lệ hàng năm các lạc hầu đều tề tựu về đây. Cứ mười vị ngồi trên một đài Bách-tộc, chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu trên Long-đài, Tiên-đài.
    Tộc Việt ta vốn hiếu hoà, lại có phong hoá, văn minh sớm, nên nông-tang, văn học, điển chế, luật lệ đều sớm hơn phương Bắc. Phương Bắc trải qua triều Hoàng-Đế, Nghiêu, Thuấn, Vũ rồi sang Thương, Chu. Trong khi ở Nam phương, tộc Việt ta chỉ có triều Văn-lang.
    Trong khi phương Bắc, Tần thống nhất Trung-nguyên, ở phương Nam vua Hùng thứ tám mươi tám rượu chè, dâm ô. Các Lạc-hầu tộc Việt họp nhau tôn một lạc hầu tên Thục-Phán lên làm vua, đuổi vua Hùng thứ tám mươi tám đi. Tên nước Văn-lang đổi thành Âu-lạc.
    Tần Thuỷ-Hoàng sai Đồ Thư đem năm mươi vạn quân sang đánh Âu-Lạc. Vua An-Dương sai Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung mang quân chống, giết chết Đồ Thư, diệt toàn quân Tần. Oai biết bao! Hùng biết mấy!
    Sau vua An-Dương tuổi già lầm lẫn, bị xẩy ra việc Mỵ-Châu, Trọng-Thủy mà mất nước. Trải biết bao nhục nhã. Qua biết mấy đau thương. Cho đến nay, anh hùng tộc Việt gồm một trăm sáu mươi hai vị họp nhau trên hồ Động-đình, phục hồi Lĩnh-Nam.
    Ta vâng lệnh vua Trưng tổng trấn vùng Bắc-biên, hồ Động-đình, nhân ngày lành, thăm lại Tương-đài trên cánh đồng Tương, dâng một lễ, tế liệt tổ, ghi lại công đức muôn vàn cho đời sau cùng biết.
    Niên hiệu vua Trưng
    năm thứ hai, ngày tiết lập Xuân.
    Công chúa Phật-Nguyệt soạn
    Lão Tôn chạy ra ngoài hàng rào hỏi một đứa trẻ chăn trâu:
    - Này các cháu. Các cháu ở đây từ sáng đến giờ phải không?
    - Vâng. Hôm qua cháu thấy một toán người tới đây cắt cỏ, đốn cây, lau chùi các đài thì biết ngay hôm nay có người đến lễ nên chầu chực từ sáng đến giờ.
    - Tại sao cháu chầu chực?
    - Tại vì sau khi lễ, thế nào người ta cũng cho chúng cháu ăn xôi, ăn thịt cùng bánh trái.
    - Thế từ sáng đến giờ có ai đến đây không?
    - Khi chúng cháu tới đây, đã thấy lễ vật bầy xong rồi. Còn ai bầy lễ vật cháu không biết. Ban nãy cháu thấy có anh cỡi ngựa tay cắp một người quan võ. Phía sau, một người quan võ nữa đuổi theo. Hai người vào trong Tương-đài đánh nhau.
    Một đứa khác nói:
    - Sau khi đánh với nhau có đến mười hiệp. Anh trẻ tuổi tung người bên hông cho ông quan võ. Ông quan dơ tay bắt lấy. Không hiểu sao sau đó ông ấy ngã lăn xuống ngựa. Anh kia ôm cả hai người để nằm ngang trên mình một con ngựa, rồi cỡi con ngựa khác chạy vào rừng.
    Lão Tôn bảo mấy đứa trẻ:
    - Tất cả lộc, ta cho các cháu. Các cháu vào hạ xuống chia nhau mà ăn.
    Y nói với Khai-Quốc vương:
    - Nơi này đầy bí hiểm, xin Vương-gia mau rời khỏi, chẳng nên nấn ná làm gì.
    Hai lão Tôn, Lê nhìn nhau. Cả hai dường như cùng cảm thấy đau đớn nhục nhằn. Mười cao thủ bang Nhật-hồ thuộc loại hiếm có trong võ lâm. Thế mà trên đường từ Hành-Nam đến đây bị bắt mất tích một cách kỳ lạ. Giả như nếu công khai đấu với nhau, hai lão bị thua thì không sao. Đây đến mặt mũi địch thủ ra sao, hai lão cũng không biết.
    Về tới chỗ thuyền đậu, hai lão truyền lệnh cho Vương Văn nhổ neo thực gấp. Khác với dự trù, lão Tôn đi thuyền trước, lão Lê đi thuyền sau. Vương Văn đi thuyền giữa. Bây giờ hai lão đi cùng thuyền với Vương.
    Dọc đường, mặc cho sứ đoàn nói truyện với nhau. Hai lão lầm lỳ ngồi nhìn trời, nhìn đất.
    Chiều hôm đó thuyền đi đến đoạn cuối sông Tương. Hồ Động-đình đã hiện ra xa xa. Vương Văn hỏi lão Tôn:
    - Trình quốc công, chiều neo thuyền tại bờ hồ qua đêm hay đi luôn?
    - Phiền tướng quân cho thuyền sang Kinh-châu, càng mau càng tốt. Tới Kinh-châu, nhiệm vụ tướng quân hết. Chúng tôi sẽ dùng đường bộ.
    Mỹ-Linh hỏi lão Tôn:
    - Này quốc công. Quốc công có thể ghé lại núi Tam-sơn, cho chúng tôi viếng nơi mà xưa kia Quốc-tổ, Quốc-mẫu lên đó thưởng thanh phúc trong ba năm không?
    Lão Tôn lầm lì:
    - Lão phu cũng muốn chiều Công-chúa. Đưa Công-chúa viếng di tích tổ tiên là điều lão phu hãnh diện vô cùng. Nhưng Công-chúa ơi, lão phu xin khất đến lúc Công-chúa trở về vậy. Vì xung quanh chúng ta, biết bao nguy hiểm đang chập chờn đe dọa.
    Lão Lê hỏi Khai-Quốc vương:
    - Cứ như vương gia nghĩ, ai là người chủ mưu trong vụ đe dọa anh em lão phu? Vương-gia cứ thực tâm mà trả lời. Dù gì chúng ta cũng là người Việt với nhau.
    Khai-Quốc vương nghĩ thầm:
    - Hai con quỷ này bối rối ra mặt rồi đây. Ta cũng nên trả lời thực cho hai lão biết. Như vậy mới đáng là quân tử.
    Vương ngồi ngay ngắn lại:
    - Nếu như tất cả những việc từ mấy hôm nay đều do một người chủ trương, thì người đó thế lực phải lớn lắm. Thế lực lớn nhất phải kể Lưu thái hậu, Định-vương Nguyên-Nghiễm, bang Nhật-hồ cùng các đại môn phái Thiếu-lâm, Võ-đang, Nga-mi, Hoa-sơn, Không-động.
    Vương đưa mắt nhìn Vương Văn:
    - Hai vị đang thi hành chỉ dụ của hậu, ắt không phải hậu hại hai vị rồi. Còn các đại môn phái, họ vốn quy thuận triều đình. Ai dại gì gây hấn với quan tổng chỉ huy Ngự-lâm quân cũng như thị vệ? Cuồi cùng là Định-vương với bang Nhật-hồ. Định-vương muốn hại hai vị, người chỉ việc truyền chỉ cho Tư-mã Đàm-châu, dẫn thiết kị bắt hai vị đem chặt đầu. Chứ đâu cần làm trò ú tim này? Vả Vương là người quân tử, hành sự luôn vì việc dân, việc nước, có đâu đón đường làm hại sứ đoàn? Cuối cùng chỉ còn bang Nhật-hồ, nay đổi thành bang Hoàng-Đế là đáng nghi mà thôi.
    - Lão phu nghi đám con em họ Ngô muốn hại lão phu. Vì chúng xử dụng toàn võ công Lĩnh-Nam. Chúng gây ra những vụ này, làm cho lão phu mất hết uy tín, không còn chí khí phục hồi Ngô-Việt nữa. Hồi đầu lão phu nghi Khu-mật viện Đại-Việt. Nhưng sau thấy không phải, vì nếu là người Việt nói tiếng Hoa phải ngọng, có đâu nói toàn giọng Trường-sa?
    Lão Lê nhăn mặt:
    - Thực khó nói vô cùng. Rõ ràng Vương-gia muốn thăm Tương-đài. Lập tức có thiếu niên trêu ghẹo, đưa đến bọn lão phu đổi theo, rồi tới Tương-đài. Trên Tương-đài bầy sẵn lễ vật. Việc này có thể nghĩ rằng Vương-gia ra tay.
    Khai-Quốc vương cười nhạt không trả lời.
    Mỹ-Linh đáp thay chú:
    - Chú cháu tôi đi đứng đều có hai vị bên cạnh, làm sao có thể truyền lệnh ngoài cho thủ hạ hành sự? Chẳng qua người này muốn làm cho hai vị nghi ngờ chú của tiểu nữ, làm điên đầu hai vị lên mà thôi.
    Thuyền đã đi vào hồ. Mặt hồ về mùa Đông nước trong veo. Mờ mờ bên kia có ngọn núi. Vương Văn chỉ núi nói:
    - Kia là núi Tam-sơn, nơi mà sau khi Quốc-tổ, Quốc-mẫu thành hôn rồi lên đó hưởng thanh phúc. Tương truyền, hai ngài lên vào đầu Xuân, bấy giờ chín vạn hoa Tầm-xuân nở.
    Ba chiến thuyền dàn hàng ngang lướt trên mặt hồ. Xa xa, nhấp nhô một con thuyền nhỏ, có mui che kín bập bềnh trên sóng lăn tăn.
    Thiệu-Thái chỉ thuyền nhỏ:
    - Trên thuyền kia nhất định có ngư ông đang câu cá.
    Mỹ-Linh cười:
    - Tại sao phải ngư ông mà không là ngư bà?
    Gió thoảng từ trước vọng lại tiếng đàn tranh, lẫn tiếng tiêu.
    Vương Văn góp ý:
    - Công-chúa với Thế-tử đoán sai rồi. Trên thuyền nhất định có thi nhân đang tiêu dao mây nước.
    Chiến thuyền mỗi lúc một gần con thuyền nhỏ. Càng gần nhìn càng rõ. Trên thuyền có một trung niên nam tử ngồi thả chân xuống nước. Tay ông ta ôm một cái chậu bằng đồng đựng nước. Tay kia vuốt trên thành chậu thành một thứ âm thanh vang vang kỳ lạ. Trong khoang thuyền vọng ra tiếng đàn tranh hợp tấu.
    Lão Tôn hỏi Vương Văn:
    - Vương tướng quân. Người có biết thứ đàn kia là đàn gì mà âm thanh quái gở không?
    Vương Văn kính cẩn đáp:
    - Thưa quốc công, vào thời vua Hùng thứ sáu mươi, có một người ca nữ thường phải tập ca. Nhưng vì trong nhà có mẹ già yếu, nên phải chui đầu vào chum luyện giọng. Khi luyện như vậy, tay nàng chà xát vào thành chum thành âm thanh hợp tấu. Dần dà, nàng biến phương pháp chà tay thành một thứ âm nhạc riêng. Người sau biến đổi đi, làm cái chậu bằng đồng có hai ngăn. Ngăn dưới đựng nước. Ngăn trên có những mấu lồi. Sau đó dùng tay chà, âm thanh vọng từ trong ra rất ảo diệu. Đàn đó gọi là đàn chậu. Ngày nay, đàn chậu biến thành hàng trăm loại khác nhau.
    Thủy thủ đứng đầu chiến thuyền cầm loa gọi lớn:
    - Thuyền nào kia mau tránh sang bên cạnh, bằng không bị thuyền này đụng bẹp.
    Người nghệ sĩ vẫn ôm cái chậu, tay xoay, tiếng vang càng lớn hơn. Mỗi lần y vuốt tay một cái, mọi người đều cảm thấy trong tim đau nhói, tai ù đi, trong khi chân tay múa mênh không tự chủ được. Rồi một giọng ca âm u như từ thế giới nào vọng về lọt vào tai.
    Lão Tôn than:
    - Trời ơi yêu quái. Thực là yêu quái!
    Mặc hai lão hò hét, đám thủy thủ chân tay nhảy múa cuồng lọan, miệng ca hát theo tiếng ca vọng lại.
    Lão Lê cất tiếng la lớn, làm nhiễu loạn tiếng đàn chậu kia. Quả nhiên tiếng hát cùng tiếng đàn không lọt vào tai đám thủy thủ. Chúng thở hồng hộc tỏ vẻ mệt mỏi. Vương Văn truyền chúng tiếp tục chèo.
    Chiến thuyền càng tới gần thuyền kia, người nghệ sĩ càng vuốt tay nhiều hơn, trong khi tiếng tiêu trên đỉnh cột buồm, tiếng đàn trong thuyền vọng ra thành thứ âm thanh mới. Tim mọi người như muốn nhảy khỏi lồng ngực, tai như ù đi. Từ Khai-Quốc vương cho tới Thiệu-Thái đều phải vận công mới trấn nhiếp được tâm hồn. Đám thủy thủ bỏ chèo, bỏ lái, tay ôm ngực, bịt tai lăn lộn. Ba chiến thuyền không người điều khiển quay ngang trôi theo chiều gió.
    Lão Tôn kinh hãi:
    - Khổ thực! Chuyến đi này của mình gặp toàn bọn ma quái. Làm sao bây giờ?
    Hai lão cùng vận công hướng về phía con thuyền câu cất tiếng la chống lại các âm thanh. Được một lúc, trên đỉnh vột buồm kêu mấy tiếng lốp bốp. Mấy ống tiêu vỡ tan, những mảnh bay tung trêm mặt hồ. Trung niên nam tử mỉm cười nói vọng sang:
    - Võ công Cửu-chân thực lợi hại. Ta hưu chiến một lúc.
    Tiếng đàn chậu phía trước đã ngừng. Thủy thủ đâu vào đấy. Lão Tôn ra lệnh:
    Dùng vải nhét vào lỗ tai, chèo về phía con thuyền kia cho ta.

    Hết Hồi 39

  6. #226
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669

    Anh Hùng Bắc Cương - Hồi Kết Thứ 40 : Địa Linh Nhân Kiệt

    Anh Hùng Bắc Cương

    Hồi Kết Thứ 40

    Địa Linh, Nhân Kiệt



    Địa linh, Nhân kiệt ------ -

    Ba chiến thuyền chèo thực mau. Buồm dương, gió lộng bọc buồm như một đám mây mầu nâu giữa làn nước trong xanh lăn tăn sóng gợn.

    Con thuyền nhỏ kéo buồm lên, rồi vọt về hướng Tam-sơn. Một người từ khoang thuyền chui ra dơ tay vẫy. Ai cũng nhận biết y chính là thiếu niên bắt sống lão Tứ, lão Ngũ.

    Lão Lê cười ha hả:

    - Phen này xem mi chạy đâu cho thoát tay ta.

    Lão Tôn thúc thủy thủ chèo thuyền đuổi thực gấp. Nhưng chiến thuyền chạy mau bao nhiêu, con thuyền nhỏ cũng chạy mau bấy nhiêu. Lão nghiến răng:

    - Mi có chạy đằng trời.

    Lão ra lệnh cho ba chiến thuyền bao vây thuyền nhỏ. Con thuyền nhỏ vẫn vun vút lao trước. Phút chốc đã tới gần chân núi Tam-sơn.

    Từ dưới thuyền, ba người khoan thai bước lên bờ. Họ gồm một trung niên nam tử, một nữ nhân che mặt và một thanh niên. Cả ba đến ngồi trên phiến đá. Người đàn ông xử dụng đàn chậu. Người đàn bà tấu đàn tranh. Thiếu niên cầm hai thanh kiếm cọ vào nhau, thành một thức đàn kiếm. Y vừa cọ kiếm vừa méo miệng trêu hai lão Tôn, Lê.

    Lão Tôn quát:

    - Thủy thủ chuẩn bị tác chiến. Khi thuyền vào bờ, phải bao vây bắt ba người kia ngay.

    Người đàn bà bật lên mấy tiếng đàn. Lập tức chân tay mọi người không tự chủ được, múa mayy theo. Tiếng đàn chậm, thì múa chậm. Tiếng đàn nhanh thì múa nhanh. Người đàn ông vuốt tay trên chậu. Khi y vuốt mạnh một cái, tim mọi người như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Đám thủy thủ đều ôm ngực lăn lộn.

    Ba chiến thuyền chỉ còn cách xa bờ không đầy mười trượng, vì không người điều khiển nên trôi lênh đênh.

    Lão Tôn, Lê nội công thâm hậu, nên còn chịu được tiếng đàn. Hai lão ra phía sau thuyền cầm bánh lái điều khiển. Con thuyền bắt đầu quay mũi trở vào bờ.

    Hai lão thấy Khai-Quốc vương, vương phi cùng như Vương Văn đều phải ngồi vận công chống tiếng đàn. Chỉ Thiệu-Thái, Mỹ-Linh vẫn thản nhiên như thường. Lão Tôn hỏi Mỹ-Linh:

    - Công chúa. Công chúa không hề gì ư?

    Mỹ-Linh lắc đầu:

    - Tiểu bối chỉ thấy bực bội mà thôi.

    - Phiền đại giá công chúa kéo dùm cánh buồm sang phải.

    Mỹ-Linh giả bộ:

    - Tiểu bối uống phải thuốc nhuyễn cân, chân tay vô dụng mất rồi.

    Ba người trên bờ tấu xong hai khúc nhạc, rồi thản nhiên ôm nhạc khí leo lên đỉnh núi.

    Được thoát khỏi tiếng đàn ma quái, đám thủy thủ vội vào vị trí. Thuyền ghé chân núi. Lão Tôn ra lệnh cho Vương Văn:

    - Tướng quân ở đây canh chừng, để chúng ta bắt bọn chúng.

    Hai lão nhảy lên bờ đuổi theo ba nhạc sĩ.

    Khai-Quốc vương hỏi hai cháu:

    - Hai cháu làm thế nào chống lại được tiếng đàn ma quái kia?

    Mỹ-Linh, Thiệu-Thái ngơ ngác lắc đầu. Trong khi Vương Văn cùng Thanh-Mai nhìn nhau, cả hai đều mỉm cười tinh quái. Thanh-Mai giải thích cho chồng nghe:

    - Ba nhạc công vừa rồi dùng nội lực truyền vào nhạc khí tấn công chúng ta. Trong chúng ta ai cũng bị nhập vào ba động hết. Duy Mỹ-Linh, Thiệu-Thái kẻ còn đồng trinh, người còn đồng tử. Vì vậy không bị ba động nhập tâm.

    Khai-Quốc vương lắc đầu:

    - Anh không hiểu.

    - Này nhé, trong âm nhạc có năm bậc là Cung, Thương, Dốc, Chủy, Vũ. Mỗi cung ứng với một tạng phủ. Nhạc công dùng những nốt đó đánh ra vọng vào tai. Trong y học, tai là quan của thận. Chúng ta đều thành hôn rồi, thận khí khai hoa mở cửa. Vì vậy âm thanh dễ bị ba hưởng. Còn Mỹ-Linh, Thiệu-Thái không bị ảnh hưởng, vì thận cung còn đóng.

    Mỹ-Linh chỉ lên đỉnh núi:

    - Núi Tam-sơn là đây. Mấy nghìn năm trước Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ lên thưởng Xuân. Rồi cách nay nghìn năm, khi Trưng Nhị, Hồ Đề, Lê Chân, Trần Năng đem quân đánh Trường-sa, tới hành hương di tích cũ. Sau đó một trăm sáu mươi hai anh hùng các lộ tụ tập về tuyên bố khởi nghĩa cũng vẫn tại ngọn núi này.

    Khai-Quốc vương nhìn lên đỉnh núi:

    - Thanh-Mai, các cháu. Chúng ta đi sứ chứ không phải bị tù. Hôm nay đã đến đây, mà không lên đỉnh Tam-sơn, thực uổng. Thôi lên núi thôi. Ta độ chừng hai lão Tôn, Lê đuổi theo ba người đó chẳng biết bao giờ trở lại. Những biến cố mấy hôm nay, đầu óc hai lão lộn tùng phèo, rối như mớ boòng boong. Bây giờ bị tiếng đàn ma quái kia phụ vào, e sẽ thành điên. Người bình thường điên không sao, chứ người võ công cao e nguy lắm.

    Khai-Quốc vương vẫy Thanh-Mai với hai cháu lên bờ. Phụ-Quốc bảo Thiệu-Thái:

    - Cháu nên đem hết hành lý theo.

    Thiệu-Thái định thắc mắc rằng tại sao du hành đỉnh núi một lát, mà phải mang theo hành lý. Liếc nhìn thấy Thanh-Mai nháy mắt ra hiệu, chàng vội im lặng, đỡ lấy mấy cái túi, theo cậu lên bờ.

    Gió hồ tiết Đông-chí lạnh buốt. Mỹ-Linh đứng nhìn mặt hồ lăn tăn gợn sóng than:

    - Mình đang ở hồ Động-đình. Nghìn năm trước công chúa Phật-Nguyệt cùng Quách Lãng, Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương đại phá Lưu Long, Mã Viện. Hơn hai mươi vạn quân Hán chìm tại đây. Rồi mấy năm sau Thái-hậu Hoàng Hhiều-Hoa lại phá quân Hán một lần nữa cũng tại chỗ này.

    Những gì diễn ra từ khi thuyền vào bến Tương-trung làm Mỹ-Linh suy nghĩ. Tại sao hai lão Tôn-Lê vừa từ chối việc đưa sứ đoàn thăm Tương-đài, lập tức có thiếu niên buông thuyền chọc giận hai lão, khiến hai lão phải đuổi theo, đưa đến sứ đoàn vào Tương-đài lễ tổ? Ai đã chiều lòng sứ đoàn? Tại Tương-đài, ai đã bầy lễ, hương khói sẵn sàng cho sứ đoàn? Rồi khi thuyền vào đến hồ Động-đình. Thình lình lão Tôn đổi ý không chịu đưa sứ đoàn viếng núi Tam-sơn như dự tính. Lập tức con thuyền nhỏ xuất hiện cản đường với những nhạc cụ đơn giản, nhưng phát ra âm thanh kỳ quái khiến hai lão Tôn, Lê cho đuổi theo, cuối cùng sứ đoàn lại được lên Tam-sơn?

    Nàng nghĩ thầm:

    - Nhất định chú hai làm việc này chứ không ai khác. Nhưng mình gần chú không rời nửa bước. Đâu thấy chú có hành động gì lạ. Thế thì làm sao chú có thể sai người tạo ra những truyện kia?

    Bốn người khoan thai lên đỉnh Tam-sơn. Núi Tam-sơn không cao, ít đá. Khắp sườn mọc đầy hoa Tầm-xuân. Bấy giờ tuy đang mùa Đông không hoa, chỉ còn lại thân cây đầy gai. Chim âu bay khắp mặt hồ kiếm mồi, rồi lại về đậu lên những cây trên núi.

    Đỉnh Tam-sơn là khu đất bằng phẳng, rải rác khắp nơi còn lại những bức tường đá xiêu vẹo theo thời gian. Đó là vết tích của lễ đài xây thời Lĩnh-Nam chưa bị hủy hết.

  7. #227
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    Gió hiu hiu thổi, làm quần áo bay phần phật. Khai-Quốc vương đứng trên đỉnh núi, ngắm nhìn hồ. Vương than thầm:
    - Đất tổ là đây, mà nay đã thành đất người. Biết bao giờ đòi lại được?
    Thiệu-Thái hỏi:
    - Mỹ-Linh này, mình có tới hai Quốc-tổ, Quốc-mẫu cùng lên đây thưởng hoa Xuân. Đúng không?
    - Đúng đấy! Quốc-tổ Kinh-Dương cùng công chúa con vua Động-đình. Quốc-tổ Lạc-Long cùng Quốc-mẫu Âu-Cơ. Huyền sử nói Quốc-tổ Kinh-Dương cùng Quốc-mẫu truyền ngôi cho con, rồi bay lên trời. Quốc-tổ trở thành Ngọc-Hoàng thượng đế. Quốc-mẫu trở thành Cửu-trùng thánh-mẫu hay Thượng-thiên thánh-mẫu.
    - Sự tích Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ anh đã thuộc làu. Huyền sử nói các ngài chia tay. Năm mươi con theo mẹ lên núi. Năm mươi con theo cha xuống biển. Còn trong chính sử cũng như bia đá của công chúa Phật-Nguyệt ghi các ngài phong cho một trăm con, mỗi người làm vua một vùng, sau thành Bách-Việt. Thế Quốc-tổ Kinh-Dương có bao nhiêu con?
    Mỹ-Linh biết Thiệu-Thái được nghe kể nhiều hơn là đọc trong sách. Nàng đáp:
    - Tương truyền nơi này mấy nghìn năm trước Quốc-tổ Kinh-Dương cùng công chúa con vua Động-đình thành hôn rồi lên đây hưởng phúc thanh nhàn. Sau đó sinh rất nhiều con. Tộc Việt coi Tam-sơn là đất thiêng. Trong tín ngưỡng người ta nói: Quốc-tổ bay lên trời thành Ngọc-hoàng thượng đế. Ngài có bốn Quốc-mẫu mang tên Cửu-trùng hay Thượng-Thiên thánh mẫu, Địa-tiên thánh-mẫu, Thượng-ngàn thánh-mẫu, Thủy-cung thánh-mẫu.
    Thiệu-Thái thích quá reo lên:
    - Anh biết rồi. Thượng-thiên thánh mẫu cai trị thần tiên khắp nơi. Thượng-ngàn thánh mẫu cai trị thần tiên vùng núi rừng. Thủy-cung thánh-mẫu cai trị thần tiên bốn biển cùng sông ngòi.
    - Sao anh biết?
    - Anh xem lên đồng, nghe cung văn hát chầu thánh thì biết. Sự tích này thuật trong bài chầu văn Thượng-thiên thánh mẫu.
    - Anh có nhớ không?
    - Không những nhớ, mà còn biết ca nữa.
    - Anh đọc lên một đoạn cho em nghe thử. Em chưa xem hầu bóng bao giờ.
    Thiệu-Thái định đọc, thì tiếng đàn, tiếng phách, tiếng trống hoà nhịp cùng tiếng ca vọng lại. Thiệu-Thái nhận ra đó là bản chầu văn Cửu-trùng thánh mẫu.
    Ngự cung trung, Cửu-thiên thánh vị,(1)
    Ở trên trời sửa trị bốn phương.
    Lòng chầu trong sạch như gương,
    Thần thông biến hoá, sửa sang cõi trời.
    Mặt hoa, mày liễu tốt tươi,
    Hình dung yểu điệu miệng cười như hoa.
    Lưng ong tóc phượng tay ngà.
    Áo xông hương xạ, hài hoa thêu rồng.
    Cửu-trùng ngự chín tầng mây,
    Quan cai các lộ thiên tiên thượng đình.
    Có phen chầu mặc áo xanh,
    Ngự chơi Đông-điện,đàn tranh quyển trầm.
    Áo xanh thay đổi áo hồng,
    Cõi Nam chính ngự ngai rồng đỉnh đang.
    ...
    Ngự thôi chầu mới ban ra,
    Áo thắm quạt ngà ngự tới Tây-cung. (1)
    Ghi chú
    (1) Đoạn này chúng tôi trích trong bài chầu văn Cửu-trùng thánh mẫu. Chúng tôi phiên âm theo bản chữ Nôm của viện Khảo-cổ Sài-gòn.
    Biết người tấu nhạc cùng hát là ba kỳ nhân trên thuyền ban này. Thanh-Mai vận nội lực nói lớn:
    - Đa tạ các vị đã cho nghe bản chầu văn Cửu-trùng thánh mẫu.
    Thiệu-Thái hỏi:
    - Thế tại sao người ta nói Thượng-ngàn thánh-mẫu là Hồ tiên cô? Thủy-cung thánh mẫu là đức Mẫu-Thoải tức Gia-Hưng công chúa? (2)
    Ghi chú
    (2) Hiện tại vùng trấn nhậm của công chúa Gia-hưng dọc bờ biển Quảng-đông, dân chúng còn thờ Giao-long tiên nữ, thường hầu bóng ngài, gọi ngài là Thánh-mẫu thủy cung.
    Mỹ-Linh bật cười:
    - Nguyên thời Lĩnh-Nam nữ tướng Hồ Đề tổ chức được tám đạo quân gây kinh hoàng cho Hán là Ưng, Hổ, Báo, Ngao, Phong, Hầu, Tượng. Sau khi ngài qua đời vẫn còn hiển linh, được dân chúng coi như bà mẹ chung, vì vậy người ta cho rằng ngài chính là Thánh-mẫu thượng-ngàn giáng hạ. Cũng như nhị Trưng nguyên là công chúa trên thiên cung bị đầy. Còn công chúa Gia-Hưng Trần Quốc đánh trận Nam-hải oai trấn Trung-nguyên, dân chúng huyền thọai ngài là Thủy-cung thánh-mẫu, thường gọi bằng đức mẫu Thủy. Để kiêng tên ngài người ta đọc chữ chữ thủy trệch đi thành Thoải.
    Thiệu-Thái nhắc lại:

  8. #228
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    - Quốc-tổ Kinh-Dương có bao nhiêu con?
    Mỹ-Linh gõ tay lên đầu Thiệu-Thái cười:
    - Anh xem lên đồng hoài, hẳn biết hơn em chứ?
    Thiệu-Thái ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
    - Anh nhớ ra rồi. Vua Kinh-Dương có mười hoàng tử, bốn công chúa. Đương thời ngài phong cho năm con lớn giữ năm nhiệm vụ, giới hầu bóng thường gọi là năm quan lớn. Năm vị được trao năm nhiệm vụ: Đệ-Nhất trấn trung ương hộ-dân, sau thành Quốc-tổ Lạc-Long. Đệ-Nhị thượng-ngàn cai trị vùng rừng núi. Đệ-Tam trấn quốc cầm quân. Đệ-Tứ trị thủy trấn sông ngòi, ao, biển. Đệ-Ngũ Tuần-Tranh giám sát dân chúng; công thưởng; tội phạt. Còn năm vị sau không rõ. Bốn vị công chúa là Khâm-Sai, Bạch-Hoa, Thượng-Ngàn, Thủy-Điện.
    Thanh-Mai bảo Thiệu-Thái:
    - Như vậy là thời đó nước ta coi nam cũng như nữ. Chứ không phải như Trung-quốc chỉ biết có nam, còn nữ thì bị giam trong phòng the.
    Khai-Quốc vương hỏi:
    - Thiệu-Thái có thuộc đoạn chầu văn nào nói tới hồ Động-đình không? Đoạn nào nói về vua Kinh-Dương có mười con?
    - Cháu nhớ lõm bõm mấy câu. Như nói về vua Kinh-Dương:
    Động-đình sông vắng ngã ba,
    Tối linh thượng đẳng trên tòa uy nghi,
    Đôi bên ngựa đứng voi quỳ,
    Nhơn nhơ phượng múa hạc thì chầu lên...
    ( Đức vua Bát Hải văn )
    Đoạn nói về mười hoàng tử của vua Kinh-Dương như sau:
    Vua cha Bát Hải Động-đình,
    Sinh ông Hoàng Cả anh linh ra đầu,
    Hoàng đôi vua sinh ra sau,
    Thiên hạ đảo cầu ông ngự đền vương.
    ...
    Mười ông đã được làm quan,
    Sắc lệnh Ngọc-hoàng hộ quốc tý dân.
    (Bát Hải Động-đình văn)
    Thanh-Mai cãi:
    - Đó là bài hát chầu văn nói về vua Bát Hải Động-đình chứ có phải nói về vua Kinh-Dương đâu?
    Mỹ-Linh giảng giải:
    - Thưa thím, vua Kinh-Dương còn có danh hiệu là Bát Hải Động-đình. Khác với Trung-nguyên, họ chỉ nói đến tứ hải là Đông, Tây, Nam, Bắc. Vua Kinh-Dương theo tín ngưỡng còn làm vua trên thượng giới. Mà thượng giới cũng có bốn biễn nữảa Tiếng đàn, tiếng phách lại vang lên, rồi có tiếng hát giọng chầu văn:
    Bóng trăng thanh gió vàng phơi phới,
    Động-đình hồ Bát-hải Long-vương,
    Có ông Hoàng-quận phi thường,
    Phi thăng thượng giới đẹp duyên cỡi rồng.
    (Đức Hoàng-quận văn)
    Thiệu-Thải giảng giải:
    - Đây là bài hát chầu văn nói về ông Hoàng-quận, con thứ sáu vua Kinh-Dương. Trong các ông Hoàng con vua Kinh-Dương thì ông hoàng Đệ-tam làm tướng cầm quân trấn Bắc trấn sông Trường-giang, Nam bảo vệ đất nước. Có bài hát chầu văn ca tụng thường gọi là Quan-lớn đệ tam.
    Thiệu-Thái vừa dứt thì tiếng đàn, tiếng phách, cùng giọng hát vọng lại:
    Tranh giang biên, nước nguồn lai láng,
    Đôi vầng hồng soi sáng nam linh,
    Vốn xưa thủy quốc Động-đình
    Đệ tam hoàng tử giáng sinh đền rồng.
    Đức gồm vẹn nhân, hòa, dũng lược,
    Bẩm sinh từ tư chất dung nhan,
    Có ông hoàng tử đệ tam,
    Phương phi diện mạo dung nhan tuyệt vời.
    ( Đệ tam hoàng tử văn)
    Thiệu-Thái giảng giải:
    - Bài vừa qua là bài chầu văn Quan-lớn đệ tam.
    Rồi chàng kết luận:
    - Tóm lại, nước ta xưa ở vùng này, nên hầu hết các bài chầu văn đều nói tới hồ Động-đình. Cháu xin đọc thêm vài đoạn:
    Khắp tam giới Động-đình Tứ-phủ,
    Hội công đồng văn vũ bách quan.
    Hay:
    Đại càn tứ vị vua Bà,
    Cộng-đồng thánh mẫu, tam tòa chúa Tiên.
    Rồi Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:
    - Mỹ-Linh à! Đồng bóng từ đâu mà có? Thực sự các thánh về đồng nhập vào người ta, hay chẳng qua một thứ u mê, quàng xiên?
    Mỹ-Linh chỉ thuộc những gì trong kinh sách nói, còn phán đoán, kiến giải, nàng không hơn Thiệu-Thái làm bao. Bất giác nàng đưa mắt nhìn chú, chờ một sự giải thích. Khai-Quốc vương mỉm cười, kéo vương phi ngồi trên tảng đó gần đó rồi vẫy hai cháu xuống bên cạnh. Vương bẹo má Mỹ-Linh:
    - Lớn rồi! Tập nhìn xa cho quen đi. Nào! Thử giải thích chú xem nào! Trước tiên nói về những nhân vật thường thượng đồng đã. Rồi hãy phê bình nó là thứ u mê quàng xiên hay linh thiêng? Sự thực ra sao?
    Mỹ-Linh được chú khuyến khích, nàng đáp:
    - Ngoài các vị thời vua Kinh-Dương, Lạc-Long ra, con thấy họ thường hầu các vị thánh: Thánh Tản-Viên, thánh Gióng hay Phù-Đổng thiên vương, Chử đạo-tổ. Hai vị đầu tiên là đại tôn sư khai sáng ra võ phái Tản-viên, Sài-sơn. Vị thứ ba có tính chất thần thoại là Chử đạo-tổ tức Chử Đồng-tử và công chúa Tiên-Dung. Người ta nói Chử đạo tổ bay lên trời thành Thái-Thượng lão quân.
    Khai-Quốc vương vỗ vai cháu:
    - Giỏi! Đấy là những bậc thánh trước thời Lĩnh-Nam. Còn các vị thời Lĩnh-Nam?
    - Con thấy các bà hầu đồng vua Trưng cùng Trưng-Nhị. Ngoài ra còn có công chúa Hồ Đề tức Hồ tiên-cô, cô Bơ tức ngài Hoàng Thiều-Hoa, Gia-Hưng công chúa Trần Quốc, Nghi-Hòa công chúa Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa. Cô Sáu tức Đăng-châu công chúa Đào Phương-Dung. Ông hoàng Mười tức Thiên-ưng đại tướng quân Đào Nhất-Gia tái đầu thai... Tất cả mười tám vị.
    - Đúng thế! Con thử nghĩ xem, thời Lĩnh-Nam vua Trưng có một trăm sáu mươi hai tướng. Cho đến nay, bộ lễ bản triều đã ban sắc phong cho tất cả các vị. Nhưng thực sự hiển linh tới một trăm ba mươi sáu vị. Thế tại sao lại chỉ có chưa tới hai mươi vị về đồng?
    - Con không hiểu!
    - Con không hiểu cũng phải, để chú giải thích cho. Trong các anh hùng tuẫn quốc thời vua Bà, hầu hết tự cho rằng mình đã làm tròn bổn phận với đất nước. Vì vậy anh khí hiển linh giúp dân, bảo quốc, như trường hợp Bắc-bình vương Đào Kỳ, Tể-tướng Phương-Dung, các đại-vương Nguyễn Thành-Công, Nguyễn Tam-Trinh; công chúa Trần Hồng-Nương, Trần Thanh-Nương, Trần Đạm-Nương. Cũng có nhiều vị, khi tuẫn quốc, trong lòng còn uất ức vì chưa làm trọn vẹn những gì đối với đất nước, đối với trăm họ, anh khí hết tụ nên thường nhập vào những người nào hợp với mình, để khuyên răn, để dạy dỗ dân chúng. Cũng có vị muốn trở lại dương thế, tiếp tục trợ giúp tộc Việt, nên tái đầu thai. Nói đâu xa, Di-Lặc Bồ-tát chẳng hoá sinh nhiều lần giúp tộc Việt đó ư? Ngài Vô-Ngại, ngài Sùng-Phạm, ngài Minh-Không chẳng nguyện rằng: Cho đến vô tận kiếp, nguyện đầu thai làm người Việt, giúp tộc Việt giữ nước.
    Mỹ-Linh như người từ trong đường hầm thoát ra được. Nàng hỏi:
    - Như vậy tất cả bốn công chúa thời vua Kinh-Dương đều giáng hạ làm tướng của vua Trưng! Công chúa Khâm-Sai giáng hạ làm công chúa Phùng Vĩnh-Hoa, trong giới đồng bóng gọi tắt bằng tên Cô Đệ-Tứ Khâm-Sai. Công chúa Bạch-Hoa giáng hạ làm công chúa Lê Chân. Không biết giới đồng bóng gọi tắt là cái gì... lệ thì phải (4)

  9. #229
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    Ghi chú
    (4) Theo huyền sử, công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa tổng trấn Tượng-quận (Vân-Nam). Sau khi đại phá quân Vương Bá ở Độ-khẩu. Vua Trưng truyền công chúa lui về biên giới Giao-chỉ. Vương Bá đem quân đuổi theo. Ít lâu sau, Mê-linh thất thủ. Công chúa bị Mã Viện đánh phía sau, Vương Bá ép phía trước. Ngài rút về Tây-Nam, nay thuộc Vạn-tượng (Lào), U-đon tha-ni, Nùng-Khai, Thà-bò, Chum-the, Nỏng-bùa lâm-phu (thuộc Thái-lan). Công chúa dùng voi đánh Vương Bá một trận khủng khiếp bên bờ sông Cửu-long. Bá bị thua, tâu về triều rằng công chúa có hơn vạn voi. Vì vậy đất đó có tên Vạn-tượng. Các di thần vua Trưng ẩn thân, chết ở vùng này rất nhiều. Vì vậy người Lào, Thái, Việt bị bắt đồng đông đảo hơn vùng Bắc-Việt.
    Thiệu-Thái nhắc:
    - Cô Đệ-ngũ Bắc-lệ.
    - Ừ ! Đúng rồi. Công chúa Thượng-Ngàn giáng hạ làm Quách A, trong giới đồng bóng gọi bằng Cô mười Mường. Công chúa Thủy-Điện giáng hạ làm Đinh Bạch-Nương.
    Thiệu-Thái tính nhẩm:
    - Hiện trong tín ngưỡng đồng bóng có tới mười mấy cô. Không thấy nói cô đệ nhất. Cô Đôi Thượng-Ngàn là Đàm Ngọc-Nga. Cô Bơ là Hoàng Thiều-Hoa. Cô bốn là Phùng Vĩnh-Hoa. Cô năm là Lê Chân. Cô sáu là Đào Phương-Dung. Cô bẩy là Lê-ngọc-Trinh. Cô tám là Tử-Vân. Cô chín là Lê-thị Hoa. Cô mười là Quách A.
    Bất cứ vấn đề gì Thiệu-Thái cũng thua Thanh-Mai với Mỹ-Linh. Nhưng đến vấn đề đồng bóng, y tỏ ra hiểu thấu, hiểu tường tận. Vì hơn đâu hết, Bắc-biên còn giữ được những truyền thống thời Lĩnh-Nam. Dân chúng không theo Khổng, Lão, Phật chỉ thờ kính thần linh. Mà gần như tất cả thần linh đều là anh hùng dân tộc. Chàng xem hầu bóng riết rồi thuộc làu.
    Mỹ-Linh hỏi Thiệu-Thái:
    - Người ta nói, khi bị cô Bơ bắt lính, bản thân họ hoặc gia đình có thể làm sớ, lễ tạ xin khoan miễn. Nhưng cố Sáu đã bắt là không thể nào xin được. Trong giới hầu bóng, họ giải thích ra sao?
    Thiệu-Thái đáp:
    - Các cụ giải thích như thế này: Cô Bơ tức bà Hoàng Thiều-Hoa nguyên được phong Thái-hậu. Về sau cô qui y với Tăng-giả Nan-Đà, nên tính tình cô bớt cương quyết hơn. Trong suốt cuộc đời, cô chỉ cầm quân có ba lần. Lần đầu đánh Luy-lâu. Lần thứ nhì đánh trận Trường-an. Lần thứ ba đánh trận Trường-giang, hồ Động-đình, Trường-sa, Hành-sơn. Cô không có quân sĩ trực tiếp. Quân là quân các nơi tụ về. Cô lĩnh ấn kiếm rồi chỉ huy. Cô không phải lo bắt lính. Ngược lại cô Sáu tức Đào Phương-Dung, cô chỉ huy trực tiếp đạo Giao-chỉ. Việc bổ xung quân số rất quan trọng. Cho nên cô bắt lính, thì chỉ có cách tuân mạng, chứ xin cũng vô ích.
    Thanh-Mai đã thấy nhiều người bị các cô bắt lính. Nàng hỏi:
    - Thiệu-Thái này, mợ không hiểu bằng cách gì mà biết rõ khi một người bị bắt lính do tiên, thánh nào bắt?
    - Dễ thôi! Do kinh nghiệm. Cô Bơ hay bắt con gái đẹp. Cô Sáu thì bắt cả đàn ông đàn bà, mà toàn người khỏe mạnh. Người nào bị cô Bơ bắt, tự nhiên người đờ đẫn, thích trang điểm, cử chỉ nhu nhã. Sau đó cô nhập mộng báo cho biết. Nếu chịu tỏa bóng thì thôi, bằng không tự nhiên đầu bù tóc rối. Những sợi tóc kết lại không cách gì gỡ ra được, mặt mũi bôi lem luốc, quần áo xốc xếch, bạ đâu cũng ngồi, cũng nằm. Ấy vậy mà sau khi tỏa bóng, tóc tự nhiên óng mượt, người tươi tỉnh đẹp vô cùng.
    Thanh-Mai à lên một tiếng:
    - Hồi ở Thiên-trường mợ thấy những người bị cô Sáu bắt rồi. Đầu tiên người đó cảm thấy tai ù, nghe rõ tiếng cô ra lệnh. Tuân theo, tỏa bóng không sao. Bằng không mắt trợn, gặp ai báng bổ cô đánh mắng người ấy. Đến giai đoạn đó biết phép không sao. Còn bướng không tỏa bóng, lập tức leo lên cây cao chót vót ngồi hát. Mà có leo cây thường đâu, cứ nhè cây thực lớn, người thường không thể leo, rồi lên. Đôi khi nhảy lên nóc nhà. Thảng hoặc leo lên cây cột cao, một chân đứng trên cột, một chân với hai tay còn lại múa hát mà không ngã. Một lần chú Kiệt của mợ thử bắt chước leo lên đỉnh cột dùng khinh công, một chân đứng, một chân hai tay múa, mà làm không nổi.
    Khai-Quốc vương ngửa mặt nhìn trời, nói buâng quơ:
    - Đất Việt là đất địa linh, nhân kiệt. Những năm người Hán cai trị mình họ muốn cho mình không bao giờ ngóc đầu dậy được thì phải phá khí thiêng sông núi. Một mặt họ yểm các thần, thánh. Một mặt họ vu cho là đồng bóng quàng xiên. Bàn cho phải, cũng có đến phân nửa bọn lợi dụng thần thánh, tạo ra đồng bóng nhảm nhỉ. Nhưng phân nửa đều do linh khí tụ thành. Như các cháu xem lúc chư thánh về đồng thường dùng dùi, dùng kiếm xuyên qua má, qua bụng, mà dân chúng gọi là xiên lình. Nếu người thường, chỉ cần đâm thủng da đã kêu cha gọi mẹ, máu chảy chan hòa. Đây kiếm lớn, tên dài xuyên thấu qua người. Sau khi thánh rút ra, rồi giáng, con đồng hoàn toàn không có giọt máu hay vết thương nào. Chỉ có phép tắc mới làm được như thế.
    Thình lình có tiếng tiêu vọng lại, rồi vèo một cái, ba bóng người chạy qua trước mặt. Mọi người nhìn rõ, chính là ba nhạc công đã trêu hai lão Tôn, Lê. Họ vừa vọt qua, thì hai lão Tôn, Lê thở hồng hộc đổi theo.
    Khai-Quốc vương hỏi Thiệu-Thái:
    - Cháu thử đoán xem ba nhạc công đó thuộc loại người nào?
    - Ngay từ lúc thiếu niên mới xuất hiên trên sông Tương, cháu đã nghi y là Lê Văn. Vì y thuộc phái Sài-sơn, nên mới giỏi âm nhạc đến trình độ đó. Nhất là y dùng viên chì của dây câu điểm huyệt. Trên thế gian này, chỉ mới có cậu cháu mình biết khoa này mà thôi.
    - Khá đấy! Thế ai cùng tấu nhạc với Lê Văn trên con thuyền nhỏ giữa hồ?
    - Người đàn ông tuổi khoảng gần bốn mươi. Tuy để râu tóc rối bù, nhưng khuôn mặt cực kỳ hùng tráng. Mỗi khi vuốt mạnh tay trên chậu, bàn tay y quay tròn đẹp vô cùng, giống như ra chiêu Đông-hải lưu phong. Lúc y nhảy lên bờ, rõ ràng thân pháp Đông-a. Khi y xuất hiện, cháu thấy Vương Văn với mợ nhìn nhau, cười mà không phải cười. Vậy người đó nhất định là thân nhân của mợ. Trong phái Đông-a, có sư huynh của mợ tên Trần Bảo-Dân nổi danh giỏi âm nhạc. Cháu đoán là ông. Còn người đàn bà, cũng xử dụng khinh công phái Đông-a, nhưng kiến thức cháu hủ lậu, nên không đoán ra.
    Thanh-Mai bật cười:
    - Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Thiệu-Thái đã tinh tế hơn xưa rồi. Người đàn bà đó, chính mợ cũng không biết là ai. Có thể là vợ của nhị sư huynh.
    Ba người chạy xuống đến bờ hồ, nơi cách chiến thuyền không xa. Từ trong bụi cây rậm rạp, một con thuyền xuất hiện. Ba người nhảy xuống con thuyền nhỏ. Con thuyền dương buồm chạy ra giữa hồ.
    Hai lão Tôn, Lê trở về chiến thuyền hô nhổ neo đuổi theo con thuyền nhỏ. Dường như ba người trên con thuyền nhỏ chủ tâm trêu ghẹo hai lão, nên cứ cho trôi thong thả. Tiếng đàn, tiếng trống du đương vọng trở lại như đâm vào tim hai lão. Trong lúc vội vàng, hai lão quên mất bốn người khách quan trọng.
    Thanh-Mai nhìn Khai-Quốc vương. Cả hai bật cười. Nàng nói với vương:
    - Anh trêu hai lão như vậy cũng đủ rồi. Bây giờ hai lão hóa điên, không còn bình tĩnh nữa. Chúng ta thản nhiên đi Biện-kinh.
    Thiệu-Thái chợt tỉnh ngộ:
    - Thì ra tất cả những biến chuyển từ Hành-Nam đến đây đều do cậu mợ mình tạo ra. Quái, rõ ràng mình luôn ở bên cậu, vậy làm thế nào cậu ra lệnh cho người ta trêu hai lão kia?

  10. #230
    Member
    Join Date
    27-09-2011
    Location
    Hà Nội -Việt Nam
    Posts
    1,669
    Mỹ-Linh thấy vẻ mặt ngơ ngác của Thiệu-Thái, bất giác nàng thương hại:
    - Anh chưa hiểu ư?
    - Thú thật anh cũng muốn điên đầu lên như hai lão kia. Nếu anh ở vào trường hợp hai lão chắc anh cũng hóa khùng quá.
    Khai-Quốc vương hỏi Mỹ-Linh:
    - Con có hiểu rõ không?
    Mỹ-Linh dựa đầu vào vai chú:
    - Con chỉ biết rõ từ khi gặp chị Bảo-Hòa. Chú dùng Lăng-không truyền ngữ nói với chị ấy, dặn dò nhiều điều. Chị ấy cho biết viên đầu bếp trên chiến thuyền dành cho sứ đoàn là người của phái Đông-a. Vì vậy khi xuống thuyền, chú muốn truyền lệnh gì, cứ dùng lăng không truyền ngữ dặn y. Hàng ngày y phải lên bờ mua thực phẩm. Chị Bảo-Hòa hoặc Thông-Mai sẽ đón gặp y trong chợ để nhận lệnh.
    Trời về chiều, một con thuyền từ bên phía Quân-sơn thả buồm tới gần Tam-sơn. Thanh-Mai thấy trên cánh buồm có hình con ó cực kỳ lớn. Nàng reo lên:
    - Nhị sư huynh tới đón chúng mình kìa. Thôi ta lên đường. Giờ này Lê Văn đã dụ cho hai lão đuổi theo tới Nghi-đô không chừng.
    Con thuyền cập vào chỗ mỏm đá bằng phẳng. Quả nhiên Trần Bảo-Dân đứng trên mũi thuyền, tay cầm đàn chậu vẫy:
    - Mời các vị xuống thuyền thôi.
    Thanh-Mai tung mình lên cao, tà tà đáp xuống mũi thuyền. Tiếp theo Khai-Quốc vương rồi Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Bảo-Dân thi lễ với Khai-Quốc vương:
    - Thỉnh vương gia vào.
    Y chỉ vào một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp nói với mọi người:
    - Tiện thê.
    Khoang thuyền đã bầy tiệc rượu. Bảo-Dân mời Khai-Quốc vương vào chủ vị. Y ngồi vai chủ nhân bồi tiếp. Vợ y tiếp Thanh-Mai, cuối cùng tới Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Bảo-Dân vỗ hai tay vào nhau hỏi Thanh-Mai:
    - Sư phụ cùng với Thông-Mai, Bảo-Hòa báo cho sư huynh biết trước việc sứ đoàn sang đây cả tháng. Sư huynh chờ mỏi mắt. Vì đại sư huynh bận việc quan, nên mọi việc do ta xếp đặt hết. Ta sai Thông-Mai lên đỉnh Thiên-đài bỏ quyển Lĩnh-Nam giản sử, trong đó ghi chép những chi tiết trên đường đi cho sư muội. Giữa lúc đó năm ông thiên-lôi từ Biện-kinh tới.
    Chàng lắc đầu:
    - Chúng phá quá, hơn cả bọn ta hồi xưa nhiều.
    Nghe đến năm ông thiên lôi Tôn-Đản, Tự-Mai, Thiện-Lãm, Thuận-Tông, Lê Văn mọi người đều bật cười. Thanh-Mai hỏi:
    - Chúng nó có tuân lệnh nhị sư huynh không?
    Bảo-Dân cốc lên đầu Thanh-Mai:
    - Hỏi thế mà cũng hỏi. Cầm đầu tuy là Tôn-Đản, nhưng thực sự do Tự-Mai. Khi ta nói gì, sư muội không nghe, ta còn kí vào đầu, huống hồ tên bé con Tự-Mai. Ta ra lệnh mà nó dám cãi ư? Có mà nhừ đòn, ta nấu cháo nó liền.
    Chàng bật cười:
    - Chúng ta bàn kế bắt đám trưởng lão bang Nhật-hồ. Tự-Mai xin đảm trách bắt năm tên. Lê Văn bắt năm tên. Còn Tôn Đản, Thiện-Lãm, Thuận-Tông đảm trách việc ở khu Tương-đài. Vợ chồng ta phụ trách đoạn đường trên hồ này.
    Chàng cười hô hố:
    - Bảo-Hòa, Thông-Mai bàn nên đón đường điểm huyệt bắt chín tên trúng sơ tuyển phò mã của ba châu, rồi lấy quần áo, hóa trang bắt đám trưởng lão. Thằng bé Tôn Đản rất giỏi việc quân sự. Nó đi thám thính địa hình, tìm chỗ nên xuất hiện để dụ chúng đuổi theo, sau đó gặp khúc quẹo, ra tay bắt sống.
    Mỹ-Linh hỏi:
    - Võ công bọn chúng cao lắm. E Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn cố gắng chưa chắc ngang tay, làm sao mà bắt được?
    Bảo-Dân nhăn mũi:
    - Dễ quá. Chúng chỉ cần đến gần, thình lình dùng Lĩnh-Nam chỉ điểm huyệt, bọn kia đâu có thể dở bản lĩnh ra được? Riêng lão Ngũ, Lê Văn điểm hụt, diễn ra trận đấu. Suýt nữa nó mất mạng vì Chu-sa chưởng. Cũng may Bảo-Hòa dùng Phục-ngưu thần chưởng cứu kịp. Công lực Bảo-Hòa cao thâm là thế, mà cũng phải đấu đến chiêu thứ chín mươi khiến y mệt nhừ, rồi dùng Lĩnh-Nam chỉ điểm ngã.
    Mỹ-Linh nghe mấy cậu em hành sự, nàng thích quá:
    - Việc Lê Văn bắt hai lão Tứ, Ngũ trước mặt bọn em, coi thực ngon. À, con thuyền tấu nhạc là của sư huynh chế ra hay của Lê Văn?
    - Của chung! Gắn ống trúc trên cột buồm gió thổi thành tiếng tiêu, vá da trâu trước thuyền thành trống là của ta. Còn lại, phương pháp lái thuyền cho tiếng tiêu, tiếng trống hợp với tiếng đàn, tiếng phách là tài của y. Sau khi y dụ được ba lão Nhất, Nhị, Tam đuổi tới Tương-đài. Ta với Thông-Mai, Bảo-Hòa phải khó khăn lắm mới bắt được chúng. Bản lĩnh chúng cao thâm thực. Ta bị trúng một Chu-sa chưởng suýt mất mạng. May Bảo-Hòa cho uống thuốc giải tạm thời. Bây giờ mới nhờ Thiệu-Thái trị cho.
    Thiệu-Thái lật áo Bảo-Dân lên, trên lưng y có vết tím bầm. Chàng để bàn tay vào, rồi vận công hút. Khoảng mười khắc, vết bầm tan biến đi.
    Khai-Quốc vương thấy tính tình Bảo-Dân hào sảng, không câu nệ lễ nghi. Thời bấy giờ, dù là ruột thịt, khi em gái tuổi mười ba, anh cũng không thể cầm tay. Thanh-Mai tuổi đã hai mươi, hiện là vương phi cao quý biết mấy. Thế mà y cốc tay lên đầu, bẹo tai như nàng còn năm, sáu tuổi. Y không hề dùng những tiếng vương gia, vương phi, công chúa , thế tử. Y hỏi Thanh-Mai:
    - Đố sư muội biết, rõ ràng vợ chồng ta với Lê Văn cùng xuống thuyền dụ cho hai lão Tôn, Lê đuổi theo. Tại sao chúng ta lại trở về đây đón sứ đoàn.
    - Em cũng đang định hỏi sư huynh điều đó?
    Y hỏi Khai-Quốc vương:
    - Ông em rể! À xin lỗi, vương gia. Vương gia thử đoán xem.
    Khai-Quốc vương cười:
    - Thì có gì lạ đâu, thuyền sư huynh có cửa ngách phía trước. Sư huynh với sư tỷ chui vào thuyền, rồi mở ngăn cửa đó chuồn xuống nước lặn đi. Đợi cho chiến thuyền rời khỏi, mới trồi lên. Trong khi đó phía sau, đệ tử của sư huynh cho con thuyền khác vớt sư huynh sư tỷ lên.
    Bảo-Dân dơ ngón tay trỏ lên:
    - Giỏi.
    Y hỏi Thanh-Mai:
    - Sư muội thử đoán xem, giờ này hai lão Tôn, Lê ra sao? Lê Văn dụ chúng đi đâu?
    - Nếu mưu kế do Lê Văn bầy ra, em không đoán được. Còn do anh thì em biết như em biết em vậy.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 4
    Last Post: 29-10-2012, 07:45 PM
  2. MUỐN ĂN GẮP BỎ CHO NGƯỜI GẮP QUA GẮP LẠI thái san
    By ttv2007 in forum Thơ Văn Tự Sáng Tác
    Replies: 0
    Last Post: 09-02-2012, 09:20 AM
  3. CHẾ ĐỘ TRUNG CỘNG CHẮC CHẮN SẼ SỤP ĐỔ
    By nguoibatcao in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 27-06-2011, 11:12 AM
  4. Replies: 54
    Last Post: 20-12-2010, 02:27 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •