Page 23 of 24 FirstFirst ... 13192021222324 LastLast
Results 221 to 230 of 237

Thread: THÁNG TƯ ĐEN UẤT HẬN

  1. #221
    Member philong51's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    161

    Xin đính chánh Tr/U Nguyễn Đ́nh Xanh thay v́ Ng V Xanh

    Quote Originally Posted by JNguyencali View Post
    MY FRIEND XANH - Bill Reeder in Vietnam
    http://www.thebattleofkontum.com/memories/136.html


    Câu chuyện của một Đ/Tá Phi Công Hoa Kỳ Từng bị Tù Cộng Sản

    Dịch giả Nguyễn hữu Thiện
    Thứ Bảy, 26 Tháng 2 Năm 2011

    Lời nói đầu của dịch giả Nguyễn hữu Thiện:
    Sau cuộc chiến Việt Nam, đă có nhiều huyền thoại đầy anh hùng tính viết về các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Và trong rất nhiều trường hợp, chỉ tới khi ấy, chúng ta mới giật ḿnh nhận ra những người “anh hùng” được nhắc tới lại chính là những cấp chỉ huy, những đồng đội, những thuộc cấp rất b́nh thường của ḿnh. Một trong những con người rất b́nh thường ấy vừa được vinh danh là cựu Trung-úy hoa tiêu khu trục Nguyễn Đ́nh Xanh, Phi Đoàn 530 Thái Dương, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Pleiku).
    Thời gian ấy – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, với tư cách Sĩ quan Thông Tin Báo Chí đơn vị, có nhiệm vụ báo cáo hàng tuần về tổng số phi vụ và kết quả hoạt động của đơn vị cho Pḥng Thông Tin Báo Chí – BTL/KQ , có lẽ chúng tôi đă chỉ ghi ngắn gọn trong phần tổn thất của quân bạn: “Phi Đoàn 530: một A-1 Skyraider bị pḥng không địch bắn hạ ngày 9/5/1972 tại Kontum; phi công nhảy dù và được ghi nhận mất tích”. Chấm hết!
    Nhưng với một phi công Đồng Minh xa lạ, tới đây câu chuyện của ông mới bắt đầu. Xin mời độc giả theo dơi câu chuyện cảm động ấy qua hồi kư của Đại-tá Lục Quân (hồi hưu) William S. Reeder, nguyên phi công trực thăng tấn công AH-1G Cobra, phục vụ tại Căn cứ Halloway, gần phi trường Cù Hanh, Pleiku, mới được phổ biến trên Internet. Cũng cần viết thêm, sau khi giải ngũ, ông Reeder đă trở lại trường đại học, và đạt tới học vị Tiến sĩ

    * * *

    Tôi c̣n nhớ đợt phục vụ luân phiên (tour of duty) thứ nh́ của tôi khởi đầu vào ngày 7 tháng 12 năm 1971. Lúc ấy, chương tŕnh rút quân Mỹ theo kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” của Tổng thống Nixon đang được tiến hành một cách suông sẻ. Gánh nặng trong cuộc chiến đă được chuyển giao gần hết cho Quân Lực VNCH, và quân Mỹ đă được đưa về nước với một nhịp độ chóng mặt. Giờ này nh́n lại, phải công nhận chương tŕnh Việt Nam hóa ngày ấy đă đạt kết quả tốt đẹp. Hoạt động của địch quân ở miền Nam đă giảm hẳn, và h́nh thức chiến tranh du kích của quân phiến cộng đă không c̣n hiện hữu. Thế nhưng, sự yên tĩnh ấy đă không kéo dài..

    Mùa xuân 1972, quân Cộng Sản Bắc Việt bất thần mở những cuộc tấn công vũ băo chưa từng thấy trong cuộc chiến – đợt tấn công mà người Mỹ quen gọi là “Cuộc tổng công kích mùa Phục Sinh 1972″ (1972 Easter Offensive). Đây không phải là một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng trong Nam như hồi Tết Mậu Thân 1968, mà là một chiến dịch quy mô với hàng loạt cuộc tấn công quy mô của quân CSBV băng qua vùng phi quân sự, và từ những căn cứ đóng quân trên lănh thổ Lào và Căm-bốt, với mưu đồ cắt đôi lănh thổ VNCH tại vùng Cao Nguyên, và tiến đánh Sài G̣n, thủ đô miền Nam. Kết quả, quân CSBV đă thất bại trước sức chiến đấu mănh liệt của lục quân và không quân miền Nam, với sự trợ lực tận t́nh của những đơn vị Hoa Kỳ c̣n đồn trú tại đây.
    [1972 Easter Offensive được phía Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; và từ đoạn này, người dịch sẽ sử dụng "Mùa Hè Đỏ Lửa" thay cho "Easter Offensive"]
    Cuộc tổng tấn công bắt đầu vào tháng Tư năm 1972 với các cuộc tấn công của quân chính quy Bắc Việt từ Căm-bốt tiến về hướng Sài g̣n, và băng ngang vùng phi quân sự tiến chiếm cố đô Huế. Sau cùng là mặt trận mang tính cách quyết định của chiến dịch: quân CSBV từ miền Bắc Căm-bốt và Nam Lào vượt biên giới tiến đánh vùng Tây Nguyên, với mục đích giành quyền kiểm soát dải đất Trung phần, và tiêu diệt lực lượng VNCH tại đây – giống như Việt Minh đă thực hiện, và đă thành công trong chiến tranh với Pháp vào năm 1954. Lần này, quân cộng sản đă thành công trong bước đầu, tuy nhiên sau đó họ đă không chiếm được một mục tiêu quan trọng nào. Ở phía bắc, họ chỉ tiến chiếm tới Quảng Trị, và sau đó đă bị lực lượng Nhảy Dù của VNCH đánh bại. Tại Tây Nguyên, họ chỉ chiếm được một số tiền đồn chung quanh Kontum, nhưng sau đó cũng bị đẩy lui.

    Câu chuyện tôi kể lại sau đây chính là bối cảnh của một bi kịch đời người diễn ra vào lúc ấy, với vai chính là tôi, và một phi công VNCH tên là Xanh Văn Nguyễn – hay gọi theo cách gọi của người Việt, họ luôn đứng trước tên gọi, th́ là Nguyễn Đ́nh Xanh. Vào thời gian Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi sự, tôi đang bay trực thăng tấn công AH-1G Cobra tại Căn cứ Halloway của Lục Quân Hoa Kỳ, ở gần tỉnh lỵ Pleiku. Trung-úy Nguyễn Đ́nh Xanh th́ bay khu trục cơ A-1 Skyraider ở Căn cứ Không Quân Pleiku. Chúng tôi không hề quen biết nhau, cũng chưa từng gặp gỡ bao giờ.

    Source: http://hqvnch.net/default.asp?id=1557
    Sau khi anh Xanh bị bắt, bọn VC buộc anh đứng trên đồi của căn cứ Polei Kleng dùng máy RT-10 (loại máy nhỏ bỏ trong chiếc áo lưới của phi công, chỉ có tần số Guard) liên lạc với các phi cơ đang bay trên vùng để làm mồi nhử những chiếc trực thăng bay đến cứu.
    Nhưng sau khi anh thấy 8 chiếc TT bị bắn, anh giả vờ trật té xuống đất làm găy cây ăng ten, máy liên lạc coi như vô dụng.
    Chúng tôi biết căn cứ bị tràn ngập đầy VC nhưng không thể thả bom giết đồng đội của ḿnh.
    dù có lịnh của Tướng TL QĐ.

  2. #222
    JNguyencali
    Khách
    Quote Originally Posted by philong51 View Post
    Sau khi anh Xanh bị bắt, bọn VC buộc anh đứng trên đồi của căn cứ Polei Kleng dùng máy RT-10 (loại máy nhỏ bỏ trong chiếc áo lưới của phi công, chỉ có tần số Guard) liên lạc với các phi cơ đang bay trên vùng để làm mồi nhử những chiếc trực thăng bay đến cứu.
    Nhưng sau khi anh thấy 8 chiếc TT bị bắn, anh giả vờ trật té xuống đất làm găy cây ăng ten, máy liên lạc coi như vô dụng.
    Chúng tôi biết căn cứ bị tràn ngập đầy VC nhưng không thể thả bom giết đồng đội của ḿnh.
    dù có lịnh của Tướng TL QĐ.
    Xin cám ơn Chú Philong51 - Jnguyen đă sửa lại cho đúng tên trong thread title.

    Kính,
    JN

  3. #223
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Người Bạn " Đồng Minh " Hoa Kỳ !

    Một ngày sau khi kư tắt vào bản Hiệp Định Paris 1973, John Ehrlichman, đổng lư văn pḥng của Nixon hỏi Kissinger: “Theo ông, Miền Nam Việt Nam có thể c̣n tồn tại được bao lâu nữa”, th́ được trả lời rằng: “Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn th́ được một năm rưỡi”.

    Sau khi Đà Nẳng mất ngày 30/3/1975, Kissinger than văn với Ron Nessen, phụ tá báo chí của tổng thống “Sao chúng không chết phứt cho rồi ? Đ́ều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống day dẳng hoài” (“Why don’t these people die fast. The worst thing that could happen would be for them to linger on”).

    Kissinger có tài tiên đoán thời cuộc như thừa tướng Gia Cát Khổng Minh trong pho chuyện Tam Quốc Chí ? Hay phải chăng thời điểm của sự thất thủ của cái tiền đồn chống Cộng mang tên Việt Nam Cộng Hoà đă được người Mỹ hoạch định từ trước rồi ? Nên nhớ rằng biến cố Nixon từ chức măi đến ngày 8/9/74 mới xảy ra và đă không có cái tu chính án Frank Church- Clifford- cấm hành pháp dùng quân đội Mỹ ở Dông Dương mà không có sự đồng thuận của Quốc Hội – măi đến ngày 29/6/73.

    Cuốn Hồ sơ mật dinh Độc Lập của Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L.Schecter có viết rằng:” Đầu năm 1975 vua Faisal đă bí mật đồng ư trên nguyên tắc cho chính quyền Sài G̣n vay dài hạn mấy trăm triệu USD với lăi suất thấp.

    Số tiền này được dùng để vực dậy nền kinh tế và mua thêm nhiên liệu, đạn dược cho quân đội Sài G̣n. Một cách thức khác cũng được thỏa thuận với Faisal: Saudi Arabia sẽ đứng ra bảo đảm cho Việt Nam Cộng Ḥa vay viện trợ quân sự của Mỹ để mua thêm súng đạn từ Mỹ (cho tương thích với vũ khí Mỹ đă đổ vào miền Nam trước đó).

    Đùng một cái, ngày 25/3/75, có tin vua Faisal bị người cháu ám sát chết. Nên kế hoạch đó đă bị phá sản ngay khi bắt đầu thực thi”.

    Đọc đoạn viết trên không khỏi không có thắc mắc rằng phải chăng đă có bàn tay của Hoa kỳ đằng sau vụ thảm sát ? Tội nghiệp, người ân nhân của chúng ta đă không ư thức được rằng hành động của ông ta có thể sẽ phá hỏng thời khoá biểu bàn giao cái tiền đồn của họ cho phía bên kia ?

    Trong bài viết của phu nhân tướng Lê Văn Hưng gửi cho Đặng Thị Tuyết Mai và Nguyễn Cao Kỳ Duyên nhân dịp 30 tháng 4 / 2010, có đoạn như sau:

    “…Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng . Hai vị tướng này đă ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bă bỏ đi” .

    Người bạn ” đồng minh” quả thực đă có cả một kế hoạch từ A đến Z để khai tử cái tiền đồn. Mọi những cố gắng nhằm cứu cái tiền đồn vào giờ thứ 25 của cuộc chiến đều bị phá cho hỏng để cho nó “chết phứt đi cho rồi”. Được biết rằng người Mỹ cũng đă có kế hoạch mang các phi cơ và tàu chiến rời khỏi nước. ( Mời xem bài " The Lucky Few " )

    Quang Phạm
    Nguồn : Người Việt Boston

  4. #224
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Những vần thơ Tưởng Niệm ngày Quốc Hận 30/4/1975



    Ngày Quốc Hận năm nay như năm trước,
    Vẫn là ngày Quốc Hận của năm sau!
    Nếu mọi người c̣n chung một niềm đau,
    C̣n quay quắt ôm nỗi sầu vong quốc.
    Vĩnh Liêm (Quốc Hận 2003)

    Bốn câu thơ trên của nhà thơ Vĩnh Liêm sáng tác vào dịp tưởng niệm 28 năm Quốc Hận (30/4/2003), không phải chỉ là tâm sự của riêng cá nhân tác giả mà nó phản ảnh tâm tư của người dân miền Nam nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung. Niềm đau chung nỗi sầu vong quốc đă được ghi lại bằng những vần thơ, câu văn hay ḍng nhạc. Đối với nhà thơ Lê Chân, tác giả của “Bài thơ Tháng Tư Đen”, 30/4 là ngày đoạn trường, ngày phủ màu tang trắng trên quê hương dân tộc:

    Anh ơi ! Tháng Tư đen
    Ngày ba mươi đoạn trường !
    Anh nuốt hờn tủi nhục,
    Em suối lệ trào tuôn.
    Anh ơi ! Tháng Tư đen
    Tháng Tư cơn Quốc nạn
    Trời đất cùng kinh hoàng,
    Tháng tư phủ mầu tang.
    "Tháng Tư đen không chỉ là buông súng,
    Ngày toàn dân phải trả gía"ḥa b́nh" .
    Bằng tủi nhục bằng ngàn năm tăm tối,
    Bằng đọa đày cả thế hệ tương lai ."
    Tháng Tư ôi ! Nhục h́nh
    Ngập trời cảnh điêu linh.
    Khóc thương bao Anh Hùng,
    V́ Tổ Quốc hy sinh.


    Hay nỗi đau uất hận của nhà thơ Dương Thượng Trúc được gói ghém trong bài thơ Tháng Tư Tổ Quốc Phủ Màu Tang

    Tháng tư Tổ Quốc phủ màu tang.
    Dân tộc đau thương oán hận tràn.
    Tủi phận nam nhi đời lữ thứ.
    Hướng về quê mẹ lệ chứa chan...


    Không phải chỉ riêng có Dương Thượng Trúc tác giả của bốn câu thơ trên mang nỗi sầu biệt xứ mà c̣n có Vĩnh Liêm và rất nhiều nhà thơ khác cũng đă nói lên dùm tâm trạng của hơn ba triệu thuyền nhân tỵ nạn CSVN nơi xứ người :

    Vẫn là chuyện tháng Tư buồn thảm ấy,
    Thế mà sao tôi vẫn nhớ thân thương!
    V́ tháng Tư nên tôi phải ly hương,
    Nơi đất khách ôm nỗi sầu biệt xứ.

    Chuyện bi thảm của Miền Nam bức tử,
    Là chuyện buồn của lịch sử sang trang.
    Là niềm đau uất hận đă dâng tràn,
    Là ly cách muôn đời ḍng sữa Mẹ.
    Vĩnh Liêm (Vẫn chuyện tháng tư)


    Chuyện buồn của lịch sử sang trang cũng đă được nữ sĩ Ngô Minh Hằng ghi chép lại khá đầy đủ qua bài thơ “Hỡi ai thương nhớ quê hương”:

    Hỡi ai thương nhớ quê hương
    Xin nghe tôi kể chuyện buồn tháng Tư
    Tháng Tư, trời đất mây mù
    Lệnh hàng, buông súng, thiên thu c̣n buồn!
    Nghẹn ngào, nhục tủi, đau thương
    Oan khiên máu đỏ ngập đường lui quân
    Thân người đổ xuống theo thân
    Không làn đất phủ, không lần tiễn đưa !
    Xác người bón gốc rừng thưa
    Nước tôi có một Tháng Tư kinh hoàng !
    Tháng Tư nghe lệnh đầu hàng
    Bao người thương lá cờ vàng, quyên sinh!
    Nước nguy, vị nước, quên ḿnh
    Mất thành, anh dũng cùng thành, chết theo!
    Tháng Tư khói lửa ngặt nghèo
    Vô danh quốc sử bao nhiêu anh hùng!
    Tháng Tư vợ trẻ khóc chồng
    Mẹ già chan chứa giọt hồng khóc con
    Tháng Tư đại bác nổ gịn
    Trẻ thơ chết thảm dưới cơn đạn thù
    Tháng Tư rộng cửa lao tù
    Nước tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau
    Núi rừng người nối chân nhau
    Kiếp tù lạ nhất địa cầu, thảm chưa !
    Trong tù, tù chết như mơ
    Ngoài tù, dân chết bên bờ biển đông
    Biển xanh pha đỏ máu hồng
    Rừng xanh lệ đỏ từng ḍng mồ hôi !
    Tháng Tư ai biến nước tôi
    Thành ḷ hỏa ngục thiêu người tang thương!


    Đất nước VN đă được thống nhất 36 năm. Thời gian cũng khá đủ dài để xây dựng lại quê hương sau chinh chiến điêu linh và đem lại cơm no áo ấm hạnh phúc cho muôn dân. Nhưng điều ǵ đă khiến cho hơn ba triệu người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại ưu tư trăn trở phải chọn lựa ôm mối sầu biệt xứ cách ly muôn đời ḍng sữa Mẹ VN. Bài thơ ‘Quốc hận 30 tháng 4 cuả Sao Linh được Đỗ Quân phổ nhạc cũng là một trong những câu trả lời cho câu hỏi tại sao những người mang căn cước tỵ nạn chính trị CSVN vẫn chưa trở về quê cha đất tổ:

    Anh hỏi em sao không về thăm mẹ
    Ngày ĺa đời mẹ nhắm mắt không yên
    Vắng bóng em nên mẹ chết ưu phiền
    Vầng tang trắng thiếu đưa con gái út
    Em hỏi anh v́ sao em bỏ nước?
    Tại v́ sao mẫu tử phải chia ĺa
    Tại v́ sao chồng vợ phải phân chia
    Ngàn người chết biển đông trong rừng thẳm
    Em hỏi anh hơn ba mươi năm lẻ
    Quê hương ḿnh dân chúng vẫn điêu linh
    Độc lập tự do sao dân không cơm áo
    Hiếp đáp người, đàn áp bắt dân oan
    Nào Biển Đông Nam Quan, Bản Giốc
    Sao cắt dâng Tàu cuí mặt khom lưng
    Cô gái thanh xuân nước mắt rưng rưng
    V́ manh aó bán thân ĺa cha mẹ
    Trẻ thất học lang thang trên đường phố
    Kiếm mưu sinh trong đống rác vĩa hè
    Nguời dân oan mất nhà và mất đất
    Nguời nông dân cày ruộng thiếu cơm ăn
    Tuy xa quê nhưng ḷng luôn khắc khoải
    Vui sướng ǵ khi đất nước lầm than
    30 tháng 4 anh ơi c̣n nhớ
    Ngày đau buồn cả nước quấn khăn tang
    Ba mươi tháng tư Việt Nam ngày Quốc hận
    Ngày kinh hoàng rúng động cả năm châu
    Giặc cộng xâm lăng bao nguời dân đă chết
    V́ tự do ta làm thân viễn xứ
    Em sẽ về khi quê hương bừng sáng
    Ngày tự do dân chủ sẽ không xa
    Tuổi trẻ Việt Nam kiên gan bất khuất
    Sẽ dựng lại một mùa xuân nhiệm mầu


    Nỗi ḷng đồng bào hải ngoại nghĩ về Ngày Quốc Hận 30/4 đau xót như thế ấy. Thế c̣n đồng bào quốc nội nghĩ ǵ về ngày 30/4. Bài thơ dưới đây của một công dân mới 2 tuổi đời vào năm 1975 nay đă nghĩ ǵ trong mùa tưởng niệm 36 năm quốc hận 30/4

    Tháng tư con hai tuổi
    Ba bồng con đứng nép bên đường
    Xích xe tăng rào rạo nghênh ngang
    Con bật khóc ngực ba đau nhói

    Tháng tư với mặt trời mọc ngược
    Đêm thành ngày trắng bỗng thành đen
    Gió không thổi người đi như chạy
    Hầm hố nào thành luỹ tan hoang

    Giờ cũng tháng tư
    Con gần bốn mươi tuổi
    Xích xe tăng vẫn nghiến mặt đường
    Nghe rào rạo trong đêm tăm tối
    Đường tự do nối mọi trái tim

    Bị chặt khúc đào lên lấp xuống

    Đường dân chủ vun vút dùi cui
    Ṇng súng nhắm vào từng khuôn ngực
    Chúng muốn ta đi bằng đầu gối
    Rụng hết tay chân biến thành lươn
    Chúng muốn biến ta thành đinh ốc
    Trong cỗ xe bọc thép tối om
    Chúng muốn ta sống đời thực vật
    Không biết đau la hét nói cười
    Chỉ mở mắt nằm như cá chết
    Trong nhà mồ lạnh lẽo trống không

    Tháng tư trở lại làm cai ngục
    Thay xích xiềng ổ khoá xà lim
    Thay óc năo buồng tim lá phổi
    Thay con người thành lũ cừu non
    Tháng tư đen tháng tư quỷ ám
    Cả một bầy vượn cáo nhố nhăng
    Ḱa lũ sói đến từ phương bắc
    Hú trên ngàn rớt rụng vầng trăng
    Tháng tư đó làm đời con ngạt thở
    Ba mươi sáu lần ba mươi sáu sợi dây
    Mỗi lần đến lại siết thêm một chút
    Ba già rồi ai cởi trói cho con!
    Khuất Đẩu (Tháng tư đen)


    Ngoài những vần thơ uất hận, những câu thơ châm biếm miả mai cuả ng̣i bút Bút Trẻ trong bài thơ “Tháng tư đen” là những cái bạt tai ô nhục ngàn đời không rửa sạch dành cho những kẻ bán nước buôn dân:

    Tháng tư đen như mực… Tầu
    vấy lên cả nước… một mầu tang chung

    Tháng tư đen như mặt… Hồ
    Dân Ta ngồi…rửa nỗi nhơ ngàn đời

    Tháng tư đen như…Bô Xi ( xít )
    bưng Bô cho Hán tặc…Xi đầy nhà

    Tháng tư đen như…đảng tà

    đỉnh cao ngu tối, chuyên… “chà đồ Nhôm”

    Tháng tư đen, xă hội đen
    bạo quyền…cướp trắng , dân hèn… trắng tay

    Dẫu rằng đất nước đang ch́m trong đen tối trước nạn Hán hóa, nhưng 4000 năm lịch sử hào hùng của tổ tiên đă đem lại cho ng̣i Bút Trẻ niềm tin:

    Tháng tư đen , Đuốc Tiền Nhân

    Bất Tuân Dân Sự!... toàn dân lên đường
    Tháng tư đen, Sử vẫn Xanh
    Anh Hùng Hào Kiệt !... quyết giành Giang Sơn


    Riêng đối với nhà thơ Lê Chân dù mang tâm trạng u uẩn khóc đời lưu vong:

    Ba mươi sáu năm qua,
    Tháng Tư đau từng giờ .
    Tháng Tư trong hơi thở,
    Tháng Tư gợi hồn thơ .
    Vần thơ ôm uất hận,
    Ta khóc đời lưu vong .
    Anh hùng há thua được,
    Khí tiết c̣n Non Sông .


    Tiết khí c̣n non sông c̣n, nhà thơ Lê Chân đă biến những đau thương thành xúc tác lên đường vang lời thề rửa nhục giang sơn.

    Hăy biến những đau thương,
    Thành hành động kiên cường .
    Hăy cất cao tiếng nói,
    V́ tương lai xuống đường .

    Tổ quốc Việt Nam ta
    Hăy trả lại cho ta !
    Vạn tấm ḷng tha thiết,
    Thề cứu lấy Quốc gia .

    Anh ơi ! Tháng Tư đen
    Hăy ngẩng cao cuộc đời .
    Lịch sử đang gọi mời ,
    Lịch sử chính tay người .

    Hăy viết lên anh ơi,
    Hoa Lài trang sử mới .
    Hăy thét lên anh ơi ,
    Hoa Lài réo hồn tôi .

    Anh ơi ! Nước non dơ

    Ta lấy ǵ rửa sạch ?
    Cơn cuồng phong cách mạng ,
    Ta rửa nhục giang san .


    Máu Trung Tá Long đă thấm xuống ḷng đất


    Anh ơi ! Ngày tang chung
    Thúc giục hồn Anh hùng
    Anh Hùng nơi ḷng đất
    Khí phách c̣n Núi Sông
    (bài thơ tháng tư đen)


    Và dĩ nhiên lịch sử VN sẽ lật sang trang mới huy hoàng và tươi sáng v́ ngọn lửa Diên Hồng đang bùng cháy trong ḷng dân tộc VN

    Đây quê hương bao năm dài tăm tối
    Tủi nhục ơi ! Tang tóc đến ngất trời
    Dậy ! Dậy ! Đi cách mạng khắp nơi nơi
    Hoa Lài kia là chân lư cuộc đời

    Giờ thái thú tham tàn đang thống trị,
    Cam tâm cúi đầu bán nước cầu vinh .
    Chúng hèn với giặc, ác với dân ḿnh,
    Hào kiệt ơi ! Sao anh nỡ làm thinh ?

    Hỡi những trái tim thao thức Việt Nam,
    Hỡi những trái tim khắc sâu lời nguyền .
    Hỡi những trái tim kêu gào khẩn thiết,
    Hỡi những trái tim chưa lần ngủ yên .

    Không ! Ta không van xin bạo quyền .
    Không ! Ta vươn vai phá tan xích xiềng

    Không ! Ta biến ḿnh thành ánh đuốc
    Không ! Ta thề cứu lấy Non Sông

    Lê Chân (Hào kiệt đâu ??)


    Lịch sử hào hùng của gịng giống tiên rồng rồi cũng sẽ được lập lại. Sẽ có một ngày màu tang quốc Hận 30/4 sẽ đi vào dĩ văng khi mặt trời tự do dân chủ và t́nh người chan hoà khắp nẻo đường đất nước Việt Nam. Ngày ấy tất phải đến. Không một bạo lực nào có thể cản ngăn được bánh xe lịch sử đang chuyển ḿnh theo khát vọng của toàn dân.

    Nam Dao (Adelaide)
    30/4/2011





    e-mail
    __________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng (BÁN) non sông Hồng Lạc"
    (YTKCPQ)

    "Cộng sản c̣n thống trị trên quê hương - Ta c̣n phải đấu tranh"
    Blog - MGP - VNCH - Viet.no

  5. #225
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Lon Guigoz , Hành Trang Của Người Tù Cải Tạo

    Không biết vô t́nh hay hữu ư mà trong hành trang lên đường của tôi có chiếc lon guigoz. Guigoz là lon sữa bột của nước Ḥa Lan sản xuất. Hầu hết trước năm 1975, con cái của công chức, quân nhân và gia đ́nh khá giả đều uống loại sữa này.

    Vợ tôi để dành những cái lon không để đựng những đồ gia vị gồm bột ngọt, tiêu, đường, muối, mỡ… v́ vừa nhẹ, vừa sạch và vừa kín. Khi đậy nắp lại không có con kiến nhỏ nào chui lọt.

    Trong “ba – lô”(túi sách nhà binh) đi học tập cải tạo của tôi có đến hai chiếc lon guigoz. Một cái đựng bàn chải đánh răng và kem súc miệng. C̣n cái kia đựng thuốc ngừa sốt rét, thuốc đau bụng và hai chai dầu gió. Đó là những việc mà vợ tôi lo xa..

    Ngày 27 tháng 6 năm 1975 là ngày tôi đến trường nữ Trung Học Gia Long, đường Phan Thanh Giản, Quận 3, Sài G̣n, tŕnh diện.Sau mấy tháng không làm việc ǵ nặng nhọc, khi mang ba – lô trên vai đi bộ độ mươi bước th́ tôi cảm thấy người như chùng xuống.

    Tôi thầm trách vợ tôi:”đă nói học tập có mười ngày, đem theo đồ ǵ gọn nhẹ mà sao không nghe”. Đến trường Gia Long ở hai ngày một đêm mà tôi không buồn soạn cái ba- lô, coi trong đó đựng những thứ ǵ. Tôi chỉ lấy chiếc lon guigoz đựng kem súc miệng và cái khăn mặt để sử dụng hàng ngày. Thật là tiện lợi khi dùng nó v́ nó chứa được nhiều nước.
    Ngày 29 tháng 6 năm 1975,tôi đến trại tù ở Suối Máu Biên Ḥa. Sau khi điểm danh và phân chia nhà ở xong, việc đầu tiên của tôi là xách chiếc lon guigoz đi t́m nước súc miệng. Đi một ṿng xung quanh trại mà tôi chẳng thấy có cái lu, cái khạp, hay cái thùng phi nào chứa nước sẵn.

    Chỉ có một cái giếng duy nhất để chứa nước nấu ăn. Có giếng nước mà trại lại không phát thùng múc nước. Làm sao lấy nước lên được khi độ sâu của giếng khoảng hơn mười thước. Tôi đành xách chiếc lon guigoz đi về nhà ở. Thấy ai nấy đều đem mùng ra kiếm chỗ treo lên, tôi cũng mở ba- lô lấy cái mùng “nhà binh” màu xám( loại mùng bằng vải nylon, phía trên nóc và xung quanh chân mùng có bốn sợi dây, mỗi sợi dài hơn ba thước.)

    Một ư nghĩ bỗng thoáng qua trong đầu tôi là tại sao tôi không lấy bốn sợi dây này nối lại ( " một cây làm chẳng nên non”), xong buộc vào lon guigoz mà lấy nước từ dưới giếng lên. Tôi liền thực hành ngay. Quả thật tôi đă lấy nước một cách dễ dàng, không những cho tôi mà c̣n cho những bạn tù khác.

    Đến 8 giờ 30 cùng ngày, cả nhà( gồm 44 người) ngồi lại bầu một nhà trưởng và một người phụ trách nấu ăn. Quái ác, một thằng bạn thấy tôi có sáng kiến lấy được nước từ giếng sâu lên, nó liền đề cử. Thế là cả bọn dơ tay tán thành.

    Khởi sự đi nấu vào lúc 9 giờ sáng mà măi đến 2 giờ chiều mới có cơm ăn. Độc nhất, chỉ có rau muống luộc bằng nước giếng. Nước dùng để vo gạo và rửa rau, kể cả nước để vô chảo để nấu cơm và luộc rau, cũng chỉ dùng chiếc lon guigoz lấy nước từ dưới giếng lên.

    C̣n củi để chụm là những khúc cây cao su bằng bắp chân cưa ngắn lại độ ba gang tay c̣n xanh. Làm sao nhúm lửa được mà nấu? Trại tù không phát dao cũng không phát búa, sợ tụi này dùng vật bén nhọn tấn công tụi nó.

    Tôi lại một phen đi đào lấy cọc sắt” ấp chiến lược” loại ngắn độ hơn gang tay để chẻ củi. Sau đó, đi lấy bao cát nylon để đốt cho cây củi cao su khô đi mới bắt cháy được. Thật là nhiêu khê!

    Sau khi làm bếp xong, tôi lấy một lon guigoz nước để” tắm búng”(thắm nước cho ướt ḿnh mẩy rồi lấy tay se se cho đất tróc ra, xong búng nó đi)
    Có một hôm trời mưa to. Cả bọn mừng rỡ chạy ra tắm mưa dưới những mái tôn nhà đang ở. Bỗng nhiên mưa đứt hột một cách đột ngột. Cả bọn nh́n nhau cười ngặt nghẽo v́ đầu cổ ḿnh mẩy đứa nào đứa nấy đều dính đầy bọt xà bông, trông rất thảm hại! Chiếc lon guigoz lại lần nữa giúp cho bọn tù chúng tôi rửa sạch bọt bèo xà bông.

    Có nhiều đêm tôi muốn đi ngủ sớm v́ quá mệt nhọc trong công việc nhà bếp nhưng mấy thằng ban đâu có tôi nằm yên, tụi nó thay phiên nhau tới chỗ tôi nằm để mượn chiếc lon guigoz. Đă mười giờ đêm mà tôi vẫn chưa ngủ được v́ lấy lon guigoz đi, th́ bốn sợi dây giăng mùng cũng đi theo.

    Sau hơn một tháng, vào ngày 9 tháng 7 năm 1975, chúng tôi chuyển trại bằng đường bộ từ Suối Máu xuống An Dưỡng(Biên Ḥa). Dọc đường, chiếc lon guigoz lại giúp tôi đỡ cơn khát. Ở trại mới, so với trại cũ có phần thoáng mát hơn. Cũng xử dụng nước giếng nhưng trại phát cho thùng xách nước. C̣n củi th́ trại có đưa búa cho chẻ củi. Cho nên chiếc lon guigoz lúc này dùng việc “ca cống”(là dùng ca và lon guigoz bằng nhôm nấu ăn hoặc nấu nước uống bằng than của nhà bếp)

    Ở chung trại có anh bạn tù tên là Tuấn. Anh ta có một thân h́nh lực sĩ đẹp nhất trại nhưng v́ anh ta hay bắt chuột làm thịt ăn nên cả bọn chúng tôi kêu anh ta bằng Tuấn chuột. Một đêm trăng, tôi nằm thao thức măi không ngủ được, một phần th́ nhớ nhà, một phần th́ bụng đói cồn cào.
    Tôi ngồi dậy, nh́n ra ngoài trời, dưới ánh sáng của vầng trăng tṛn, tôi thấy hai con chuột đang t́m cách tha cái lon guigoz của Tuấn Chuột. Một con chuột nằm ngửa, bốn cẳng của nó ôm chặt chiếc lon guigoz, c̣n con kia cắn đuôi con chuột nằm ngửa mà kéo đi nhưng v́ miệng hang quá nhỏ nên chúng không thể nào đem cái lon guigoz vào được.

    Ngoài ra chiếc lon guigoz cũng giúp tôi khỏi bị bệnh tê liệt một thời gian ngắn. Số là ở trại tù An Dưỡng, bọn quản lư trại giam đă cho chúng tôi ăn gạo ẩm(gạo cũ bị bể nát). Chỉ trong một tuần lễ là tất cả chúng tôi đều đi đứng không được mà phải ḅ bằng tay và hai đầu gối. Tuấn Chuột là người khỏe mạnh mà cũng bị ḅ.

    Riêng tôi, tôi vẫn đi đứng b́nh thường. Bởi trong khi đi lao động gần nhà bếp trại, tôi thấy bọn chúng vo gạo trắng,tôi liền lấy lon guigoz xin một lon đầy nước cơm vo. Măn giờ lao dộng, tôi trở về ”lán”(chỗ ngủ của tù cải tạo) để bắt đầu giờ ca cống. Tôi xin chút than nhà bếp để nấu nước cơm vo này. Nhờ có nước cơm vo( có chất vitamin B1) mà tôi không phải bị ḅ.

    Thấy tôi đi đứng b́nh thường, mấy thằng bạn nói tôi có nhiều thuốc vitamin B1 nên khám ba- lô của tôi. Đến khi lục soát xong, bọn chúng mới biết tôi chỉ có mấy viên thuốc ngừa sốt rét mà vợ tôi đă cẩn thận bỏ trong hành trang của tôi. Sau đó, Ban Quản Lư trại mới mua gạo lức về nấu cho chúng tôi ăn để khỏi bị bệnh tê liệt.

    Ở trong trại, tôi có ăn chung với một thằng bạn tên Hoa. Nhân ngày lễ của bọn chúng, chúng tôi mỗi thằng được trại ”ưu ái” phát cho một cục thịt heo bằng ngón tay cái. Chúng tôi đâu dám ăn liền mà bỏ vào lon guigoz rồi lọc nước muối đổ đầy vào lon nấu thịt cho ra nước mỡ để hai đứa ăn một tuần lễ v́ trại trừ phần ăn bảy ngày.

    Ngày 17 tháng 6 năm 1977, chúng tôi chuyển trại từ An Dưỡng đến Căn Cứ 5 Rừng Lá,thuộc Hàm Tân, Phan Thiết(trại Z30D). Thời gian ở trại này có thêm đội nữ( gồm có các chi quân nhân và các chị ở Biệt Đội Thiên Nga Cảnh Sát). Tội nghiệp! Các chị đều bị bệnh v́ chế độ ăn uống ở đây quá khắc nghiệt.

    Trong lúc này, tôi ở Đội Nhà Bếp. Hàng ngày, ngoài việc nấu cơm và luộc rau muống, tôi c̣n phải nấu một chảo nước sôi để chia cho đội nữ. Lợi dụng việc đi lại với nhà bếp, các chị đă gởi cho tôi sáu cái lon guigoz để gởi tôi nấu dùm. Đố các bạn biết trong đó đựng những ǵ? Xin thưa: đó là đậu xanh hột. Số là trong khi các chị đi thu hoạch đậu xanh, các chị đă giấu lại không nộp hết rồi bỏ vô lon guigoz đem xuống nhà bếp nhờ tôi nấu chín.

    Có lần tên cán bộ( lúc này Công An Quản Lư) nhà bếp hỏi tôi nấu cái ǵ trong đó. Tôi nói là nấu nước sôi cho đội nữ. Hắn ta thắc mắc hỏi. Tại sao anh nấu một chảo nước sôi màkhông đủ chia? Tôi giải thích rằng họ cần nước đun chín để uống thuốc. Thế là thoát nạn.

    Trong thời gian cải tạo, người tù như chúng tôi đều trải qua những cơn đói khát kinh hoàng. Chiếc lon guigoz đă nuôi sống chúng tôi trong những cơn hoạn nạn. Chiếc lon guigoz là vật bất ly thân, đă đi theo chúng tôi từ trại tù này đến trại tù khác. Chiếc lon guigoz là người bạn đường thân thiết của tôi.

    Chiếc lon guigoz cũng là h́nh ảnh, là báu vật mà suốt cuộc đời của người tù cải tạo không quên được.

    Hoàng Chương.

    le blog the Bien Xua

  6. #226
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Trường Sĩ quan Hải Quân và tôi


    Sau đây là câu chuyện 13 năm phục vụ tại trường Sĩ quan Hải Quân quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trong 16 năm quân ngũ của tôi.

    Tôi kể lại những ǵ tôi c̣n ghi trong kư ức để cùng nhau nhớ lại một thời đă qua. Cấp bậc của các sĩ quan tôi dùng là cấp bậc của thời điểm đó. Khi nhắc lại tôi dùng tên các sĩ quan để bớt chữ và gọn gàng.



    Xin bạn đọc đừng hiểu là thiếu kính trọng. Và tôi không dùng nhóm chữ “người viết bài này” để thay chữ tôi như một số tác giả hay dùng. Tôi rất mong quư độc giả đọc những ḍng này trong tinh thần khoan dung. Có thể nhiều điều tôi ghi lại không giống với nhận xét của các bậc đàn anh cũng như đối với các sĩ quan tôi đă góp phần đào tạo tại quân trường . “Mười ba năm” liên tục tại một đơn vị trong 16 năm quân ngũ! Đến đơn vị năm 1958 với cấp bậc Thiếu úy, rời đơn vị khi giải ngũ năm 1971 với cấp bậc Trung Tá.

    Tôi không biết có vị sĩ quan nào trong quân đội Việt Nam Cộng Ḥa có một lư lịch phục vụ như vậy? Đổ Tú Tài phần thứ nhất ở Huế năm 1954, tôi vào Sài G̣n vừa học cán sự Vô tuyến điện, vừa tự luyện thi Tú Tài phần hai. Xong phần hai giữa năm 1955, có thông cáo của Hải Quân Việt Nam tuyển mộ sinh viên theo học hai ngành sĩ quan tại trường Sĩ quan Hải Quân Pháp tại Brest: một ngành Pont (chữ Pháp có nghĩa là cái sàn tàu, chuyên về lái tàu) và một ngành Machine (chữ Pháp có nghĩa là máy móc, cơ khí, chuyên học về các loại máy tàu).

    Tôi ghi tên thi vào ngành cơ khí. Brest là thành phố biển ở cực tây tỉnh Finistere trông ra Đại Tây Dương. Chương tŕnh học gồm 3 năm: hai năm lư thuyết và một năm thực tập trên một chiến hạm đi ṿng quanh thế giới để các sĩ quan Hải Quân tương lai có cơ hội làm quen với thế giới quanh ḿnh. Khóa tôi, Khóa 4/Brest, xong phần lư thuyết cuối năm 1957 măn khóa với cấp Thiếu úy và văn bằng Kỹ Sư Cơ Khí Hải Quân do Bộ Hải Quân Pháp cấp. Lúc này quan hệ giữa Hải Quân Pháp và Hải Quân Việt Nam bắt đầu “cơm không lành canh không ngọt”, Hải Quân Pháp bỏ chương tŕnh thực tập trả chúng tôi về nước.

    Chúng tôi gồm Hùng, Ninh, Đẩu ngành Pont, Ích và tôi ngành Cơ khí về nước trên chuyến bay DC 6 bốn cánh quạt bay từ Paris xuống Nice, qua Teheran, Bombay rồi Sài g̣n. Tôi được đổi xuống Hải Vận Hạm Hát Giang HQ 400. Sau đó tôi được thuyên chuyển qua Hộ Tống Hạm Đống Đa HQ 03 do Trung úy Phan Phi Long làm Hạm phó. Hạm trưởng, Thiếu Tá Lâm Ngươn Tánh lúc đó là Chỉ huy trưởng Hải Lực không thường trực chiến hạm. Khi đi công tác Trung úy Phan Phi Long chỉ huy chiến hạm.

    Thời gian phục vụ Hộ Tống Hạm Đống Đa có hai công tác đáng nhớ. Thứ nhất là mang lương thực chăn màn cho tù nhân tại Côn Đảo, thứ hai là tiếp tế cho một trung đội Địa phương quân đồn trú bảo vệ đài khí tượng Hoàng Sa. Cuối năm 1957, HQ 03 được chuẩn bị đi Subic Bay, một căn cứ lớn của Hải Quân Hoa Kỳ tại Philippines sửa chữa đại kỳ. Bộ chỉ huy chiến hạm thay đổi gần hết. Đại úy Nguyễn Thanh Châu Hạm trưởng, Trung úy Nguyễn Phổ Hạm phó, Thiếu úy Trịnh Ḥa Hiệp Sĩ quan đệ tam, tôi Cơ khí trưởng.

    Gia nhập gia đ́nh Hải Quân điều làm tôi ngạc nhiên là các danh từ Hải Quân Việt Nam dùng. Các sĩ quan nhận binh chủng Hải Quân từ người Pháp đa số học trường Pháp, không nhuần nhuyễn ngôn ngữ Việt nên khi cần danh từ Việt để thay thế danh từ Pháp trong Hải Quân quư vị sĩ quan này tự phát huy sáng kiến tạo ra một số danh từ không sát nghĩa. Ngành pont họ gọi là Ngành chỉ huy. Tướng một sao Hải Quân gọi là Phó Đề Đốc, tướng Hải Quân 2 sao gọi là Đề Đốc. Trong Hải Quân Hoa Kỳ ngành Pont gọi là Line Officer, các sĩ quan chuyên môn khác gọi là Limited Duty Officers (sĩ quan các ngành chuyên nghiệp).

    Khi dịch chữ Pont của Pháp hay chữ Line Officers của Mỹ ra Sĩ quan Hải Quân Ngành Chỉ Huy các sĩ quan có nhiệm vụ xây dựng Hải Quân Việt Nam trong bước đầu trong những năm 1954, 1956 đă tạo ra một sự hiểu nhầm. Có nhiều sĩ quan ngành Pont của Hải Quân Việt Nam tưởng rằng ngành Pont mới biết chỉ huy. Cái bệnh này lây đến thượng tầng Bộ Tư Lệnh Hải Quân đến độ có lúc nhiều sĩ quan tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam nghĩ rằng chỉ có các sĩ quan ngành Pont mới có quyền chỉ huy các đơn vị hải quân kể cả các đơn vị chuyên môn. Tướng Hải Quân một hay hai sao gọi là Phó Đề Đốc và Đề Đốc lại càng khó nhịn cười hơn. Đô Đốc là tướng Hải Quân điều đó đă rơ trong binh sử Việt Nam. Nhưng Đề Đốc là một chức quan bộ binh. (Ông bác ruột của mẹ tôi là một Đề Đốc, một quan chức bộ binh của triều đ́nh Huế. Thuở nhỏ chúng tôi vẫn gọi ông một cách cung kính là “Ôn Đề”).

    Không thông thạo ngôn ngữ Việt được dùng trong binh chủng xưa, các sĩ quan Hải Quân Việt Nam đầu đàn thấy chữ Đề Đốc giống với Đô Đốc nên lấy chữ Phó Đề Đốc và Đề Đốc làm cấp bậc cho các tướng Hải Quân một sao và hai sao. Có chữ để dùng c̣n hơn không có cho nên không ai quan tâm. Và lên Bộ Tổng Tham Mưu cũng cứ thế mà dùng! Đầu năm 1958 khi HQ 03 sửa chữa đại kỳ xong chuẩn bị về nước, tôi nhận được công điện thuyên chuyển ra TTHL/HQ/NT. Tôi đến TTHL/ HQ khoảng một năm sau khi Hải Quân Pháp giao TTHL/HQ/NT cho Hải Quân Việt Nam để rút về nước sau một thời gian gần 100 năm đô hộ Việt Nam, kết thúc bằng Hiệp Định Geneva năm 1954 sau một cuộc chiến dài 9 năm đẩm máu.

    Tôi tưởng ra Nha Trang vài năm rồi đi đơn vị khác. Không ngờ tôi ở đó liền 13 năm, cho đến năm 1971 tôi đắc cử dân biểu quốc hội, đại diện Thị xă Nha Trang và giải ngủ với cấp bậc Trung Tá, tham gia việc huấn luyện 15 khóa Sĩ quan Hải Quân từ khóa 8 đến khóa 22, với tổng số 2.079 sĩ quan. Các khóa sĩ quan thay đổi sĩ số và thời gian huấn luyện tùy theo nhu cầu quốc pḥng. Ít nhất là Khóa 9 gồm 38 sinh viên sĩ quan thời gian huấn luyện 2 năm. Nhiều nhất là Khóa 19 gồm 272 sinh viên và thời gian huấn luyện 12 tháng.

    Thiếu Tá Đặng Cao Thăng, Chỉ huy trưởng bổ nhiệm tôi vào khối giảng viên của trường Sĩ quan Hải Quân. Lúc đó khóa 8 đang thụ huấn.

    Từ khóa 1 đến khóa 7 Sinh viên Sĩ quan học bằng chữ Pháp, giảng viên là Sĩ quan Hải Quân Pháp. Kể từ khóa 8 tất cả giảng viên đều là sĩ quan Hải Quân Việt Nam và Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ) quyết định dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ theo lệnh tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Hải Quân là một binh chủng chuyên môn nên khối giáng viên chúng tôi hết sức chật vật khi t́m danh từ để dịch tài liệu giáo khoa của Hải Quân Pháp. Trung úy Đặng Đ́nh Hiệp là người đă đóng góp nhiều công sức trong việc phiên dịch này. Chúng tôi đă nhờ rất nhiều vào cuốn “Danh Từ Khoa Học” của ông Hoàng Xuân Hăn. Trung úy Lê Phụng từng nói đùa “không có cuốn danh từ khoa học này th́ tụi ḿnh cùi”.


    Và cùi thật v́ chẳng lẽ thiếu danh từ cứ chêm bằng tiếng Pháp. Tuy nhiên cuốn Danh Từ Khoa Học không đủ các danh từ chuyên nghiệp nên chúng tôi phải tạo thêm ra, vừa sọan bài vừa đánh đu với chữ nghĩa. Việc thi tuyển Sinh viên Sĩ quan khóa 8 đă tạo một sự hấp dẫn hiếm có cho binh chủng Hải Quân. Các sĩ quan Hải Quân trong ban giám khảo như Đại úy Đặng Cao Thăng, Đại úy Nguyễn Xuân Sơn, Trung úy Đặng Đ́nh Hiệp, Lê Triệu Đẩu, Nguyễn Tiến Ích, Lê Phụng với bộ quân phục trắng lạ mắt, đặc biệt Trung úy Lê Phụng có dáng dấp một giáo sư đại học, nghiêm chỉnh mà không tỏ ra nghiêm khắc đă là những thỏi nam châm thu hút sinh viên thanh niên đất Thần kinh yêu mộng hải hồ, và các nữ sinh Huế biết yêu màu áo trắng. Thời gian ông Phụng làm Hiệu trưởng trường Sĩ quan Hải Quân ông đă khuyến khích truyền thống “đàn anh dạy dỗ đàn em” (tiếng Pháp: brimade) của trường Sĩ quan Hải Quân Brest.

    Đây là một truyền thống có mục đích lột cái vỏ dân sự và sự tự ái của các tân Sinh viên. Nhập trường, các tân Sinh viên phải hoàn toàn tuân phục khóa đàn anh, bắt chạy, bắt quỳ, bắt nói những câu nói vô nghĩa. Nhưng nếu chỉ có thế th́ không sao. Có khóa đàn anh lạm dụng quyền bắt đàn em làm những việc có hại cho sức khỏe như bắt đồ ăn hư thối, nằm trong thùng rỗng hai đầu rồi đá lăn tṛn, hay bắt đàn em mang bao lô nặng quá tải chạy ngoài sức chịu đựng, quấy phá không cho ngủ trong nhiều đêm liên tiếp…


    Dưới triều Trung úy Phụng ông thường làm ngơ trước các lạm dụng. Sau khi ông Phụng rời quân trường năm 1965, “brimade” đă thành truyền thống của trường Sĩ Quan Hải Quân. Sự lạm dụng vẫn tiếp tục và đă làm thiệt mạng một Sinh viên (tôi không nhớ khóa nào) vừa mới được tàu hải quân chở từ Sài g̣n ra. Sau một chuyến đi biển đầu tiên nhiều sóng, Sinh viên mệt phờ, vừa vào cổng trường đoàn Sinh viên lớ ngớ bị khóa đàn anh ḥ hét bắt mang tất cả hành trang chạy quanh trường. Sau nhiều ṿng một Sinh viên té trên sân, tim ngừng đập và sau đó tắt thở.

    Sau tai nạn này BTL/HQ chỉ thị quân trường kiểm soát chặt chẽ tṛ chơi có tính huấn luyện này để không bị lạm dụng. Tháng 8/1965 Việt cộng từ Đồng Ḅ sau lưng trường pháo kích vào khu Sinh viên Sĩ quan làm thiệt mạng 3 Sinh viên khóa 14. Ngoài ông Phụng, Đại úy Đỗ Kiểm cũng ảnh hưởng nhiều đến các sĩ quan tại quân trường. Châm ngôn của ông Kiểm là “an officer and a gentleman”, nghĩa là một sĩ quan Hải Quân c̣n là một người tao nhă thuộc tầng lớp thượng lưu. Châm ngôn này ảnh hưởng tốt đến các sĩ quan tương lai. Đóng vai một “gentleman” dù có khi gượng gạo cũng tốt hơn là một kẻ chân trần.

    Châm ngôn của ông Kiểm đă giúp cho nhiều sĩ quan Hải Quân ṭng học tại trường Sĩ quan Hải Quân Nha Trang chinh phục được nhiều thiếu nữ đẹp, có tài thuộc các gia đ́nh phong lưu tại Nha Trang. Gia đ́nh nào lại không thích một chàng rễ “gentleman” nhất là các gentlemen làm trắng xóa thành phố Nha Trang trong những ngày cuối tuần. Nguyên tắc thuyên chuyển sĩ quan của BTL/HQ là sau một thời gian phục vụ tại Sài g̣n các sĩ quan phải ra phục vụ các đơn vị xa Sài g̣n và nhiều sĩ quan các Khóa Nha Trang, cũng như các Khóa Brest đă ra phục vụ tại TTHL/HQ/NT. Nhờ đó tôi có dịp làm việc chung với hầu hết sĩ quan của Hải Quân.

    Tôi nhận thấy mỗi vị có một cung cách, một tác phong, có t́nh đồng đội và tương kính lẫn nhau. Có người sau này trở thành tướng lănh như các Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng, Đặng Cao Thăng,Vũ Đ́nh Đào, Nguyễn Hữu Chí. Ông Chí là một nhà thơ, thi sĩ Hữu Phương, rất hiền lành. Các vị Chỉ huy Trưởng mỗi người một tư cách lănh đạo,và sau thời gian ở dưới quyền chỉ huy của các ông tôi đều mến phục và quư trọng các ông. Thiếu Tá Đặng Cao Thăng b́nh dân theo lối một “gentleman” sĩ quan ai cũng nể. Đại Tá Đinh Mạnh Hùng ḥa nhă, ít nói, thân thiện một cách kín đáo. Gần ông sĩ quan cảm thấy dễ chịu.

    Đại Tá Khương Hữu Bá xuề x̣a, nhưng khi cần nghiêm khắc ông cũng nghiêm khắc. Kỳ thi ra trường Khóa 19 tháng 2/1970, tỉ số hỏng khá cao, ông cho mời tôi – lúc đó giữ nhiệm vụ Văn Hóa Vụ trưởng phụ trách việc huấn luyện – vào tŕnh diện phạt tôi 15 ngày trọng cấm v́ “không làm tṛn nhiệm vụ để sinh viên hỏng quá nhiều”. Mới nghe tôi tưởng ông nói chơi, nhưng nhận ra ngay không phải chuyện đùa. Chưa bao giờ bị phạt tôi tự hỏi không biết ông sẽ giam tôi ở đâu, trong quân trường hay gởi ra quân lao Nha Trang …

    Tôi không biết rằng sĩ quan bị phát trọng cấm không bị giam mà chỉ ghi vào quân bạ. Hồ sơ này ảnh hưởng đến việc thăng thưởng và việc chọn đi du học. Điều lạ là tôi bị phạt, nhưng không mất chức Văn Hóa Vụ trưởng và cũng không thấy pḥng nhân viên BTL/HQ ghi vào quân bạ. Không biết ông Bá dọa tôi, hay khi tŕnh về Sài g̣n BTL/HQ thấy vô lư nên không phê chuẩn h́nh phạt. Sau này, sau ngày 30/4/1975 , có một lần tôi lên Chicago, nơi gia đ́nh ông Bá định cư, định đến thăm chỉ huy trưởng cũ và nhân thể hỏi để biết sự thật th́ ông bà Bá tránh lạnh đă dời về Houston.

    Thiếu Tá Nguyễn Đức Vân là vị chỉ huy trưởng đáng nhớ nhất. Ngoài sự tận tụy với TTHL/HQ ông có một thú vui là ham mê phong thủy. Ông tin tử vi, ngày giờ tốt xấu, thích nghiên cứu thế đất. Trong văn pḥng làm việc rộng thênh thang ông gắn mốt tấm bản đồ nổi vùng tỉnh Khánh Ḥa và các hải đảo chung quanh, Ḥn Tre, Ḥn Tằm, đảo Vĩnh Nguyên … .

    Ông thường đứng trước tấm bản đồ nổi ngắm nghía như đang t́m ṭi chiêm nghiệm một cái ǵ. Thiếu tá Vương Hữu Thiều làm Chỉ huy Trưởng trong thời gian chính quyền tổng thống Ngô Đ́nh Điệm đang thịnh. Trong đơn vị chỉ có Tuyên úy Công giáo, chưa có tuyên úy các tôn giáo khác. Nhưng đến ngày Phật Đản các quân nhân theo đạo Phật (do tôi đại diện) vẫn trang trí đơn vị với nhiều giây đèn điện kéo từ đỉnh cột cờ xuống.

    Cột cờ của TTHL/HQ/NT rất cao nên đèn giăng sáng rực một vùng trông rất đẹp mắt. Nó là một thông lệ tại TT/HQ/NT trong ba ngày lễ lớn trong năm là Tết Nguyên Đán, ngày Phật Đản và ngày Chúa Giáng Sinh không ai thắc mắc cả. Vào đầu thập niên 1960 quan hệ giữa ông Diệm và Phật Giáo căng thẳng. Và việc treo cờ hay kéo đèn tại các đơn vị quân đội trong ngày Phật Đản trở thành “taboo”. Tại TTHL/HQ/NT vào ngày Phật Đản năm 1962 tôi vẫn yêu cầu ban điện kéo bốn giây đèn rực rỡ trước sân cờ. Ông Thiều không an tâm, nhưng thay v́ ra lệnh cho tôi tắt đèn, ông tự tay tắt dao điện.

    Cách hành xử “gặp thời thế, thế thời phải thế” của Thiếu Tá Thiều thật là tế nhị. Tôi buồn ông nhưng tôi cũng thầm cám ơn ông đă không dùng quyền chỉ huy trưởng ra lệnh cho tôi. Hồi Thiếu Tá Bùi Hữu Thư làm Chỉ huy Trưởng, tại quân trấn Nha Trang có dịch chia đất quân sự cho các sĩ quan, dẫn đầu là Không quân. Thấy Không quân chia khu đất sát bờ biển hai bên con đường dẫn vào phi trường dân sự và xây các biệt thự nguy nga, ông Thư quyết định chia khu đất nằm trước cư xá Hạ sĩ quan cạnh căn cứ Hải Quân Nha Trang cho sĩ quan quân trường. Chia xong, các sĩ quan đang vay tiền cất nhà th́ BTL/HQ không chấp thuận chia đất. Một phen mừng hụt.

    Ông Thư là người có ư thực hiện một một số cải tổ tại TTHL/HQ/NT, đặc biệt là cải thiện có kết quả chế độ ẫm thực cho Sinh viên Sĩ quan. Rất tiếc ông không kịp thực hiện các cải tổ khác. Ông chỉ làm Chỉ huy trưởng TTHL/HQ/NT trong 5 tháng (2/1966- 7/1966). Ông Thư và tôi c̣n có chút duyên nợ khác. Lúc ông làm Tham Mưu Phó Quân Huấn BTL/HQ là lúc tăng gia quân số Hải Quân theo chương tŕnh Việt Nam hóa.

    Ngoài việc tăng số Sinh viên Sĩ quan các khóa, TTHL/HQ/NT c̣n đảm nhận dạy căn bản điện và Anh ngữ cho các khóa sinh ngành điện tử và Radar (do Pḥng Quân Huấn BTL/HQ tuyển mộ gởi ra) trước khi gởi họ sang học trường điện tử của Hải Quân Hoa Kỳ tại Treasure Island ở California. Các thượng sĩ phụ trách huấn luyện cho tôi biết các khóa này hầu hết người Việt gốc Hoa và đa số không nói được tiếng Việt nên việc huấn luyên rất khó khăn. Tôi điện thoại ông Thư than phiền và yêu cầu đổi thành phần khóa sinh để tiện cho việc huấn luyện. Ông Thư cho biết việc này “đụng chạm” lắm và khuyên tôi không nên xen vào.

    Đại úy Dư Trí Hùng, dáng đi nghiêm trang và rất nghiêm chỉnh trong công vụ. Nhưng ngoài giờ làm việc ông là một Chỉ huy Trưởng dễ vui đùa với sĩ quan cấp dưới. Ông là sĩ quan xuất sắc nhất trong 4 khóa Sĩ Quan Hải Quân Brest, nhưng không được may mắn trong thời gian phục vụ HQ/VN. Ở quân trường lâu năm tiếp xúc với mọi tầng lớp sinh viên đủ mọi thành phần trong xă hội từ nhiều địa phương khác nhau tôi thấy Sinh viên Sĩ quan Hải Quân thật đa dạng đa tài. Cả một xă hội nhỏ với mọi tài năng. Sinh viên sĩ quan Phạm Bách Phi Khóa 16 là một họa sĩ từng vẽ bức tranh “Hội Nghị Diên Hồng ” được điêu khắc gia Nguyễn Sao thực hiện phù điêu (bas relief) gắn nơi cửa Thư viện nằm trên lối vào Bệnh Xá quân trường.

    Sau này trong Hải Quân xuất hiện những nhà thể thao nổi danh toàn quốc trong lĩnh vực bóng bàn, săn bắn dưới biển, các thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ như Nguyễn MinhThơ, Tôn Thất Phú Sĩ, Nguyễn Th́n (nhạc sĩ Trường Sa), Vơ Bảy (nhà văn Vơ Thất), Phan Lạc Tiếp, Trần Văn Tâm (nhà văn Trần Quán Niệm) … Các khóa đầu tiên trên dưới 50 Sinh viên tôi nhớ hầu hết tác phong tính t́nh cũng như khả năng học tập của mỗi Sinh viên. Sau này do nhu cầu Việt Nam hóa chiến tranh, Hải Quân cần tăng quân số từ 11.000 lên 42.000 trong ṿng 3 năm, số Sinh viên mỗi khóa có khi lên đến gần 300, tôi không thể nhớ mặt nhớ tên tất cả, ngoại trừ ba thành phần: học thật giỏi, thật kém và nhảy rào. Có một thành phần đặc biệt là lén chép bài khi làm bài thi. Thành phần này không phải đều học kém.

    Có những Sinh viên rất giỏi, nhưng muốn đổ cao đă không ngần ngại dùng tài liệu khi làm bài hay vào thi vấn đáp. Tại quân trường tôi c̣n gặp lại vài bạn cùng lớp trung học tại trường Quốc học Huế hồi 1948-1955. Bạn Tôn Thất Sanh, bạn Tôn Thất Kỳ khóa 8, bạn Nguyễn Đ́nh Điều khóa 9. Chúng tôi cùng tốt nghiệp trung học một năm. Bạn Điều vào đại học Sài g̣n học Toán; bạn Kỳ vào Không quân học bay. Sau ba bốn năm lận đận các bạn Sanh, Kỳ, Điều thi vào trường Sĩ quan Hải Quân. Trong thời gian đó tôi vào trường Sĩ quan Hải Quân Pháp rồi trở về quân trường tham gia ban giảng huấn. Trong quân trường quan hệ có tế nhị, nhưng t́nh bạn trung học chúng tôi không hề thay đổi, lúc đó cũng như cho đến hôm nay.

    Một số sĩ quan Hải Quân ra trường sau khi lăn lộn trên các đơn vị và chiến trường miền Nam và du học bổ túc tại Hoa Kỳ trở lại tham gia ban giảng huấn quân trường trong đó có bạn Điều. Và chúng tôi lại có dịp làm việc bên nhau. Nhưng sự đời không phải lúc nào cũng chỉ có mầu hồng. Khoảng năm 1968, BTL/HQ Hải Quân bổ nhiệm một sĩ quan khóa 8 làm Chỉ huy phó TTHL/HQ/NT. Ông không thâm niên tuổi lính hơn tôi, nhưng do công trạng chiến trường thăng cấp sớm ông thâm niên cấp bậc hơn tôi. Biến cố Mậu Thân tàn phá Huế, gia đ́nh ông anh tôi vào Nha Trang tạm trú. Tôi cho làm thêm một căn gác tại khu cư xá Hải Quân trên đường Lê Văn Duyệt để gia đ́nh anh tôi có chỗ tá túc.

    V́ bận rộn tôi không báo cáo xin phép ông Chỉ huy trưởng kịp lúc. Ông trưởng chưa kịp trách tôi th́ ông phó đă mời tôi vào pḥng “Chỉ huy phó” trách cứ tôi với lời lẽ không được nhă nhặn lắm. Lỗi ḿnh th́ đành vậy. Nhưng mỗi lần nghĩ đến phong cách giáo dục của xă hội Á Đông tôi nghĩ phải chi ông Phó báo cáo với ông trưởng để ông trưởng “la” tôi th́ đẹp biết mấy! Tại quân trường có nhiều Sinh viên Sĩ quan thuộc gia đ́nh có thế lực trong chính quyền, trong quân đội hay trong Hải Quân, nhưng trường Sĩ quan Hải Quân không bị mang tiếng dung dưỡng. Các Sinh viên này, trong đó có một người cháu gọi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bằng chú ruột, đều biết giữ ǵn kỷ luật và học hành nghiêm túc.

    Có không khí lành mạnh này nhờ ông Lê Phụng. Làm Hiệu trưởng trường Sĩ quan Hải Quân ông Phụng thường tuyên bố: “Ở đây không có ‘con ông cháu cha’. Anh nào có gốc mạnh mà vô kỷ luật hay không chịu học tôi sẽ tống ra khỏi trường làm thủy thủ”. Ở một quân trường khác tuyên bố kiểu “động chạm” như vậy có thể sẽ được thuyên chuyển qua đơn vị khác. Nhưng ông Phụng người nhỏ thó thư sinh, độc thân, và khí thế giang hồ từ miền biển Đại Tây Dương chưa nhụt ông không ngại phục vụ tại bất cứ nơi nào trên đất nước.

    Hơn nữa trường Sĩ quan Hải Quân đang cần ông. Ông Phụng ở đó cho đến lúc trường Vơ Bị Đà Lạt theo chương tŕnh 4 năm của trường Sĩ quan bộ binh West Point của Hoa Kỳ và -3 năm đầu - đào tạo căn bản văn hoá tŕnh độ Cử nhân Khoa học cho sĩ quan cả ba binh chủng Hải, Lục, Không quân, Bộ Tổng Tham Mưu mới chuyển ông lên trường Vơ Bị Đà Lạt. Lúc này các ông Đặng Đ́nh Hiệp, Nguyễn Tiến Ích đều bị rút lên Đà Lạt tham gia ban giảng huấn trên đó. Tôi vẫn chôn chân tại trường Sĩ quan Hải Quân và thừa hưởng cái gia tài tốt của ông Lê Phụng để lại. Thời gian Hải Quân tăng quân số ban Quân huấn lo việc huấn luyện Sĩ quan Hải Quân được tổ chức thành hai bộ phận: Quân Sự Vụ lo về kỹ luật, đời sống, lănh đạo, tác phong …

    Văn Hóa Vụ lo về đào tạo văn hóa và hành trang nghề nghiệp. Tôi giữ chức vụ Văn Hóa Vụ trưởng trong một thời gian dài cho đến năm 1971 khi giải ngũ. Từ năm 1967, tại TTHL/HQ/NT có ban cố vấn. Các sĩ quan trong ban cố vấn đều xuất thân từ trường sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ ở Annapolis. Tôi không thấy họ đề nghị một chương tŕnh ǵ đặc biệt. Chương tŕnh hai năm, 18 tháng và sau này do nhu cầu giảm xuống 12 tháng đều do Văn Hoá Vụ chúng tôi soạn thảo. Hằng tuần ông sĩ quan phụ trách cố vấn trường Sĩ Quan Hải Quân đến văn pḥng Văn Hóa Vụ nhận chương tŕnh các giờ dạy Anh Ngữ. Chương tŕnh thay đổi hằng tuần.

    Chưa bao giờ có sự đụng chạm giữa chúng tôi và cố vấn Hoa Kỳ . Công việc chính của ban cố vấn là liên lạc sắp xếp chương tŕnh thực tập cho các tân sĩ quan Hải Quân khi ra trường. Có nhiều việc tại quân trường khó quên. Mỗi khóa học Sinh viên Sĩ quan có 3 giai đoạn và có 3 kỳ thi. Mỗi kỳ thi BTL/HQ Hải Quân chỉ định một Ban giám khảo. Thời kỳ chuẩn bị 4 tháng, học về văn hóa gồm chính yếu gồm các môn Toán , Điện Lư thuyết, Thiên Văn Học, Cơ bản quân sự. Chương tŕnh Toán là một phần của chương tŕnh Toán học Đại cương. Thi đậu chính thức trở thành Sinh viên Sĩ quan Hải Quân năm thứ nhất cầu vai mang chữ alpha, hưởng lương Trung sĩ.

    Thi đổ năm thứ nhất được gắn lon chuẩn úy để tiếp tục học năm cuối cùng. Thi măn khóa đậu ra Thiếu úy Hải Quân. Hai năm sau tự động thăng Trung úy. Kỳ thi lên alpha của Khóa 13 Trung Tá Trần Văn Phấn làm chánh chủ khảo. Đề thi do tôi soạn và quay roneo sẵn để phát cho Sinh viên (hồi đó computers và printers chưa thông dụng). Hôm thi toán Trung Tá Phấn và các sĩ quan giám thị và tôi đều có mặt trong pḥng thi.

    Trong khi các Sinh viên đang cắm cúi làm bài, một Sinh viên đứng lên tŕnh với ông chánh chủ khảo: “Thưa Trung Tá đề thi bị lộ”. Ông Phấn hỏi sao anh biết. Sinh viên thưa, đêm hôm qua tôi thấy nhiều Sinh viên xúm nhau lại t́m cách giải đúng các bài toán này. Ông Phấn ra lệnh thu đề thi, và chỉ thị tôi ra đề Toán khác. Tôi trở về văn pḥng soạn đề mới tŕnh ông. Ông cho viết đề thi mới lên bảng đen, phát lại giấy thi và cuộc thi tiếp tục. Sau đó ông Đỗ Kiểm, Giám đốc Quân Huấn, phụ trách điều tra và t́m ra thủ phạm lộ đề là ông Thượng sĩ quay (roneo) đề thi. Tôi không nhớ ông thượng sĩ bị phạt như thế nào.

    Từ năm 1957 khi người Pháp giao lại TTHL/HQ/NT cho Hải Quân Việt Nam đến năm 1975, có tất cả 10 vị Chỉ huy trưởng. Tôi làm việc với 8 vị, ngoại trừ Thiếu Tá Chung Tấn Cang, Chỉ huy trưỏng đầu tiên và Đại Tá Nguyễn Thanh Châu, Chỉ huy trưởng sau cùng. Không được làm việc với ông Cang nhưng tôi có dịp tiếp cận ông qua những lần ông làm Tư lệnh Hải Quân ra thanh tra thường niên. Ông là người Tư lệnh duy nhất khi thanh tra đặt những câu hỏi có ư nghĩa và đi vào trọng tâm công tác của đơn vị. Trong thời gian ở Quốc Hội, là ủy viên trong Ủy Ban Quốc Pḥng có một lần tôi tháp tùng tướng Trần Văn Đôn, dân biểu Chủ tịch Ủy ban Quốc pḥng Hạ Nghị viện đến thăm Quân Trấn Sài g̣n – Gia định do Đô đốc Cang làm Tổng Trấn để nghe thuyết tŕnh về việc bố pḥng bảo vệ thủ đô.

    Đích thân ông Cang thuyết tŕnh và trả lời các câu hỏi. Ông đi vào vấn đề một cách cụ thể không hoa ḥe hoa sói, không tô điểm như các cuộc thuyết tŕnh khác. Sau cuộc thăm viếng ông Đôn nhận xét – và các ủy viên trong Ủy ban Quốc pḥng đều đồng ư – người dân thủ đô có thể yên tâm với một vị Tổng Trấn như vậy. Ông Lâm Ngươn Tánh khác một chút. Ông nghiêm trang và quan trọng hóa những việc nhỏ nhặt làm cho không khí thanh tra rất căng thẳng. Thí dụ, ông vào các pḥng nhỏ trong các pḥng lớn để xem có đánh số pḥng ốc đúng tiêu chuẩn của Hoa Kỳ không và dùng ngón tay quẹt trên khung cửa sổ để xem c̣n bụi không. Thấm thoắt 13 năm qua mau. Năm 1971 tôi ứng cử Dân biểu thị xă Nha Trang và đắc cử.

    Theo luật tôi giải ngũ. Trong thời gian làm thủ tục giải ngũ, tiến tŕnh thăng thưởng của quân đội vẫn tiến hành, và tôi nhận được Quyết định thăng cấp Trung Tá do Thứ trưởng bộ Quốc Pḥng Châu Kim Nhân kư trước ngày có Quyết định giải ngũ. Tôi chưa có vinh dự mang lon Trung Tá Hải Quân trên vai dù chỉ một ngày. Nh́n lại sự vắn số của Việt Nam Cộng Ḥa và Hải Quân Việt Nam tôi thấy sinh ra trong thời chiến, thanh niên bên giới tuyến nào cũng phải nhập ngũ, tôi thật sự có may mắn phục vụ Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa mà phần lớn thời gian (13/16 năm) phục vụ tại TTHL/HQ/NT. Tại đó tôi đă gặp được những người Thầy tốt, Bạn tốt và những người Học Tṛ tuyệt vời hậu sinh khả úy.

    Tôi nghiệm ra hai điều. Tinh thần binh chủng, tinh thần đồng đội, tinh thần đồng khóa, tinh thần đồng giáo, ngay cả tinh thần đồng đảng (khác với tinh thần đảng phái) là yếu tố và chất keo cần thiết nối kết con người với nhau. Nhờ tinh thần đó con người có thể cùng nhau làm việc, yêu thương nâng đỡ nhau suốt cả cuộc đời, ngay cả hy sinh cho nhau. Tinh thần đó tạo ra sức mạnh của từng tập thể. Và nếu sức mạnh của từng tập thể đó không dùng để đánh nhau, giết nhau tranh giành lợi lộc cho phe nhóm ḿnh mà hợp quần lại với nhau trong một tập thể lớn hơn là quốc gia dân tộc th́ quốc gia sẽ là một tảng xi măng cốt sắt không có sức mạnh nào phá vỡ được. Trong điều kiện đó chúng ta sợ ǵ xâm lăng bất cứ từ phương nào tới và lo ǵ đất nước Việt Nam không mở mày mở mặt với bốn biển năm châu.

    Điều thứ hai, trong một lĩnh vực nhỏ hơn, là Hải Quân đối với tương lai của đất nước Việt Nam. Trường Sĩ quan Hải Quân trông ra Thái B́nh Dương không khỏi nhắc nhỡ người sĩ quan Hải Quân thấy sự quan trọng của Hải lực và cũng không khỏi giật ḿnh khi nhớ rằng một dân tộc sống gần biển như Việt Nam, có một bờ biển dài hằng mấy ngàn cây số mà không có một lịch sử mạo hiểm trên biển cả. Cần khuyến khích tinh thần mạo hiểm và yêu biển nơi giới trẻ Việt Nam và đầu tư những ǵ cần thiết để xây dựng một hải lực hùng mạnh. Là nước nhỏ chúng ta không có khả năng tranh giành sự kiểm soát Thái B́nh Dương với Hoa Kỳ và Trung quốc.

    Nhưng chúng ta phải phóng tầm sức mạnh hải lực ra vùng Biển Đông để trước mắt là bảo vệ bờ cơi trong đó có việc thu hồi quần đảo Hoàng Sa, bảo vệ Trường Sa và kho dầu thiên nhiên dưới đáy biển nằm trong thềm lục địa nối dài hợp pháp của chúng ta. Đối với Việt Nam, Bộ Binh bảo vệ Đất, Không Quân bảo vệ vùng Trời, nhưng Hải Lực là yếu tố then chốt của an ninh quốc gia và nước mạnh dân ǵàu. Trần B́nh Nam Feb. 25, 2011

    binhnam@sbcglobal.ne t

    www.tranbinhnam.com

    (viết để Ôn Cố Tri Tân)



    Tigon copy gửi đến các anh mang màu áo Hoa Biển

    Tigon
    Last edited by Tigon; 28-04-2011 at 11:51 AM.

  7. #227
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CHỒNG TÔI

    Bà Lê Văn Hưng (Nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng)


    Ngày 21/4/1975, khi TổngThống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi c̣n nhớ rơ lời ông Thiệu nói: "Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội c̣n Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào c̣n một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ."

    Lời tuyên bố của ông Thiệu đă gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đă bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đă vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, t́m nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời,

    Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú.
    Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào.

    Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lănh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đă mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè tận cùng vực thẳm. C̣n mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta c̣n đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không ?

    Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đă bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.

    Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến ḷng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quưt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ th́ thào bảo nhau: "Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đă cao bay xa chạy, c̣n đánh đấm ǵ nữa.

    Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đă trốn đi ngoại quốc, chúng ta c̣n đánh làm ǵ." Họ c̣n hỏi nhau: "Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?" Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan ră.

    Lại có những câu hỏi: "Quân không Tướng chỉ huy th́ sao?" Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai: "Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái ǵ! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng." Lời phê b́nh của những kẻ bất măn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, th́ cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất măn ấy đă vô t́nh hay cố ư không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lănh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào.

    Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.

    Có nhiều người đă nêu lên câu hỏi với tôi: "Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?"

    Lại có người nghiêm khắc trách tôi: "Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?"

    Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lănh, hoặc c̣n ở trong tù, hoặc đă an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê b́nh ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét "theo tầm hiểu biết của họ".

    Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đă, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đă nêu lên nhiều câu hỏi đó.

    Tôi trân trọng xin những vị nào đă có những lời chỉ trích nên b́nh tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán v́...những vị Tướng Lănh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhă trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đă từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lănh, đă từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng "buông súng" rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?

    Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: "Thưa toàn thể quư vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quư vị nhận lănh chiếc mũ sĩ quan của trường Vơ Bị, quư vị c̣n nhớ sáu chữ ǵ trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quư vị trịnh trọng đội lên đầu là: "Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm." Ngày măn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quư vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc ḷng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, v́ thật t́nh tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng.

    Hai vị Tướng này đă ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bă bỏ đi.

    Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài C̣n ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong ṿng 24 tiếng đồng hồ, th́ chính lúc "kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đă hoàn tất."

    Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đă dùng t́nh cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đ̣ xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đă luôn khẳng định: "Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng."

    Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi v́ hoàn cảnh đắm ch́m của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đă trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi "ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ ḿnh kư tên đâng nước Việt Nam cho Cộng Sản." Vị Tướng Lănh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và t́nh h́nh chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu năo đă trốn hết, th́ c̣n chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai?

    Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đă không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.

    Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ khi nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đă bật oà khóc lên khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh.

    Anh em đă ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào ḷng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định đă không chịu đầu hàng. Họ đă tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời ḿnh. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và hùng thế đấy.

    Trong khi Sài G̣n bỏ ngỏ đầu hàng th́ Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đă thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đă lọt vào tay giặc Cộng.

    Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đă có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xă, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đă xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đă ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân nào đă bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy tŕ an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, ḥ hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ư đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.

    Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn c̣n liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xă Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh ṿng đai Alpha.

    Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đă điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị th́ mới hay họ chưa biết tư ǵ về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.

    ( C̣n tiếp...)

  8. #228
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    (TƯỚNG L Ê VĂN HƯNG TUẨN TIẾT)


    T́m kiếm Đại Tá an ninh, người mà đă lănh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, th́ mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đă đưa vợ con t́m đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền
    .
    Ông này cũng đă cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có tṛ. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đă biến mất. Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi
    .
    Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi ṿng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm găy đổ bất ngờ.

    Hưng ngước mắt nh́n tôi như muốn hỏi : "Có đồng ư đem con lánh nạn không?" Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, t́m sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ.Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết.

    Hưng hỏi tôi: "Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?"

    Tôi đáp: "Th́ cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản." Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi b́nh tĩnh thu xếp cho cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi.

    Bốn giờ 45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn pḥng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ơ nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch.

    Năm giờ rưỡi chiều ngày 30 tháng 4, khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh ṿng đai thị xă Cần Thơ về họp.

    Sáu giờ 30 chiều ngày 30 tháng 4, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn. Họ gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xă, yêu cầu: "Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xă. Cần Thơ sẽ nát tan, thành b́nh địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đă như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hăy v́ dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường...
    "
    Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau ḷng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đă pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ c̣n khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời: "Xin các ông yên ḷng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng." Toán người ấy ra về.

    Hưng quay sang hỏi tôi: "Em c̣n nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng v́ dân chúng mà cụ Phan đă nhún ḿnh nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đăn nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh." Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp: "Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nh́n Việt Cộng tràn vào."

    Sáu giờ 45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi t́nh h́nh các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xă đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đă cho thu băng lời lêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh.

    Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau ḷng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay v́ phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không c̣n níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đă thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.

    Bây giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn pḥng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết.

    Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh: "Hoàng, em đă hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xă Cần Thơ.

    Quắc đôi mắt sáng, Hưng nh́n tôi dằn giọng: "Em phải sống ở lại nuôi con."

    Tôi hoảng hốt: "Ḱa ḿnh, sao ḿnh đổi ư?"

    - "Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con."

    - "Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay ḿnh làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc."

    - "Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van ḿnh. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quư vinh hoa địa vị hăy đề pḥng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi ḷn, nhục nhă để nuôi con và cũng nuôi luôn ư chí để có ngày c̣n phục hận cho đất nước chúng ta."

    - "Nếu v́ con, ḿnh thương con, sao ḿnh không đi ngoại quốc?" Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nh́n tôi trách móc: "Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?"

    Biết ḿnh vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi: "Xin ḿnh tha thứ. Chẳng qua v́ quá thương ḿnh nên em mới nói thế."

    Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh: "Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ t́m sống riêng ḿnh sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ th́ rút cũng không kịp nữa, v́ vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực th́ không cầm cự được lâu. Đă muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, th́ gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào."

    Tôi phát run lên hỏi: "Nhưng ḿnh ơi, c̣n em? em phải làm ǵ trong lúc này?"

    Nắm chặt tay tôi, Hưng nói: "Vợ chồng t́nh nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ư chí ḱnh ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhă để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. V́ anh, v́ con, v́ nợ nước, t́nh nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van ḿnh, anh van ḿnh."

    Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy: "Vâng, em xin nghe lời ḿnh." Hưng sợ tôi đổi ư, tiếp lời thúc giục: "Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi." "Em xin hứa. Em xin hứa ḿnh ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo ḿnh chứ?" Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ư, và ra lệnh cho tôi: "Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh."

    Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc pḥng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói: "Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ ḿnh hăy giữ nó." Chúng tôi nh́n nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi: "Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên." Khi mẹ tôi và các con lên văn pḥng, Hưng nói rơ cho mẹ tôi hiểu v́ sao người phải chết và tôi phải sống.

    Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ c̣n tụ họp dưới nhà lên văn pḥng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau.

    Hưng dơng dạc nói: "Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đă biết, cuộc hành quân chưa chi đă bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là v́ dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa băi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đă từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng ḷng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, th́ phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hăy về với gia đ́nh, vợ con. Nhớ rơ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ h́nh thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh."

    Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm: "Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả." Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài.

    Không ai chịu đi. Hưng phải sô từng người ra cửa. Tôi van xin: "Ḿnh cho em ở lại chứng kiến ḿnh chết." Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn pḥng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa: "Nghĩa trở lại với tôi." Tôi bảo Giêng t́m dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi.

    Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đă chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách ḿnh nhường tôi chạy vào pḥng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rảy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi: "Ḿnh, ḿnh ơi! Ḿnh c̣n lời ǵ dặn ḍ em nữa không?" Hưng không c̣n trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở: "Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!" Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng.

    Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc: "Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!"

    ( Con` tiep' ...)

  9. #229
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CHỒNG TÔI

    Bà Lê Văn Hưng
    (Nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng)

    ____________________ _________________
    (Tiếp Theo)

    Tôi bảo Giêng: "Nói Ḥa đưa Hải, Hà, Quốc lên nh́n xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng."

    Tôi đi t́m đầu đạn và đuôi đạn. C̣n khẩu súng, lạ lùng thay không biết khẩu súng ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ư chí cuối cùng, người c̣n b́nh tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc dộng, quên lời hứa, tự sát theo.

    Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tṛn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.

    ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN

    Đại tá Hồ Ngọc Cẩn tử thủ Chương Thiện, không đầu hàng, bị Việt Cộng xữ bắn tại Cần Thơ ngày 14-08-1975

    Nghĩa điện thoại khắp nơi t́m Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vă mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta.

    Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang.

    Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: "Alô, Alô, ai đây?" "Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây."

    Tôi bàng hoàng: "Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?"

    Tôi cố gắng giữ giọng nói cho b́nh thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm.

    Cẩn hỏi: "Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút."

    Tôi lúng túng vài giây: "Ông đang điều động quân ngoài kia."

    - "Chị chạy ra tŕnh Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?"

    - "Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé." Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực.

    Mím môi, nh́n xác Hưng rồi nh́n sang Nghĩa tôi hỏi: "Đại Tá Cẩn đ̣i gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?"

    Nghĩa lúng túng: "Cô nói Thiếu Tướng chết rồi."

    - "Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng."

    Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng.

    Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt: "Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần ǵ cứ nói. T́nh h́nh ở Chương Thiện ra sao? Anh c̣n đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?"

    - "Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng c̣n giữ y lịnh không?"

    - "Cẩn vui ḷng chờ chút." Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu văn t́nh thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng.

    Tôi quyết định: "Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?"

    Cẩn đáp thật nhanh; "Lúc nào cũng sẵn sang, chớ chị!" "Tốt lắm, vậy th́ y lịnh." "Dạ, cám ơn chị."

    Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ: "Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!"

    "Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những ḍng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!"

    Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đă hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rơ Hưng, hiểu rơ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rơ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?" Kính thưa toàn thể quư vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quư vị đă đọc những gịng chữ này. Xin quư vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đă chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đă thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ ḿnh trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.

    TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM TUẨN TIẾT


    Mười một giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam: "Alô, chị Hưng!"
    Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng: "Thưa Thiếu Tướng..."

    Giọng Tướng Nam buồn bă u uất: "Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng.
    "
    Tôi vẫn nức nở: "Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đă găy đổ?"

    - "Hưng đă nói với chị nghe hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu văn được v́ lệnh hành quân không được Đại Tá...thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu văn nổi t́nh h́nh."
    Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi: "Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?"

    - "Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng đă vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?"

    - "Chị quên c̣n dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, c̣n ḿnh th́...Đàng chị thế nào?"

    - "Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đă tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản.

    - "C̣n mấy chú đâu hết?"

    - "Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. C̣n tất cả đă bỏ đi hết. Hưng đă chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng."

    - "Chị tẩm liệm Hưng chưa?"

    - "Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong th́ Thiếu Tướng gọi tới."

    - "Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không c̣n kịp. chúng nó sẽ không để yên."

    - "Thiếu Tướng c̣n dạy thêm điều ǵ không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?"

    Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên: "Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đă sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, c̣n bị phản bội giờ chót." Người chép miệng thở dài: "Thôi chị Hưng ơi." Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi: "Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước th́ phải chết theo nước." Giọng người b́nh tĩnh và rắn rỏi: "Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. chị phải sống v́ mấy đứa nhỏ. Đêm nay có ǵ nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mă mới." "Dạ, cám ơn Thiếu Tướng."

    Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nh́n xuống. Ở dưới sân, sĩ quan và lính tráng đă đi hết. Trừ có Nghĩa c̣n ở lại.

    Cổng rào bỏ ngỏ. Gío thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Ḥa, cho tṛ đời bể dâu hưng phế.

    Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.

    Bảy giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay v́ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă tự sát, xác c̣n nằm tại Quân Y Viện.

    Tướng Nam đă bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đă linh cảm, biết trước chuyện ǵ sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam c̣n nằm đó, cầu nguyện: " Xin Thiếu Tướng tha thứ." Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đă gặp Hưng, xin linh thiêng pḥ hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.

    Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đă mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu.

    Tám giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nh́n lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai gịng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.

    Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm ch́m trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho lúc đến chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người. Chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quư vị hiểu rơ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đ́nh hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi ḷng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.

    Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi ṭa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta c̣n mang trong người ḍng máu của dân tộc Lạc Hồng, c̣n hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta c̣n nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quư mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ư.

    Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ư chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân t́nh đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hăm hại, đạp chà nhau, để rồi vô t́nh làm lợi cho bọn cướp nươc Cộng Sản?

    Đọc những ǵ tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đă hiểu tất cả sự thật v́ sao Tướng Nam và Tướng Hưng đă phải tự sát để bảo tồn tiết tháo.

    Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo ḷng người quân tử. Chúng ta, những người c̣n sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: "Chúng ta đă làm được ǵ cho đừng hổ thẹn với những người đă nằm xuống? Họ đă nằm xuống không phải là v́ họ hèn nhát! Họ đă nằm xuống là v́ muốn bảo toàn sâu chữ mà họ từng mang trên đầu:

    Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.

    Nếu chưa làm được ǵ cho quê hương, xin hăy thận trọng lời phê phán vô ư thức. Đừng vô t́nh thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc.

    ____________________ ____________________ ________
    Hết

  10. #230
    Member
    Join Date
    31-07-2010
    Posts
    546
    Mời anh chị nghe bài hat Ngày Tang Tóc , một sáng tác rất hay của ca nhạc sĩ Mù Quáng về ngày Quốc hận 30-04 , một người bạn tốt của HA



Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 18-04-2012, 09:17 AM
  2. Replies: 5
    Last Post: 12-05-2011, 03:56 PM
  3. Replies: 4
    Last Post: 02-05-2011, 08:06 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 28-04-2011, 06:25 PM
  5. Replies: 6
    Last Post: 07-12-2010, 12:21 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •