Page 256 of 304 FirstFirst ... 156206246252253254255256257258259260266 ... LastLast
Results 2,551 to 2,560 of 3035

Thread: Nghe Chuyện Hà Nội

  1. #2551
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    Như vậy không hề có chứng cớ rơ ràng, để có thể gán cho Nguyễn Bá Trác việc sang Xiêm săn lùng và làm chỉ điểm để Pháp bắt Trần Hữu Lực ngày 26/6/1915.

    5/ Hạn mạn du kư một lần nữa minh oan cho Nguyễn Bá Trác: Hạn mạn du kư - Lời kư của một người đi chơi phiếm[32] viết về 6 năm trốn ra ngoại quốc của Nguyễn Bá Trác, từ tháng 3/1908 đến tháng 8/1914.
    Sau vụ Trung kỳ dân biến, phong trào Duy Tân và Đông Du bị khủng bố: Nguyễn Bá Trác trốn xuống tàu về Trung, đến Phú Yên, ẩn trong rừng 8, 9 tháng. Ngày 24/12/1908, ông lên tàu vào Nam. Ngày 7/1/1909 đến Mỹ Tho, rồi đi Bến Tre và vào làng Tân Hương dậy học. Ba tháng sau ông lên Sài G̣n, rồi đêm 3/4/1909, từ Sài G̣n xuống tàu trốn đi Xiêm, tới Bangkok ngày 6/4/1909. Từ đây bắt đầu cuộc lưu vong, đi Hương Cảng, rồi sang Nhật. Tới Nhật, sinh viên du học đă bị trục xuất. Ở Nhật một tháng, rồi quay về Thượng Hải, định t́m đường lên Bắc Kinh, nhưng không thành. Tháng 2/1910, làm báo với Trần quân, tức Trần Thế Mỹ, một yếu nhân của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, tại Thượng Hải.

    Tháng 6/1910, gặp Nguyên quân - tức Trần Hữu Lực cả hai được một ân nhân giới thiệu thi vào trường sĩ quan Quảng Tây, ở Quế Lâm, tháng 9/1910. Trong thời gian học ở Quế Lâm, một lăo bà t́m đến trường: Bà người Việt, con quan, bị giặc Khách bắt về Tàu từ thủa nhỏ, bị bán nhiều lần, có người con gái là Trần Tuệ Nương, muốn gả cho Bá Trác để mẹ con t́m đường về nước. Nghĩ phận ḿnh trôi nổi chưa biết ra sao nên Bá Trác khước từ. Hai năm sau trên đường lưu lạc, Bá Trác hay tin Tuệ Nương đă chết.

    Chương tŕnh học quân sự là ba năm, nhưng Trác và Lực đỗ vào năm thứ nh́; v́ thiếu ngân quỹ, chính phủ Trung Hoa gộp hai năm làm một, nên tháng 9/1911, cả hai tốt nghiệp. Trần Hữu Lực được bổ làm sĩ quan ở sở Binh Bị. Nguyễn Bá Trác rời Quế Lâm, theo Quốc Dân Đảng Trung Hoa, bị kéo vào cuộc nội chiến, nay Thượng Hải, Nam Kinh, mai Bắc Kinh, Trùng Khánh, rồi quay về Thượng Hải, cuối cùng quyết định về nước. Trong khi đó, Phan Bội Châu bị bắt ở Quảng Châu ngày 20/1/1914 đến tháng 4/1916 mới được tha.

    Tháng 1/1914, Bá Trác từ Thượng Hải về Quảng Đông, ở lại 6 tháng. Đầu tháng 7/1914, đáp tầu đi Hương Cảng. Rồi từ Hương Cảng về đến Sài G̣n tháng 8/1914.
    Hạn mạn du kư là một thiên kư sự. Tác giả ghi rơ ngày tháng từng sự kiện, nhưng đổi tên nhân vật và giấu những ǵ liên hệ đến tổ chức cách mạng Phan Bội Châu. Tác phẩm c̣n là văn bản nghiên cứu lịch sử và văn hoá ba nước: Nhật Bản, Trung Hoa và Cao Ly (Triều Tiên). Về giá trị văn chương, sử học và xă hội, Hạn mạn du kư có phần sâu sắc hơn Hải Tŕnh Chí Lược của Phan Huy Chú hay Vũ Trung Tuỳ Bút của Phạm Đ́nh Hổ.

    Tác phẩm có 2 đoạn đáng chú ư, có thể minh oan cho Nguyễn Bá Trác:

    1/ Đoạn viết về ḷng nhớ nước và khát vọng trở về đất tổ của lăo bà bị cướp khỏi gia đ́nh từ thời niên thiếu, lưu lạc trên đất khách, trọn đời chỉ có một quyết tâm: nuôi con thành người Việt, lấy chồng Việt để t́m đường về tổ quốc. Người mẹ ấy nói: "Ôi! Người mà quên cả ông cha, gọi là người "vong tổ" có thể là người được chăng?" Lời nói ấy, dường như phát tự đáy ḷng Nguyễn Bá Trác.

    2/ Đoạn tả Nguyên quân ngâm bài Hồ Trường. Nguyên quân -anh Nguyên- chính là Trần Hữu Lực, được mô tả như một hiệp sĩ thời xưa, vừa nghệ sĩ, vừa khẳng khái, với giọng thân ái và kính phục, nhưng cũng bộc lộ tâm sự của tác giả:
    "Nguyên quân cả năm không hay uống rượu đă uống th́ say, đă say hay hát. Hát không hiểu khúc, song tiếng trong mà cao; cứ nghêu ngao mấy câu cổ phong, tự người ngoại quốc nghe đă lấy làm kiêu điệu lắm; cho nên ngày ở Quế Lâm, thi tốt nghiệp rồi, Nguyên quân say rượu tay gơ miệng hát, anh em đồng học đều khen là danh ca.

    Chiều hôm ấy[33] rượu ngà ngà, Nguyên quân cũng đứng dậy mà hát. Cách pḥng có một người khác tên là Lưu mỗ, là người Trực Lệ, hiện làm quan vơ coi lính ở Quảng Tây, nghe Nguyên quân hát, bèn vào pḥng, chào nói tên họ rồi hỏi Nguyên quân: "Tôi nhớ năm xưa có gặp quư hữu một lần ở tại Đông Kinh nước Nhật". Nguyên quân nói: "Lâu ngày không nhớ rơ". Khách lại hỏi: "Vừa nghe quư hữu hát ấy là điều ǵ?". Nguyên quân nói: "Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam!" Khách nói:" Nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khẳng khái, nam phương có điệu hát đến như thế ru?". Nói rồi, liền gọi thằng hầu lấy bút, xin Nguyên quân viết bài hát cho mà xem. Nguyên quân cầm bút viết ngay. Bài hát dịch ra như sau này:

    Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường;
    Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương.
    Trời Nam ngh́n dậm thẳm; mây nước một mầu sương.
    Học không thành, công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc; trăm năm thân thể bóng tà dương.
    Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
    Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
    Rót về Đông phương, nước bể Đông chẩy xiết, sinh cuồng lan.
    Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan;
    Rót về Bắc phương, ngọn bắc phong v́ vụt, đá chạy cát dương;
    Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
    Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết ḷng ta hay;
    Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây"[34]


    Không ai viết như vậy về người ḿnh đă "chỉ điểm" cho Pháp bắt giết. Giọng văn bí ẩn, cố giấu tông tích người hiệp sĩ anh hùng, nhưng cũng muốn ngỏ cho người đọc thấy sự thực: Nguyên quân - Trần Hữu Lực là một "hiệp sĩ", có giọng ngâm hay, nhưng không phải là người văn học, v́ "hát không hiểu khúc".
    Bài mà Nguyên quân hát, Ấy là một điệu đặc biệt ở phương Nam! - Một điệu phương Nam, mà phương Nam là đâu? Là nước Việt, nhưng người Việt có ai biết bài này, trừ Nguyễn Bá Trác? Vậy người sáng tác Hồ Trường phải là Nguyễn Bá Trác. Từ trước đến nay, v́ không có sự khảo sát văn bản, người ta vẫn cho rằng bài Hồ trường là của Nguyên Quân, người Tầu, được Nguyễn Bá Trác dịch sang tiếng Việt.

    Sự thực, Nguyên quân chỉ là Nguyễn quân đă bỏ dấu ngă. Tác giả phải giấu ḿnh, nhưng trong vô thức luôn luôn có cái ǵ "phản lại" tác giả, ở đây là bốn chữ: Nguyên quân và phương Nam.
    Hồ trường là một tuyệt tác, nói lên tâm sự bi tráng của những thanh niên đất Quảng ra Hà Nội, mong học "thành tài" để góp phần canh tân đất nước. Nào ngờ đến Bắc việc đă hỏng. Trốn sang Xiêm, Nhật, chậm rồi. Về Tầu lang thang khất thực, học làm tướng. Theo Quốc Dân Đảng Trung hoa. Nhưng Dân Đảng bại trận. Mọi việc đều hỏng. Bốn phương mù mịt. Đói khát vây quanh. Hồ trường chính là tâm sự bi đát của Nguyễn Bá Trác.


    Còn tiếp ...

  2. #2552
    Tran truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    ● Phạm Quỳnh (1892-1945)

    Lời Phạm Quỳnh: "Tôi sinh ra nước đă mất rồi, c̣n đâu mà tôi bán?" Ẩn một sự thật bi thương. Nam Phong ra đời do nghị định ngày 30/12/1916 của phủ toàn quyền. Vậy Nam Phong nằm trong chính sách cai trị của Pháp lúc bấy giờ.

    Trên cái manchette Nam Phong tạp chí là hàng chữ: "L'Information française - Thông tin Pháp", và "La France devant le monde. Son rôle dans la guerre des nations - Nước Pháp trước thế giới. Vai tṛ của Pháp trong cuộc chiến giữa các nước". Vậy chủ đích Nam Phong đă rơ.
    Với một "chủ đích" như thế, Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác, hai chủ bút quốc ngữ và Hán văn và cũng là hai công chức của Pháp, có thể làm ǵ?

    Trong bài trả lời phỏng vấn Đào Hùng[35] năm 1931, Phạm Quỳnh cho biết: Trong thế chiến thứ nhất, Đức làm báo chữ Hán để tuyên truyền bên Tầu; Pháp bèn giao cho hai ông Quỳnh và Trác làm tờ Âu Châu chiến sử, chữ Hán, viết bài kư tên người Tầu, tuyên truyền cho Pháp, đem sang Tầu phát không. Trong mấy năm, tờ báo ấy chỉ phát hành ở Tầu, không có ở Đông Dương.
    Đến năm 1917, phủ toàn quyền bàn với tôi (Phạm Quỳnh) rằng sẵn có tin tức và bài vở th́ nên mở ra một bản quốc văn để làm cơ quan tuyên truyền tin tức trong xứ. Từ đó Nam Phong mới xuất hiện cùng với Đông Dương tạp chí, là hai tờ báo quốc văn ở đất Bắc. Như vậy, Phạm Quỳnh đă nói rơ mục đích tuyên truyền của Pháp trong việc cho phép Đông Dương, Nam Phong xuất hiện. Sau này những lập luận chống Phạm Quỳnh thường vịn vào cớ ấy để buộc tội ông.

    Nguyễn Văn Trung viết cuốn Chủ đích Nam Phong[36] để buộc tội Phạm Quỳnh và phản bác các quan điểm của Thanh Lăng và Phạm Thế Ngũ. Tiếc rằng, Nguyễn Văn Trung không đem lại điều ǵ mới hơn các "chủ đích" đă in trên đầu tờ báo và đă được Phạm Quỳnh nói rơ từ năm 1931 với Đào Hùng; ông chỉ đưa ra một số văn thư chính thức của Pháp, khen ngợi Phạm Quỳnh là người bạn tốt của Pháp, như vụ làm báo Âu Châu chiến sử; ông cũng chỉ đọc sơ vài bài viết của Phạm Quỳnh, lựa những câu có thể phê phán được, đưa ra ngoài bối cảnh để buộc tội: tại sao Phạm Quỳnh không chống Pháp mạnh mẽ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh?
    Lối lập luận như thế khó đứng vững, bởi Phạm Quỳnh là người ôn hoà, chọn đường khác: con đường văn hoá, và Phan Khôi cũng chọn con đường này trong nhiều thập niên sau.

    Giọng ca tụng Pháp tồi tệ nhất trên Nam Phong là của Tuyết Huy Dương Bá Trạc[37] trong Bài kư ngày kỷ niệm quan toàn quyền Sarraut đến Hà Nội [38] và bài Lời mừng cuộc toàn thắng đồng minh[39]. Lời lẽ đáng xấu hổ, gọi Pháp là "mẹ nuôi ta", coi Nă Phá Luân là "xứ nhà giời", hoan hô "Đại Pháp muôn năm", "Quan toàn quyền Sarraut muôn năm", "Ta chúc nước Lang sa ta vinh quang hách dịch đời đời kiếp kiếp", nhưng rất lạ là Dương Bá Trạc lại không bị kết tội "bán nước".

    Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác, trong phần quốc văn, không viết bài nào đáng trách. Cùng chủ trương cộng tác Pháp-Việt, nhưng lời lẽ Phạm Quỳnh chừng mực, ít "thân Tây" hơn Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong các bài viết có tính cách Pháp-Việt đề huề, đúng như nhận xét của Thanh Lăng.

    Tóm lại, trên Nam Phong, ngoài mục Thời Đàm -tin tức b́nh luận thời sự- tuyên truyền cho chính sách của Pháp ở Á Châu, theo đúng chủ đích đă ghi trên đầu tờ báo, khó có thể t́m được chứng cớ nào buộc tội Phạm Quỳnh "bán nước" qua các văn bản biên khảo, triết học, phê b́nh, dịch thuật của ông trên Nam Phong. Vậy ta thử t́m hiểu trong chuyến đi Pháp năm 1922, Phạm Quỳnh có thái độ như thế nào đối với các nhà ái quốc và với nước Pháp?


    Còn tiếp ...

  3. #2553
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    ♦ Gặp gỡ các nhà ái quốc năm 1922 tại Pháp

    Tâm sự sâu lắng của Phạm Quỳnh trong chuyến đi Pháp năm 1922 được bộc lộ qua loạt bài Pháp du hành tŕnh nhật kư[40], ông ghi lại tỷ mỷ chuyến đi và những nhận xét tinh vi của ông về xă hội Pháp đương thời.
    Khởi hành từ Hải Pḥng ngày 9/3/1922, đến Marseille 9/4 và về nước ngày 11/8/1922. Trong 4 tháng, Phạm Quỳnh đă gặp các nhà ái quốc trong nhóm Ngũ Long nhiều lần:

    1/ Đến Marseille 9/4, ngày 11/4/1922, Phạm Quỳnh ghi: "Hôm nay gặp cụ Phan Tây Hồ, là một nhà chí sĩ nước ta, nay biệt xứ bên quư quốc. Hồi cụ khởi nghiệp, tôi c̣n nhỏ tuổi, nên chỉ biết tiếng mà không được biết người. Nay sang đến đây mới được gặp cụ, trong ḷng ngổn ngang nhiều nỗi, không sao nói xiết. Cùng nhau đàm luận trong mấy giờ"[41].

    2/ Theo mật báo ở Marseille, ngày 11/5/1922, có cuộc gặp gỡ giữa Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Phan Châu Trinh muốn lật đổ Nam triều, lập Quốc hội An Nam để cai trị cùng với chính phủ Pháp. Nguyễn Văn Vĩnh không đồng ư. Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh hứa sẽ nghĩ biện pháp giúp Phan Châu Trinh[42]. Phạm Quỳnh ở Marseille đến 12/5 đi Lyon, tới Paris ngày 16/5/1922, ở Hôtel du Monde, số 15, Rue Berthollet cùng với Nguyễn Văn Vĩnh.

    3/ Ngày 27/6/1922, Phạm Quỳnh đến Hội Địa Dư Thương Mại - Société de Géographie Commerciale đọc diễn văn giới thiệu hội Khai Trí Tiến Đức.

    Lê Thanh Cảnh trong bài "Thử đi t́m một lập trường tranh đấu cho dân tộc Việt nam"[43] cho biết, ngay chiều hôm ấy, tức là chiều 27/6/1922, ông tổ chức mời cơm tại khách sạn Montparnasse, có sự tranh luận sôi nổi giữa Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Cao Văn Sến, Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh.

    4/ Ngày 13/7/1922, Phạm Quỳnh ghi trong Hành Tŕnh nhật kư: "Chiều hôm nay ăn cơm An Nam với mấy ông đồng bang ở bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ, vào hạng bị hiềm nghi, nên bọn ḿnh đến chơi không khỏi có trinh tử ḍ thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lũ đó đứng ngoài như rươi; nhưng họ cứ việc họ, ḿnh cứ việc ḿnh, có hề chi!"[44] Trong cuốn sổ tay, ông viết rơ tên: "Juillet /13 /Jeudi: Ăn cơm An Nam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 rue des Gobelins)"[45].

    5/ Ngày 16/7/1922, Phạm Quỳnh ghi: "Trưa, mấy ông chí sĩ cùng ăn cơm bữa trước lại chơi ở trọ, nói chuyện giờ lâu. Nghe nói các ông đi đâu cũng có bọn trinh tử theo sau, chắc bọn đó đă đứng đâu ngoài cửa cả"[46] Và trong sổ tay: "Dimanche 16/7: ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền (Truyền) đến chơi"[47]

    Tóm lại, trong chuyến đi Pháp 1922, Phạm Quỳnh gặp nhóm Yêu Nước, ít nhất năm lần. Và hầu như luôn luôn bị mật thám theo dơi. Điều này chứng tỏ: năm 1922, có sự tham vấn về t́nh h́nh đất nước giữa khuynh hướng ôn hoà của Phạm Quỳnh chủ trương quân chủ lập hiến và Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương trực trị và khuynh hướng chống đối mạnh mẽ của nhóm Ngũ Long, tại Pháp.


    Còn tiếp ...

  4. #2554
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    ♦ Đối diện với trí thức Pháp: đấu tranh cho giáo dục ở Việt Nam

    Hoạt động thứ nh́ trong thời kỳ Phạm Quỳnh ở Pháp, là tranh đấu cho một đường lối giáo dục phù hợp với dân tộc Việt Nam, thể hiện qua 4 bài diễn thuyết tại các trường lớn. Những bài này được đăng báo ở Pháp, rồi trên Nam Phong song ngữ và in lại trong Nouveaux essais franco-annamites - Những bài tiểu luận Pháp-Việt mới[48].
    Đây là những bài tham luận quan trọng, nhưng ít ai biết, lại phải đọc nguyên văn tiếng Pháp, v́ bản dịch dù của tác giả, nhưng với thứ tiếng Việt đầu thế kỷ: La France dịch là Đại Pháp; Messieurs là Thưa các ngài, đă làm mất tính dân chủ trong sự khẳng khái đ̣i chính quyền Pháp thực thi một nền giáo dục đúng đắn ở Việt Nam.

    Trước sinh viên và trí thức Pháp, Phạm Quỳnh dùng lối thuyết khách: ông tŕnh bầy và phân tích tiến tŕnh lịch sử và văn hoá Việt Nam từ thời thượng cổ, để thuyết phục Pháp không thể "giáo hoá" dân Việt như một dân tộc dă man, tức là bỏ hẳn tiếng Việt, chỉ dạy tiếng Pháp, biến người Việt thành người Pháp.

    1/ Ngày 26/5/1922. Diễn thuyết tại Ecole des Langues orientales vivantes - Trường Sinh ngữ Đông phương. Đề tài: L'évolution de la langue annamite - Sự tiến hóa của tiếng An-nam[49].
    Phạm Quỳnh lược qua t́nh trạng ngôn ngữ ở Việt Nam: Trải ngàn năm bị Tầu đô hộ, văn chương Việt chia làm hai loại: bác học, chữ Hán và b́nh dân, chữ Nôm. Tiếng nói dân tộc bị coi thường, chữ Nôm bị khinh rẻ.

    Nhưng đến đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Du, một đại văn hào xuất hiện, đưa thứ ngôn ngữ thông tục lên hàng kiệt tác với Truyện Kiều. Công của Nguyễn Du đối với quốc âm cũng giống như công của Ronsard, Rabelais đối với tiếng Pháp.
    Chữ quốc ngữ, do các linh mục Tây Phương đặt ra với mục đích truyền giáo; nhờ Trương Vĩnh Kư và Paulus Của, được truyền bá rộng răi ở Nam Kỳ, bởi v́ trong Nam không có lớp nho học bảo thủ như đất Bắc.

    Khoảng 1900, sau khi Tầu thua Nhật, người Tầu bắt đầu du học Âu Mỹ; khi về nước, họ đă dịch đủ loại tác phẩm Tây phương, từ Darwin, Kant, đến Rousseau, Montesquieu, Voltaire, Diderot... sang chữ Hán. Đó là những sách Tân Thư. Các nhà nho Việt đọc tân thư, tiếp nhận, và dịch lại những danh từ khoa học, kỹ thuật, triết học, mà người Hoa đă dịch sang chữ Hán.

    Khi lớp người Tây học (chúng tôi) bắt đầu dịch các sách Tây Phương sang tiếng Việt, th́ đă có sẵn kho danh từ Hán-Việt do các bậc đàn anh dịch từ chữ Hán sang: Chữ quốc ngữ hiện đại h́nh thành và giàu mạnh, là nhờ sự cộng tác chặt chẽ giữa hai phái Nho và Tây học.
    Sự phục hưng tiếng Việt qua quốc ngữ không được người Pháp biết đến, kể cả những người đă Việt hoá nhất, họ chỉ học tiếng Việt hàng ngày, khi đụng phải một vài danh từ Hán Việt là họ giăy nẩy lên, bảo đấy là tiếng Tầu.
    Nói là mượn tiếng Tầu th́ cũng không đúng hẳn: Thực ra, để tạo chữ mới, tiếng Việt cũng như tiếng Cao Ly, Nhật, quan thoại, đều mượn chữ Hán, một tử ngữ, hệt như người Âu mượn chữ La tinh, Hy lạp. Khi các bạn viết: électro-dynamique th́ cũng giống như chúng tôi dùng từ Hán-Việt vậy.

    Tại sao phải dùng từ Hán-Việt? Ví dụ intuition dịch là trực giác, trực là thẳng, giác là thấy, dễ hiểu hơn là phiên âm thành anh-tuy-di-on hay giải nghĩa dài ḍng sang tiếng Việt. Nhưng có những tiếng có thể dịch thẳng sang tiếng Việt, như l'aréoplane thành tầu bay hoặc automobile phiên âm thành ô tô; la gare thành nhà ga. Về tên riêng, chúng tôi phiên âm tên Napoléon thành từ Hán Việt Nă Phá Luân, bởi ba chữ này có âm vang chiến đấu; Washington thành Hoa Thịnh Đốn v́ âm vang thanh nhă hợp với đất kinh thành.

    Khi ngôn ngữ bất đồng, th́ không thể hiểu nhau được.
    Các bạn đang học trường Sinh Ngữ Đông Phương, vậy nếu các bạn muốn học tiếng nước tôi th́ không chỉ học ngôn ngữ hàng ngày, nên học cả ngôn ngữ văn chương, và nếu có thể, học thêm chữ nho, để có thể t́m hiểu đến nguồn cội ngôn ngữ Việt Nam[50].

    Bài L'évolution de la langue annamite mở đầu cho "chiến dịch" cổ động mà Phạm Quỳnh đă trù định: Thừa dịp được toàn quyền Maurice Long cử sang Pháp diễn thuyết tại các trường lớn, ông đă t́m cách thuyết phục Pháp đừng thi hành chính sách đồng hoá ngôn ngữ ở Việt nam. Mở đầu bằng lời khuyên sinh viên trường sinh ngữ, ngoài tiếng Việt hàng ngày, nên học văn chương Việt, học thêm chữ nho, để hiểu những danh từ Hán-Việt.

    2/ Ngày 31/5/1922 diễn thuyết ở Ecole Coloniale- Trường Thuộc Địa, đề tài: L'évolution intellectuelle et morale des Annamites depuis l'établissement du Protectorat français - Sự tiến hóa về đường tinh thần của người Việt Nam từ khi nước Pháp đặt Bảo hộ[51].

    Phạm Quỳnh ghi trong Hành Tŕnh Nhật Kư: "Trị cái đề này cho cứng và cho ổn cũng khó thật; khó là muốn cho vừa cứng vừa ổn. Nếu ổn quá th́ thành ra nịnh rồi, mà nịnh th́ ḿnh không mặt mũi nào; mà nếu cứng quá tất sẵng, mà sẵng cũng không xong". "Tối hôm nay quyết ăn mặc quần áo An Nam, lấy quốc phục làm lễ phục, cho nó thêm trịnh trọng. Nghiễm nhiên là một anh "đồ" An Nam mà ngồi diễn thuyết bằng tiếng Pháp"[52].


    Còn tiếp ...

  5. #2555
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    Bài này có tính cách chính trị: Phạm Quỳnh tổng kết tiến tŕnh lịch sử và văn hoá Việt Nam từ đô hộ Tàu đến đô hộ Tây. Mục đích nói cho "các quan cai trị" tương lai biết rằng: các bạn muốn thành công th́ nên học tiếng Việt, t́m hiểu văn hoá Việt. Mọi sự đàn áp đều đưa đến hậu quả khôn lường.

    Phần đầu, ông nói về t́nh h́nh văn hoá Việt dưới sự đô hộ của Tàu: Chữ Hán trở thành ngữ tự chính thống.
    Phần thứ nh́, và cũng là phần cốt lơi, ông nói đến nền đô hộ của Tây. Đại ư như sau: Nước Pháp đến nước chúng tôi đă nửa thế kỷ. Chuyện đă rồi, chúng tôi đành phải chịu. "Nhưng đối với lớp đàn anh chúng tôi, th́ chẳng qua quư quốc cũng chỉ là một giống "xâm lược" mà thôi". "Trừ là một dân tộc hèn mạt suy đốn, chứ có bao giờ người dân một nước lại giương tay ra đón lấy kẻ ngoại quốc đến cưỡng chiếm nước ḿnh". Bởi thế nên 20 năm sau khi quư quốc đến chiếm hữu, biết bao nhiêu cuộc nổi dậy chống đối, "cũng chỉ v́ cái ḷng ái quốc bị khổ nhục, ḷng căm tức tới tâm gan".

    Sự căm thù khiến chúng tôi coi việc học tiếng Pháp và học vần quốc ngữ do người Tây phương đem lại là một cái nhục. Nhưng dần dần, sĩ phu của chúng tôi cũng phải thừa nhận sự yếu kém của nước ḿnh, và họ đă t́m đọc những tư tưởng tiến bộ của J.J. Rousseau, Montesquieu qua những cuốn Tân Thư của Tàu, từ đó phát xuất phong trào Đông Du. Họ muốn trông cậy vào Tầu, Nhật để đuổi Pháp ra khỏi xứ sở, mà biến cố 1908 - Trung kỳ dân biến là đỉnh điểm.

    Khi toàn quyền Paul Beau nhậm chức (1902-1908), ông đă hết sức cải tổ chính trị, mở rộng các trường Pháp-Việt và mở trường đại học đầu tiên ở Đông Dương, tôi (Phạm Quỳnh) có hân hạnh với vài người bạn được vào học trường này. Nhưng chỉ ít lâu sau trường bị đóng cửa v́ biến cố 1908.
    Người ta giải thích rằng: V́ người Nam chưa có tŕnh độ để học Đại học; điều đó đúng v́ hồi đó chúng tôi làm ǵ có trường trung học? Việc lập đại học khi chưa có trung học là một nghịch lư. Thực ra th́ ông Beau đă có chủ kiến sẳn: Từng làm đại sứ Pháp tại Trung hoa, ông biết rơ mỗi năm có hàng ngh́n người Hoa sang Âu, Mỹ du học, quá tốn kém cho gia đ́nh và nhà nước Trung hoa, cho nên nếu ông lập ra một Đại học Đông Dương ở Hà Nội, mà người Tầu sang học th́ uy thế của Pháp tại Viễn đông càng nổi trội.

    Nhưng chính sách khôn ngoan của ông Beau đă không được người kế nhiệm thấu hiểu. - Ở đây, Phạm Quỳnh muốn nói đến toàn quyền Antoine Klobukovski (1908-1910), người đă tàn khốc đàn áp các phong trào Duy Tân và Đông Du, đóng cửa Đông Kinh Nghiă Thục và Đại Học Đông Dương. Đến khi ông Albert Sarraut sang làm toàn quyền, chính sách cộng tác văn hóa Pháp Việt của ông Beau mới lại được tiếp tục: những vở kịch của Molière qua bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh đă được tŕnh diễn ở Hà Nội - Xin nhắc lại: Albert Sarraut, thuộc đảng xă hội, làm toàn quyền hai lần (1911-1914) và (1917-1919), sau đó là Maurice Long (1921-1923), cả hai tiếp tục chính sách cộng tác văn hoá của Beau.

    Phạm Quỳnh kết luận: Chúng tôi là một dân tộc cổ kính có một nền văn hoá lâu đời, ngày nay muốn hội nhập vào thế giới hiện đại, nhưng dứt khoát không muốn từ bỏ nền văn minh, cái quá khứ mà tổ tiên đă để lại qua nhiều thế kỷ. Chúng tôi muốn là chính ḿnh. Muốn giữ lấy bản sắc của ḿnh, giữ lấy cái quốc hồn quốc tuư của dân tộc ḿnh.
    V́ sự t́nh cờ của lịch sử, chúng tôi phải chịu sự bảo hộ của nước Pháp. Chúng tôi muốn được nước Pháp giúp đỡ trong công cuộc cải cách, bởi nước Pháp là một cường quốc, thông qua lịch sử, luôn luôn góp phần vào công cuộc tranh đấu giải phóng con người[53].

    Với bài L'évolution intellectuelle et morale des Annamites depuis l'établissement du Protectorat français trên đây, Phạm Quỳnh đánh vào tâm lư những nhà cai trị tương lai. Nội dung mănh liệt. Lời lẽ khôn khéo. Không khác ǵ lời Phan Văn Trường trong bản Thỉnh Nguyện Thư 1919. Phạm Quỳnh trong tư thế thuyết khách. Phan Văn Trường viết lời thỉnh nguyện của một dân tộc.

    3/ Ngày 5/7/1922. Diễn thuyết ở Société française des amis de l'Orient- Hội Ái hữu Đông phương.
    Đề tài: La poésie annamite - Thi ca Việt Nam[54].
    Bài này giới thiệu hai mảng thi ca quan trọng nhất của Việt Nam: Ca dao và Truyện Kiều. Vào đề, ông nói ngay: Thi ca của dân tộc nào là đặc biệt của dân tộc ấy, không thể dịch ra tiếng nước khác được. Dịch tức là diệt. Mà muốn dịch, lại phải thông thạo cả hai thứ tiếng. Tôi (Phạm Quỳnh) có thể tự hào biết rơ tiếng nước tôi, nhưng làm sao tôi biết hết những tinh vi trong tiếng Pháp, vậy tôi dịch phải sai nhiều lắm. Muốn thưởng thức thơ nước tôi, các bạn chỉ có cách học tiếng Việt.

    Sau đó ông dịch một số câu ca dao và giải thích những cái hay tuyệt vời không thể dịch sang tiếng Pháp được, ví dụ hai chữ chiều chiều dịch thành soir soir th́ làm sao nói được nỗi buồn với dư âm day dứt tiềm ẩn trong âm thanh chiều chiều.
    Ca dao, mới chỉ là những bông hoa dân gian, hoa rừng, không trồng mà mọc. C̣n Truyện Kiều của Nguyễn Du, mới là thơ của nhà đại thi hào dân tộc. Kiều là một quyển sách bói - livre d'horoscopes, giây phút nào trong đời người, bạn cũng có thể mở Kiều và t́m thấy những câu thơ phù hợp. Từ thượng cổ Hy Lạp đến nay, thi nhân luôn luôn băn khoăn tới số phận con người. Nhưng Tây phương thường diễn ca theo lối huyền ca thần bí, trong khi thi nhân nước tôi, lấy thân phận làm chủ năo - leit-motiv của đời người đàn bà bị khổ nhục v́ có nhan sắc, có ḷng cao thượng và có quan niệm khác thường về nghĩa vụ con người.

    Quư quốc sang cai trị chúng tôi đă 50 năm. Trong 100 công chức Pháp th́ có độ 10 người biết tiếng Việt, nhưng điều quái lạ là không ai t́m đọc truyện Kiều! Ông Abel des Michels có dịch và chú thích nhưng cũng dịch sai nhiều lắm. Ông Nguyễn Văn Vĩnh, bạn của chúng tôi, đă dịch nhiều tác phẩm của quư quốc sang tiếng nước tôi, và ông đă dịch cuốn Kiều sang tiếng Pháp. Lần này ông sang Pháp để t́m một văn tài thượng đẳng của quư quốc (nobilité littéraire française) có thể nhuận sắc lại bản dịch của ông để in bên Pháp[55].

    Tôi nói thế không ra ngoài đề đâu, mỗi chi tiết đều có ư quan trọng về chính trị cả đấy. Bởi có những ư kiến đang thịnh hành cho rằng tiếng An Nam chẳng qua là một "thổ âm" phải tiêu diệt dần đi, thay tiếng Pháp vào. Một tiếng nói mà chúng tôi đă giữ được qua bao nhiêu thế kỷ chống lại tiếng Tầu. Người ta thường nói một dân tộc sống về tiếng nói, và nếu đúng như thế th́ dân tộc chúng tôi quyết muốn sống đây!
    Chẳng phải v́ bọn trí thức chúng tôi ghét tiếng Pháp mà nói vậy: chúng tôi muốn truyền bá văn minh Tây phương, nhưng sự truyền bá này phải không phương hại ǵ đến tiếng Quốc âm và nền văn minh lâu đời của chúng tôi.[56]

    Với chủ đề văn chương, Phạm Quỳnh đă nói chính trị: bảo vệ triệt để ngôn ngữ dân tộc trước nguy cơ bị chính quyền thuộc địa dẹp hẳn để thay thế bằng tiếng Pháp như đối với các nước Châu Phi. Để bảo vệ tiếng Việt, Nguyễn Văn Vĩnh dịch Kiều và hai ông Vĩnh, Quỳnh đề cao Kiều như một kiệt tác, để người Pháp thấy cái hay trong tiếng Việt khiến họ phải kính phục và tôn trọng.

    Sự đề cao Truyện Kiều của Phạm Quỳnh là trong chủ đích ấy, nhưng một số nhà nho không hiểu. Ngô Đức Kế đă cực lực phản đối bằng những lời lẽ luân lư hết sức thiển cận. Sự hiểu lầm Phạm Quỳnh c̣n kéo dài trong nhiều thập niên sau với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Hoàn...


    Còn tiếp ...

  6. #2556
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    4/ Ngày 22/7/1922 diễn thuyết tại Académie des Sciences morales et politiques - Hội Hàn Lâm Luân lư Chính trị học. Mặc quốc phục.
    Đề tài giáo dục: Un problème d'éducation des races. Comment doit-être faite l'éducation des Annamites par La France?- Một vấn đề giáo dục giống ṇi. Nước Pháp phải giáo hoá người An Nam như thế nào?

    Đây là bài quan trọng nhất, bàn thẳng vào chính sách giáo dục của Pháp ở Việt Nam, mở đầu bằng những lời:
    "Trong sử cũ nước Việt Nam chúng tôi, thường nói đến những bậc người đại trí (...) Gặp những cơ hội ǵ quan trọng, hay là khi nào phải xét đến một cái vấn đề lợi hại cho cả nước, thời chính Hoàng đế hay là các quan quốc vụ đại thần, hay là bất cứ người dân nào hữu tâm về vận mệnh nước nhà, thường hay t́m đến để hỏi han. Mà các bậc ấy bao giờ cũng lấy những điều chính lư, những sự khôn ngoan mà khuyên bảo. Mà những lời khuyên bảo ấy, hầu hết là nghe theo cả.
    Toà Hàn Lâm của Đại Pháp, là nơi tẩu trạch (sanctuaire) những ngài học vấn uyên thâm, khôn ngoan tài trí của quư quốc..."[57]

    Lời mở đầu vẫn xác định nước ḿnh có nền văn hoá lâu đời, có những bậc hiền triết mà vua, quan, dân đều phải nghe theo. Sau mới nói đến Hàn Lâm Viện Pháp, đặt các vị hàn lâm lên trên hết, hy vọng tiếng nói của họ sẽ được chính quyền Pháp nghe, như ở xứ Việt, từ xưa.

    Chúng tôi đă bị Pháp đô hộ hơn 40 năm.
    Bởi yếu thế về chính trị, nên đă không "đủ sức chống lại một kẻ xâm lược vừa giỏi vừa mạnh hơn nhiều". Chúng tôi thua trận v́: "nước chúng tôi là gốc ở một cái văn minh rất cổ ở Á Châu, trong bao nhiêu thế kỷ tựa hồ như cách biệt với thế giới bên ngoài".

    Trước Hàn Lâm Viện Pháp, Phạm Quỳnh vẫn xác định: Pháp là kẻ xâm lược, sau nông nỗi mất nước buổi đầu, những phần tử ưu tú của đất nước chúng tôi mới nhận thức được sự yếu kém về học thuật của ḿnh, muốn được thấm nhuần "cái học thuật và cái văn minh nhân đạo" của nước Pháp. Chúng tôi là một dân tộc bị áp bức, trông chờ ở nước Pháp, cái nôi của nhân quyền và giải phóng con người, giúp đỡ học hỏi để trở thành một nước tân tiến. Tóm lại, chúng tôi rất mong được giáo hoá, nhưng quư quốc định giáo hoá chúng tôi như thế nào đây? Sau khi băi bỏ nền giáo dục cổ truyền của chúng tôi, quư quốc chưa t́m được giải pháp nào ổn thoả.

    Hiện có hai lập luận:

    - Nhóm thực dân lâu đời cho rằng: Dân An Nam càng có kiến thức càng nổi lên chống Pháp, vậy chỉ nên dậy chúng trở thành những người thợ, hoặc thư kư, dễ sai bảo. Đây là một "lập luận hẹp ḥi, ích kỷ, không xứng đáng với truyền thống nhân đạo của nước Pháp, mà c̣n nhục mạ khả năng tri thức của dân tộc tôi". May mà chưa thực hiện.

    - Lập luận thứ nh́, đang thực hiện, là mở trường dậy từ cấp tiểu học, tiến dần lên trung học, và đă bắt đầu nền đại học, xin rất cám ơn. Nhưng lại có vấn đề:
    Nếu chúng tôi là một dân tộc vô văn hoá, hay một dân tộc mới, vừa xuất hiện trên mảnh đất tân bồi nào đó, không có quá khứ, không có lịch sử, th́ việc giáo hoá như vậy cũng được. Tức là cứ việc "Tây hoá" cho thành người Pháp.
    "Nhưng dân Việt Nam chúng tôi, không thể ví như tờ giấy trắng được. Dân tộc chúng tôi là một quyển sách cổ (un vieux parchemin) đầy những chữ viết bằng một thứ mực không phai, đă mấy mươi thế kỷ nay; không có thuốc ǵ xoá hẳn được thứ chữ ấy đi. Không ai có quyền tự do muốn viết ǵ vào đấy th́ viết được. Quyển sách cổ ấy, có thể đóng theo kiểu mới cho hợp thời trang, nhưng không thể đem in một thứ chữ ngoài lên trên các ḍng chữ cũ được".

    C̣n một thuyết khác nữa khá phổ biến, cho rằng: Người Nam xưa đă học chữ Tầu, nay học chữ Tây là phải, c̣n cái tiếng An Nam man rợ ấy phải tiêu diệt dần đi, nó chỉ là một thứ "thổ âm" (patois); đến ngày nào bao nhiêu trẻ con nước Nam đếu biết nói tiếng Pháp cả, th́ nước Nam sẽ trên đường tiến bộ. Nhưng giả thử có ngày bao nhiêu trẻ con An Nam đều biết nói mấy câu tiếng Tây "ba rọi" (petit nègre), nhưng lại quên tiếng nước ḿnh, v́ không c̣n được dậy ở trường nữa, th́ đó có phải là thời tiến bộ của nước tôi không?

    Hay c̣n một giải pháp hợp lư hơn, là cho dân An Nam học tiếng Việt ở bậc tiểu học, tức là bậc giáo dục phổ thông trước đă. Rồi lên cao hơn, học thêm tiếng Pháp để dự bị vào trung học, cao đẳng, đại học. Chính ở bậc trung học này, cũng phải dậy thêm chữ nho, v́ đối với tiếng An Nam, chữ nho cũng giống như chữ La tinh đối với tiếng Pháp.
    Hiện nay chưa có nghị định nào bắt người An Nam phải học thuần tiếng Pháp cả, nhưng chữ An Nam chỉ có một địa vị rất nhỏ ở cuối bậc tiểu học mà thôi. Thử hỏi chính phủ Pháp có thể trông cậy vào những người An Nam học ở bên Tây, đỗ kỹ sư, tiến sĩ, mà quên cả tiếng mẹ đẻ, th́ đối với dân ḿnh, chỉ là những người xa lạ, làm sao có thể truyền bá cái văn minh Tây phương cho họ được?

    Vậy nền giáo dục của chính phủ Bảo hộ, muốn có kết quả tốt th́ phải đào tạo được những người Việt Nam chân chính, vừa có cái học thái tây, vừa biết giữ ǵn ngôn ngữ, phong tục của nước ḿnh. V́ dân tộc tôi mà tôi tha thiết mong các danh sư của Viện Hàn Lâm Pháp soi xét vần đề này[58].

    Bốn bài diễn văn của Phạm Quỳnh năm 1922 tại Paris đă có tác dụng.
    Phạm Thế Ngũ viết: "Đến năm 1924, v́ nhiều nguyên nhân chính trị, và cũng v́ chiến dịch vận động của Phạm Quỳnh, người Pháp lần đầu ở Bắc và Trung, lập ra một bậc Ấu học ở Việt Nam trong ba năm hoàn toàn học bằng tiếng Việt để thi lấy bằng Sơ học yếu lược.(...) Phạm Quỳnh coi đó là một thắng lợi trong công cuộc vận động giáo dục, thực hành chủ nghiă quốc gia về đường văn hoá. Cũng như một thắng lợi khác nữa của ông là việc mở một khoa "Ngôn ngữ và văn chương Hán-Việt" ở trường Cao đẳng mà ông đă được cử phụ trách giảng dậy, một thứ mầm mống của Đại học văn khoa sau này"[59].

    Công tŕnh văn học, triết học, ngữ học, dịch thuật của Phạm Quỳnh đă xác định địa vị của ông, không ai có thể chối căi được. Hầu hết trước tác của Phạm Quỳnh nằm trong Nam Phong, hiện nay, trọn bộ 210 số, đă được Viện Việt Học ở California đưa vào DVD. Di sản văn hoá đồ sộ của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, hai nhà văn hoá bị kết án "bán nước", hiện vẫn c̣n ngủ yên chưa được lựa chọn, soạn thảo, chú thích theo tiếng Việt hiện thời và in lại một cách hệ thống để dùng làm sách giáo khoa.
    Phần Thượng Chi văn tập, đă in lại, không có ǵ đáng kể. Chỉ riêng về triết học và dịch sách Pháp, công tŕnh của Phạm Quỳnh , Nguyễn Văn Vĩnh, cũng đă đầy đủ cho học sinh và sinh viên sử dụng, thay v́ dùng những bản dịch của những "dịch giả" mới học tiếng Pháp dăm năm, chưa đủ tŕnh độ và kiến thức để hiểu nguyên bản, nói ǵ đến dịch đúng.

    Nguyễn Bá Trác, ngoài Hán Văn, c̣n đóng góp hai bài tuyệt bút Ngọn gió hồ Gươm và Bài t́nh tự với sông Hương, trên Nam Phong số 1 và 2, hai bài tuỳ bút quốc ngữ đầu tiên nói lên tâm sự đớn đau của người xa quê nhớ nước.

    Ngoài trước tác, Phạm Quỳnh c̣n lập phụ trương Tự vựng, quốc ngữ, chữ nho, chữ Pháp - từ Nam Phong số 1 đến số 10, in những chữ mới, gồm những từ Hán Việt, được các nhà Nho và Tây học dịch từ tiếng Pháp và chữ Hán sang quốc ngữ. Đó là những danh từ khoa học, triết học, ngữ học, luận lư, trừu tượng... như anh hùng ca, ảnh hưởng, áp chế chủ nghiă, bán khai, bành trướng, bi đát, bi kịch, bí quyết, duy tâm chủ nghiă, duy vật chủ nghiă... có lẽ là lần đầu tiên xuất hiện, và sau này sẽ trở thành thông dụng đối với chúng ta.
    Tiếc rằng, phần phụ trương Tự vựng này, không được chụp lại trong DVD Nam Phong, nhưng trên sưu tập sachxua.net có đủ, cho thấy con đường của Phạm Quỳnh: xây dựng tiếng Việt từ những số đầu Nam Phong.

    Phạm Quỳnh tiếp tục với bộ Việt Nam Tự Điển của hội Khai Trí Tiến Đức, mà ông là chủ tịch, soạn cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đỗ Mục .... Việt Nam Tự Điển ra đời năm 1931 -tuy c̣n nhiều khuyết điểm, chưa làm xong và chưa thể sánh với Đại Nam Quấc Âm tự vị của Paulus Của- nhưng đă có thêm một số chữ mới, đánh dấu giai đoạn phát triển quốc ngữ Nguyễn Văn Vĩnh - Phạm Quỳnh tiếp nối giai đoạn Trương Vĩnh Kư - Huỳnh Tịnh Của.


    Còn tiếp ...

  7. #2557
    Tran Truong
    Khách

    Vụ án Nam Phong _ Chương 22

    [1] Phùng Bảo Thạch, Một nhà nho "tiết tháo": Phan Khôi, Bọn NVGP trước toà án dư luận, trang 76.

    [2] Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số đặc biệt thứ hai chống NVGP, số 12, tháng 5/1958.

    [3] Việc này có thể hiểu: người Pháp đứng tên th́ mới được cấp giấy phép và được hưởng quyền tự do báo chí.

    [4] Theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Đại Nam in lại tại Mỹ, chú thích trang 128.

    [5] Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, chương IV, chú thích trang 83, Chân trời mới, 1962, có bản điện tử trên Talawas.

    [6] Em họ Phan Khôi.

    [7] Hồi kư Đặng Thai Mai, Tác Phẩm Mới, 1985, trang 355-356.

    [8] Đă dành chương 39, quyển II, (trang 381- 394) để viết về Đặng Thai Mai và Vơ Nguyên Giáp, thời kỳ 1932- 1940 mà ông có dịp gặp gỡ thường xuyên, nhất là về người vợ đầu của ông Giáp và người con gái của Đặng Thai Mai sau này trở thành vợ thứ nh́ của ông Giáp.

    [9] Tức là Tham tá.

    [10] Nguyễn Vỹ, Tuấn chàng trai nước Việt, quyển II, in lại ở Mỹ, không đề năm, trang 381-382.

    [11] Phạm Thị Ngoạn Introduction au Nam Phong (T́m hiểu tạp chí Nam Phong), bản dịch Phạm Trọng Nhân, Ư Việt, Paris, 1993, trang 68.

    [12] Lược truyện các tác gia Việt Nam, quyển II, trang 152.

    [13] Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, Là Bối, Sài G̣n, 1970, trang 213.

    [14] Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu sử Trần Quư Cáp, Trần Quư Cáp của Lam Giang, Đông A, Sài G̣n, 1971, trang 16.

    [15] Bản dịch Tự phán ra tiếng Pháp của Georges Boudarel, France-Asie số 194-195, Paris, 1968.

    [16] Phan Bội Châu, Tự phán, bản Nhân Chủ Học Xă in, Hoa Kỳ, 1987, trang127.

    [17] Ngày 19/6/1912.

    [18] Tức là quyền Chi bộ trưởng Quang Phục Hội ở Xiêm.

    [19] Xử bắn.

    [20] Tự phán, sđd, trang 128.

    [21] Tự phán, sđd, trang 186.

    [22] Phan Bội Châu niên biểu, tên khác của Tự phán, Chương Thâu, Văn Nghệ tp Hồ Chí Minh, 2001, trang 177.

    [23] Mỗ là tiếng chỉ người, thay cho tên thật.

    [24] Tự phán, bản Nhân Chủ học xă, trang 209.

    [25] Tự phán, trang 191.

    [26] Tự phán, trang 199-200.

    [27] Tự phán, trang 128 và 166.

    [28] Nguyễn Bá Học.

    [29] Lương tháng.

    [30] Nóng nẩy sơ suất.

    [31] Nam Phong số 50, tháng 8/1921.

    [32] Nguyên bản chữ Hán, in trên Nam Phong phần chữ Hán trước, sau tác giả dịch và in lại trên Nam Phong quốc ngữ từ số 38, 8/1920 đến số 43, 1/1921.

    [33] Khoảng tháng 3- 4/1910

    [34] Trích Hạn mạn du kư.

    [35] Đào Hùng, Phụ Nữ Tân Văn từ Nam ra Bắc, Ông Phạm Quỳnh và vấn đề lập hiến ở nước Nam, PNTV số 87 (18/6/1931), đăng lại trên 13 năm tranh luận văn học, sưu tập Thanh Lăng, trang 252-261.

    [36] Trí đăng, Sài G̣n, 1972.

    [37] Là anh Dương Quảng Hàm.

    [38] In trên Nam Phong số 1 (7/1917).

    [39] Nam Phong số 17 (11/1918).

    [40] Nam Phong từ số 58 (4/1922) đến số 100 (10-11/1925) in lại trong Hành tŕnh nhật kư, Ư Việt, Pháp, 1997.

    [41] Hành tŕnh nhật kư, Ư Việt, Pháp, trang 252.

    [42] Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911/1925, Đông Nam Á, 1983, trang 160.

    [43] Bài đă dẫn trong chương 20.

    [44] Hành tŕnh nhật kư, trang 485.

    [45] Phạm Tôn, Người nặng ḷng với nước, tài liệu gia đ́nh, Blog Phạm Tôn.

    [46] Hành tŕnh nhật kư, trang 491.

    [47] Phạm Tôn, bđd.

    [48] Nxb Bùi Huy Tín, Huế, 1938.

    [49] Nam Phong, phụ lục tiếng Pháp, số 69 (3/1923) và số 70 (4/1923).

    [50] Tóm tắt các ư chính trong bài diễn văn của Phạm Quỳnh.

    [51] Nam Phong, phụ lục tiếng Pháp số 66 (12/1922) và 67 (1/1923).

    [52] Hành tŕnh nhật kư, trang 343- 345.

    [53] Tóm lược các ư chính trong bài diễn thuyết.

    [54] In trong Revue Orient et Occident ở Paris, tháng 8/1922, và Nam Phong phụ trang Pháp ngữ, số 63 (9/1922).

    [55] Bản dịch Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh được in dần trên Đông Dương tạp chí từ số 18 trở đi, rồi trên Trung Bắc Tân Văn. Xuất bản sau khi Nguyễn Văn Vĩnh qua đời (nxb Alexandre de Rhodes, 1942, Hà Nội), 2 tập, gồm ba phần: thơ, chú giải, và dịch từng chữ. Nguyễn Văn Vĩnh đă dịch Kiều trong khoảng 1913-1916.

    [56] Tóm lược những ư chính trong bài diễn thuyết.

    [57] Trích theo bản dịch của Phạm Quỳnh, Nam Phong số 71 (5/1923).

    [58] Tóm tắt những ư chính trong bài diễn thuyết.

    [59] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, quyển 3, trg 150.


    Còn tiếp ...

  8. #2558
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    Ngày 30/10/1956, Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết 6 tiếng trước Mặt Trận Tổ Quốc tại Hà Nội -3 giờ buổi sáng, 3 giờ buổi chiều- về những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất.
    Trường Chinh, Xuân Thủy và Dương Bạch Mai yêu cầu ông viết lại nội dung cuộc nói chuyện ứng khẩu thành văn bản. Ông viết lại với tựa đề: "Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, xây dựng quan điểm lănh đạo", đánh máy làm hai bản, trao cho Trường Chinh và Xuân Thủy, chỉ giữ lại bản nháp viết tay.

    Bài chính luận sâu sắc, chủ đích phân tích những sai lầm của chế độ, từ Cải Cách Ruộng Đất ở thôn quê, sang Cải Tạo Tư Sản, quản lư mậu dịch ở thị thành, chỉ ra nguồn cội của sai lầm: v́ chế độ chính trị không dân chủ; và tŕnh bày phương pháp sửa đổi: thực hiện những nguyên tắc của một nhà nước pháp quyền, trong một chế độ dân chủ.

    Bài tham luận được gửi sang Rangoon, thủ đô Miến Điện, rồi đến Pháp - theo Hoàng Văn Chí. Vậy Trường Chinh và Xuân Thủy, ai là người chuyển băn bản Nguyễn Mạnh Tường ra ngoại quốc, và để làm ǵ? Để cho quốc tế biết t́nh h́nh miền Bắc Việt Nam hay để buộc tội tác giả?

    Nguyễn Mạnh Tường bị kiểm điểm rồi bị đuổi khỏi đại học, sống trong hơn 30 năm sa mạc. 40 năm sau, ông viết tiểu thuyết Une voix dans la nuit (Tiếng vọng trong đêm) về ba chính sách ṇng cốt trong thời kỳ xây dựng chế độ Cộng sản ở miền Bắc: Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Tư Sản, và Thanh Trừng Trí Thức.
    Ông gửi bản thảo sang Paris. Đây là một trong 7 tác phẩm được hoàn tất trong giai đoạn cuối đời, tất cả viết bằng tiếng Pháp, về hơn 60 năm ông sống dưới chế độ cộng sản. Ngoại trừ cuốn Un excommunié - Kẻ bị khai trừ, được Quê Mẹ in năm 1992 tại Paris, các tác phẩm khác, chưa in.

    Tại Paris trong bốn tháng -4/1989-1/1990- ông trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, được ghi âm, viết lại, in trên báo, và riêng chúng tôi cũng có dịp gặp ông, nhờ đó, nhiều vấn đề được sáng tỏ hơn.
    Ngày 27/7/2003, bác sĩ nha khoa Nguyễn Văn Lung (1916-2009)[1] người tích cực hoạt động cho tổ chức Francophonie - Khối Pháp ngữ gửi đến chúng tôi một tập tài liệu quan trọng về giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, với lời ghi: "Tôi xin gửi tới chị một số tài liệu về anh Tường để chị sẽ làm hương hồn anh trở lại với chúng ta".

    Và ông Lung đề nghị cùng chúng tôi làm một chương tŕnh về luật sư Nguyễn Mạnh Tường trên đài RFI, dưới dạng phỏng vấn, bởi ông biết rơ con người và đă được đọc nhiều tác phẩm chưa in của Nguyễn Mạnh Tường. Đang chuẩn bị, th́ ông được thư của bà Nguyễn Mạnh Tường tỏ ư lo ngại, ông đành phải hoăn cuộc phỏng vấn, đợi khi nào thuận tiện hơn.
    Tuy nhiên ông căn dặn chúng tôi có toàn quyền sử dụng tập tài liệu này trong khuôn khổ văn hoá. Cũng xin nói thêm, Nguyễn Văn Lung và Joël Fouilloux, là hai người có giấy ủy quyền của Nguyễn Mạnh Tường về việc in các tác phẩm của ông ở ngoại quốc. Chúng tôi đang chờ đợi một dịp thuận tiện để công bố những tư liệu này, th́ ông Nguyễn Văn Lung đột ngột qua đời tại Paris ngày 8/10/2009.

    Trong tập tài liệu này, ngoài h́nh ảnh, thư từ viết bằng tiếng Pháp, trao đổi giữa Nguyễn Mạnh Tường và Nguyễn Văn Lung cùng một số người Pháp, về vấn đề Francophonie, về việc in sách của luật sư tại Pháp, c̣n có bản chụp hai cuốn Contruction de l'Orient - Apprentissage de la Méditerranée - Xây dựng Đông phương - Kinh nghiệm Địa Trung Hải và Le voyage et le sentiment - Du hành và cảm xúc, kịch.
    Ngoài ra, có một bản đánh máy, kê khai gần đủ các tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường, phần lớn chưa in, và nhất là bản thảo đánh máy cuốn Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm do Nguyễn Mạnh Tường sửa lỗi.

    Qua những tư liệu này, chúng tôi sẽ dựng lại chân dung Nguyễn Mạnh Tường, chủ yếu dẫn trích từ các tác phẩm và từ lời nói của ông trong các buổi gặp gỡ, trả lời phỏng vấn Phạm Trần, Hoà Khánh, ở Paris, và giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, học tṛ ông ở Hà Nội.

    Phần thứ hai, chúng tôi sẽ giới thiệu tác phẩm Une voix dans la nuit, cho tới nay, là cuốn sách duy nhất do một trí thức tự do viết về những bi kịch đau thương c̣n khép kín. Như các tác phẩm khác của Nguyễn Mạnh Tường, Une voix dans la nuit, có bút pháp mạnh mẽ, đầy hấp lực và h́nh ảnh, mỉa mai châm biếm, chặt chẽ trong lập luận pháp lư, là sự đồng quy của văn chương và luật pháp trong một ng̣i bút nhà văn. Tập tài liệu của nha sĩ Nguyễn Văn Lung trao cho chúng tôi năm 2003, với những bút tích quư giá này, sẽ được gửi về Viện Bảo Tàng Văn Học hoặc Lịch Sử, khi điều kiện cho phép.


    Còn tiếp ...

  9. #2559
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    Ở trong nước, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh 16/9/1909 – 16/9/2009, qua một số bài viết, Nguyễn Mạnh Tường được thần tượng hoá trở lại, với những mỹ từ "thông minh siêu việt, lưỡng khoa tiến sĩ, kỷ lục chấn động học đường nước Pháp, nhà sư phạm lỗi lạc"... Những điều đó ít nhiều có thật, tiếc rằng c̣n một sự thật đáng nói hơn là cuộc đời và tác phẩm của ông, hiện vẫn bị chôn vùi trong bóng tối.

    Duy chỉ có giáo sư Nguyễn Văn Hoàn là trung thành với lời nói của thày Tường, c̣n một số học tṛ cũ, nay đă thành các nhà giáo nhân dân, không ngần ngại xoá bỏ quăng đời sa mạc hơn 30 năm của thầy Tường, để thay thế bằng một sự nghiệp liên tục tốt đẹp, không vết phong trần, ông Trần Văn Hà, giáo sư tiến sĩ, viết: "Chiến thắng Điện Biên Phủ, hoà b́nh được lập lại, toàn gia đ́nh giáo sư Nguyễn Mạnh Tường mới trở về Hà Nội. Giáo sư tiếp tục giảng dạy tại trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội và làm việc tại Viện Nghiên Cứu Giáo Dục từ 1954 đến 1970. Từ khi nghỉ hưu, giáo sư dạy Pháp ngữ tại nhà theo yêu cầu, và theo đuổi những công tŕnh khoa học của ḿnh."[2]

    Viết không đúng sự thực là cách chôn thày thêm lần nữa, đáng ngại là nó xẩy ra ở những ng̣i bút của các giáo sư đại học,
    mà sự chính xác phải là châm ngôn giảng dạy:

    Ví dụ, về việc Nguyễn Mạnh Tường gặp chủ tịch Hồ Chí Minh trong đại hội "Liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc" năm 1952 ở Việt Bắc, ông Nguyễn Đ́nh Chú, nhà giáo nhân dân, cho rằng: "Riêng đối với giáo sư [NMT] đây là những giây phút (...) gắn bó thiêng liêng máu thịt giữa giáo sư với cách mạng, với lănh tụ, đến mức cực độ". Không biết ông căn cứ vào đâu mà viết như vậy, bởi Nguyễn Mạnh Tường là người rất thận trọng trong lời nói cũng như chữ viết, khó có thể t́m thấy một t́nh cảm "cực độ" của ông đối với một đối tượng nào.

    Riêng về đại hội liên hoan anh hùng chiến sĩ, Hoàng Cầm kể lại như sau: Năm 1952, tôi đem đội văn công của tôi đi phục vụ Đại Hội Chiến Sĩ Thi Đua Anh Hùng Toàn Quốc. Đó là đại hội đầu tiên bầu ra các mặt anh hùng lao động, công nghiệp, nông nghiệp, quân đội... Tôi phải phục vụ đại hội trong 10 ngày, tôi nh́n thấy Trần Đức Thảo và Nguyễn Mạnh Tường và có nói chuyện với hai ông.
    Trong đại hội, bác Hồ có phát biểu một câu ngăn ngắn thôi về trí thức: "Trí thức là những người mà nếu đứng về phía nhân dân làm việc phục vụ nhân dân tốt th́ xứng đáng gọi là trí thức xă hội chủ nghiă, c̣n nếu trí thức chỉ có sách vở chẳng làm ǵ thực tế để giúp cho đời sống của nhân dân th́ cái trí thức ấy không bằng cục phân".

    Tôi nghe thấy hơi khó chịu, kể ra th́ cũng đúng đấy, nhưng mà người đứng đầu một nước không nên nói như thế, nhất là cái câu ấy ông Mao đă nói ở bên Trung Quốc rồi, ông Hồ chẳng qua chỉ nhắc lại thôi"[3]. Trong bối cảnh ấy, làm sao nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường có thể "cảm thấy gắn bó thiêng liêng máu thịt với cách mạng và lănh tụ đến cực độ được?" Hoặc để chứng minh những "vinh quang chói lọi" của thày Tường, ông Nguyễn Đ́nh Chú không ngần ngại xác định: "thân phụ là một công nhân", "Nguyễn Mạnh Tường đă liên tiếp tốt nghiệp cao đẳng văn chương, cử nhân văn chương, cử nhân luật khoa, làm luật sư toà thượng thẩm Montpellier, cao đẳng ngôn ngữ, và văn tự cổ"; và luận án tiến sĩ được phê "siêu ưu" (ông dịch chữ très bien)[4].

    Chẳng hiểu Pháp có các bằng cao đẳng văn chương, cao đẳng ngôn ngữ, và văn tự cổ từ thủa nào? Và Nguyễn Mạnh Tường chỉ mới tập sự luật sư, khi ở Pháp.

    Ông Phong Lê, giáo sư, Viện trưởng Viện Văn Học, viết: "Năm 1928, đỗ cao đẳng văn chương, năm 1929, đỗ cử nhân văn chương, cũng năm 1929, đỗ cử nhân Luật. Năm 1931, đỗ cao đẳng ngôn ngữ văn tự cổ (tức chữ La Tinh và Hy Lạp cổ). Rồi ông giải thích thêm: "Mà cử nhân th́ c̣n lâu mới đến Tiến sĩ, sau khi vượt được cái ngưỡng cửa Thạc sĩ.

    (Lúc này tất cả các thầy Pháp ở Đại học Đông Dương đều mới chỉ có bằng Thạc sĩ)"[5]. Th́ ra các giáo sư Nguyễn Đ́nh Chú và Phong Lê chẳng hiểu ǵ về văn bằng ở Pháp. Riêng ông Phong Lê c̣n nhầm Thạc Sĩ - Agrégé của Pháp, một kỳ thi tuyển rất khó, với văn bằng hiện nay ở Việt Nam gọi là Thạc Sĩ, tương đương với Maîtrise của Pháp, hay Master của Mỹ. Khi dịch Maîtrise hay Master thành Thạc Sĩ, Bộ Giáo Dục, v́ không hiểu lịch sử của hai chữ Thạc Sĩ, nên đă gây lầm lộn như thế.


    Còn tiếp ...

  10. #2560
    Tran Truong
    Khách

    Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) _ Chương 23

    Thạc sĩ là một kỳ thi tuyển - concours chọn các giáo sư của Pháp để dạy các trường trung học, là thạc sĩ văn chương, khoa học, hay đại học là thạc sĩ luật hay y khoa - nay đă bỏ. Để dự thi thạc sĩ văn chương hay khoa học, thí sinh phải có bằng cử nhân- licence ngày trước, maîtrise hiện nay, riêng thạc sĩ luật và y khoa đ̣i hỏi phải có bằng tiến sĩ.

    Việt Nam có Nguyễn Mạnh Tường đỗ 2 bằng Tiến sĩ quốc gia năm 1933, Phạm Duy Khiêm đỗ thạc sĩ văn chương năm 1935, Hoàng Xuân Hăn, thạc sĩ toán năm 1936, ... sau này về y khoa có thạc sĩ Trần Đ́nh Đệ... đều là những người học giỏi nổi tiếng.

    Cũng xin nói thêm rằng Pháp coi ngành giáo dục rất mực quan trọng, cho nên, những người đậu thạc sĩ văn chương hay khoa học, là những phần tử ưu tú hàng đầu của nước Pháp, được đưa vào dạy trung học. Việc dạy trung học, không có nghiă là bằng thạc sĩ yếu thế hơn bằng tiến sĩ, mà chứng tỏ Pháp coi việc rèn luyện học sinh trung học quan trọng hơn việc dạy đại học, v́ bậc trung học mới là nền tảng của thanh niên. Nguyễn Mạnh Tường, tuy đỗ bằng tiến sĩ, sau này dạy đại học, nhưng cũng như tất cả những tiến sĩ khác ở Pháp, ông không thể không kính trọng những người như Phạm Duy Khiêm, Hoàng Xuân Hăn, đỗ bằng thạc sĩ mà chỉ dạy trung học.



    ● Tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường


    Trong lá thư đề ngày 16/8/1994 gửi Nguyễn Văn Lung, Nguyễn Mạnh Tường viết: "Tôi vẫn tiếp tục làm việc, dậy học và hoàn tất cuốn tiểu thuyết mới nhất Palinodies- Phủ nhận, cuốn sách thứ 18 của tôi". Như vậy tạm coi Palinodies là tác phẩm cuối cùng, và là cuốn sách thứ 18 của ông.

    Với những tư liệu hiện hành, xin tạm kê khai những tác phẩm của Nguyễn Mạnh Tường như sau:

    ♦ Thời kỳ 1932, các luận án, tác phẩm Pháp văn:

    1/ L'Individu dans la vieille cité annamite- Essai de synthèse sur le Code de Lê - Cá nhân trong xă hội cổ Việt Nam - Tổng luận Luật Hồng Đức: Luận án tiến sĩ Luật.

    2/ Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset - Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset, luận án chính (thèse principale), tiến sĩ văn chương.

    3/ L'Annam dans la littérature française, Jules Boissières - Việt Nam trong văn chương Pháp, tác phẩm của Jules Boissières, luận án phụ (thèse complémentaire), tiến sĩ văn chương.

    ♦ Thập niên 1940, tác phẩm Pháp văn:

    4/ Sourires et larmes d'une jeunesse - Nụ cười và nước mắt tuổi trẻ, Revue Indochinoise, Hà Nội, 1937.

    5/ Construction de l'Orient - Pierres de France - Xây dựng Đông Phương - Nền tảng Pháp, Revue Indochinoise, 1937.

    6/ Construction de l'Orient - Apprentissage de la Méditerranée - Xây dựng Đông Phương - Kinh nghiệm Địa Trung Hải, Collection Tendances, Hà Nội, 1939.

    7/ Le voyage et le sentiment - Du hành và cảm xúc, kịch ba màn, Collection Tendances, Hà Nội, 1943.


    Còn tiếp ...

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)

Similar Threads

  1. Chuyện nghe được từ ngướ không quen
    By Dac Trung in forum Tin Việt Nam
    Replies: 1
    Last Post: 10-10-2012, 12:25 AM
  2. Replies: 0
    Last Post: 03-05-2012, 10:37 PM
  3. Bắt Buộc Phải Nghe
    By Dean Nguyen in forum Tin Việt Nam
    Replies: 2
    Last Post: 19-01-2012, 08:34 PM
  4. Replies: 3
    Last Post: 31-07-2011, 05:33 PM
  5. Tưởng Niệm Tháng 4 Đen Nghe Nhạc Lính VNCH
    By Camlydalat in forum Giao Lưu - Giải Trí
    Replies: 18
    Last Post: 25-04-2011, 06:28 AM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •