Như vậy không hề có chứng cớ rơ ràng, để có thể gán cho Nguyễn Bá Trác việc sang Xiêm săn lùng và làm chỉ điểm để Pháp bắt Trần Hữu Lực ngày 26/6/1915.
5/ Hạn mạn du kư một lần nữa minh oan cho Nguyễn Bá Trác: Hạn mạn du kư - Lời kư của một người đi chơi phiếm[32] viết về 6 năm trốn ra ngoại quốc của Nguyễn Bá Trác, từ tháng 3/1908 đến tháng 8/1914.
Sau vụ Trung kỳ dân biến, phong trào Duy Tân và Đông Du bị khủng bố: Nguyễn Bá Trác trốn xuống tàu về Trung, đến Phú Yên, ẩn trong rừng 8, 9 tháng. Ngày 24/12/1908, ông lên tàu vào Nam. Ngày 7/1/1909 đến Mỹ Tho, rồi đi Bến Tre và vào làng Tân Hương dậy học. Ba tháng sau ông lên Sài G̣n, rồi đêm 3/4/1909, từ Sài G̣n xuống tàu trốn đi Xiêm, tới Bangkok ngày 6/4/1909. Từ đây bắt đầu cuộc lưu vong, đi Hương Cảng, rồi sang Nhật. Tới Nhật, sinh viên du học đă bị trục xuất. Ở Nhật một tháng, rồi quay về Thượng Hải, định t́m đường lên Bắc Kinh, nhưng không thành. Tháng 2/1910, làm báo với Trần quân, tức Trần Thế Mỹ, một yếu nhân của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, tại Thượng Hải.
Tháng 6/1910, gặp Nguyên quân - tức Trần Hữu Lực cả hai được một ân nhân giới thiệu thi vào trường sĩ quan Quảng Tây, ở Quế Lâm, tháng 9/1910. Trong thời gian học ở Quế Lâm, một lăo bà t́m đến trường: Bà người Việt, con quan, bị giặc Khách bắt về Tàu từ thủa nhỏ, bị bán nhiều lần, có người con gái là Trần Tuệ Nương, muốn gả cho Bá Trác để mẹ con t́m đường về nước. Nghĩ phận ḿnh trôi nổi chưa biết ra sao nên Bá Trác khước từ. Hai năm sau trên đường lưu lạc, Bá Trác hay tin Tuệ Nương đă chết.
Chương tŕnh học quân sự là ba năm, nhưng Trác và Lực đỗ vào năm thứ nh́; v́ thiếu ngân quỹ, chính phủ Trung Hoa gộp hai năm làm một, nên tháng 9/1911, cả hai tốt nghiệp. Trần Hữu Lực được bổ làm sĩ quan ở sở Binh Bị. Nguyễn Bá Trác rời Quế Lâm, theo Quốc Dân Đảng Trung Hoa, bị kéo vào cuộc nội chiến, nay Thượng Hải, Nam Kinh, mai Bắc Kinh, Trùng Khánh, rồi quay về Thượng Hải, cuối cùng quyết định về nước. Trong khi đó, Phan Bội Châu bị bắt ở Quảng Châu ngày 20/1/1914 đến tháng 4/1916 mới được tha.
Tháng 1/1914, Bá Trác từ Thượng Hải về Quảng Đông, ở lại 6 tháng. Đầu tháng 7/1914, đáp tầu đi Hương Cảng. Rồi từ Hương Cảng về đến Sài G̣n tháng 8/1914.
Hạn mạn du kư là một thiên kư sự. Tác giả ghi rơ ngày tháng từng sự kiện, nhưng đổi tên nhân vật và giấu những ǵ liên hệ đến tổ chức cách mạng Phan Bội Châu. Tác phẩm c̣n là văn bản nghiên cứu lịch sử và văn hoá ba nước: Nhật Bản, Trung Hoa và Cao Ly (Triều Tiên). Về giá trị văn chương, sử học và xă hội, Hạn mạn du kư có phần sâu sắc hơn Hải Tŕnh Chí Lược của Phan Huy Chú hay Vũ Trung Tuỳ Bút của Phạm Đ́nh Hổ.
Tác phẩm có 2 đoạn đáng chú ư, có thể minh oan cho Nguyễn Bá Trác:
1/ Đoạn viết về ḷng nhớ nước và khát vọng trở về đất tổ của lăo bà bị cướp khỏi gia đ́nh từ thời niên thiếu, lưu lạc trên đất khách, trọn đời chỉ có một quyết tâm: nuôi con thành người Việt, lấy chồng Việt để t́m đường về tổ quốc. Người mẹ ấy nói: "Ôi! Người mà quên cả ông cha, gọi là người "vong tổ" có thể là người được chăng?" Lời nói ấy, dường như phát tự đáy ḷng Nguyễn Bá Trác.
2/ Đoạn tả Nguyên quân ngâm bài Hồ Trường. Nguyên quân -anh Nguyên- chính là Trần Hữu Lực, được mô tả như một hiệp sĩ thời xưa, vừa nghệ sĩ, vừa khẳng khái, với giọng thân ái và kính phục, nhưng cũng bộc lộ tâm sự của tác giả:
"Nguyên quân cả năm không hay uống rượu đă uống th́ say, đă say hay hát. Hát không hiểu khúc, song tiếng trong mà cao; cứ nghêu ngao mấy câu cổ phong, tự người ngoại quốc nghe đă lấy làm kiêu điệu lắm; cho nên ngày ở Quế Lâm, thi tốt nghiệp rồi, Nguyên quân say rượu tay gơ miệng hát, anh em đồng học đều khen là danh ca.
Chiều hôm ấy[33] rượu ngà ngà, Nguyên quân cũng đứng dậy mà hát. Cách pḥng có một người khác tên là Lưu mỗ, là người Trực Lệ, hiện làm quan vơ coi lính ở Quảng Tây, nghe Nguyên quân hát, bèn vào pḥng, chào nói tên họ rồi hỏi Nguyên quân: "Tôi nhớ năm xưa có gặp quư hữu một lần ở tại Đông Kinh nước Nhật". Nguyên quân nói: "Lâu ngày không nhớ rơ". Khách lại hỏi: "Vừa nghe quư hữu hát ấy là điều ǵ?". Nguyên quân nói: "Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam!" Khách nói:" Nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khẳng khái, nam phương có điệu hát đến như thế ru?". Nói rồi, liền gọi thằng hầu lấy bút, xin Nguyên quân viết bài hát cho mà xem. Nguyên quân cầm bút viết ngay. Bài hát dịch ra như sau này:
Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường;
Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương.
Trời Nam ngh́n dậm thẳm; mây nước một mầu sương.
Học không thành, công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc; trăm năm thân thể bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chẩy xiết, sinh cuồng lan.
Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan;
Rót về Bắc phương, ngọn bắc phong v́ vụt, đá chạy cát dương;
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết ḷng ta hay;
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây"[34]
Không ai viết như vậy về người ḿnh đă "chỉ điểm" cho Pháp bắt giết. Giọng văn bí ẩn, cố giấu tông tích người hiệp sĩ anh hùng, nhưng cũng muốn ngỏ cho người đọc thấy sự thực: Nguyên quân - Trần Hữu Lực là một "hiệp sĩ", có giọng ngâm hay, nhưng không phải là người văn học, v́ "hát không hiểu khúc".
Bài mà Nguyên quân hát, Ấy là một điệu đặc biệt ở phương Nam! - Một điệu phương Nam, mà phương Nam là đâu? Là nước Việt, nhưng người Việt có ai biết bài này, trừ Nguyễn Bá Trác? Vậy người sáng tác Hồ Trường phải là Nguyễn Bá Trác. Từ trước đến nay, v́ không có sự khảo sát văn bản, người ta vẫn cho rằng bài Hồ trường là của Nguyên Quân, người Tầu, được Nguyễn Bá Trác dịch sang tiếng Việt.
Sự thực, Nguyên quân chỉ là Nguyễn quân đă bỏ dấu ngă. Tác giả phải giấu ḿnh, nhưng trong vô thức luôn luôn có cái ǵ "phản lại" tác giả, ở đây là bốn chữ: Nguyên quân và phương Nam.
Hồ trường là một tuyệt tác, nói lên tâm sự bi tráng của những thanh niên đất Quảng ra Hà Nội, mong học "thành tài" để góp phần canh tân đất nước. Nào ngờ đến Bắc việc đă hỏng. Trốn sang Xiêm, Nhật, chậm rồi. Về Tầu lang thang khất thực, học làm tướng. Theo Quốc Dân Đảng Trung hoa. Nhưng Dân Đảng bại trận. Mọi việc đều hỏng. Bốn phương mù mịt. Đói khát vây quanh. Hồ trường chính là tâm sự bi đát của Nguyễn Bá Trác.
Còn tiếp ...
Bookmarks