Ngày trở về đất Thăng Long của Thiếu tá QLVNCH Phạm Huấn
Nhà báo Quân Đội VNCH gốc Hà Nổi Thiếu tá Phạm Huấn đă viết cuón hồi kư "Một Ngày ở Hà Nổi" sau khi ông tháp tùng phái đoàn LHQS 4 Bên về thăm cố hương
trong sứ mạng trao đổi tù binh Mỹ ngày 19 tháng 2 năm 1973.
Dưới đây Nguyễn Mạnh Trinh đă viết về cuốn sách đó
. . .
“Một Ngày Tại Hà Nội” của Phạm Huấn cũng gây cho tôi nhiều cảm xúc. Với tôi, Hà Nội chỉ là một thế giới xa lạ nhưng đầy tưởng tượng. Năm 1954 , khi di cư vào Nam, lúc ấy tôi c̣n quá nhỏ để có một kư ức. Phần đông, kỷ niệm trong đời sống của ấu thơ tôi đều là Sài G̣n, thành phố mà tôi lớn lên và trưởng thành. Mỗi con phố, mỗi ngơ hẻm, đều in dấu những tháng ngày trải qua, luôn sinh động trong bộ nhớ. Thành phố ấy, có thể như một phần đời sống…
Nhưng Hà Nội lại là một thành phố trong tưởng tượng với tôi. Và, v́ không thực nên có những nét đẹp huyền ảo của vẽ vời suy tư , của những nhân vật được phác họa bằng tất cả những nét lung linh nhất.
Trong văn chương, tôi đọc những cuốn sách để thấy lại cả một khung trời tưởng nhớ, một thánh địa để nghĩ đến và t́m về. Những Thạch Lam, Vũ Bằng, Hồ Hữu Tường,… thời tiền chiến đến Mai Thảo, Nguyễn Đ́nh Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn,… của 20 năm văn học miền Nam đă làm rực rỡ hơn trong tôi những nồng nàn của một thế giới thơ mộng đă mất hút xa nhưng thật gần gũi trong tâm tưởng.
Nhưng khi đọc “Một Ngày tại Hà Nội, 18-2-1973” của Phạm Huấn, tôi như đi lạc vào một thế giới khác mà nỗi bồi hồi cảm xúc đă lan ra từ những ḍng chữ, những biểu tỏ. Không phải như trường hợp “Hồi hương ngẫu thư” sao lại giống như trong suy nghĩ. “Chắc chắn trong buổi trùng phùng cũng có nỗi xúc động ứa lệ”, tác giả đă nói như thế trong buổi phỏng vấn. Hạ Tri Chương ngày xưa “Thiếu tiểu ly gia lăo đại hồi. Hương âm vô cải mấn mao thôi. Nhi đồng tương kiến bất tương thức. Tiếu vấn khách ṭng hà xứ lai”. (Xa nhà ấu thơ, về đă già. Quê mùa giọng cũ, tóc sương pha. Bạn cũ thân quen nay mặt lạ. Cười hỏi: “Khách về tự chốn xa?”)…
Phạm Huấn th́ khác.Về chốn xưa nhưng trong một cung cách khác. Của một người đi nói chuyện với những người tuy cùng máu mủ đồng bào nhưng là đối thủ dàn ra hai trận tuyến. Về, với cái đón tiếp lạnh lùng đầy nghi kỵ. Về, với cái tâm trạng vỡ ̣a của một người vừa làm vỡ một cái ǵ trân quí nhất. Cái tâm trạng của người vừa đánh mất một phần đời sống ḿnh. Trong t́nh cờ của lịch sử, những người mặc quân phục VNCH trở về nơi chốn mà ḿnh đă rời bỏ thời gian trước. Có một phút nao ḷng với những tâm tưởng cũ nhưng cũng có nỗi rưng rưng của cuộc trùng phùng không ngờ tới được trong thời điểm ấy. Sau Hiệp đinh Paris, quân Mỹ đă rút về nước nhưng chiến tranh vẫn c̣n, vẫn c̣n cảnh những người đồng bào gh́m súng hầm hè nhau trong những cuộc chiến sinh tử. Miền Nam, miền Bắc, hai phía vẫn chưa ngừng cuộc chiến ủy nhiệm thời chiến tranh lạnh. Tác giả, trong “Một Ngày tại Hà Nội”, đă có nỗi niềm chua chát đắng cay của những người đă đặt niềm tin vào một điều ǵ rồi bị phản bội một cách trắng trợn. Thành phố đă đổi, những xưa cũ đă mất đi và những cảnh tượng mới làm quăn ḷng người trở về .
Ông viết: “… ngồi trên chuyến xe di chuyển từ Gia lâm về Hà Nội, nh́n thấy Hồ Gươm, tháp Rùa, tôi có trong ḷng một nỗi xao xuyến muốn làm ứa lệ.
Tôi biết rằng, nh́n thấy Hà Nội đây, là nh́n thấy hàng triệu đôi mắt của người xa Hà Nội năm nào. Tôi đang di chuyển an lành trên những đường phố Hà Nội đây, là đ̣i hỏi bằng xương máu của bao nhiêu bạn hữu, bao nhiêu huynh đệ, bao nhiêu người quen biết và không quen biết , đă chết và c̣n sống, của 17 triệu dân miền Nam yêu nước đang trông ngóng một ngày ḥa b́nh, thống nhất nhưng không phải là ḥa b́nh với bất cứ giá nào, thống nhất với bất cứ giá nào. Tôi hiểu được tại sao con người có t́nh riêng nhưng không thể tách rời ra khỏi tập thể. Con đường này, xưa chúng tôi hàng ngày đi qua, cắp sách đến trường. Căn nhà này, xưa, tôi đă ở. Bạn bè tôi xưa, những ai c̣n, ai mất?
Người yêu tôi xưa, bây giờ bao tuổi, bao già? Tôi có thể gọi tên từng đứa bạn, gọi tên từng người con gái đẹp của Hà Nội khi xưa, tôi có thể chỉ đúng căn nhà họ ở, bây giờ họ c̣n ở đây chăng? Ngồi trên máy bay nh́n xuống, Hà Nội giống như một khuôn mặt kiều diễm. Tháp Rùa chẳng khác cái nốt ruồi của thành phố! Tôi biết rằng, nếu biết được tôi nghĩ như thế, có ai sẽ mỉm cười. Cái cậu con trai nhảy chân sáo trên lối đi này khi xưa là tên vẫn c̣n ẩn núp trong tôi thật sao? Tôi mừng biết bao, khi nhận ra, với ba mươi năm liền nghe súng nổ, nh́n thấy khói, ngửi mùi tử khí, tai tôi chưa điếc, mắt tôi chưa mờ, mũi tôi vẫn c̣n phân biệt được những mùi hương phảng phất của sương mù tháng giêng Hà Nội.
Nỗi nhớ thương Hà Nội đă choáng ngập tâm trí đến độ trong khoảnh khắc tôi không c̣n nhận ra Hà Nội Đă Không C̣n Là Hà Nội Nữa…”
Nếu tôi trở về lại Sài g̣n, chắc chắn tôi sẽ có cảm xúc y hệt như vậy. Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ? Câu hỏi ấy, trong âm hưởng tạo thành nao nao cảm giác trong da trong thịt. Một thi sĩ nào đó, đă gọi thành phố mất tên trong buổi trở về như một níu kéo để t́m về những kỷ niệm cũ, những h́nh bóng xưa. Thi sĩ ấy, chắc cũng đồng điệu với tác giả “Một ngày tại Hà Nội” dù viết về Sài G̣n. Tự nhiên, như là lời tâm sự của riêng tôi, trong lời thơ diễn tả… Thơ chia sẻ như một tri âm với người tri kỷ…
“Khi trở lại tôi kêu tên Sài G̣n
Như ba mươi năm qua thường buổi sáng
Uống ly cà phê không đường đen đậm
Quán cóc hẩm hiu lưỡi đắng nụ cười
Khi trở lại phố xưa tuổi đôi mươi
Ngọn dốc cầu cao nghe chừng khác lạ
Bánh xe nào hằn dấu vết ră rời
Những hẻm cụt giấc khuya về vội vă.
Khi trở lại tôi gọi hoài tuổi trẻ
Như mắt em nồng nàn ánh mặt trời
Buổi sáng áo bay trong buồn lặng lẽ
ai gọi ai cho héo úa t́nh phai
con kinh nước đen mùi bùn vương vấn
cỗ xe già nua về lại bến ven đường
mưa như trút buổi chiều nào địa chấn
em xa tôi ḷng buốt xót vết thương
khi trở lại tôi làm người dừng bước
hai ven đường ngọn cỏ mọc dửng dưng
hai ven đường ngọn cỏ mọc dửng dưng
chân lạ lắm đă hết rồi tiếng guốc
cửa nhà em đóng lại rất lạnh lùng
Sài G̣n vẫn nhớ hay là trong quên lăng
Khách lạ tôi tạm trú dưới hàng cây
Thấy con sẻ ríu rít hoài dĩ văng
Ba mươi năm thoáng ngủ giấc hao gầy…”"
Hà Nội- Sài g̣n. Những nơi chốn tràn đầy kỷ niệm. Mỗi một người tha hương, đọc những trang sách, ngâm những câu thơ, như bước chân hành hương trở về thánh địa tâm hồn. Những lúc trời trở gió, trong cái gào thét lồng lộn của đất trời, tự nhiên nghe trong ḷng mênh mang những rung cảm làm nặng nề vuông ngực. Ở xứ người, chỉ một tên gọi, dù Hà Nội hay Sài g̣n, cũng chứa đựng đầy và mênh mang niềm nhớ.
Bài mở đầu cuộc phỏng vấn người về từ một nơi chốn mà
hành tŕnh không ngờ trước được trong cái t́nh cờ của thời thế có âm vọng của những bàn tay vẫy gọi. Rất văn chương nhưng cũng thật chân thành, ngôn ngữ như mở ra một cánh cửa để tưởng tượng ùa vào, để nỗi niềm người ly xứ như tượng h́nh bằng những chi tiết thực:
“… Hà Nội, bài hát của Hoàng Dương là Hà Nội 20 năm trước. Hà Nội của một triệu người rời bỏ vào năm 1954. Hà Nội với tà áo màu tung gió, với những tiếng guốc reo vui. Hà Nội mà những người đứt ruột bỏ đi, đă nuôi nấng một mong ước, giữ chặt một niềm tin. Hoàng Dương đă nói trong bài hát của ông “hăy tin ngày ấy anh về”. Hà Nội 36 phố phường, Hà Nội mà nhạc sĩ Trần Văn Nhơn của chúng ta đă gọi là “Trái Tim của Việt Nam” Hà Nội mà với mùa thu cuối cùng ta bỏ đi xanh xao như mất máu đó Hà Nội bây giờ ra sao? Trong hai mươi năm chiến tranh tàn phá, trong hai mươi năm người Hà Nội bỏ đi, hai mươi năm Hà Nội sống dưới chế độ Cộng sản, cái trái tim của Việt nam đó đă đập như thế nào? Những Hàng Ngang, Hàng Đào , Hàng Bông, Hàng Gai, Hồ gươm , Hồ Trúc Bạch, Hồ Bẩy Mẫu,… những ǵ thay đổi? Người Hà nội bây giờ sinh sống ra sao?…”
Trong những câu hỏi, Phạm Huấn đă trả lời thành thực bằng tấm ḷng của ḿnh. Tâm cảm của một thanh niên Hà Nội bao giờ cũng tiềm ẩn nét lăng mạn, của một thời hoa mộng được dệt bằng những nỗi nhớ thương mong manh nhưng lại bền chặt nhất. Mấy ai quên được một thời đă qua, mấy ai bỏ đi được những bóng h́nh khắc sâu trong tâm tưởng. Về mái nhà xưa, nhưng chẳng được vào, để cảnh cũ như những dấu tích của tang thương của biển dâu thay đổi.
Trả lời câu hỏi: Thế anh đi bằng con đường đó, cây cột Đồng Hồ ở đường Bờ Sông có c̣n không? Phạm Huấn đáp:
“Cây cột Đồng Hồ vẫn c̣n. Tôi có thể nói ngay với các anh là trung tâm thành phố Hà Nội, ngoài Ṭa Tổng lănh sự Pháp ở đường Trần Hưng Đạo (Gambetta cũ) bị sập, c̣n tất cả những đường phố chính mà trước kia biết rất đẹp như đường Lư Thường Kiệt, Gia Long, Tràng Tiền, Tràng Thi, chung quanh Hồ Hoàn Kiếm, v.v… th́ c̣n nguyên vẹn. Nhưng rất tiếc tôi không hiểu tại sao thủ đô Hà Nội sau 19 năm dưới chế độ Cộng Sản , bây giờ tiêu điều và xơ xác quá. Không có một kiến trúc nào đặc biệt tại Hà Nội so với trước năm 1954. Tôi tưởng Hà Nội tiêu điều nhưng không ngờ đến quá sức tưởng tượng như tôi nghĩ. Khu trung tâm thành phố như Gia Long, Tràng Thi ,Tràng Tiền,… nhà cửa trông rất là cũ kỹ, không được sửa sang quét vôi ǵ hết. Tôi có cảm tưởng như đă 10, 15 năm nay không được quét vôi lại. Đi trên những con đường đó, nh́n thấy dân chúng phơi quần áo, tôi xin lỗi được tả chân, phơi cả những cái quần đen, những áo màu cháo ḷng trên cửa sổ th́ c̣n ǵ là phố xá, nhà cửa của Hà Nội?
Hỏi: Anh có đi ngang qua căn nhà mà anh ở khi xưa không?
Đáp: Tôi có được đi ngang qua căn nhà trước khi di cư vào nam tôi trọ học. Tôi xúc động lắm, muốn khóc được. C̣n y hệt nhưng tiêu điều xơ xác trông thật buồn thảm. Ở góc đường Lư thường Kiệt và Gia Long gần trường trung học Nguyễn Trăi…”
Trước khi đọc “Một Ngày ở Hà Nội” tôi đă đọc Đêm Giă Từ Hà Nội của Mai Thảo, Ung Thư của Thanh Tâm Tuyền Áo Mơ Phai của Nguyễn Đ́nh Toàn, Nhớ về Hà Nội của Nguyễn Mạnh Côn,… Thế mà, sao kỳ lạ, vẫn chung một cảm giác. Hai chữ Hà Nội như có một tính linh thiêng kỳ bí nào lôi cuốn. Giở những trang sách, như thấy lại những khung cảnh cũ…
Mấy ngày hôm nay, ở Cali, trời trở lạnh. Tôi nhớ buổi sáng đi làm đă phải mặc áo ấm và ngoài trời sương mù dầy dặc. Thời tiết làm tâm hồn bâng khuâng hơn. Tầm nh́n mờ đục trước mặt như có một nỗi niềm nào dàn trải. Tôi nhớ lại lúc ấy, nghe trên đài phát thanh, tin nhà báo Phạm Huấn vừa từ trần. Thực ra, Phạm Huấn làm rất nhiều công việc viết văn, làm báo, làm lính, làm phóng viên chiến trường và cả làm diễn viên điện ảnh nữa. Tôi được nghe ông chú tôi là bạn khá thân của Phạm Huấn từ nhiều chục năm nay kể về những chi tiết của cuộc đời anh và riêng trong suy nghĩ tôi anh là một mẫu người đặc biệt. Thế mà, cuộc đời có nhiều cái bất ngờ không hiểu nổi. Ông chú tôi nói một người mạnh khỏe đẹp trai như Phạm Huấn mà cuối đời bị căn bệnh quái ác khiến kư ức trở thành quên lăng muôn năm.
Tôi nhớ có lần ḿnh đă viết về cuốn sách “Những uất hận trong trận chiến mất nước 1975” đă dẫn nhập bằng thơ Nguyễn Bắc Sơn và có trích đoạn những câu đối đáp giữa một ông tướng tư lệnh Vùng và người lính binh nh́ trong chiến trận ở phi trường Phụng Dực. Nhà văn Phạm Huấn có lần điện thoại nói chuyện với tôi tỏ ư thích những chi tiết ấy. Tôi có nói rằng em chưa gặp anh nhưng biết về anh rất nhiều. Ông hỏi tại sao và tôi có nói tên người chú mà cũng là người bạn của ông. Ông cười và tâm sự rằng trong đời ông mê nhất vẫn là vai tṛ phóng viên chiến trường. Và, ông đă làm được công việc mà ông ưa thích ấy. V́ hoàn cảnh, nhiều khi ông đă phải làm chứng nhân cho những biến cố lịch sử ngặt nghèo và từ đó thấu hiểu nhiều hơn thân phận của nước nhược tiểu. Không ai là không yêu nước nhưng có những bó buộc làm quyết định cá nhân nhiều khi là những điều mà thật t́nh trong thâm tâm những người trong cuộc không muốn…
Bây giờ, tât cả những điều ấy anh đă quên từ trước (chú thích của người post: Thiếu tá PH bị bệnh bệnh Alzheimer vào những năm cuối đời). Trong hoàn cảnh bỏ nước lưu vong, ai mà chẳng có nỗi niềm. Chắc hành trang ra đi của anh sẽ nhẹ tênh. Ngày 21 tháng 10 năm 2005, chuyến song loan đưa anh về thiên cổ đă một lần chuyển bánh. Vĩnh biệt người phóng viên chiến trường Phạm Huấn. Có phải anh sẽ trở về. Về Hà Nội như anh đă trở về vào ngày 18 tháng 2 năm 1973 , cách nay hơn ba chục năm. Hay là trở về Pleiku, về Ban Mê Thuột,… những chiến địa xưa, nơi “hồn tử sĩ gió ù ù thổi. Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi…”
Nguyễn Mạnh Trinh
Bookmarks