Chuyện Hai Người Lính :Heroism and Betrayal in the ARVN ( tiếp......)
Ngày 31 tháng 3-1972 Tr./T Đính liên lạc với Chuẩn tướng Vũ Văn Giai để xin tiếp viện. “Nếu không được tiếp viện, căn cứ chỉ có thể giữ được vài ngày nữa thôi.” Đính báo cáo với Tướng Giai. “Ráng chờ, sẽ có tiếp viện,” Tướng Giai trả lời. Hôm sau, 1 tháng 4, Tướng Lăm đích thân gọi Đính. Lạc quan v́ nghĩ rằng ḿnh sẽ có tin vui, nhưng Tướng Lăm chi ra lệnh vắn tắt, là Sư Đoàn 3BB và Quân Đoàn I không c̣n ǵ để tiếp viện.
Trung đoàn 56 phải giữ căn cứ Carroll bằng mọi giá! Chỉ có vậy, chỉ có vậy từ người tư lệnh quân đoàn. Cùng ngày, những cánh quân di tản hay những cánh quân bị kẹt v́ pháo kích lần lượt về được bên trong căn cứ Carroll, trong đó có cánh quân dưới quyền chỉ huy của Trung đoàn phó Vĩnh Phong.
Tường tŕnh của Trung tá Phong làm cho Đính bi quan thêm: Sư Đoàn 308 CSBV đang truy kích họ. Sự bi quan trở thành thất vọng khi tin tức qua hệ thống truyền tin cho biết hai trung đoàn 2 và 57 trên đường di tản về Đông Hà; và bộ chỉ huy Sư Đoàn 3 BB sẽ rời căn cứ Ái Tử về Quảng Trị để tránh tầm đại bác 130 ly của cộng quân từ bên kia sông Bến Hải bắn qua.
Tối ngày 1 tháng 4, với tất cả quân di tản tụ về, căn cứ Carroll bay giờ có khoảng 1,500 tay súng trong ṿng đai pḥng thủ (có tường tŕnh nói quân số bên trong căn cứ trước giờ đầu hàng là 1,800 quân).
Đọc đến đoạn này trong Vietnam’s Forgotten Army, không ít đọc giả sẽ có chút thông cảm cho hoàn cảnh Trung tá Đính, như tác giả Wiest ít nhiều đă có — theo sự nhận xét của người điểm sách. Chúng ta có thể thấy được sự lo sợ và hoang mang của Tr/T Đính: Đường tiếp viện toàn bị cắt đứt; đối diện với một lực lượng của địch lớn hơn ba đến bốn lần về nhân lực cũng như hỏa lực; và bộ chỉ huy h́nh như đă bỏ trung đoàn, hay sẽ dùng trung đoàn như một lực lượng tế thần để đ́nh trệ đường tiến quân của đối phương. Trong ư nghĩ của Đính, quân lệnh cuối cùng của Trung tướng Lăm có hàm ư như vậy.
Nhưng nh́n lại địa h́nh và t́nh h́nh của mặt trận ở hướng tây và tây bắc Quảng Trị, quân lệnh của Tướng Giai và Tướng Lăm không phải không có ư nghĩa. Những căn cứ nhỏ như Núi Ba Hô, Sarge, C2, C3, hay Mai Lộc có thể di tản được v́ đó là những căn cứ nhỏ, không có địa h́nh thuận lợi để pḥng thủ. Nhưng căn cứ Carroll th́ hoàn toàn khác. Đây là một căn cứ có thể cầm cự một hay là hai trung đoàn địch dể dàng.
Tên chánh thức của căn cứ là Camp James J. Carroll. Tên căn cứ đến từ tên một đại úy TQLC Hoa Kỳ tử trận trong cuộc hành quân Prarie ở khu vực đó vào năm 1966. Trong cao điểm của cuộc chiến Việt Nam, căn cứ Carroll là căn cứ pháo binh quan trọng của TQLC Hoa Kỳ ở bắc đường 9. Từ căn cứ Carroll, đại bác 175 ly của Lục Quân và đại bác ṇng 8 inches của TQLC bắn yểm trợ cho căn cứ Khe Sanh (cách đó 20 cây số về hướng tây nam) và thường xuyên đấu súng với những pháo đội 130 ly của CSBV ở bên kia sông bến Hải (20-22 cây số hướng bắc).
Trước khi trao lại cho quân lực VNCH, căn cứ là nơi đóng quân của bốn tiểu đoàn pháo binh Hoa Kỳ (hai tiểu đoàn của trung đoàn 12 pháo binh TQLC; hai tiểu đoàn của liên đoàn 94 pháo binh Lục Quân). Căn cứ rộng đủ để chứa hơn 2,000 quân và một ṿng đai pḥng thủ qui mô. Địa h́nh của căn cứ rất lư tưởng để pḥng thủ: Xây theo h́nh ngũ giác trên một ngọn đồi trống, quân pḥng thủ bên trong Carroll có thể quan sát bốn hướng: địch quân không thể tấn công bằng bộ binh mà không bị phác giác từ xa 500-1,000 mét.
Địch quân có thể pháo kích — như họ đang làm — nhưng tấn công bằng quân bộ bịnh th́ lại là một chuyện khó khăn nếu quân trú pḥng quyết định tử thủ.
Ngày 1 tháng 4, như đă nói ở trên, căn cứ Carroll có 1,500-1,800 tay súng bên trong và một lực lượng pháo binh gồm 26 khẩu đại bác từ 105 cho đến 175 ly, với vài chiến xa hạng nhẹ có trang bị đại bác 40 ly (loại thiết giáp tương tự như M.41, gọi là “Duster,” trang bị hai khẩu 40mm và một đại liên 30 trên pháo tháp). Nh́n từ quan điểm pḥng ngự, lực lượng này có thể gây thiệt hại đáng kể cho mọi cuộc tấn công — hay ít nhất có thể cầm chân một lực không nhỏ của CSBV.
Sáng Chủ Nhật ngày 2 tháng 4, vùng I được một phi tuần B-52 yểm trợ. Bom bỏ hướng tây bắc ṿng đai bên ngoài của căn cứ. Liền sau cuộc dội bom, CSBV tấn công căn cứ từ ba hướng. Nhưng với địa h́nh kiên cố của căn cứ, CSBV bỏ cuộc sau vài tiếng tấn công biển người. Tác giả Wiest viết, cuộc tấn công biển người bị đẩy ngoài công sự một cách dể dàng bằng ḿn và súng cá nhân. Cuộc tấn công bị coi thường đến độ vị trung tá cố vấn Mỹ đang có mặt bên trong căn cứ, trả lời với tiền sát viên không quân là ông chưa cần yểm trợ không lực trong lúc đó v́ không có mục tiêu nào thích đáng (đọc, Trial By Fire: the 1972 Easter Offensive, Americas Last Vietnam Battle, của Dale Andradé).
Sau cuộc tấn công vào buổi sáng, Đính gọi về bộ tư lệnh sư đoàn xin yểm trợ. ) Trung tá Cương trả lời là ông không thể trả lời cho Đính được; và Chuẩn tướng Giai th́ đang ở Đông Hà thị sát t́nh h́nh. (Người viết bài muốn chú một chi tiết về cuộc đối thoại giữa hai Trung tá Cương và Đính: Một độc giả đă liên lạc với Trung tá Cương (sau khi đọc bài viết này lần đầu tiên). Trung tá Nguyễn Hữu Cương, nói ông không có nhận điện thoại, và cũng không có mặt ở bộ tư lệnh sư đoàn lúc đó. Đó là lời xác nhận của Trung tá Cương.
Trong sách, tác giả Wiest trích theo sách cuả Dale Andradé. Người viết ghi chú ở đây để cảm ơn sự bổ túc của độc giả). Chuẩn tướng Giai th́ đang ở Đông Hà thị sát t́nh h́nh. Cũng như lần nói chuyện trước, không ai có một câu trả lời rơ ràng về số phận của Trung Đoàn 56. Hai giờ trưa, cộng quân tấn công lần thứ nh́: lần này địch tiến gần được hàng rào pḥng thủ hơn lần trước, nhưng vẫn không làm được ǵ. Trong khi cuộc tấn công đang diễn ra, Đính nghe trên hệ thống truyền tin một sĩ quan CSBV muốn nói chuyện với ông. Người trên hệ thống truyền tin nói ông ta đang quan sát mặt trận. Ông nói số phận của Đính và quân lính dưới quyền đang nằm trong t́nh trạng nguy hiểm. Nếu Đính và quân của trung đoàn đầu hàng th́ họ sẽ được đón tiếp và bảo vệ an toàn. Nếu không tất cả sẽ bị tiêu diệt. Chưa đầy một tiếng sau, một tư lệnh mặt trận lên máy truyền tin nói chuyện với Đính một lần nữa. Người tự nhận là tư lệnh mặt trận cho biết đây là lần đề nghị cuối cùng trước khi họ tấn công. Đính yêu cầu CSBV ngưng bắn và cho thêm giờ để quyết định.
Ba giờ trưa, Đính tập hợp 13 sĩ quan chỉ huy của trung đoàn trong hầm chỉ huy để quyết định. Đính mở lời trước, cho biết t́nh thế rất tuyệt vọng. Căn cứ không thể cầm cự trước sự tấn công liên tục của địch quân. Sau đó Đính nói ra ư nghĩ thật của ḿnh, là “Nếu tiếp tục chiến đấu, nhiều người sẽ chết. Và nếu chúng ta có bị thương, có chết, để có được một chiến thắng, th́ cũng không ai lo cho chúng ta sau đó. Chúng ta bây giờ phải tự lo lấy thân.” Tiếp theo Đính nói về đề nghị của địch. Sau đó ông hỏi tất cả muốn tử thủ, đánh mở đường máu, hay đầu hàng? Nếu tất cả các sĩ quan có mặt đồng ư tiếp tục đánh th́ ông sẽ nghe chiều theo ư họ.
Trong số sĩ quan hiện diện, chỉ có Thiếu tá Tôn Thất Măn (khóa 12 Thủ Đức, TĐT 1/56) lên tiếng đ̣i đánh đến cùng.
Số sĩ quan c̣n lại yên lặng không ư kiến. Trước sự yên lặng của các sĩ quan, Đính nói về gia đ́nh của họ … về viễn ảnh những vui mừng khi họ được sống sót trở về. Sau đó — theo tác giả Wiest viết — họ bỏ phiếu để quyết định: tất cả đều đồng ư đầu hàng, chỉ có Thiếu tá Tôn Thất Măn không bỏ phiếu.
Với quyết định đă được đồng thuận, Đính đi qua lô cốt của hai sĩ quan cố vấn Mỹ để thông báo. Nhưng Thiếu tá Joseph Brown và Trung tá William Camper không đồng ư. Camper đề nghị trung đoàn dùng những chiếc thiết giáp có trong căn cứ đánh bung ra ṿng đai mở đường máu. Đính không chịu, nói vô ích. “Tôi muốn giết ông Trung tá [Đính] ngay tại chổ”, Trung tá Camper kể lại sự tức giận của ông khi Đính nằng nặc đ̣i đầu hàng. Sau khi nói với Trung tá Đính là nếu ông ta đầu hàng th́ trách nhiệm của hai người cố vấn đă hết. Camper gọi về trung tâm hành quân của Sư Đoàn 3BB cho biết “nhiệm vụ của ông ta không c̣n cần ở căn cứ Carroll nữa, và xin được di tản.”
May mắn, một trực thăng C-47 trên đường tiếp tế đạn cho căn cứ Mai Lộc bay ngang qua đó, ghé lại bốc hai sĩ quan Hoa Kỳ và 30 người lính không chịu đầu hàng và muốn đi theo hai sĩ quan Mỹ.
Khi chiếc trực thăng cất cánh th́ cờ đầu hàng đă bay trên căn cứ Carroll. Trung tá Đính dẫn toán quân 600 người ra khỏi trại đi đến điểm hẹn với địch. Bên trong, số quân không chịu đầu hàng c̣n lại rút đi về hướng đông. Trong nhóm quân không chịu theo Tr./T Đính là Pháo Đội B của TĐ 1 Pháo Binh TQLC. Đây là pháo binh đi kèm TĐ 4 TQLC, họ đóng nhờ trong căn cứ Carroll.
Theo tường tŕnh của cố vấn Mỹ sau này, Pháo Đội B hạ ṇng đại bác xuống bắn thẳng cho đến khi bị tràn ngập. Tất cả toán quân rút đi, về đến pḥng tuyến VNCH được khoảng 1,000 người, trong đó có một tiểu đoàn c̣n nguyên vẹn.
Tối đêm đó Đính và 600 quân đến một địa điểm gần căn cứ Khe Gió. Ở đây một sĩ quan CSBV ra đón họ. Ngày hôm sau, 3 tháng 4, Đính lên lên đài phát thanh CSBV đọc lời kêu gọi quân nhân VNCH đầu hàng như ông đă làm.
Thiếu tá Huế bị đưa về Bắc được hơn một năm th́ Trung tá Đính cũng được CSBV đem ra bắc để tiếp tục thực hiện kế hoạch tuyên truyền của họ. CSBV đề nghị Đính gia nhập quân đội CSBV th́ sẽ được phục hồi chức vụ Trung tá trong quân đội của họ. Đính đồng ư. Đính làm như vậy chỉ để — theo lời Đính kể — giúp đỡ 600 quân nhân đầu hàng bị đưa về miền bắc. Những quân nhân này đang phục vụ công tác lao động ở các đơn vị hậu cần CSBV.
Trở thành một sĩ quan cộng sản, Đính có lương và nhà ở, và làm việc như một sĩ quan văn pḥng ở Hà Nội. Sau này, sau khi VNCH thất thủ, Đính đă phục vụ trong công tác tuyên truyền cho CSBV. Một trong những công tác là làm giảng viên ở những trại tập trung quân đội VNCH.
Về phần Huế, sau sáu tháng bị nhốt ở Hỏa Ḷ, ông bị đưa về trại tù Sơn Tây. Trong thời gian ở Sơn Tây, CSBV đưa Đính và Trung tá Vĩnh Phong vào nói chuyện với một số tù binh. Trong buổi gặp mặt đó, bên phía tù binh VNCH ngoài Huế c̣n có Đại tá Nguyễn Văn Thọ và Thiếu tá Trần Văn Đức của lữ đoàn 3 Nhảy Dù.
Trong lần nói chuyện đĩ phía bên kia không thẳng lời chiêu dụ Huế và hai sĩ quan Nhảy Dù. Nhưng họ có hàm ư là nếu ba người sĩ quan đầu hàng th́ sẽ có được một đời sống thoăi mái hơn là đời sống của tù binh. Sau đó, Huế và một số sĩ quan được đưa về Hà Nội để chiêu dụ thêm một lần nữa. Nhưng một lần nữa Huế từ chối không theo về bên kia.
Hai năm sau, cuộc đời của Thiếu tá Huế bị thêm một “tai nạn” nữa. Sau khi Hiệp Định Paris 1973 được kư kết: Là một tù binh, tên của ông được nằm trong bản trao trả tù binh chính thức. Nhưng chỉ vài giờ trước khi được giao trả về miền nam, CSBV giữ ông lại. V́ ông bị bắt ở Hạ Lào, nên nói “một cách kỹ thuật,” ông là tù binh của Pathet Lào!
Huế bị giam đến năm 1983 mới được trả tự do.
Theo lời kể của Huế, trước khi gia đ́nh ông được phép rời Việt Nam sang Mỹ, Tr./T Đính có t́m vào Sài G̣n gặp Huế. Đính muốn khi Huế đến Mỹ và khi gặp lại những sĩ quan cố vấn, nên giải thích hoàn cảnh đă làm cho ông phải đầu hàng —Những hoàn cảnh mà Th/T Huế cho là không chính đáng để đầu hàng.
Tài liệu căn bản của Vietnam’s Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN đến từ phỏng vấn những nhân vật có liên quan đến sự kiện. Sử liệu trong tác phẩm không quan trọng hay mới lạ trên quan điểm sử học. Nhưng đó là sự lôi kéo của tác phẩm: tác giả tạo được một tác phẩm lư thú dựa trên những ǵ rất ít ông đă t́m được. Andrew Wiest là giáo sư sử học tại đại học Southern Mississippi. Ông đă có một thời gian giảng dạy tại trường Cao Đẳng Không Quân (Air War College), nơi đào tạo sĩ quan cấp tướng tương lai cho Không Quân Hoa Kỳ. Vietnam’s Forgotten Army là tác phẩm thứ ba về chiến tranh Việt Nam của tác giả.
https://sites.google.com/site/gdvbdl/chuyn-hai-ngi-lnh
Bookmarks